Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Đổi mới giáo dục lý luận chính trị trong các học viện, nhà trường kỹ thuật quân sự hiện nay theo tư tưởng hồ chí minh tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.45 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VŨ VĂN TUẤN

ĐỔI MỚI GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC
HỌC VIỆN, NHÀ TRƯỜNG KỸ THUẬT QUÂN SỰ
HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 62 31 02 04

HÀ NỘI – 2019


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS Trần Minh Trưởng

2. TS Văn Thị Thanh Mai

Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp
Học viện họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi

giờ


ngày

tháng

năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
- Thư viện Quân đội

HÀ NỘI – 2019


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng vai trò của lý luận cách mạng đối
với phong trào cách mạng và ví nó như “kim chỉ nam”, như “ngọn đuốc” soi đường
thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng. Việc chú trọng công tác giáo dục lý luận chính trị
(GDLLCT) của Hồ Chí Minh không chỉ do “sức mạnh vật chất” của lý luận đối với sự
nghiệp cách mạng, mà còn do Người rất thấu hiểu thực trạng “trình độ lý luận và chính
trị rất thấp”[62, tr.110] cùng với căn bệnh “kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý
luận suông” của Đảng ta, dẫn đến hậu quả là cán bộ “phải mò mẫm từng bước, luôn
luôn vấp váp”[62, tr.113]. Đề cao vai trò của lý luận, cho rằng “Không có lý luận thì
lúng túng như nhắm mắt mà đi”[63, tr.274], do vậy, GDLLCT được Người coi là nội
dung cực kỳ quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng lý luận và xác
định GDLLCT là một bộ phận vô cùng quan trọng trong công tác tư tưởng lý luận

của Đảng. Vì vậy, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tính
chất là trang bị cơ sở, nền tảng tư tưởng, thế giới quan và phương pháp luận khoa học
phải trở thành nội dung cốt lõi nhất, trung tâm nhất của GDLLCT nhằm hình thành
nhân cách, bản lĩnh cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đặc biệt,
trước những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên gần đây ngày càng rõ nét, biểu hiện như: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm
quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước”[29, tr.28], điều đó càng làm cho việc đổi mới
GDLLCT trở nên cấp bách và có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chính trị và quân sự luôn gắn bó chặt chẽ, song hành
và tác động lẫn nhau. Chính trị định hướng cho quân sự, quân sự phục tùng và phục vụ
chính trị, như Người đã khẳng định: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có
gốc, vô dụng lại có hại”[65, tr.217]. Quán triệt quan điểm này, trong các học viện, nhà
trường (HV-NT) quân sự, GDLLCT được xác định là một nội dung cốt lõi trong xây dựng
quân đội về chính trị, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm góp phần xây dựng quân đội
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng và Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa (XHCN); ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn
chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Sĩ quan tốt nghiệp tại các HV-NT kỹ thuật quân sự (KTQS), ngoài việc nắm chắc
chuyên môn, nghiệp vụ thì đòi hỏi trước tiên phải có đạo đức cách mạng, nhân cách phù
hợp và khả năng lý luận tương xứng để giải quyết những vấn đề thực tiễn cách mạng đặt
ra. Trong điều kiện tác chiến hiện đại, để có thể đối phó với các loại vũ khí tối tân, hiện
đại, thông minh với sức công phá và hủy diệt lớn lại càng đòi hỏi đội ngũ kỹ sư, sĩ quan


2

KTQS phải có đủ bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn kỹ thuật đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của thực tiễn chiến đấu. Do vậy, GDLLCT trở thành một bộ phận quan trọng,

không thể thiếu trong suốt quá trình đào tạo ở các HV-NT KTQS.
Trước diễn biến phức tạp và khó lường của tình hình quốc tế và khu vực; tác
động của chiến lược “diễn biến hòa bình” và sự chống phá của các thế lực thù địch;
thách thức của toàn cầu hóa và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ
(KHCN); sự tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường cùng những tồn tại, hạn chế,
bất cập trong thực tiễn đổi mới hơn 30 năm qua về nhận thức tư tưởng, lý luận chưa
được giải quyết kịp thời, trực tiếp là những mâu thuẫn, bất cập đang diễn ra ở các
HV-NT KTQS… đòi hỏi phải giải quyết kịp thời thông qua hoạt động đổi mới toàn
diện và triệt để. Qua đó giúp nâng cao khả năng lý luận cách mạng, bản lĩnh chính trị,
phẩm chất và nhân cách cho đội ngũ sĩ quan chuyên môn KTQS tương lai.
Vì những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Đổi mới giáo dục lý luận chính trị
trong các học viện, nhà trường kỹ thuật quân sự hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh” làm luận án nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về GDLLCT, đánh giá thực
trạng, chỉ ra nguyên nhân, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới GDLLCT trong
các HV-NT KTQS hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan về các công trình nghiên cứu có liên quan đến Luận án; trên cơ sở
nhìn nhận những vấn đề đã nghiên cứu, tham khảo, kế thừa để xác định những vấn đề
đặt ra đối với việc đổi mới GDLLCT hiện nay. Làm sáng tỏ nội dung cơ bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về GDLLCT. Đánh giá thực trạng GDLLCT cho học viên đào
tạo dài hạn sĩ quan trong các HV-NT KTQS, chỉ ra nguyên nhân thành tựu, hạn chế.
Xác định các nhân tố tác động, yêu cầu, nhiệm vụ mới đặt ra và nguyên tắc đổi mới,
trên cơ sở những bất cập, hạn chế mà thực tiễn đang đặt ra, đề xuất hệ thống giải
pháp đổi mới mang tính toàn diện và đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng GDLLCT
cho học viên đào tạo dài hạn sĩ quan trong các HV-NT KTQS hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Hoạt động GDLLCT cho học viên đào tạo dài hạn sĩ quan trong hệ thống các
HV-NT KTQS hiện nay bao gồm: mục đích, vị trí, vai trò; nội dung chương trình;
hình thức, phương pháp; công tác kiểm tra, đánh giá kết quả; giáo trình, tài liệu, cơ sở
vật chất và môi trường bảo đảm cho GDLLCT tại các HV-NT KTQS.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu nội dung giáo dục chính khóa - ngoại khóa, trong
thời khóa biểu - ngoài thời khóa biểu có liên quan đến lý luận chính trị (LLCT) cho
học viên đào tạo dài hạn sĩ quan với 15 môn, trong đó tập trung ở 8 môn cơ bản đó là:


3

Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước pháp luật, Tâm lý
học và giáo dục học quân sự, Công tác đảng, công tác chính trị.
- Về không gian: Tập trung nghiên cứu hoạt động GDLLCT cho học viên đào
tạo dài hạn sĩ quan của 5 HV-NT KTQS, bao gồm: Học viện KTQS, Trường sĩ quan
Thông tin, Trường sĩ quan Công binh, Trường sĩ quan Phòng hóa, Trường sĩ quan Kỹ
thuật Vinhempic.
- Về thời gian: Nghiên cứu hoạt động GDLLCT cho học viên đào tạo dài hạn sĩ
quan của các HV-NT KTQS bắt đầu từ Đại hội XI, khi Đảng ta đề ra đường lối đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) năm 2011 đến 2018.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước, quân đội về GDLLCT.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ của luận án, tác giả sử dụng phương pháp liên ngành
KHXH&NV (phương pháp nghiên cứu đặc thù của chuyên ngành Hồ Chí Minh học)
để làm rõ nội dung, ý nghĩa, giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về GDLLCT. Đồng

thời, kết hợp với các phương pháp khác như: Phương pháp logic - lịch sử, phân tích tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học, thống kê, dự báo…
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Làm sáng rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về GDLLCT một cách khoa học và
logic. Chỉ ra những yếu tố đặc thù của GDLLCT trong các HV-NT KTQS, đưa ra hệ
thống giải pháp đổi mới tổng thể, đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng GDLLCT cho
học viên đào tạo dài hạn sĩ quan trong các HV-NT KTQS hiện nay.
6. Ý nghĩa của luận án
6.1. Về lý luận
Khẳng định ý nghĩa, giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về GDLLCT; vị trí, vai
trò, tầm quan trọng của GDLLCT trong các HV-NT KTQS nói riêng và quân đội nói
chung. Cung cấp những luận cứ khoa học cho cấp ủy, chỉ huy các HV-NT KTQS
trong việc lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động đổi mới GDLLCT trong thời gian tới.
6.2. Về thực tiễn
Bổ sung làm phong phú thêm nguồn tài liệu cho giảng dạy, học tập và tuyên
truyền về Hồ Chí Minh, góp phần nâng cao chất lượng GDLLCT cho học viên ở các
HV-NT KTQS, cũng như làm tài liệu tham khảo phục vụ cho GDLLCT ở các cơ sở
giáo dục đại học trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Nội dung của Luận án được bố cục thành 4 chương (9 tiết), ngoài ra còn có
phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố,
danh mục tại liệu tham khảo và phụ lục.


