Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Lễ cấp sắc của người dao thanh y ở huyện tiên yên, tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 65 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
======

VI THỊ THÊU

LỄ CẤP SẮC CỦA NGƢỜI DAO THANH Y
Ở HUYỆN TIÊN YÊN, TỈNH QUẢNG NINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Hà Nội, 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
======

VI THỊ THÊU

LỄ CẤP SẮC CỦA NGƢỜI DAO THANH Y
Ở HUYỆN TIÊN YÊN, TỈNH QUẢNG NINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN VĂN DŨNG


Hà Nội, 2018


LỜI CẢM ƠN
Tìm hiểu về Lễ cấp sắc của người Dao Thanh Y ở huyện Tiên Yên, tỉnh
Quảng Ninh là một công việc cần thiết và quan trọng, song cũng đòi hỏi dày công
tìm hiểu và xử lý tư liệu… Để hoàn thành khoá luận này, tác giả đã nhận được sự
giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Lịch Sử trường đại học sư phạm
Hà Nội 2. Đặc biệt không thể không kể đến công lao to lớn của thầy giáo Tiến sỹ
Nguyễn Văn Dũng - Trưởng khoa Lịch sử cùng các nghệ nhân là những thầy cúng
của huyện đã cung cấp thông tin cho tác giả để bài khóa luận được hoàn thiện hơn
và tác giả xin được gửi gắm những lời yêu thương đến gia đình, bạn bè đã tạo mọi
điều kiện giúp đỡ tác giả trong quá trình nghiên cứu. Qua đây, tác giả xin được gửi
lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới thầy và mọi người. Trong bài viết chắc
không thể thiếu những sai sót. Rất mong nhận được sự thông cảm và đóng góp ý
kiến để bài khoá luận được hoàn thiện hơn!
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2018
Sinh viên thực hiện

Vi Thị Thêu


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của Tiến sỹ Nguyễn Văn Dũng – Trưởng khoa Lịch sử. Các nội
dung nghiên cứu trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ
hình thức nào trước đây. Ngoài ra trong khóa luận còn sử dụng một số nhận
xét, đánh giá của tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú
thích nguồn.

Nếu phát hiện có bất kỳ mọi gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về nội dung khóa luận của mình.
Hà Nội, Ngày 10/05/2018
Sinh viên thực hiện

Vi Thị Thêu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
5. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 4
6. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 5
Chương 1ĐỜI SỐNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA NGƯỜI DAO THANH
Y Ở HUYỆN TIÊN YÊN, TỈNH QUẢNG NINH ............................................ 6
1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN CƯ CỦA HUYỆN TIÊN YÊN,
TỈNH QUẢNG NINH ....................................................................................... 6
1.1.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................... 6
1.1.2. Dân cư ..................................................................................................... 9
1.2. ĐỜI SỐNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA NGƯỜI DAO THANH Y ........ 14
1.2.1.Đời sống kinh tế của người Dao Thanh Y ............................................. 14
1.2.2. Đời sống văn hoá – xã hội của người Dao Thanh Y............................. 17
TIỂU KẾT ....................................................................................................... 22
Chương 2: NGUỒN GỐC VÀ TIẾN TRÌNH LỄ CẤP SẮC
CỦANGƯỜI DAO THANH Y Ở HUYỆN TIÊN YÊN TỈNH QUẢNG
NINH ............................................................................................................... 23
2.1. NGUỒN GỐC LỄ CẤP SẮC CỦA NGƯỜI DAO THANH Y .............. 23

2.1.1. Lịch sử lễ cấp sắc .................................................................................. 23
2.1.2. Quan niệm về sự trưởng thành .............................................................. 24
2.1.3. Tên gọi và đặc điểm của lễ cấp sắc ....................................................... 25


