Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Rèn kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 2, 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 54 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

TRẦN THỊ PHƢƠNG THẢO

RÈN KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN
CHO HỌC SINH LỚP 2, 3
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

ThS. GVC. LÊ BÁ MIÊN

HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô trong Khoa Giáo
dục Tiểu học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là sự giúp đỡ tận
tình của Thạc sĩ, giảng viên chính khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2, thầy Lê Bá Miên. Nhân đây, em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới các thầy cô giáo cùng các em học sinh trường Tiểu học Lê Văn Tám,
Thành phố Lào Cai đã giúp đỡ em hoàn thành tốt khóa luận này.
Trong khuôn khổ thời gian có hạn nên khóa luận khó tránh khỏi những hạn
chế, thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo cùng
toàn thể các bạn sinh viên để khóa luận của em có thể tiếp tục hoàn thiện
trong quá trình học tập và giảng dạy sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2018
Sinh viên thực hiện



Trần Thị Phương Thảo


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em dưới sự
hướng dẫn của Thạc sĩ Lê Bá Miên - Giảng viên chính Khoa Ngữ Văn, trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Đề tài không sao chép từ bất kỳ một tài liệu sẵn
có nào. Kết quả nghiên cứu không trùng với tác giả nào khác.
Hà Nội, tháng 4 năm 2018
Sinh viên thực hiện

Trần Thị Phương Thảo


MỤC LỤC
PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 4
3. Mục đích nghiên cứu đề tài. .......................................................................... 4
4. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
7. Cấu trúc khóa luận. ....................................................................................... 5
PHẦN 2: PHẦN NỘI DUNG ......................................................................... 6
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ............. 6
1. Cơ sở lý luận ................................................................................................. 6
1.1. Khái quát về phân môn Tập làm văn ......................................................... 6
1.2. Đoạn văn. ................................................................................................... 8
1.3. Đặc điểm tâm - sinh lý của học sinh tiểu học. ......................................... 12

2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................ 17
2.1. Chương trình sách giáo khoa ở tiểu học .................................................. 17
2.2. Thực tiễn giảng dạy và học tập ở trường phổ thông. ............................... 19
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ KỸ NĂNG GIÚP HỌC SINH LỚP 2, 3 VIẾT
ĐOẠN VĂN ................................................................................................... 26
1. Kỹ năng ....................................................................................................... 26
1.1. Khái niệm kỹ năng ................................................................................... 26
1.2. Phân loại kỹ năng ..................................................................................... 28
1.3. Sự hình thành kỹ năng ở học sinh ............................................................ 29
2. Kỹ năng viết đoạn văn................................................................................. 29
2.1. Kỹ năng xác định chủ đề .......................................................................... 29


2.2. Kỹ năng lập dàn ý .................................................................................... 31
2.3. Kỹ năng tập hợp tư liệu ............................................................................ 33
2.4. Kỹ năng dựng đoạn .................................................................................. 35
2.5. Kỹ năng viết và sửa chữa ......................................................................... 40
CHƢƠNG 3: THỬ NGHIỆM TÁC ĐỘNG ............................................... 44
1. Mục tiêu thử nghiệm ................................................................................... 44
2. Biện pháp tiến hành ..................................................................................... 44
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................... 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 49


PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại khoa học kĩ thuật và công nghệ thông tin phát triển vô
cùng mạnh mẽ, nhiều quốc gia đã tận dụng lợi thế đó để khẳng định vị trí của
mình trên trường quốc tế. Tuy nhiên, có một điều không bao giờ có thể phủ
nhận rằng: nhân tố con người vô cùng quan trọng. Năm bắt tình hình đó,

Đảng ta đã khẳng định: “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu”, “đầu tư
cho Giáo dục là đầu tư cho sự phát triển”. Sau khi giành độc lập năm 1945,
Đảng và Bác Hồ đã khẳng định có ba loại giặc trong đó “diệt giặc dốt” được
ưu tiên hàng đầu. Mỗi một khu vực, mỗi một quốc gia, hay cộng đồng đều chỉ
có thể phát triển nếu như họ xác định đúng vai trò của công tác giáo dục và
đào tạo.
Bác Hồ của chúng ta luôn mong muốn tột độ rằng dân ta ai cũng được
học hành, đặc biệt là trẻ em - những chủ nhân tương lai của đất nước. Giáo
dục Tiểu học, nhà trường Tiểu học là một bộ phận không thể thiếu được của
xã hội, của cộng đồng. Vì nó đem đến cho trẻ em quyền được hạnh phúc,
được đi học, cũng là thể hiện rõ nhất sự ưu việt của xã hội. Giáo dục tiểu học
có sự tác động rất lớn đến phát triển cá nhân. Nhiều nghiên cứu cho thấy, sự
phát triển của trẻ em là một quá trình chịu ảnh hưởng của 3 yếu tố: di truyền,
môi trường, giáo dục. Cũng nhờ môi trường, giáo dục là hình thức tác động
bên ngoài con người đang phát triển, nhưng tác động của giáo dục bao giờ
cũng là tác động có mục đích đến sự phát triển của con người. Giáo dục Tiểu
học với mục tiêu nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự
phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản để học. Hegien đã từng nói: “Nhà trường Tiểu học đã dẫn dắt con
người đến xã hội, từ đó con người có những bước đi đầu tiên từ thế giới tự
nhiên đến thế giới công việc”.