4

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NÓI CHUNG


Bàn về nội dung này đã có nhiều công trình đề cập, thể hiện qua các cuốn sách
của các tác giả trong nước và nước ngoài, tiêu biểu là các tác giả người Liên Xô (cũ); các
đề tài NCKH cấp Nhà nước, cấp Bộ và cấp Trường; các kỷ yếu hội thảo khoa học từ cấp
Quốc gia đến cấp Bộ, cấp Trường đại học...; các luận án của các NCS trong các cơ sở
đào tạo trong và ngoài quân đội; các bài báo của những tác giả trong nước và nước ngoài
(Trung Quốc, Lào)… liên quan đến mảng GDLLCT. Các công trình nghiên cứu đó đã
khai thác ở những góc độ khác nhau, cho thấy các học giả, các nhà nghiên cứu, các nhà
giáo dục và quản lý giáo dục đã tích cực, chủ động tìm tòi, nghiên cứu, đổi mới nhằm
không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động này trong hệ thống giáo
dục quốc dân, nhất là trong giáo dục đại học, cao đẳng.
Ở những khía cạnh tiếp cận khác nhau, các công trình nghiên cứu này đã cho
thấy vị trí, vai trò, tầm quan trọng của môn học lý luận chính trị (LLCT); những đóng
góp to lớn của hoạt động GDLLCT cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng. Khi
những giá trị nhân bản của LLCT thấm sâu vào mỗi sinh viên, sẽ tạo chuyển biến từ
nhận thức, biến thành động lực tinh thần mạnh mẽ, giúp cho sinh viên vượt qua khó
khăn, thử thách để hoàn thành nhiệm vụ học tập, rèn luyện; đồng thời, hình thành
những phẩm chất đạo đức, tư duy khoa học, phương pháp công tác… cần thiết cho
bản thân, góp phần hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Việc khảo sát kết quả các công trình trên đã giúp tác giả Luận án nắm được khái
quát về tình hình nghiên cứu, giảng dạy LLCT cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng
hiện nay làm cơ sở cho việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề tài của mình.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO
DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN HIỆN NAY

1.2.1. Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý
luận chính trị
Qua khảo cứu, tác giả Luận án nhận thấy nội dung nghiên cứu liên quan đến tư
tưởng Hồ Chí Minh về GDLLCT hiện vẫn chưa có nhiều công trình chuyên khảo (dưới
dạng đề tài khoa học hay sách chuyên khảo), mà chủ yếu vẫn chỉ là những bài tham
luận tại hội thảo khoa học hay bài báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành.

Tuy chưa có nhiều nội dung nghiên cứu chuyên sâu, song các công trình trên đã cho
tác giả Luận án thấy rõ hơn những vấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
GDLLCT, để từ đó xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu của mình.


5

1.2.2. Các công trình nghiên cứu về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng
Có thể thấy một số công trình nghiên cứu trên đây đã thể hiện sự quán triệt và
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung, GDLLCT nói riêng vào giải
quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Đây sẽ là những tư liệu quý giúp cho tác
giả Luận án tham khảo để thực hiện tốt nhiệm vụ đề tài nghiên cứu của mình.
1.2.3. Các công trình nghiên cứu về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
giáo dục lý luận chính trị cho học viên các học viện, nhà trường quân sự
Các công trình liên quan đến chủ đề này ít nhiều đã đề cập, bàn đến hoạt động
GD&ĐT nói chung, GDLLCT nói riêng trong các HV-NT trong quân đội. Một số công
trình đã bàn trực tiếp đến hoạt động GDLLCT trong các HV-NT KTQS với những khía
cạnh, nội dung, cấp độ khác nhau, song tựu trung lại đều hướng tới việc vận dụng sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về GDLLCT vào nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt
động này trong môi trường quân sự hiện nay.
1.3. NHẬN XÉT VỀ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO LUẬN ÁN

1.3.1. Nhận xét khái quát về các công trình nghiên cứu
Thứ nhất, đối với các công trình nghiên cứu về GDLLCT nói chung
Các tác giả cả trong và ngoài nước đã có sự đột phá mạnh mẽ về tư duy trước
những vấn đề nóng hổi, bức xúc đang đặt ra trong thực tiễn cuộc sống với những mâu
thuẫn nội tại, những vướng mắc nảy sinh trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội đòi hỏi cần phải giải quyết kịp thời cũng trong

quá trình đổi mới. Thông qua hoạt động GDLLCT trong các nhà trường thuộc hệ thống
các trường chính trị từ Học viện Chính trị quốc gia, các học viện khu vực, các trường
chính trị tỉnh (thành phố) cho đến các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện (quận)
những kiến thức lý luận cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường
lối chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; tình hình thời sự trong
nước và quốc tế; những kinh nghiệm trong thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động cách
mạng cả trong và ngoài nước đã được trang bị cho đội ngũ cán bộ (trước hết là cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp), đảng viên, giúp cho đội ngũ này thấm nhuần lý luận để vận
dụng sáng tạo, hiệu quả trong thực tiễn cách mạng.
Đặc biệt, trong các công trình nghiên cứu liên quan đến hoạt động GDLLCT
trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay, các nhà khoa học, các cán bộ quản lý
giáo dục và các giảng viên đã đi sâu tìm hiểu thực trạng của nhà trường, đơn vị mình
quan tâm để từ đó xem xét, đánh giá và đề ra giải pháp thiết thực nhằm từng bước
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động GDLLCT cho sát, hợp với từng đối tượng
học viên, sinh viên. Kết quả nghiên cứu của các công trình này chủ yếu hướng tới


6

việc khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò của GDLLCT trong đào tạo đại học, cao đẳng
hiện nay; vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và một
số quan điểm lý luận mới của Đảng ta cũng như của những học giả có tư tưởng tiến
bộ trên thế giới để đề xuất phương hướng, giải pháp đổi mới về nội dung, chương
trình, phương pháp GDLLCT cho hiệu quả, thiết thực hơn.
Một số công trình đã quan tâm giải quyết những vấn đề mang tính vĩ mô của lĩnh
vực GD&ĐT hiện nay; trong đó, nhấn mạnh vị trí, vai trò của GD&ĐT; chú trọng xây
dựng triết lý giáo dục; đổi mới tư duy trong GD&ĐT… một số công trình đề cập công tác
tư tưởng lý luận nói chung, cũng như hoạt động GDLLCT nói riêng; trong đó, đã đề cập
việc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và sử dụng đội ngũ cán bộ, giảng
viên làm công tác tư tưởng lý luận, trực tiếp nghiên cứu, giảng dạy LLCT trong các

trường đại học, cao đẳng hiện nay… Một số công trình chủ yếu tập trung nghiên cứu việc
đổi mới phương pháp dạy - học LLCT trong các trường đại học, cao đẳng (nhất là khối
những trường đào tạo ra đội ngũ giảng viên LLCT) theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động của sinh viên, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo theo mô hình học chế
tín chỉ hiện nay… Một số công trình nghiên cứu bàn về chất lượng và hiệu quả sử dụng
những công cụ tư duy tiên tiến, mô hình nhà trường thông minh hay trang thiết bị hiện đại
để trợ giúp cho hoạt động GDLLCT được hiệu quả hơn… Các công trình này đều hướng
tới quán triệt và thực hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung
ương khóa XI và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt
Nam về Đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao xây dựng nền móng vững chắc, coi đó là yếu tố căn bản nhất, có ý nghĩa quyết định đến
chất lượng GD&ĐT hiện nay, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Thứ hai, đối với các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý
luận chính trị
Công trình nghiên cứu của các học giả liên quan tùy theo mục tiêu nghiên cứu
của mình đã ít nhiều đề cập các khái niệm liên quan như “lý luận”, “lý luận chính trị”,
“giáo dục”, “giáo dục lý luận chính trị”, “chất lượng giáo dục lý luận chính trị”, “hiệu
quả giáo dục lý luận chính trị”…; đều gắn với từng đối tượng khác nhau như cán bộ,
đảng viên; học viên là cán bộ, đảng viên trong các cấp ủy đảng, chính quyền tham gia
học tập cao cấp và trung cấp LLCT trong hệ thống các trường chính trị; học viên,
sinh viên các trường đại học, cao đẳng; học viên các trường sĩ quan quân đội; hạ sĩ
quan, chiến sĩ ở các đơn vị trong quân đội… Song tất cả đều cơ bản thống nhất với
nhau về nội hàm của từng khái niệm liên quan.
Những công trình nghiên cứu về GDLLCT theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã bước
đầu đưa ra quan điểm của Hồ Chí Minh về lý luận, LLCT, GDLLCT, đó là cơ sở để nghiên