2.2. TIẾN TRÌNH LỄ CẤP SẮC .................................................................... 29
2.2.1. Công việc chuẩn bị cho lễ cấp sắc ........................................................ 29
2.2.2. Tiến trình của lễ cấp sắc ........................................................................ 35
2.2.3. Những điều kiêng kỵ ............................................................................. 42
2.2.5. Một số nhận xét ..................................................................................... 47
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 51
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong số 54 dân tộc thiểu sổ ở Việt Nam, dân tộc nào cũng có những
phong tục tập quán làm nên bản sắc riêng của từng dân tộc. Cùng với quá
trình lịch sử tộc người, các phong tục truyền thống đã tồn tại với dân tộc đồng
thời cũng xuất hiện các phong tục mới trong quá trình phát triển. Dù đó là
phong tục truyền thống hay mới thì chúng cũng góp phần làm nên cái đặc
trưng, cái cốt cách của mỗi dân tộc. Vì vậy khi nghiên cứu mỗi dân tộc, chúng
ta không thể bỏ qua việc tìm hiểu về các phong tục đặc trưng ấy.
Người Dao ở Việt Nam là một cộng đồng có dân số đông đứng hàng
thứ 9 trong tổng số các tộc người cùng cư trú trên nước ta. Với lịch sử cư trú
lâu dài họ có nhiều nét văn hoá làm nên bản sắc riêng của tộc người. Những
bản sắc ấy được thể hiện trong văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần, văn hoá xã
hội, trong đó cụ thể phải kể đến lễ cấp sắc - một “dấu hiệu nhận biết” của dân
tộc Dao.

Lễ cấp sắc của người Dao Thanh Y ở huyện Tiên Yên cũng là một yếu
tố quan trọng làm nên nét đặc sắc trong văn hoá nhóm người này. Nó làm nên
cái riêng trong tổng thể văn hoá người Dao nói chung.
Về ý nghĩa khoa học, lễ cấp sắc của người Dao Thanh Y có cái độc đáo,
khác biệt so với lễ Cấp Sắc của một số nhóm Dao khác. Cái khác nhau cơ bản
đó là lễ Cấp Sắc của nhóm Dao khác làm theo cấp bậc tính theo số lượng đèn
để tăng số âm binh và tăng vị thế của người được Cấp Sắc, nhưng với người
Dao Thanh Y thì người đàn ông chỉ trải qua một lễ Cấp Sắc với hai bên Tam
Thanh và Tam Nguyên là có thể làm thầy cúng sau khi học được thông thạo
các bài cúng. Hơn nữa trong quá trình làm lễ, các nghi thức, chi tiết nhỏ cũng
có sự khác nhau giữa nhóm Dao Thanh Y với các nhóm Dao còn lại trong
nước đã được nghiên cứu. Việc nghiên cứu lễ Cấp Sắc của người Dao Thanh
1


Y sẽ làm cho bức tranh phong tục của người Dao cả nước nói chung và lễ Cấp
Sắc nói riêng trở nên phong phú, đa dạng.
Hơn nữa, về ý nghĩa thực tiễn, lễ cấp sắc hiện nay vẫn tồn tại trong
cộng đồng người Dao Thanh Y, song đã có sự biến đổi trước sự tác động của
nền kinh tế thị trường, hội nhập thế giới khiến nó không còn nguyên vẹn ý
nghĩa như lúc ban đầu. Đứng trước thực trạng đó, cần có những biện pháp cụ
thể để bảo tồn và phát huy giá trị của lễ cấp sắc trong giai đoạn hiện nay nhằm
giữ gìn nét văn hoá độc đáo của tộc người này.
Với các lý do trên người viết mạnh dạn chọn Lễ Cấp Sắc của người
Dao Thanh Y ở huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ năm 1980 đến năm 2015, số ấn phẩm về người Dao Việt Nam đã
tăng nhiều với nội dung bao quát hầu hết các lĩnh vực, nhất là về xã hội tộc
người, văn hóa tinh thần. Chỉ sau hơn 30 năm, có khá nhiều chuyên khảo về