1


Các cấp học trong hệ thống giáo dục là một chỉnh thể thống nhất, có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo nên một dòng chảy liên tục có chủ đích
cho quá trình phát triển của mỗi con người. Trong đó, cấp Tiểu học là cấp học
nền tảng. Tâm hồn trẻ thơ như tờ giấy trắng, chính vì vậy Giáo dục Tiểu học
cũng giống như xây một ngôi nhà, nền móng chắc thì ngôi nhà mới vững. Trẻ

chuyển từ Mầm non lên Tiểu học, lần đầu tiên trẻ tham gia hoạt động học với
tư cách là hoạt động chủ đạo và chính trong quá trình đó, trẻ được hình thành
những kiến thức và kỹ năng học tập cơ bản gắn với từng môn học, làm nền
tảng cho bậc học tiếp theo.
Bên cạnh các môn học như Toán, Tự nhiên và Xã hội, Đạo đức, …môn
Tiếng Việt ở Tiểu học hình thành và phát triển các kỹ năng nghe, nói, đọc,
viết cần thiết trong sử dụng Tiếng Việt để học tập và giao tiếp, cũng như các
kỹ năng mềm, kỹ năng sống trong xã hội. Tiếng Việt được gọi nôm na là môn
học “vỡ lòng”. Nếu nói việc học tập giống như xây một cái nhà thì bộ môn
này chính là móng nhà của ngôi nhà đó. Muốn xây nhà được đẹp được tốt thì
móng nhà phải thật vững chắc. Nếu như môn Toán giúp học sinh hình thành
kỹ năng tư duy logic thì môn Tiếng Việt sẽ phát triển kỹ năng tư duy ngôn
ngữ cho học sinh. Mỗi phân môn của môn học này đều hướng tới mục tiêu
trên, trong đó phân môn Tập làm văn có vai trò đặc biệt quan trọng.
Tập làm văn là phân môn đòi hỏi khả năng tổng hợp và kết hợp một
cách linh hoạt các kiến thức có được từ các phân môn, môn học khác cũng
như kiến thức từ cuộc sống hằng ngày. Vì thế một bài văn viết ra có thể được
coi như thước đo dùng để đánh giá quá trình học tập của học sinh, kỹ năng sử
dụng ngôn từ, vốn sống, vốn hiểu biết mà học sinh có được. Làm văn là một
hoạt động giao tiếp. Dạy văn cho học sinh thực chất là dạy cho các em nắm
được cơ chế của việc sản sinh ngôn bản nói và viết theo đúng quy tắc của
ngôn ngữ. Để viết được một bài văn hoàn chỉnh, học sinh cần rèn luyện các

2


kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết, kỹ năng phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn
và liên kết đoạn,...
Ở tiểu học, học sinh bắt đầu được học tập làm văn từ lớp 2 với cách
viết các đoạn văn ngắn có chủ đề gần gũi với cuộc sống xung quanh. Đây là

thời điểm các em được làm quen và hình thành những kỹ năng cơ bản nhất.
Chính vì vậy giáo viên cần chú trọng và đặc biệt quan tâm giai đoạn này để
tạo cho học sinh nền tảng tốt nhất.
Chúng ta biết rằng dạy Tập làm văn nhằm phát triển và hoàn thiện năng
lực cho học sinh trên bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Trong đó kí năng nói
và viết có vai trò quan trọng đối với học sinh, giúp các em hình thành các kĩ
năng học tập khác. Tuy nhiên, học sinh lớp 2, 3 suy nghĩ còn đơn giản, vốn
sống chưa nhiều, các kĩ năng cũng chưa thật sự thành thạo. Các em đều rất sợ
phân môn Tập làm văn vì không biết nói gì, viết gì. Ngay cả những giáo viên
chưa giàu kinh nghiệm đôi khi cũng không tự tin lắm khi dạy phân môn này.
Bên cạnh đó còn một số nguyên nhân khác ảnh hưởng đến quá trình dạy và
học Tập làm văn như:
Thời gian trên lớp để giáo viên tổ chức truyền đạt kiến thức mới, luyện
tập, củng cố còn hạn chế.
Một bộ phận học sinh còn chưa xác định chính xác yêu cầu đề bài, chưa
nắm được một đoạn văn cần có ba phần: phần mở, phần phát triển đoạn và
phần kết. Hoặc chưa có ý thức học tập cao, khả năng nhận thức còn kém.
Thời gian học tập trên lớp nhiều khiến học sinh không có điều kiện
được quan sát, tiếp xúc nhiều các sự vật hiện tượng trong cuộc sống nên kỹ
năng viết còn hạn chế.
Từ các lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Rèn kỹ năng viết
đoạn văn cho học sinh lớp 2, 3”.

3


2. Lịch sử vấn đề
Hiện nay đã có nhiều tác giả nghiên cứu về phương pháp dạy học Tập
làm văn cho học sinh Tiểu học cũng như rèn luyện các kỹ năng, giải đáp
những thắc mắc về vấn đề dạy và học phân môn Tập làm văn như: Nguyễn

Minh Thuyết trong giáo trình Tiếng Việt 2 và Hỏi - đáp về dạy học Tiếng Việt
2; Hỏi - đáp về dạy học Tiếng Việt 3,… hay Lê Hữu Tình, Trần Mạnh Hưởng
trong cuốn Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở tiểu học hoặc trong
Bồi dưỡng văn - tiếng Việt ở Tiểu học của Nguyễn Thị Kim Dung, Hồ Thị
Vân Anh,…
Bên cạnh đó, các khóa luận tốt nghiệp Đại học của các sinh viên khóa
trước cũng có nhiều đề tài nói về thực trạng dạy và học Tập làm văn cũng như
rèn kỹ năng viết bài tập làm văn của học sinh Tiểu học: Nguyễn Thị Nhung Thực trạng kỹ năng học phân môn Tập làm văn của học sinh lớp 3; Hoàng
Thị Thủy - Kỹ năng viết bài tập làm văn của học sinh lớp 4; Nguyễn Thu
Thảo - Tìm hiểu kỹ năng học tập phân môn tập làm văn của học sinh lớp 5;…
Song việc đề tài về kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 2, 3 vẫn chưa
có tác giả nào nghiên cứu. Vậy nên tôi nhận thấy việc nghiên cứu đề tài “Rèn kỹ
năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 2, 3” là rất quan trọng và cần thiết.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Từ việc rèn kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh nhằm hướng tới tạo cho
trẻ tư duy logic và tư duy hình tượng.
Hướng tới nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt nói chung
và phân môn Tập làm văn nói riêng.
4. Đối tƣợng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 2, 3.