7

cứu sinh tham khảo, xây dựng khái niệm công cụ phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu của

mình. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến khái
niệm Đổi mới GDLLCT trong các HV-NT KTQS hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh Khái niệm trung tâm của luận án này.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về GDLLCT đã được một số học giả nghiên cứu,
trình bày trong một số bài tham luận tại hội thảo khoa học có tính chất học thuật về Hồ
Chí Minh học và đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành thuộc lĩnh vực LLCT.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều đã thống nhất với nhau về các vấn đề liên
quan đến những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về GDLLCT. Qua đó, khẳng định
sự đóng góp lớn lao của Hồ Chí Minh đối với việc xây dựng hệ thống LLCT của Đảng
và Nhà nước ta, xác định rõ hơn những vấn đề liên quan trên các khía cạnh cụ thể trong
quá trình giáo dục, truyền bá LLCT cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, học viên cũng như
quần chúng nhân dân.
Thứ ba, đối với các công trình nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
thực tiễn giáo dục lý luận chính trị hiện nay
Các bài viết trên với những cách tiếp cận khác nhau đã đề cập những khía cạnh
khác nhau trong quan điểm của Hồ Chí Minh về GDLLCT… Trên cơ sở đó, căn cứ
vào đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ của từng đối tượng học viên, sinh viên đang học tập
trong từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể để vận dụng sáng tạo quan điểm của Người vào
công tác GDLLCT cho phù hợp, thiết thực, hiệu quả. Các công trình nghiên cứu ở
nhóm này đã hệ thống hóa quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về GDLLCT; đồng thời,
vận dụng sáng tạo cơ sở lý luận đó vào giải quyết những vấn đề đang vướng mắc, tồn
tại liên quan đến hoạt động GDLLCT thông qua những giải pháp cụ thể, thiết thực gắn
với từng trường, từng chuyên ngành, từng lĩnh vực đào tạo. Qua đó, góp phần nâng cao
chất lượng và hiệu quả GDLLCT, hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên
trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay.
Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về GDLLCT vào thực tiễn hoạt động
GDLLCT cho học viên các HV-NT trong quân đội gần đây cũng đã được chú trọng.
Hầu hết các công trình nghiên cứu có liên quan đến Luận án đều đề cập việc vận
dụng các quan điểm của Hồ Chí Minh về GDLLCT vào thực hiện nhiệm vụ
GDLLCT của tổ chức, cơ quan hay đơn vị mình... Trong đó, một số công trình cũng
đã gắn với thực tiễn của hoạt động GDLLCT trong quân đội, đã đề cập việc đổi mới

GDLLCT, song chủ yếu mới chỉ bàn đến việc đổi mới về phương pháp giảng dạy và
học tập mà chưa đi sâu, bàn nhiều đến việc đổi mới nội dung, chương trình, giáo
trình, tài liệu và các yếu tố bảo đảm khác… Nguyên nhân là vì chương trình và nội
dung GDLLCT trong các HV-NT quân đội được thiết kế không chỉ theo quy định của
Bộ GD&ĐT mà còn phải thực hiện theo quy định của Tổng cục Chính trị.


8

Trong xu thế đổi mới giáo dục như hiện nay, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Hội
nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt
Nam, hiện đã có một số cuộc hội thảo liên quan đến đổi mới GDLLCT được tổ chức cấp
quốc gia hoặc ở cấp thấp hơn là tại các cơ quan liên quan cấp Tổng cục, hay do các HVNT chuyên về chính trị hoặc một số báo, tạp chí lớn đứng ra tổ chức thực hiện. Tuy nhiên,
các HV-NT KTQS thường ít tổ chức, ít tham gia những hoạt động mang tính học thuật
chuyên sâu về lĩnh vực LLCT - Đây chính là một trong những điểm hạn chế cơ bản của
hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) về LLCT ở khu vực này thời gian vừa qua. Mặt
khác, đội ngũ chuyên gia, nhà giáo hoạt động ở lĩnh vực LLCT trong các HV-NT KTQS
còn mỏng, một số đồng chí chuyên môn chưa thật sâu nên hoạt động GDLLCT ở “khu
vực” này còn hạn chế, chưa quan tâm đúng mức tới ngành Khoa học xã hội và nhân văn
(KHXH&NV) nói chung, lĩnh vực LLCT nói riêng để tập trung đổi mới một cách căn
bản, toàn diện cho phù hợp, thiết thực, hiệu quả hơn.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra cho luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Thứ nhất, về nhận thức chính trị tư tưởng
Sự không thống nhất giữa yêu cầu nâng cao trình độ LLCT và giác ngộ chính trị
của cả chủ thể lẫn đối tượng GDLLCT tại các cơ sở đào tạo đại học nói chung, các nhà
trường trong quân đội nói riêng để mỗi sinh viên, học viên khi tốt nghiệp phải “vừa
hồng, vừa chuyên”, có đủ khả năng tự phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, tích
cực và thường xuyên đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận chính trị tư tưởng… với sự
nhận thức lệch lạc, mơ hồ về chính trị, đề cao thuyết “kỹ trị” của một bộ phận cán bộ,

giảng viên, học viên, sinh viên hiện nay; giữa sự lạc hậu của lý luận với thực tiễn sinh
động song khá phũ phàng đã và đang làm cho một số không ít cán bộ, giảng viên, học
viên, sinh viên và quần chúng nhân dân bị hoang mang, dao động, thậm chí mất niểm
tin vào sự nghiệp đổi mới.
Thứ hai, về xây dựng lực lượng nòng cốt trong giáo dục lý luận chính trị
Bất cập giữa nhu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT với tình trạng
thả nổi chất lượng do thiếu một hệ thống đào tạo và đánh giá thống nhất, thiếu cơ chế sàng
lọc, thẩm định thực sự hiệu quả, cùng những hạn chế trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này
những năm gần đây; giữa yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả GDLLCT với sự lơ là,
quan liêu, thiếu trách nhiệm của một bộ phận giảng viên và đội ngũ cán bộ ở các cơ quan
chức năng chậm được khắc phục và giải quyết triệt để; giữa yêu cầu về phẩm chất, năng
lực, trình độ chuyên môn ngày càng cao và theo chuẩn quốc tế với chính sách đãi ngộ còn
chưa tương xứng với đóng góp và lao động chất xám của đội ngũ giảng viên làm công tác
giảng dạy, nghiên cứu hiện nay.


9

Thứ ba, về nội dung chương trình
Mâu thuẫn giữa tính khép kín và công thức hóa một cách máy móc nội dung của
chủ nghĩa Mác - Lênin trong giáo trình với sự giao lưu, hội nhập, phát triển đa dạng,
phong phú của các lý thuyết, chủ thuyết, tư tưởng mới… trong điều kiện bùng nổ thông
tin như hiện nay; giữa nhu cầu của sinh viên các trường đại học, cao đẳng nói chung,
cũng như của học viên trong các HV-NT KTQS nói riêng đang cần tăng cường, phát
triển tư duy LLCT trong điều kiện mới với sự giảm tải chương trình và nội dung các
môn LLCT; giữa nhu cầu xem xét một cách khoa học toàn bộ tinh hoa của nhân loại với
tư duy “phân tuyến” một cách cứng nhắc nên khó có được sự nghiên cứu, đánh giá
khách quan, toàn diện, để từ đó chắt lọc lấy những “hạt nhân hợp lý” trong toàn bộ di
sản tư tưởng lý luận đồ sộ của nhân loại khi xây dựng chương trình GDLLCT.
Thứ tư, về phương pháp giáo dục lý luận chính trị