kinh tế - xã hội, văn hóa một số nhóm Dao ở Hà Giang, Thanh Hóa, Lạng
Sơn,… Do Phạm Quang Hoan – Hùng Đình Quý (chủ biên) năm 1999,
Nguyễn Quang Vinh năm 1999, Đào Thị Vinh năm 2001, Lý Dương Liễu
(chủ biên) năm 2004,… Song, các ấn phẩm ấy không toàn diện về người Dao
cả nước như cuốn “Người Dao ở Việt Nam” của Bế Viết Đẳng và các tác giả
năm 1971, hay ở cuốn “Các dân tộc ít người ở Việt Nam” (Các tỉnh phía Bắc)
của Viện Dân tộc học năm 1978, chỉ mỗi sách ảnh “Người Dao ở Việt Nam”
(Theo Yao People in Vietnam) của nhà xuất bản Thông Tấn năm 2007 là có
đề cập khái quát về văn hóa các nhóm Dao Việt Nam.
Riêng về tục đặt tên và cấp sắc ở dân tộc Dao là đặc trưng nên có 22 ấn
phẩm. Trong đó, chỉ có ba ấn phẩm có tiêu đề với cụm từ “đặt tên”, “tên gọi”:
“Người Dao với tục đặt tên” của Công Ngọc Huyền (1998), “Về lễ đặt tên của
2


dân tộc Dao Tiền tỉnh Hòa Bình” của Bàn Thị Kim Cúc (2006), “Những nghi
lễ liên quan đến tên gọi của nhóm Dao Tiền ở thôn Nà Hin (xã Quang Thuận,
huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn)” của Bàn Tuấn Năng (2007). Còn lại 19 ấn
phẩm đều có “cấp sắc” hay “phùn voòng”, “làm trai”… ở tiêu đề. [19; Tr.292
– 293].
Nghiên cứu về lễ Cấp Sắc của người Dao nói chung và một số nhóm
Dao, tiêu biểu có các công trình của: Lý Hành Sơn, Các nghi lễ chủ yếu trong
chu kỳ đời người của người Dao Tiền ở Ba Bể, Bắc Cạn, Nxb Khoa học xã
hội, H.2003; Phan Ngọc Khuê, Lễ cấp sắc của người Dao Lô gang ở Lạng
Sơn, Nxb VHTT, H.2003…
Như vậy, các công trình nghiên cứu đã ít nhiều đề cập những lễ nghi
trong chu kỳ đời người của người Dao trong đó có lễ Cấp Sắc. Nhìn chung,
các công trình nghiên cứu trên đã miêu tả và phân tích tương đối đầy đủ và rõ
nét về tục Cấp Sắc của người Dao ở Việt Nam. Đa số các nghiên cứu trên
quan tâm đến việc miêu tả tục Cấp Sắc, song việc đưa ra đánh giá, nhận xét,

rút ra giá trị chưa được quan tâm sâu sắc. Tuy nhiên, đó là những nguồn tài
liệu vô cùng quý giá và đáng trân trọng. Thực hiện khóa luận tốt nghiệp này,
người viết hy vọng có thể bổ sung nguồn tư liệu về lễ cấp sắc của người Dao
Thanh Y ở huyện Tiên Yên nhằm góp phần vào việc nghiên cứu về người
Dao trong cả nước nói chung và đóng góp vào việc giữ gìn và phát huy văn
hóa người Dao ở huyện Tiên Yên nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện khoá luận này, người viết mong muốn có một công trình tìm
hiểu sâu hơn về lễ Cấp Sắc của dân tộc Dao Thanh Y tại huyện Tiên Yên, tỉnh
Quảng Ninh. Nghiên cứu về nguồn gốc, đặc điểm, tên gọi, quá trình thực
hiện,… từ đó rút ra những giá trị tiêu biểu, giúp các nhà quản lý có những
3


biện pháp, chính sách để lưu giữ và bảo tồn. Góp phần làm phong phú nét văn
hóa của bản sắc dân tộc đất nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để phục vụ mục đích trên thì đề tài cần phải thực hiện các nhiệm vụ
sau:
- Tái hiện một cách khái quát về người Dao Thanh Y ở huyện Tiên
Yên, trong đó làm rõ nguồn gốc, đời sống, địa bàn cư trú, môi trường tự nhiên
xã hội nơi đồng bào cư trú và thực hành các phong tục truyền thống trong đó
có lễ Cấp Sắc.
- Phân tích những nét độc đáo, đặc trưng trong lễ cấp sắc truyền thống
của người Dao Thanh Y ở huyện Tiên Yên.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Do khuôn khổ cho phép của một khoá luận tốt nghiệp và khả năng còn
hạn chế nên phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào cộng đồng người
Dao Thanh Y ở huyện Tiên Yên. Tìm hiểu một số vấn đề liên quan đến lễ tục