4


5. Nhiệm vụ nghiên cứu
1.1. Tập hợp tư liệu nghiên cứu, hệ thống hóa những vấn đề lý luận
liên quan đến đề tài.
1.2. Khảo sát thực trạng, nguyên nhân ảnh hưởng tới kỹ năng viết đoạn
văn của học sinh lớp 2, 3.
1.3. Nêu ra các kỹ năng cần thiết để viết đoạn văn cho học sinh lớp 2, 3

và các biện pháp thực hiện các kỹ năng đó.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Các phƣơng pháp chung
Phương pháp thống kê.
Phương pháp đọc sách.
Phương pháp phân loại.
6.2. Quá trình tiến hành nghiên cứu
Bước 1. Lập đề cương khóa luận.
Bước 2. Tập hợp tư liệu nghiên cứu, hệ thống hóa vấn đề liên quan đến
đề tài nghiên cứu.
Bước 3. Tiến hành khảo sát phổ thông.
Bước 4. Viết văn bản hoàn thành kháo luận.
7. Cấu trúc khóa luận.
Phần 1: Phần mở đầu
Phần 2: Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Một số kỹ năng giúp học sinh lớp 2, 3 viết đoạn văn
Chương 3: Thử nghiệm tác động
Phần 3: Kết luận và đề xuất, kiến nghị
Tài liệu tham khảo

5


PHẦN 2: PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái quát về phân môn Tập làm văn
1.1.1. Khái niệm.
Văn có thể được hiểu là lời ăn tiếng nói trong giao tiếp và có thể nói lời

văn ở đây chính là ngôn bản. Tập làm văn chính là tập sản sinh và tạo lập
ngôn bản.
Vậy dạy Tập làm văn chính là dạy cho học sinh biết cách sản sinh và
tạo lập văn bản.
Hệ thống bài tập làm văn ở Tiểu học:
Bài tập làm văn là một lệnh đưa ra yêu cầu cho học sinh thực hiện một
hành động nói, viết để tạo lập văn bản.
Bài tập làm văn chia thành bài tập luyện nói và bài tập luyện viết.
Trong đó:
a. Bài tập luyện nói gồm:
+ Bài tập hội thoại.
+ Bài tập độc thoại.
b. Bài tập luyện viết gồm:
+ Bài tập viết lời hội thoại: điền lời lựa chọn phù hợp vào chỗ trống
(chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi,…) hoặc viết câu trả lời.
+ Bài tập viết thành đoạn bài: viết văn bản nhật dụng (văn bản tự thuật,
danh sách học sinh, …), văn bản nghệ thuật (kể chuyện, miêu tả).
1.1.2. Vị trí và nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn.
- Vị trí.
Tiếng Việt ở trường tiểu học được dạy và học thông qua tám phân môn
(hay bảy loại bài học) khác nhau: Học vần, tập đọc, tập viết, chính tả, từ ngữ,

6


ngữ pháp, kể chuyện, tập làm văn. Phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt
trong việc dạy và học Tiếng Việt xét trên hai phương diện:
Phân môn Tập làm văn tận dụng các hiểu biết và kĩ năng về tiếng Việt
do các phân môn khác rèn luyện hoặc cung cấp đồng thời góp phần hoàn thiện
chúng. Để làm được một bài làm văn nói hoặc viết, người làm phải hoàn thiện

cả bốn kĩ năng mghe, nói, đọc, viết, và phải vận dụng các kiến thức về tiếng
Việt. Trong quá trình vận dụng này, các kĩ năng và kiến thức đó được hoàn
thiện và nâng cao dần.
Phân môn tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn
bản (nói, viết). Nhờ vậy tiếng Việt không chỉ là một hệ thống cấu trúc được
xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ
sinh động trong quá trình giao tiếp, tư duy, học tập. Nói cách khác, phân môn
tập làm văn đã góp phần hiện thực hóa mục tiêu quan trọng bật nhất của việc
dạy và học tiếng Việt là dạy học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh
hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học…
- Nhiệm vụ.
Nhiệm vụ cơ bản của phân môn Tập làm văn là giúp học sinh tạo ra
được các ngôn bản nói và viết theo các phong cách chức năng ngôn ngữ, hình
thành và phát triển năng lực tạo lập ngôn bản - một năng lực được tổng hợp từ
các kĩ năng bộ phận như: xác định mục đích nói, lập ý, triển khai ý thành lời
(dạng nói, viết bằng câu, đoạn, bài). Nhiệm vụ cụ thể của phân môn Tập làm
văn bao gồm:
 Cung cấp kiến thức và hình thành, phát triển các kĩ năng bộ phận,
góp phần hình thành và phát triển năng lực tạo lập, sản sinh ngôn bản.
 Cung cấp tri thức về các dạng nghi thức lời nói, rèn kĩ năng nói theo
các nghi thức đó.
 Rèn kĩ năng nói, viết các ngôn bản thông thường và một số văn bản
nghệ thuật như kể chuyện, miêu tả.
7


 Rèn các kĩ năng đặc thù phù hợp với mỗi dạng bài, kiểu bài Tập làm
văn (kĩ năng quan sát trong văn tả, kể; kĩ năng xây dựng cốt truyện, chi tiết,
tình tiết trong văn kể chuyện...).
 Ngoài ra, phân môn Tập làm văn cũng góp phần rèn luyện tư duy (tư