Sự bất cập giữa phương pháp dạy học theo mô hình cổ điển, khô khan, thông tin
một chiều, khép kín, khối lượng kiến thức ít, tốc độ chậm với nhu cầu hội nhập, tiếp cận
thông tin nhanh, chính xác để phát triển năng lực toàn diện; giữa khối lượng kiến thức mà
mỗi học viên phải học tập, trau dồi ngày càng lớn (nhất là những kiến thức LLCT nền
tảng) với những công cụ hỗ trợ tự học chưa tương xứng, phương pháp học tập chậm được
đổi mới, thời gian học tập có xu hướng bị cắt giảm, môi trường và điều kiện GDLLCT
không đồng đều, thời lượng tham quan dã ngoại, trải nghiệm thực tiễn ngày càng bị thu
hẹp; giữa yêu cầu đạt chuẩn đầu ra ngày càng cao theo những tiêu chí quốc tế của “sản
phẩm đào tạo đại học” với sự yếu kém, tiêu cực trong hoạt động thanh tra, giám sát quá
trình đào tạo và hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả GDLLCT.
Thứ năm, về điều kiện bảo đảm và môi trường giáo dục lý luận chính trị
Mâu thuẫn giữa cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng CNTT còn thiếu thốn, lạc hậu,
chưa đồng bộ với yêu cầu đẩy mạnh phương pháp tự học tập, tự nghiên cứu của sinh
viên trong các cơ sở giáo dục đại học. Bất cập giữa những vấn đề mặt trái, tiêu cực trong
môi trường tự nhiên – xã hội và khoa học công nghệ (KHCN) với yêu cầu định hướng
chính trị, tư tưởng ngày càng cao đối với học viên, sinh viên trong bối cảnh phức tạp
hiện nay.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Qua khảo cứu, một số công trình đi sâu nghiên cứu quan điểm của Hồ Chí Minh về
GDLLCT đã phần nào làm sáng tỏ những nội dung liên quan. Tuy kết quả nghiên cứu của
các công trình này đạt được ở mức độ khác nhau, song đều thống nhất khẳng định những
nội dung cơ bản và giá trị trường tồn, cùng ý nghĩa thiết thực của tư tưởng Hồ Chí Minh
về GDLLCT đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Một số công trình đề cập đến việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn GDLLCT cho các đối tượng khác nhau ở
cả trong lẫn ngoài quân đội đã đưa ra những giải pháp thiết thực gắn với từng đối tượng


10


như sinh viên, học viên, đảng viên, cán bộ, chiến sĩ... ở từng đơn vị, địa phương, cơ quan,
ban ngành cụ thể. Cho đến nay, tuy vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách trực
tiếp, toàn diện, hệ thống về GDLLCT theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong các HV-NT
KTQS, song kết quả nghiên cứu của các công trình này đã bước đầu đề cập đến các yếu tố
liên quan và những vấn đề cần tiếp tục làm rõ về hoạt động GDLLCT.
Trước tình hình chính trị trong và ngoài nước đang diễn biến phức tạp, khó
lường với nhiều vấn đề mới nảy sinh, nhiều bất cập liên quan đến lĩnh vực GD&ĐT
nói chung, GDLLCT nói riêng đang đặt ra đòi hỏi cần phải được đổi mới kịp thời,
những kết quả nghiên cứu từ các công trình đã công bố nêu trên sẽ tạo tiền đề lý luận
và thực tiễn vững chắc để tác giả Luận án tiếp thu, kế thừa và phát triển trong điều kiện
mới nhằm hoàn thành mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đặt ra.


11

Chương 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN

2.1.1. Khái niệm “giáo dục lý luận chính trị”
Từ khái niệm “lý luận”, “lý luận chính trị”, “giáo dục” luận án đi đến khái
niệm “giáo dục lý luận chính trị”.
Giáo dục lý luận chính trị là một hoạt động được tiến hành một cách có tổ
chức, có kế hoạch với nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện thích hợp của
chủ thể lên đối tượng trong một môi trường nhất định, làm cho đối tượng nhận thức
được những nội dung cơ bản về nền tảng tư tưởng lý luận theo mục đích, yêu cầu đã
xác định.
2.1.2. Khái niệm “đổi mới giáo dục lý luận chính trị trong các học viện, nhà
trường kỹ thuật quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh”
Từ khái niệm “các học viện, nhà trường kỹ thuật quân sự”, “giáo dục lý luận

chính trị trong các học viện, nhà trường kỹ thuật quân sự”, “đổi mới giáo dục lý luận
chính trị trong các học viện, nhà trường kỹ thuật quân sự” luận án làm rõ khái niệm
trung tâm “đổi mới giáo dục lý luận chính trị trong các học viện, nhà trường kỹ thuật
quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Đổi mới giáo dục lý luận chính trị trong các học viện, nhà trường kỹ thuật
quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh là quá trình thay đổi phương thức tác động của
chủ thể giáo dục lên đối tượng giáo dục, cùng với đó là sự tự điều chỉnh của đối
tượng giáo dục trong môi trường đào tạo kỹ thuật quân sự, dựa trên hệ thống quan
điểm định hướng của Hồ Chí Minh để hoạt động này ngày càng sát, hợp hơn với đối
tượng, qua đó nâng cao chất lượng đào tạo theo mục tiêu, yêu cầu của từng học viện,
nhà trường kỹ thuật quân sự đề ra.
2.2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

2.2.1. Mục đích, vị trí, vai trò giáo dục lý luận chính trị
Thứ nhất, mục đích giáo dục lý luận chính trị
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ mục đích của GDLLCT là nhằm đào tạo những chiến sĩ
cách mạng suốt đời đấu tranh cho Đảng, đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc và nhân dân
lao động lên trên lợi ích cá nhân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân
dân… Cụ thể, theo Người gồm bốn nội dung cơ bản là: Để sửa chữa tư tưởng; Để tu
dưỡng đạo đức cách mạng; Để tin tưởng; Để thực hành.
Thứ hai, vị trí, vai trò giáo dục lý luận chính trị
GDLLCT có vị trí quan trọng hàng đầu góp phần hình thành nên nhân cách và
định hướng tư tưởng cho nhân dân nói chung và đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng. Đối


12

với hoạt động của Đảng, vị trí của GDLLCT lại càng quan trọng, giúp cho mỗi cán bộ,
đảng viên có được vũ khí tư tưởng lý luận để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Hồ Chí Minh khẳng định GDLLCT có vai trò cực kỳ quan trọng, cụ thể: Để

cung cấp hệ thống tri thức, lý luận khoa học và quan điểm, chủ trương, đường lối cách
mạng của Đảng để xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học và mục tiêu, lý
tưởng cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Giúp cho người học
công cụ tư duy khoa học để nhận thức, nắm bắt được bản chất, tính tất yếu, tính quy
luật vận động khách quan của lịch sử cách mạng Việt Nam; quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, để định
hướng nhận thức và hành động thực tiễn cho bản thân đúng đắn, hiệu quả, hạn chế và
tránh vấp váp, sai lầm, mù quáng và thất bại. Góp phần xây dựng bản lĩnh chính trị,
niềm tin; phẩm chất đạo đức cách mạng; tính nhân văn, nhân đạo; tính đảng, tính cách
mạng và khoa học cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
2.2.2. Các lực lượng tham gia giáo dục lý luận chính trị
Thứ nhất, về phía người giảng dạy, tuyên truyền, quản lý
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới những người làm công tác giảng dạy, tuyên
truyền, quản lý trong GDLLCT, vì đây là lực lượng quan trọng nhất, có vai trò quyết
định đến chất lượng và hiệu quả giảng dạy, tuyên truyền LLCT. Người đặt vấn đề phải
lựa chọn rất kỹ lưỡng những người làm công tác giảng dạy LLCT. Những nhân viên phụ
trách việc huấn luyện phải luôn làm gương về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối sống, ý
thức trách nhiệm trước công việc.
Hồ Chí Minh xác định những người tham gia giảng dạy, tuyên truyền về LLCT
không phải chỉ là những giảng viên làm công tác giảng dạy và công tác quản lý giáo
dục (hay là trực tiếp làm nghề giáo) mà còn phải mở rộng ra rất nhiều thành phần
khác như: những chuyên gia đầu ngành; những người làm công tác lãnh đạo, quản lý
về chuyên môn trong các ngành, các lĩnh vực của xã hội, của cuộc sống…
Thứ hai, về phía người học (học viên)
Với Hồ Chí Minh, đối tượng cần được GDLLCT trước hết phải là: cán bộ, hội
viên của Đoàn thể, cán bộ các ngành chuyên môn của chính quyền, quần chúng nhân
dân. Người yêu cầu các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị cần phải quan tâm tổ
chức GDLLCT thường xuyên, liên tục; còn đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên thì cần
ra sức cố gắng học tập LLCT để làm việc được tốt hơn, hiệu quả hơn. Do vậy, phải cố
gắng học tập để cải tạo mình, cải tạo tư tưởng của mình và giúp cải tạo xã hội; phải

nâng cao nhận thức chính trị để có lập trường vững vàng và xem xét đúng đắn các vấn
đề quốc tế cũng như trong nước. Đặc biệt, trong tư tưởng của Người, việc quan tâm,
chăm sóc thế hệ trẻ - Thế hệ “hậu bị” của đất nước là nhiệm vụ quan trọng và là đối
tượng cần quan tâm GDLLCT sau đội ngũ cán bộ, đảng viên.


13

2.2.3. Nội dung chương trình giáo dục lý luận chính trị
Thứ nhất, giáo dục lý luận Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin với tư cách là học thuyết khoa học và cách mạng nhất
của thời đại, là vũ khí tư tưởng lý luận phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, giúp trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa
học do vậy cần đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục những nguyên lý chủ nghĩa Mác
- Lênin trong quá trình GDLLCT cho cán bộ, đảng viên. Tư tưởng của học thuyết
Mác - Lênin là cách mạng triệt để, giải phóng toàn xã hội khỏi mọi hình thức áp bức,
xây dựng xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nó có tầm quan trọng đặc biệt, bởi
đã vạch ra con đường đúng đắn nhất cho cuộc đấu tranh của quần chúng chống áp
bức bóc lột, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Do vậy, thấm nhuần chủ nghĩa
Mác - Lênin là để phụng sự cho cách mạng, cho Tổ quốc và nhân dân; bất kỳ việc to
việc nhỏ đều nhằm mục đích ấy. Nếu không hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, tự
kiêu, tự đại, tự tư, tự lợi, như thế là trái với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ hai, giáo dục chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước
Việc giáo dục đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước trong công tác GDLLCT đòi hỏi người đi giáo dục - những giảng
viên LLCT, trước hết, phải có sự hiểu biết sâu rộng và có hệ thống về các lĩnh vực này;
đồng thời, phải nắm được những vấn đề mới nhất về đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước để đưa vào trong bài giảng chuyên ngành của mình. Nội dung
giáo dục cũng đòi hỏi các nhà trường phải kịp thời cập nhật, nắm bắt và quán triệt những

văn kiện mới nhất của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước tới đội ngũ cán bộ,
giảng viên và học viên một cách thiết thực và sâu sắc.
Thứ ba, giáo dục chuẩn mực đạo đức cách mạng
Người cho rằng, muốn trở thành người cách mạng trước hết phải hiểu được tư
cách đạo đức cách mạng, muốn giác ngộ cách mạng trước hết phải giác ngộ những
chuẩn mực đạo đức cách mạng. Người luôn xem đạo đức cách mạng là cái gốc của nhân
cách, là nền tảng của người cách mạng, nên giáo dục chuẩn mực đạo đức cách mạng cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên là nguyên tắc nhất quán, qua đó giúp cho họ có tinh thần, ý chí
và quyết tâm suốt đời hy sinh phấn đấu cho chủ nghĩa cộng sản, đấu tranh để xoá bỏ áp
bức bóc lột, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc.


14

Thứ tư, giáo dục kinh nghiệm thực tiễn và cập nhật tri thức lý luận mới
Theo Hồ Chí Minh, những kinh nghiệm thành công hay thất bại trong quá trình
Đảng ta lãnh đạo cách mạng cũng như của các ngành, các địa phương hay quần chúng
nhân dân đều rất quý báu và cần phải được đưa ra trao đổi để cùng nhau học tập tại các
lớp bồi dưỡng, GDLLCT. Đồng thời, Người cũng đòi hỏi phải học tập kinh nghiệm của
nhân dân, của các đơn vị, các địa phương... nhằm tổng kết kinh nghiệm của phong trào
quần chúng để phát triển thành lý luận.
Theo Hồ Chí Minh, thực tiễn cách mạng luôn vận động, biến đổi không ngừng và
làm xuất hiện những vấn đề mới đòi hỏi cần phải được tổng kết, khái quát, cập nhật, bổ
sung thường xuyên cho lý luận. Tri thức lý luận mới cập nhật bao gồm những vấn đề
nhận thức mới về lý luận và những nội dung tổng kết từ phong trào thực tiễn.
2.2.4. Nguyên tắc, phương pháp giáo dục lý luận chính trị
Thứ nhất, nguyên tắc giáo dục lý luận chính trị
Nguyên tắc GDLLCT của Hồ Chí Minh chính là những vấn đề cơ bản mà Người
đề ra để định hướng cho công tác GDLLCT đúng theo mục đích, yêu cầu nhằm trang bị
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nắm vững và vận dụng một cách

hiệu quả những kiến thức lý luận trong thực tiễn cách mạng và đời sống xã hội. Đó chính
là: Lý luận gắn liền với thực tiễn; Học đi đôi với hành; Đảm bảo sự thống nhất giữa tính
đảng và tính khoa học.
Thứ hai, phương pháp giáo dục lý luận chính trị
Đối với người giảng dạy, tuyên truyền cần phải có khả năng tự học tập, cập
nhật tri thức phục vụ giảng dạy, tuyên truyền; phải có phương pháp giảng dạy, tuyên
truyền đảm bảo thiết thực, cụ thể, phù hợp với từng đối tượng.
Đối với người học (học viên) cần phải tự học, tự nghiên cứu từ sách vở và từ
thực tiễn (phát huy tính tích cực, chủ động của người học, lấy tự học làm cốt); có tinh
thần cầu thị, tích cực tìm tòi, đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn (xác định rõ nội dung
cốt lõi để học tập và vận dụng giải quyết công việc hiệu quả trong thực tế).
2.2.5. Điều kiện môi trường giáo dục lý luận chính trị
Thứ nhất, công tác tổ chức, quản lý giáo dục lý luận chính trị
Xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên truyền, giảng viên LLCT đáp ứng đầy đủ cả về số
và chất lượng. Tổ chức lớp học và quản lý chặt chẽ học viên trong quá trình đào tạo.
Thứ hai, giáo trình, tài liệu và cơ sở vật chất bảo đảm cho giáo dục lý luận
chính trị
Về giáo trình, tài liệu phục vụ cho giáo dục lý luận chính trị. Theo Hồ Chí Minh,
giáo trình, tài liệu phải được bố trí, sắp xếp thành hệ thống theo từng mức độ từ thấp đến
cao, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Tài liệu là một trong những yếu tố giữ vai
trò cơ bản và có ý nghĩa quyết định đến chất lượng tự học và kết quả GDLLCT, bao gồm:


15

Tài liệu có sẵn (tài liệu về chủ nghĩa Mác - Lênin và những chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
chính sách và luật pháp của Nhà nước) và những tài liệu mới (những bài học thành công
và thất bại của chính học viên mang đến).
Về cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ giáo dục lý luận chính trị. Theo Người, môi
trường sống, học tập, công tác thuần nhất của đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng là một yếu

tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng GDLLCT. Ở đó học viên đều là cán bộ, đảng
viên được tuyển chọn kỹ lưỡng, đều là nguồn bổ sung, phát triển của Đảng và Nhà nước;
ở đó quan hệ giữa giảng viên, cán bộ, công chức, nhân viên với học viên vừa là thầy - trò,
vừa là đồng chí - đồng đội... nên rất thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng và hiệu quả
học tập. Trong hoàn cảnh khó khăn nhất, Người vẫn giành ưu tiên về vật chất cho công tác
tổ chức lớp học, vì Người ý thức rất rõ vai trò của nguồn lực tài chính đối với giáo dục nói
chung, GDLLCT nói riêng.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Tư tưởng Hồ Chí Minh về GDLLCT bao gồm một hệ thống quan điểm toàn
diện, sâu sắc nhằm chỉ đạo, định hướng hoạt động GDLLCT cho cán bộ, đảng viên,
học viên, sinh viên quần chúng nhân dân. Những quan điểm đó được Hồ Chí Minh
trình bày súc tích, dễ hiểu qua các bài nói, bài viết dưới dạng hướng dẫn thực hiện rất
thiết thực trong GDLLCT.
Trên cơ sở khái quát nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
GDLLCT, Luận án đã trình bày các quan điểm của Hồ Chí Minh về GDLLCT một
cách hệ thống theo trật tự logic của vấn đề nghiên cứu, từ đó làm rõ giá trị và ý nghĩa
của nó đối với hoạt động GDLLCT trong các HV-NT KTQS hiện nay.
Những kết quả nghiên cứu của chương này chính là cơ sở lý luận trực tiếp cho việc
xác định tính chất đặc thù của đối tượng nghiên cứu, để từ đó tiến hành đánh giá thực
trạng và đề xuất các giải pháp đổi mới GDLLCT trong các HV-NT KTQS hiện nay.