duy hình tượng, tư duy logic, kĩ năng phân tích - tổng hợp - phân loại - lựa
chọn) và hình thành nhân cách (lịch sự, khuôn mẫu trong giao tiếp; bồi dưỡng
tình cảm đẹp và vốn sống...) cho học sinh tiểu học.
1.1.3. Sự cần thiết của phân môn Tập làm văn
Tập làm văn là phân môn đòi hỏi khả năng tổng hợp và kết hợp một
cách linh hoạt các kiến thức có được từ các phân môn, môn học khác cũng
như kiến thức từ cuộc sống hằng ngày. Vì thế một bài văn viết ra có thể được
coi như thước đo dùng để đánh giá quá trình học tập của học sinh, kỹ năng sử
dụng ngôn từ, vốn sống, vốn hiểu biết mà học sinh có được. Làm văn là một
hoạt động giao tiếp. Dạy văn cho học sinh thực chất là dạy cho các em nắm
được cơ chế của việc sản sinh ngôn bản nói và viết theo đúng quy tắc của
ngôn ngữ. Để viết được một bài văn hoàn chỉnh, học sinh cần rèn luyện các
kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết, kỹ năng phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn
và liên kết đoạn, ...Chính vì vậy, Tập làm văn là một phân môn cần thiết và
không thể thiếu trong chương trình các môn học ở cấp Tiểu học.
1.2. Đoạn văn.
1.2.1. Khái niệm
Theo quan điểm của tác giả Lê Phương Nga trong Phương pháp dạy
học Tiếng Việt ở Tiểu học thì: “Đoạn văn là một bộ phận của văn bản bao
gồm một số câu liên kết với nhau chặt chẽ, thể hiện một cách tương đối trọn
vẹn về một tiểu chủ đề. Nó có một cấu trúc nhất định và được tách ra khỏi
đoạn văn khác bằng dấu hiệu chấm xuống dòng và bắt đầu bằng chữ cái viết
hoa thụt đầu dòng”. Với định nghĩa này, ta thấy:

8


Về mặt nội dung, đoạn văn có thể hoàn chỉnh ở một mức độ nhất định.
Khi đoạn văn hoàn chỉnh về mặt nội dung thì mỗi đoạn văn sẽ là đoạn ý
(giống như định nghĩa theo sách giáo khoa lớp 4), còn khi đoạn văn không

hoàn chỉnh về mặt nội dung thì mỗi đoạn văn sẽ là đoạn lời.
Về mặt hình thức: đoạn văn luôn phải hoàn chỉnh về mặt hình thức cho
dù có hoàn chỉnh về mặt nội dung hay không. Những dấu hiệu: lùi đầu dòng,
viết hoa, dấu kết đoạn,… là dấu hiệu cần thiết giúp chúng ta nhận diện chính
xác đoạn văn trong mọi trường hợp.
1.2.2. Cấu trúc đoạn văn.
Nói đến cấu trúc đoạn văn là nói đến các loại câu có chức năng khác
nhau và sự phân bố, sắp xếp cùng với mối quan hệ qua lại giữa chúng. Trong
đoạn văn, có 5 loại câu có chức năng khác nhau được phân bố, sắp xếp qua sơ
đồ cấu trúc tổng thể sau đây:
- Câu chuyển đoạn.
Câu chuyển đoạn là câu có chức năng liên kết đoạn văn mà nó trực tiếp
thuộc với đoạn văn hay phần văn bản đứng trước. Về nội dung biểu đạt, loại
câu này bao giờ cũng nhắc lại, hồi quy chủ đề bộ phận đã trình bày bằng cách
lặp lại từ vựng hay thế đồng nghĩa, thế đại từ.
Câu chuyển đoạn có thể xuất hiện hay vắng mặt. Nếu xuất hiện, số
lượng thường gặp là một và đứng đầu đoạn. Nếu câu chuyển đoạn vắng mặt,
chức năng liên kết đoạn sẽ do 1 hoặc 2 loại câu khác đồng thời đảm nhiệm.
- Câu mở đoạn.
Câu mở đoạn là câu có chức năng đưa đẩy hay dẫn dắt vào đoạn. Khác
với câu chuyển đoạn, câu mở đoạn không nhắc lại chủ đề đã đề cập đến mà nó
nêu lên một thông tin nào đó có liên quan với chủ đề của đoạn.
Câu mở đoạn có hay khả năng xuất hiện hay vắng mặt. Nếu xuất hiện,
số lượng thường gặp là một hoặc hai câu và đứng đầu đoạn.

9


Xét mối quan hệ giữa câu mở đoạn với câu chủ đoạn, chúng ta cần lưu
ý: hai loại câu này có chức năng loại trừ nhau trong văn bản. Bên cạnh đó

chức năng liên kết đoạn và dẫn dắt vào đoạn có thể được phức hợp trong một
câu văn mà một bộ phận nào đó có chức năng liên kết, bộ phận còn lại dẫn
vào đoạn văn.
- Câu chủ đoạn.
Câu chủ đoạn là câu có chức năng nêu lên chủ đề của đoạn văn mà các
câu thuyết đoạn sẽ triển khai làm sáng tỏ. Trong trường hợp câu chủ đoạn là
câu đứng đầu của đoạn thì ngoài chức năng nêu lên chủ đề, nó còn có chức
năng phụ là liên kết văn bản.
Câu chủ đoạn có khả năng xuất hiện hay vắng mặt. Nếu xuất hiện, số
lượng thường gặp là 1 câu, đứng đầu đoạn hay sau câu chuyển đoạn, câu mở
đoạn (nếu đoạn văn có 2 loại câu này). Trong trường hợp câu chủ đoạn vắng
mặt, chủ đề của đoạn có thể mang tính hàm ngôn hay do câu kết đoạn biểu đạt
(nếu câu kết đoạn xuất hiện).
- Câu thuyết đoạn.
Câu thuyết đoạn là câu có chức năng triển khai, làm sáng tỏ chủ đề của
đoạn, hay nêu lên sự việc, sự kiện làm tiền đề để rút ra kết luận khái quát
trong câu kết đoạn.
Trừ trường hợp đoạn văn có một câu, câu thuyết đoạn bao giờ cũng
xuất hiện, số lượng tùy thuộc vào quy mô của đoạn. Đoạn văn có nhiều câu
thuyết đoạn thì chủ đề cũng được triển khai cụ thể, chi tiết hơn.
- Câu kết đoạn.
Câu kết đoạn là câu có chức năng đúc kết, khái quát hay mở rộng chủ
đề của đoạn. Trong trường hợp đoạn văn không có câu mở đoạn mà có câu
kết đoạn, câu kết đoạn là câu nêu lên chủ đề của đoạn.
Câu kết đoạn có thể xuất hiện hay vắng mặt. Nếu xuất hiện, số lượng có
thể là 1 hoặc 2 câu và nằm ở cuối đoạn văn.