16

Chương 3
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG
CÁC HỌC VIỆN, NHÀ TRƯỜNG KỸ THUẬT QUÂN SỰ
3.1. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ ĐẶC THÙ CỦA GIÁO DỤC LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC HỌC VIỆN, NHÀ TRƯỜNG KỸ THUẬT QUÂN SỰ


3.1.1. Khái quát về hệ thống tổ chức của các học viện, nhà trường kỹ thuật
quân sự
Thứ nhất, về cơ cấu tổ chức, bộ máy
Các HV-NT KTQS về cơ bản đều được tổ chức theo mô hình chung của các
HV-NT trong quân đội, song Học viện KTQS có những đặc trưng riêng. Các khoa
giảng dạy về LLCT ở Học viện KTQS cũng có sự khác biệt với các trường sĩ quan về
cả quy mô tổ chức, số lượng và chất lượng giáo viên.
Thứ hai, về chức năng, nhiệm vụ
Chức năng, nhiệm vụ của các học viện nhà trường KTQS được nâng cấp, mở
rộng và phát triển theo hướng đại học nghiên cứu tiếp cận cách mạng công nghiệp lần
thứ tư (CMCN 4.0). Các khoa, bộ môn giảng dạy LLCT từng bước khẳng định được
vị trí, vai trò là lực lượng nòng cốt trong giáo dục tri thức lý luận và tuyên truyền, đấu
tranh giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng trong nhà trường.
3.1.2. Đặc thù của giáo dục lý luận chính trị trong các học viện, nhà
trường kỹ thuật quân sự
Thứ nhất, đội ngũ giảng viên LLCT được đào tạo chính quy từ nhiều nguồn, có
trình độ cao song kinh nghiệm thực tiễn giảng dạy còn ít. Thứ hai, đội ngũ tham mưu,
bảo đảm cho GDLLCT cơ bản là những học viên tốt nghiệp được giữ lại, song chưa
được đào tạo hoặc bồi dưỡng kịp thời về nghiệp vụ, kỹ năng công tác đảng, công tác
chính trị. Thứ ba, đội ngũ cán bộ quản lý học viên ở đơn vị cơ sở còn thiếu về số lượng
(nhất là cán bộ chính trị và kỹ thuật), một số chưa thật yên tâm công tác. Thứ tư, đội ngũ
học viên có khả năng tư duy tốt, đam mê khoa học song nhận thức còn phiến diện về vị
trí, vai trò của GDLLCT; ngại giao tiếp, sống khép mình; có xu hướng làm việc độc lập,
ít tham gia làm việc nhóm. Thứ năm, môi trường giáo dục mang đậm tính khoa học công nghệ - kỹ thuật - quân sự. Thứ sáu, chương trình GDLLCT được xây dựng riêng
cho đối tượng đào tạo sĩ quan chuyên môn kỹ thuật trong quân đội.
Những đặc thù trên phản ánh những thuộc tính vốn có thể hiện bản chất riêng
của từng lực lượng tham gia trực tiếp hay gián tiếp chi phối đến hoạt động GDLLCT
trong các HV-NT KTQS. Đây là cơ sở rất quan trọng để tác giả khảo sát, phân tích và
đánh giá thực trạng hoạt động GDLLCT của các HV-NT KTQS trong thời gian qua

một cách khoa học, khách quan, chính xác nhằm xác định rõ những kết quả đạt được,


17

những hạn chế vướng mắc còn tồn tại và thấy được đầy đủ nhất những mâu thuẫn nội
tại cùng những vấn đề đang đặt ra cho GDLLCT trong các HV-NT KTQS hiện nay.
3.2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC HỌC VIỆN,
NHÀ TRƯỜNG KỸ THUẬT QUÂN SỰ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

3.2.1. Kết quả đạt được trong giáo dục lý luận chính trị tại các học viện,
nhà trường kỹ thuật quân sự
Thứ nhất, nhận thức của các lực lượng liên quan về GDLLCT cơ bản thống nhất và
đúng theo mục tiêu đề ra, song một bộ phận còn phiến diện, đôi khi thể hiện sự mơ hồ
trong nhận thức chính trị. Thứ hai, phẩm chất, năng lực của các lực lượng tham gia
GDLLCT cơ bản đáp ứng được yêu cầu theo chức trách được giao, tuy nhiên một bộ phận
chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Thứ ba, nội dung chương trình GDLLCT cơ
bản đã bảo đảm đúng quy định, tương đối phù hợp, song còn nặng về lý luận, ít thực tiễn
và thảo luận, thực hành; giáo trình, tài liệu tham khảo quá cũ và thiếu đồng bộ. Thứ tư,
phương pháp GDLLCT của các lực lượng bước đầu đã có sự điều chỉnh cho phù hợp với
mục tiêu, yêu cầu và nội dung chương trình đào tạo, song thiếu sự quyết liệt, kịp thời nên
chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong quá trình triển khai thực hiện. Thứ năm,
giáo trình, tài liệu, điều kiện vật chất, môi trường giáo dục cơ bản đã đáp ứng được yêu
cầu, song còn thiếu đồng bộ và chưa phù hợp với mục tiêu xây dựng “nhà trường thông
minh tiếp cận cách mạng công nghiệp 4.0”
3.2.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được trong giáo dục lý luận
chính trị tại các học viện, nhà trường kỹ thuật quân sự
Thứ nhất, nguyên nhân khách quan
Những thành tựu đáng kể về GDLLCT tại các HV-NT KTQS đạt được trong thời
gian qua bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan cơ bản sau: 1) Thành tựu kinh tế xã hội đạt được qua hơn 30 năm đất nước thực hiện đường lối đổi mới; 2) Chủ trương,

chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước và quân đội trong trong lĩnh vực GD&ĐT, cũng
như GDLLCT; 3) Bước đầu khai thác được thế mạnh của khoa học công nghệ, nhất là
công nghệ thông tin trong giáo dục lý luận chính trị; 4) Có sự nâng cấp cơ sở vật chất kỹ
thuật một cách đồng bộ, hiện đại theo mô hình “trường đại học thông minh”; 5) Sự quan
tâm, hỗ trợ, phối hợp của các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình GDLLCT.
Bên cạnh nguyên nhân của những thành tựu đạt được thì nguyên nhân của những
hạn chế, yếu kém trong giáo dục lý luận chính trị phải kể đến là:
1) Những vấn đề tiêu cực trong xã hội và môi trường giáo dục, cùng mặt trái
của nền kinh tế thị trường vẫn diễn ra khá phổ biến; 2) Thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt
trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hòng thực hiện âm
mưu “Phi chính trị hóa” Quân đội; 3) Thành tựu khoa học công nghệ, trực tiếp là
công nghệ thông tin đã bị một số phần tử cơ hội lợi dụng để trục lợi hoặc thực hiện


18

mưu đồ cá nhân; 4) Sự thiếu hiểu biết, thờ ơ của học viên đối với cách mạng KHCN,
nhất là sự phát triển mạnh mẽ của cuộc CMCN 4.0.
Thứ hai, nguyên nhân chủ quan
Những thành tựu đạt được trong GDLLCT tại các HV-NT KTQS do những
nguyên nhân chủ quan cơ bản sau: 1) Cấp ủy đảng và chỉ huy trong các HV-NT
KTQS đã quan tâm sâu sát trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động GDLLCT; 2) Phát huy
được phần lớn tính chủ động, tích cực, sáng tạo của các bộ phận tham gia GDLLCT;
3) Bước đầu phát huy tính chủ động, tích cực của học viên trong GDLLCT; 4) Hoạt
động đổi mới GDLLCT được tổ chức thường xuyên với sự hỗ trợ tích cực của CNTT
bước đầu đã thu hút được sự quan tâm của các đối tượng liên quan; 5) Mô hình đào tạo
tín chỉ đã bước đầu phát huy tác dụng trong GDLLCT.
Song song với những nguyên nhân chủ quan của những thành tựu thì nguyên nhân
chủ quan của những hạn chế trong GDLLCT phải kể đến là: 1) Chưa phát huy hết vai
trò, trách nhiệm, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các lực lượng tham gia GDLLCT;