10



1.2.3. Các kiểu kết cấu của đoạn văn.
Như vừa trình bày, cấu trúc tổng thể của đoạn văn gồm 5 loại câu có
chức năng khác nhau. Trong đó, câu chủ đoạn, câu kết đoạn và câu thuyết
đoạn là 3 loại câu cơ bản. Trong 3 loại câu này, câu chủ đoạn và câu kết đoạn
có thể xuất hiện hay vắng mặt, hình thành những biến thể cụ thể của cấu trúc
đoạn văn. Những biến thể cụ thể này là các kiểu kết cấu của đoạn hay còn
được gọi là các cách lập luận. Có 4 kiểu kết cấu của đoạn:
- Kết cấu diễn giải.
Kiểu kết cấu này bao gồm câu chủ đoạn và câu thuyết đoạn. Trong đó,
câu chủ đoạn là câu nêu chủ đề, câu thuyết đoạn triển khai, làm sáng tỏ chủ
đề. Kiểu kết cấu này không có câu kết đoạn.
- Kết cấu quy nạp.
Quy nạp là kiểu kết cấu bao gồm câu thuyết đoạn và câu kết đoạn. Trong
đó, câu thuyết đoạn nêu lên sự việc, chi tiết cụ thể làm cơ sở để rút ra kết luận
khái quát trong câu kết đoạn. Kiểu kết cấu này không có câu chủ đoạn.
- Kết cấu diễn giải kết hợp với quy nạp.
Đây là kiểu kết cấu bao gồm câu chủ đoạn, câu thuyết đoạn và câu kết
đoạn. Trong đó, câu chủ đoạn nêu lên chủ đề, câu thuyết đoạn triển khai làm
sáng tỏ chủ đề và câu kết đoạn đúc kết, khái quát lại hay mở rộng chủ đề. Đây
là kiểu kết cấu lý tưởng của đoạn, bởi lẽ nó tạo nên sự hoàn chỉnh, cân đối
nhất cho đoạn văn.
- Kết cấu song hành.
Đây là kiểu kết cấu chỉ bao gồm một số câu thuyết đoạn, câu chủ đoạn
và câu kết đoạn vắng mặt… Điều đó nghĩa là chủ đề của đoạn văn có tính
chất hàm ngôn.
1.2.4. Phân loại đoạn văn
Dựa vào đặc điểm về nội dung biểu đạt, có 5 loại đoạn văn cơ bản.

11



- Đoạn văn miêu tả.
Đoạn miêu tả là đoạn văn có nội dung thể hiện sự vật, hiện tượng một
cách chi tiết, cụ thể, sinh động như nó tồn tại trong thực tại khách quan hay
theo trí tưởng tượng của người viết. Đây là đoạn văn cơ bản, xuất hiện rất phổ
biến trong các loại văn bản thuộc phong cách nghệ thuật như truyện, thơ trữ
tình, ký sự.
- Đoạn thuật sự.
Là loại đoạn văn có nội dung trình bày diễn biến của sự việc, sự kiện
như nó đã xảy ra hay theo trí tưởng tượng của người viết. Loại đoạn văn này
có khả năng xuất hiện trong nhiều phong cách ngôn ngữ văn bản: hành chính,
khoa học, chính luận và nghệ thuật.
- Đoạn lập luận.
Lập luận là đoạn văn có nội dung trình bày suy nghĩ, ý kiến, quan điểm
của người viết về một vấn đề, một hiện tượng nào đó. Đây là loại đoạn văn cơ
bản, xuất hiện rất phổ biến trong các loại văn bản thuộc phong cách khoa học,
chính luận. Văn bản thuộc phong cách hành chính cũng có thể vận dụng loại
đoạn văn này nhưng ít phổ biến hơn.
- Đoạn hội thoại.
Hội thoại là loại đoạn văn có nội dung phản ánh lời nói trực tiếp của
người tham gia giao tiếp. Đoạn văn hội thoại xuất hiện rất phổ biến trong
khẩu ngữ tự nhiên hằng ngày, trong các văn bản thuộc phong cách nghệ thuật
như truyện.
1.3. Đặc điểm tâm - sinh lý của học sinh tiểu học.
1.3.1. Đặc điểm sinh lý.
a. Đặc điểm sinh lý của học sinh Tiểu học.
- Hệ xương: đang trong thời kỳ phát triển (thời kỳ cốt hóa) nên dễ bị
cong vẹo, gẫy dập,… Vì thế mà trong các hoạt động vui chơi cũng như học

12



tập của các em, cha mẹ và thầy cô cần phải chú ý quan tâm, hướng các em tới
các hoạt động vui chơi lành mạnh, an toàn.
- Hệ cơ: Đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích chơi
trò chơi vận động như chạy, nhảy, nô đùa,… Vì vậy các nhà giáo dục nên đưa
các em vào các trò chơi vận động từ mức độ đơn giản đến phức tạp và đảm
bảo sự an toàn cho trẻ.
- Hệ thần kinh cấp cao: đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư
duy của các em chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng, tư
duy trìu tượng. Do đó các em rất hứng thú với các trò chơi trí tuệ như đố vui trí
tuệ, các cuộc thi trí tuệ,… Dựa vào đặc điểm sinh lý này mà các nhà giáo dục
nên cuốn hút các em với các câu hỏi nhằm phát triển tư duy của các em.
b. Đặc điểm sinh lý của học sinh lớp 2, 3.
- Hệ xương: hệ xương còn nhiều mô sụn, xương sống, xương hông,
xương chân, xương tay đang trong thời kỳ phát triển (thời kỳ cốt hóa) nên dễ
bị cong vẹo, gẫy dập,… Ở trẻ em giai đoạn đầu Tiểu học, chất hữu cơ trong
xương chiếm ưu thế hơn chất vô cơ nên xương mềm và dễ bị biến dạng nếu
đi, đứng, ngồi, hoạt động không đúng tư thế. Vì thế mà trong các hoạt động
vui chơi cũng như học tập của các em, cha mẹ và thầy cô cần phải chú ý quan
tâm, hướng các em tới các hoạt động vui chơi lành mạnh, an toàn.
- Hệ cơ: hệ cơ của học sinh giai đoạn lớp 2, 3 phát triển không đồng
đều. Các cơ ở đùi, vai, cẳng chân, cánh tay phát triển sớm hơn. Trong khi đó
các cơ ở bàn tay, ngón tay phát triển chậm hơn. Vì thế trẻ chưa làm được các
động tác khéo léo, tỉ mỉ cần sử dụng đến những ngón tay.
- Hệ thần kinh cấp cao: đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư
duy của các em chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng,
tư duy trìu tượng. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, tư duy trực quan vẫn chiếm ưu
thế hơn so với học sinh Tiểu học giai đoạn lớp 4, 5.