2) Tinh thần tự giác trong học tập; tích cực, chủ động, sáng tạo trong nghiên cứu của học
viên còn hạn chế; 3) Các hoạt động đổi mới GDLLCT có lúc còn thiếu đồng bộ nên hiệu
quả chưa tương xứng; 4) Việc triển khai đào tạo theo tín chỉ còn không ít lúng túng,
vướng mắc chưa được giải quyết kịp thời.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Thông qua việc trình bày khái quát về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của
các HV-NT KTQS và các khoa trực tiếp giảng dạy, nghiên cứu về LLCT, đồng thời làm
rõ tính chất đặc thù của các lực lượng liên quan, chỉ ra những yếu tố đặc trưng về môi
trường liên quan đến GDLLCT trong các HV-NT KTQS. Từ đó vận dụng những quan
điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về GDLLCT một cách linh hoạt để tiến hành khảo sát,
phân tích và đánh giá thực trạng GDLLCT của các HV-NT KTQS trong thời gian qua
một cách khách quan, chính xác nhằm xác định rõ những thành tựu đạt được, những hạn
chế vướng mắc còn tồn tại và thấy được những mâu thuẫn nội tại trong quá trình tiến
hành GDLLCT, chỉ ra nguyên nhân và xác định rõ những vấn đề đặt ra đối với
GDLLCT trong các HV-NT KTQS hiện nay cần phải giải quyết.
Bên cạnh những mặt tích cực dẫn đến những thành tựu đạt được, thực trạng
GDLLCT thời gian qua đã và đang bộc lộ những tiêu cực dẫn đến những hạn chế, bất
cập trong GDLLCT của các HV-NT KTQS với nhiều nguyên nhân (trong đó khách
quan là quan trọng, chủ quan là quyết định), song nguyên nhân cơ bản, chủ yếu đều bắt
nguồn từ nhận thức đơn giản, lệch chuẩn của cả chủ thể lẫn đối tượng GDLLCT.
Kết quả nghiên cứu thực trạng sẽ tạo tiền đề, cơ sở thực tiễn để tác giả đưa ra dự
báo các yếu tố tác động, xác định các yêu cầu và đề xuất hệ thống giải pháp đồng bộ
nhằm đổi mới GDLLCT ở các HV-NT KTQS trong thời gian tới.


19

Chương 4
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI GIÁO DỤC

LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC HỌC VIỆN, NHÀ TRƯỜNG
KỸ THUẬT QUÂN SỰ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
4.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ TRONG CÁC HỌC VIỆN, NHÀ TRƯỜNG KỸ THUẬT QUÂN SỰ HIỆN NAY

4.1.1. Những nhân tố tác động đến đổi mới giáo dục lý luận chính trị trong
các học viện, nhà trường kỹ thuật quân sự hiện nay
Thứ nhất, những nhân tố thuận lợi
Những thành tựu của cách mạng KHCN, của nền giáo dục thông minh đang tạo
ra nhiều cơ hội mới cho giáo dục đại học, cũng như GDLLCT phát triển. Song song
với những nhân tố khách quan, các chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng, Nhà
nước trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, nhất là GDLLCT đã bước đầu phát huy tác
dụng tích cực đối với đời sống xã hội. Cùng với đó là việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới đã và đang có sự điều
chỉnh, bổ sung, phát triển
Thứ hai, những khó khăn, thách thức
Về tư tưởng chính trị, ảnh hưởng từ sự khủng hoảng và sụp đổ của một mô hình
XHCN hiện thực trên thế giới đã dẫn đến sự khủng hoảng niềm tin của một bộ phận
cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân vào mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin, trong khi sự nghiệp cách mạng của một số nước kiên định con đường XHCN
vẫn đang trong quá trình đổi mới, tìm tòi, thử nghiệm. Bên cạnh sự khủng hoảng của
CNXH cả về lý luận và thực tiễn, các lực lượng thù địch cả trong và ngoài nước đã và
đang lợi dụng những thành tựu của cách mạng KHCN để tuyên truyền, kích động,
chống phá. Cùng với những nhân tố bên ngoài đang tác động, ở bên trong tình trạng
mất dân chủ trong đời sống xã hội; biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; hiện tượng tham nhũng,
tiêu cực trong bộ máy Nhà nước vẫn đang diễn biến khá phức tạp.
4.1.2. Những yêu cầu mới đặt ra cho giáo dục lý luận chính trị trong các
học viện, nhà trường kỹ thuật quân sự
Thứ nhất, “sản phẩm” đào tạo phải vừa “hồng” vừa “chuyên” vững vàng
trước những biến đổi của cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Phải tích cực góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật (KHKT)
quân sự tương lai với những chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp. Phải củng cố
niềm tin, giữ vững ổn định chính trị - tư tưởng, tăng cường định hướng dư luận xã hội
trước những vấn đề mới nảy sinh. Phải trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa


20

học, thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy – học theo hướng tích cực, đẩy mạnh hoạt
động tự nghiên cứu, gắn đào tạo với nghiên cứu một cách hiệu quả. Phải cập nhật
thường xuyên, kịp thời những thành tựu KHCN nói chung, CNTT nói riêng cho cán
bộ, giảng viên LLCT và học viên để họ có đủ công cụ, phương tiện dạy - học một
cách thông minh hơn. Phải chỉ ra xu hướng phát triển của thời đại cùng với đó là dự
báo về sự chuyển dịch cơ cấu lao động để định hướng cho hoạt động đào tạo đáp ứng
yêu cầu nghề nghiệp mà xã hội cần và giúp cho học viên tốt nghiệp có khả năng thích
nghi với sự biến động thường xuyên về công việc trong tương lai.
Thứ hai, đáp ứng chuẩn đầu ra về lý luận chính trị của học viên đào tạo dài
hạn sĩ quan trong các học viện, nhà trường kỹ thuật quân sự
Trong đào tạo theo mô hình tín chỉ, yêu cầu bắt buộc các cơ sở đào tạo phải xác
định được “chuẩn đầu ra” cho chương trình đào tạo theo từng chuyên ngành cụ thể. Đây
là cơ sở để đánh giá kết quả học tập của từng tín chỉ, cũng như đánh giá phẩm chất và
năng lực của học viên khi tốt nghiệp. Đối với lĩnh vực LLCT, kết quả GDLLCT sẽ
phải đáp ứng những yêu cầu cụ thể về chuẩn đầu ra liên quan đến các tiêu chí như:
thế giới quan, phương pháp luận khoa học; phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống;
kiến thức và kỹ năng hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, phương pháp, tác
phong chỉ huy, quản lý.
Thứ ba, bảo đảm tính nguyên tắc khi tiến hành đổi mới giáo dục lý luận chính
trị trong các học viện, nhà trường kỹ thuật quân sự
Phải quán triệt, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về GDLLCT; đảm
bảo đúng định hướng của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Đổi mới GDLLCT phải thực hiện đồng bộ, bảo đảm vừa nâng cao phẩm chất năng
lực, kỹ năng, nghiệp vụ chuyên môn và trách nhiệm của cả người dạy và người học
LLCT.
Phải trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng liên quan; nâng
cao nhận thức, trách nhiệm, năng lực của các lực lượng tiến hành GDLLCT.
Phải đáp ứng được nội dung, chương trình theo chuẩn đầu ra của học chế tín
chỉ cho từng đối tượng; phải thường xuyên quán triệt đường lối, nghị quyết của Đảng,
quy chế của quân đội và quy định của các HV-NT KTQS; phải có trọng tâm, trọng
điểm, sát với yêu cầu nhiệm vụ đào tạo.
Phải đảm bảo giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội; phải bám
sát đặc điểm, nhu cầu nhận thức của học viên; phải nâng cao nhận thức của cán bộ
giáo viên, học viên đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của quân đội.