13


1.3.2. Đặc điểm tâm lý.
a. Đặc điểm tâm lý của học sinh Tiểu học.
Tuy cùng chịu sự chi phối của các quy luật và yếu tố như ở những giai
đoạn phát triển khác, những mỗi giai đoạn lứa tuổi trong quá trình phát triển
tâm lý của cá thể nói chung và trẻ em nói riêng là một khoảng thời gian nhất
định với những đặc trưng riêng của một trình độ phát triển. Lứa tuổi học sinh
Tiểu học là một giai đoạn phát triển với các đặc trưng sau:
Học sinh Tiểu học thường là những trẻ có tuổi từ 6 - 11, 12 tuổi. Đây là
lứa tuổi đầu tiên đến trường, trở thành học sinh và có hoạt động chủ đạo. Trẻ
em lứa tuổi Tiểu học thực hiện bước chuyển từ hoạt động vui chơi là hoạt
động chủ đạo sang học tập là hoạt động chủ đạo. Là hoạt động lần đầu tiên
xuất hiện với tư cách là chính nó, hoạt động học tập có vai trò và ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với sự phát triển tâm lý của học sinh Tiểu học. Cùng với
cuộc sống nhà trường, hoạt động học tập đem đến cho trẻ những điều mà
trước đây trẻ chưa bao giờ có được hoặc không thể tiếp cận được. Từ đó cùng
với sự phát triển về thể chất và dựa trên những thành tựu về phát triển tâm lý
đã đạt được của giai đoạn trước, trẻ sẽ tạo lập nên những cái mới trong đời
sống tâm lý của mình, mà trước hết là tính chủ định, kỹ năng làm việc trí óc,
sự phản tỉnh - những cấu tạo tâm lý mới đặc trưng cho lứa tuổi này. Ngoài ra,
nhà trường và hoạt động học tập cũng đặt ra cho trẻ những đòi hỏi mới của
cuộc sống. Trẻ không chỉ phải tự lập lấy vị trí của mình trong môi trường
“trung lập về tình cảm”, mà còn phải thích ứng với những bó buộc không
tránh khỏi và chấp nhận một người lớn ngoài gia đình (thầy, cô giáo) sẽ đóng
vai trò hàng đầu trong cuộc sống của trẻ. Trẻ chẳng những phải ý thức và có
thái độ trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ của mình, đặc biệt là
nhiệm vụ học tập và biết điều khiển hành vi của mình một cách có chủ định,
đồng thời phải có hả năng thiết lập, vận hành cùng một lúc các mối quan hệ


14


với các đối tượng khác nhau và mang tính chất khác nhau. Trước những thách
thức này, trẻ dù muốn hay không cũng phải lĩnh hội các cách thức, phương
thức phức tạp hơn của hành vi và hoạt động để thỏa mãn những yêu cầu và
đòi hỏi của cuộc sống nhà trường và nhờ vậy “đẩy” được sự phát triển của
mình lên một mức cao hơn.
Tuổi Tiểu học là tuổi của sự phát triển hồn nhiên bằng phương thức
lĩnh hội. Cùng với việc lĩnh hội, tiếp thu một hệ thống tri thức về các môn
học, trẻ em học cách học, học kỹ năng sống trong môi trường học và môi
trường xã hội. Cùng với sự ảnh hưởng khá lớn của môi trường giáo dục gia
đình và quan hệ bạn bè cùng tuổi, cùng lớp và trường học, học sinh Tiểu học
lĩnh hội các chuẩn mực quy tắc đạo đức của hành vi. Sự lĩnh hội trên tạo ra
những biến đổi cơ bản trong sự phát triển tâm lý của học sinh Tiểu học.
Chúng không chỉ đảm bảo cho các em thích ứng với cuộc sống trong nhà
trường và hoạt động học, mà còn chuẩn bị cho các em những bước ngoặt quan
trọng trong cuộc sống ở tuổi thiếu niên. Về việc này, N.X.Leytex đã khắc họa:
“Tuổi Tiểu học là thời kỳ của sự nhập tâm và tích lũy tri thức, thời kỳ mà sự
lĩnh hội chiếm ưu thế. Chức năng trên được thực hiện lợi nhờ các đặc điểm
đặc trưng của lứa tuổi này - sự tuân thủ tuyệt đối vào những người có uy tín
với các em (đặc biệt là thầy, cô giáo), sự mẫn cảm, sự lưu tâm, đặc biệt là thái
độ vui chơi ngây thơ đối với các đối tượng mà các em tiếp xúc.
b. Đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 2, 3.
- Tri giác:
Mang tính chất chung chung, tính chất đại thể, ít đi vào chi tiết và mang
tính chủ định. Nét đặc trưng của tri giác là tính ít phân hóa của nó, các em
phân biệt đối tượng giống nhau còn sai lầm và chưa chính xác, chưa phân biệt
được khái niệm, chẳng hạn: cái thước với độ dài của cái thước, diện tích với

mặt bàn.

15


Khi tri giác, sự phân tích có tính định hướng, có tổ chức và sâu sắc của
học sinh còn yếu. Cụ thể trong những năm đầu của Tiểu học, tri giác học sinh
gắn chặt với hành động, hoạt động thực tiễn của trẻ. Có nghĩa là tri giác sự vật
là một cái gì đó mà các em gặp trực tiếp trong cuộc sống và hoạt động của các
em, những cái mà giáo viên đặc biệt chỉ dẫn, nhấn mạnh cho các em.
Những hoạt động tri giác của học sinh Tiểu học được tổ chức và phát
triển ngày càng cao dần. Giáo viên tổ chức việc tri giác của học sinh Tiểu học,
giao nhiệm vụ điều chỉnh quá trình tri giác và kiểm soát kết quả của nó. Học
sinh Tiểu học có thể tri giác đúng độ lớn của một vật thông thường, còn các
vật quá to hoặc quá nhỏ thì các em chưa tri giác được. Tri giác về thời gian
phát triển chậm hơn về không gian.
- Tư duy:
Tư duy của học sinh giai đoạn lớp 2, 3 chuyển dần từ tư duy cụ thể
sang tư duy trìu trượng. Trong quá trình học tập, tư duy của học sinh thay đổi
rất nhiều. Nếu tri giác phát triển khá mạnh ở lứa tuổi Mẫu giáo thì ở lứa tuổi
Tiểu học, tư duy phát triển mạnh mẽ hơn. Ở đây, vài trò thúc đẩy các nội
dung và phương pháp dạy học, vai trò của giáo viên với tư cách là người tổ
chức hoạt động có tính quyết định và tư duy. Tư duy trìu tượng ở giai đoạn
lớp 2, 3 bắt đầu phát triển nhưng còn non yếu, vì vậy học sinh sẽ tiếp thu kiến
thức nhanh nếu giáo viên tổ chức dạy học có kết hợp với các đồ dùng trực
quan hiệu quả.
- Tưởng tượng:
Sự phát triển tưởng tượng của học sinh Tiểu học diễn ra theo hai giai
đoạn chủ yếu:
Lúc đầu những hình ảnh tái tạo chỉ đặc trưng gần đúng cho đối tượng

thực, những hoạt động của các đối tượng và mối liên hệ giữa chúng. Việc xây
dựng những hình ảnh đó đòi hỏi sự mô tả bằng lời hoặc tranh vẽ.

16


Đến giai đoạn lớp 2, 3, lúc này số lượng những dấu hiệu và những
thuộc tính trong những hình ảnh tăng lên đáng kể, chúng khá đầy đủ và cụ
thể. Và điều này diễn ra chủ yếu là nhớ sự tái tạo những hình ảnh đó, những
yếu tố hành động và mối liên hệ qua lại của bản thân các đối tượng.
- Sự chú ý và ghi nhớ:
Sự chú ý không có chủ định là đặc điểm cơ bản, khả năng điều chỉnh chú
ý một cách có ý chí hạn chế ở học sinh Tiểu học. Sự chú ý có chủ định của học
sinh Tiểu học đòi hỏi có một động cơ ngắn. Sự chú ý thiếu bền vững phát của
học sinh Tiểu học là do quá trình ức chế phát triển còn yếu. Sự chú ý có chủ
định, nỗ lực ý chí để tập trung cần được rèn luyện và đó cũng là đòi hỏi của quá
trình học tập ở Tiểu học, đặc biệt là ở các lớp đầu Tiểu học 1, 2, 3.
Ở Tiểu học, ghi nhớ có chủ định và không chủ định đều đang phát triển.
Trong đó ghi nhớ không chủ định phát triển mạnh hơn, chiếm ưu thế hơn so với
ghi nhớ có chủ định. Đặc biệt ở các lớp 1, 2, 3 thì ghi nhớ không chủ định là chủ
yếu học sinh thường ghi nhớ và học thuộc lòng một cách máy móc.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Chƣơng trình sách giáo khoa ở tiểu học
2.1.1. Chƣơng trình Tập làm văn lớp 2
Môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn lớp 2, 3 nói riêng
có nội dung phong phú, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh. Trong
một tiết học, các loại bài tập được bố trí xen kẽ, gắn kết với nhau. Cả năm học
có 35 tuần thì học sinh được học 31 tiết Tập làm văn. Trong 4 tuần ôn tập
giữa học kỳ I, giữa học kỳ II, cuối học kỳ I và cuối học kỳ II cũng có nhiều
bài tập thuộc phân môn Tập làm văn.

Số lượng và thời lượng dạy: 31 tiết Tập làm văn trong cả năm học.
- Nội dung:
Các nghi thức lời nói tối thiểu (chào hỏi, tự giới thiệu, cám ơn, xin lỗi,
nhờ cậy, yêu cầu, khẳng định, phủ định, tán thành, từ chối, chia vui, chia

17


buồn…) và biết cách sử dụng chúng trong các tình huống giao tiếp nơi công
cộng, ở gia đình, trong trường học, …
Các kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày: khai bản tự thuật
ngắn, viết thư ngắn để nhắn tin, chia vui hoặc chia buồn, nhận và gọi điện
thoại, đọc và lập thời gian biểu…
Nói, viết về những vấn đề chủ điểm: kể một sự việc đơn giản, tả sơ
lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi…
- Hình thức luyện tập: có 2 hình thức luyện tập chính là nói và viết.
Ở mỗi hình thức luyện tập này, học sinh hình thành kĩ năng tạo lập văn
bản qua từng công đoạn, từ những yêu cầu đơn giản nhất như: điền vào chỗ
trống, trả lời câu hỏi đến nói hay viết một đoạn văn trọn vẹn. Trong các tiết Tập
làm văn từ học kì 2 trở đi, SGK tổ chức rèn luyện kĩ năng nghe cho học sinh
thông qua hình thức nghe, kể chuyện, trả lời câu hỏi theo nội dung câu chuyện.
Ví dụ:
Ở tiết Tập làm văn tuần 33, từ bài 1: hãy nhắc lại lời an ủi và lời đáp
của các nhân vật trong tranh, đến nói lời đáp của các em trong những tình
huống cụ thể và yêu cầu của bài tập cuối cùng ở tiết học là học sinh viết một
đoạn văn ngắn kể về một việc tốt của em hoặc bạn em. Hay tiết 34: kể ngắn
về người thân (nói, viết). Ở bài tập 1, kể về một người thân của em, sau đó
yêu cầu tiếp theo là viết những điều đã kể thành một đoạn văn. Ở tiết 30,
nghe, kể chuyện và trả lời câu hỏi bài Qua suối ở bài tập 1 yêu cầu nghe và trả
lời câu hỏi, ở bài tập 2 yêu cầu viết lại những điều đã nghe …