21
4.2. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC HỌC
VIỆN NHÀ TRƯỜNG KỸ THUẬT QUÂN SỰ HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Để nâng cao chất lượng GDLLCT hơn lúc nào hết cần phải vận dụng một cách
linh hoạt, sáng tạo những quan điểm, chỉ dẫn của Hồ Chí Minh vào điều kiện thực
tiễn của các HV-NT KTQS thông qua các nhóm giải pháp cụ thể sau:
4.2.1. Đổi mới tư duy của các lực lượng tham gia giáo dục lý luận chính trị
Thứ nhất, đổi mới tư duy lý luận chính trị trong lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy
đảng và chỉ huy các cấp đối với hoạt động giáo dục lý luận chính trị. Thứ hai, đổi mới
tư duy lý luận chính trị trong quản lý, xác định rõ ý thức trách nhiệm, nhiệt tình của đội
ngũ cán bộ làm công tác quản lý giáo dục ở cơ sở. Thứ ba, đổi mới tư duy lý luận
chính trị trong giảng dạy, xác định rõ vai trò trách nhiệm, khơi gợi nhiệt tình sư phạm
của giảng viên, báo cáo viên. Thứ tư, đổi mới tư duy về vai trò phối kết hợp trong giáo
dục lý luận chính trị của các tổ chức quần chúng, các đoàn thể xã hội, các câu lạc bộ sở
thích. Thứ năm, đổi mới tư duy trong học tập nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tự

giác, năng động, sáng tạo của học viên.
4.2.2. Kiện toàn bộ máy tổ chức và đổi mới phương thức quản lý hoạt
động giáo dục lý luận chính trị
Thứ nhất, kiện toàn bộ máy tổ chức bảo đảm chuẩn hóa, tinh gọn. Thứ hai, đổi
mới phương thức quản lý, điều hành hoạt động giáo dục lý luận chính trị theo hướng
linh hoạt, đơn giản và hiệu quả.
4.2.3. Đổi mới nội dung chương trình giáo dục lý luận chính trị
Thứ nhất, xây dựng chương trình giáo dục lý luận chính trị theo chuẩn đầu ra
của học chế tín chỉ và xác định rõ mục tiêu cụ thể cho từng môn, từng bài. Thứ hai, đổi
mới nội dung chương trình giáo dục lý luận chính trị theo nguyên tắc tích hợp, giảm lý
thuyết, tăng thực hành, gắn lý luận với thực tiễn. Thứ ba, thiết kế nội dung chương
trình giáo dục lý luận chính trị theo hướng phối hợp giữa hoạt động dạy học với tự học,
chính khóa với ngoại khóa.
4.2.4. Đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục lý luận chính trị
Thứ nhất, đổi mới phương pháp giảng dạy, báo cáo, tuyên truyền lý luận chính
trị theo hướng giảm thuyết trình, tăng định hướng tự nghiên cứu và thảo luận nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên. Thứ hai, đổi mới phương
pháp học tập lý luận chính trị của học viên theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, tăng cường tự học, tự nghiên cứu trên cơ sở khai thác thế mạnh của khoa học
công nghệ nhất là công nghệ thông tin. Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin vào đổi
mới phương pháp đánh giá chất lượng giáo dục lý luận chính trị, bảo đảm khách quan,
chính xác, đồng bộ cả nội dung và hình thức, cả kiến thức và kỹ năng của người học theo
mục tiêu dạy học. Thứ tư, đổi mới phương pháp kiểm soát hoạt động giáo dục lý luận


22

chính trị trên nền tảng công nghệ thông tin bảo đảm chặt chẽ, toàn diện, thường xuyên.
Thứ năm, đổi mới hoạt động nghiên cứu khoa học, thi Olympic và tìm hiểu lý luận
chính trị theo hướng thiết thực, phục vụ cho mục tiêu đào tạo.

4.2.5. Đổi mới điều kiện bảo đảm cho giáo dục lý luận chính trị
Thứ nhất, đổi mới giáo trình, tài liệu lý luận chính trị trên tinh thần cập nhật
những thành tựu lý luận mới và thực hiện số hóa thành giáo trình điện tử để phát hành
kịp thời, đồng bộ theo mô hình thư viện thông minh. Thứ hai, đổi mới cơ sở vật chất bảo
đảm theo hướng hiện đại, xây dựng nhà trường thông minh tiếp cận cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Thứ ba, đổi mới môi trường giáo dục lý luận chính trị theo hướng thân
thiện, gắn với xây dựng nhà trường thông minh trong quân đội
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4

Trên cơ sở làm rõ những nhân tố tác động cùng những yêu cầu đổi mới
GDLLCT trong các HV-NT KTQS hiện nay, Luận án đã đề xuất hệ thống các giải
pháp đồng bộ, sát với yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra. Trong đó, các giải pháp
thuộc nhóm “Đổi mới tư duy của các lực lượng tham gia GDLLCT”, “Kiện toàn tổ
chức và đổi mới phương thức quản lý hoạt động GDLLCT” và “Đổi mới nội dung
chương trình GDLLCT” là những giải pháp căn bản, tạo tiền đề để thực hiện các giải
pháp phía sau.
Nhóm giải pháp “Đổi mới hình thức, phương pháp GDLLCT” với nhiều nội
dung phong phú, trong đó đổi mới phương pháp tự học, phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học viên trong quá trình học tập các môn LLCT không chỉ giữ vai
trò quyết định đến chất lượng học tập LLCT của học viên, mà còn quyết định chung
đến chất lượng và hiệu quả GDLLCT trong các HV-NT KTQS hiện nay.
Nhóm giải pháp “Đổi mới điều kiện bảo đảm cho GDLLCT” là giải pháp giữ
vai trò hỗ trợ cho quá trình GDLLCT, đồng thời trực tiếp tác động đến chất lượng và
hiệu quả tự học, tự nghiên cứu LLCT của học viên trong môi trường giáo dục thông
minh và điều kiện giảm tải trên lớp, tăng cường hoạt động tự học, tự nghiên cứu để
đáp ứng yêu cầu của GDLLCT trong thời kỳ CMCN 4.0 hiện nay.


23


KẾT LUẬN
Xuất phát từ tầm quan trọng của lý luận đối với sự nghiệp cách mạng nói
chung, đối với người cách mạng nói riêng nên ngay trong trang đầu của tác phẩm
Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định lại câu nói nổi tiếng của
V.I.Lênin đó là “Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động…”.
Tiếp thu quan điểm đó, Hồ Chí Minh cho rằng “cán bộ là gốc của mọi công việc”, “là
sợi dây chuyền của bộ máy” và “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” nên
Người rất chú trọng công tác GDLLCT, trong đó cốt lõi là giáo dục lý luận Mác Lênin cho đội ngũ cán bộ, đảng viên để họ giác ngộ và thấm nhuần mục tiêu, lý
tưởng cách mạng, có niềm tin vào tương lai tươi sáng của sự nghiệp cách mạng và
nghị lực để đưa “con thuyền cách mạng” cập bến vinh quang.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về GDLLCT bao gồm một hệ thống quan điểm, thể
hiện mục đích; nhiệm vụ của người dạy, người học, người quản lý; nội dung chương
trình; nguyên tắc, phương pháp; tài liệu, giáo trình và những cơ sở vật chất bảo đảm;
điều kiện môi trường bảo đảm cho hoạt động GDLLCT… Tất cả những quan điểm đó
được Hồ Chí Minh trình bày súc tích, dễ hiểu qua các bài nói, bài viết dưới dạng
hướng dẫn thực hiện rất thiết thực nhằm đưa lý luận cách mạng đến với cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.
Tuy Hồ Chí Minh đã về với “cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn
anh khác”[70, tr.611] cách đây nửa thế kỷ, song những quan điểm về LLCT và
GDLLCT của Người vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự của nó trong nền giáo dục
hiện đại. Những quan điểm, chỉ dẫn đó của Người không chỉ có giá trị đối với sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội (ở miền Bắc
trước đây), mà còn có giá trị thời đại sâu sắc đối với các thế hệ ngày nay trong sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” hiện nay.
Với giáo dục đại học, GDLLCT không chỉ trang bị công cụ tư duy khoa học
sắc bén, qua đó hình thành và hoàn thiện nhân cách, mà còn giúp cho học viên, sinh
viên có niềm tin cách mạng, lý tưởng cao đẹp, bản lĩnh chính trị vững vàng, nghị lực
phi thường để phục vụ cách mạng. Có thể thấy GDLLCT là một bộ phận quan trọng
trong công tác tư tưởng lý luận của Đảng nhằm truyền bá lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp

luật của Nhà nước một cách sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
GDLLCT trong các HV-NT quân sự là một phần quan trọng thuộc công tác tư tưởng
của Đảng trong quân đội, nhằm trực tiếp góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng và Nhà nước,


×