2.1.2. Chƣơng trình Tập làm văn lớp 3
Về cấu trúc phân môn tập làm văn trong SGK Tiếng việt 3 có 54 bài
tập. Số lượng bài tập ít hơn so với SGK Tiếng việt 2 đối với phân môn tập
làm văn nhưng nội dung có hệ thống cao hơn lớp 2. Mỗi bài học được trình
bày từ 1 đến 2 bài tập, gồm bài tập rèn luyện kỹ năng nói và bài tập rèn kỹ

18


năng viết trong đó bài tập rèn kỹ năng nói chiếm hơn 70% nhất là kiểu bài
“Nghe - kể lại chuyện” và “Kể hay nói, viết về một chủ đề”.
Chương trình dạy học Tập làm văn lớp 3 gồm 35 tiết/năm, trong đó có
31 tiết thực học và 4 tiết ôn tập.
- Kỳ 1: 16 tiết + 2 tiết ôn tập.
- Kỳ 2: 15 tiết + 2 tiết ôn tập.
Nội dung dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3 gồm những phần sau:
Nói viết phục vụ cuộc sống hằng ngày (sản sinh văn bản thông thường
như: viết đơn, điện báo, tổ chức cuộc họp, viết thư, viết giấy mời, viết báo
cáo, lấy tin từ bài báo, ghi chép sổ tay, viết quảng cáo).
Kể chuyện: Kể những câu chuyện đã nghe, những câu chuyện trong
cuộc sống hằng ngày mình đã chứng kiến hoặc trải qua.
Nói theo chủ đề: nói về quê hương, dựa vào tranh vẽ nói về cảnh đẹp của
đất nước, về trường và hoạt đông của trường, nói về thành thị hoặc nông thôn.
Những nội dung dạy học này được phân bố theo từng bài học của phân
môn tập làm văn.
Nội dung kiến thức và yêu cầu rèn luyện kỹ năng ở phân môn tập làm
văn lớp 3 khá khó, nhiều bài tập mang tính thực hành từ thực tế xung quanh các
em như: kể về gia đình mình; nói, viết về thành thị hoặc nông thôn. Qua đó học
sinh hình thành được các kỹ năng tạo lập văn bản (từ chỗ nói theo những câu
hỏi gợi ý hoặc kể về gia đình, người thân đến viết một văn bản trọn vẹn).

2.2. Thực tiễn giảng dạy và học tập ở trƣờng phổ thông.
2.2.1. Vai trò của thầy cô.
- Ưu điểm.
Trong công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay, các phương pháp và hình
thức dạy học thường xuyên được giáo viên tìm hiểu và thay đổi theo hướng
tích cực. Giáo viên được tham gia các khóa tập huấn, được đi thực tế học hỏi

19


ở nhiều trường, nhiều địa phương khác nhau. Từ đó rút ra được nhiều kinh
nghiệm cho bản thân, áp dụng vào việc xây dựng và thực hiện bài giảng.
Công nghệ phát triển, các phương tiện dạy học đa dạng và phong phú
đã tạo điều kiện thuận lợi không nhỏ cho giáo viên trong quá trình dạy học
các môn học khác nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng. Nhiều giáo
viên rất chịu khó tìm hiểu, sưu tầm, chuẩn bị tài liệu, hình ảnh, thông tin độc
đáo, bổ ích phục vụ bài dạy. Giúp cho học sinh không những học tốt bài học
mà còn tạo hứng thú học tập, giúp các em học hỏi được nhiều kiến thức, nhiều
điều hay trong cuộc sống với tâm thế háo hức, ham học hỏi.
Một số giáo viên tích cực thay đổi các hình thức dạy học để tránh sự
nhàm chán, tạo hứng thú cho học sinh. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa
ngoài giờ lên lớp để có thể hiểu hơn về học sinh của mình, các học sinh hiểu
rõ hơn về nhau, tạo ra sự kết nối giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh
với học sinh. “Học mà chơi, chơi mà học”.
Bên cạnh việc theo dõi sự tiến bộ của học sinh, một số giáo viên cũng
rất chú trọng các lỗi sai học sinh mắc phải. Tìm hiểu những lỗi sai nào phổ
biến nhất, những ai hay mắc lỗi sai nhất, lỗi sai đó là gì, vì sao lại hay mắc lỗi
đó,… Từ việc xác định thực trạng và tìm ra nguyên nhân, giáo viên chữa lỗi
cho học sinh một cách cẩn thận để không gặp lại những lỗi sai đó. Một số
thầy cô cũng rất cẩn thận khi đưa ra các lỗi sai thường gặp trước đó để học

sinh tránh mắc phải, hoặc cho học sinh biết về những mẹo vặt tránh các lỗi sai
về chính tả, ngữ pháp,…
- Nhược điểm.
Phân môn Tập làm văn là một phân môn có vai trò quan trọng trong
việc dạy học sinh hình thành văn bản nói và viết. Đây là một môn khó dạy
trong chương trình Tiếng Việt tiểu học. Dạy phân môn Tập làm văn được tốt
tức là người giáo viên đã thâm nhập cả chuỗi kiến thức từ các phân môn: tập

20


×