như: tên gọi, tiến trình thực hiện, ý nghĩa của lễ cấp sắc.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp: Phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic, phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,…
5. Đóng góp của khóa luận
- Khóa luận làm rõ hơn Lễ Cấp Sắc của người Dao Thanh Y ở huyện
Tiên Yên, Quảng Ninh. Là công trình nghiên cứu tương đối hệ thống về Lễ
Cấp Sắc của người Dao Thanh Y. Từ đó rút ra được ý nghĩa của lễ Cấp Sắc
trong đời sống của người Dao Thanh Y, qua đó góp phần tìm hiểu sự phong
phú, đa dạng trong đời sống văn hóa và việc bảo tồn những nét văn hóa riêng
của người Dao Thanh Y. Tiểu luận làm phong phú thêm nguồn tài liệu lịch sử
văn hóa địa phương.
4


6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề tài được trình
bày trong 2 chương:
Chương 1: Đời sống kinh tế - xã hội của người Dao Thanh Y ở
huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
Chương 2: Nguồn gốc và tiến trình lễ Cấp Sắc của người Dao Thanh
Y ở huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.

5


Chƣơng 1
ĐỜI SỐNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA NGƢỜI DAO THANH Y
Ở HUYỆN TIÊN YÊN, TỈNH QUẢNG NINH
1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN CƢ CỦA HUYỆN TIÊN YÊN,

TỈNH QUẢNG NINH
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Tiên Yên là một huyện miền núi ven biển nằm cửa ngõ vùng Đông Bắc
Tổ quốc, có tọa độ từ 21độ 12’đến 21 độ 33’vĩ độ Bắc và từ 107 độ 13’ đến
107 độ 35’ kinh động Đông, phía Bắc và Tây Bắc giáp huyện Đình Lập (tỉnh
Lạng Sơn) và huyện Bình Liêu. Phía Tây Nam giáp huyện Ba Chẽ, thành phố
Cẩm Phả, phía Đông giáp huyện Đầm Hà – phía Nam giáp vịnh Bái Tử Long,
qua cửa khẩu Vạn Hoa huyện Vân Đồn.
Huyện lỵ là thị trấn Tiên Yên nằm ở điểm giữa quốc lộ 18A, cách thành
phố Hạ Long và Móng Cái đều trên 90 km. Quốc lộ 4 từ Lạng Sơn xuống
cũng qua đây rồi ra cảng Mũi Chùa. Từ Tiên Yên còn có đường 331 lên Bình
Liêu tới cửa khẩu Hoành Mô 47km. Là một đầu mối giao thông giữa vùng
Đông Bắc hiểm yếu nên Tiên Yên luôn có vị trí quan trọng về kinh tế quốc
phòng.
Huyện Tiên Yên có tổng diện tích đất tự nhiên là 647,89 km2. Với đặc
điểm địa hình rừng núi, thung lũng và có nhiều sông suối. Phía Tây Bắc có
dãy núi Cái Kỳ. Dười chân núi là một dải đồng bằng ven biển và vùng biển
Hà Dong thuộc xã Hải Lạng, một trong những xã trù phú nhất huyện Tiên
Yên. Phía Bắc là vùng đồi núi trùng điệp của các xã Điền Xá, Hà Lâu, Phong
Dụ nối tiếp với huyện Đình Lập (Lạng Sơn) và huyện Bình Liêu. Phía Đông
có dãy núi Pạc Sủi và Thông Châu, chạy theo hướng Bắc Nam, thấp dần
xuống phía biển, tạo thành vùng đồng bằng Duyên Hải thuộc địa bàn hai xã
6


Đông Ngũ và Đông Hải, là vựa lúa quan trọng của huyện Tiên Yên. Qua dãy
núi Pạc Sủi là thung lũng Đại Dực với những khu ruộng bậc thang và những
bản làng của đồng bào Sán Chỉ.
Nằm giữa hai dãy núi phía Tây và Đông là thung lũng Tiên Yên, được
tạo nên bởi hai chi lưu sông Tiên Yên. Một dòng chảy từ dãy Thập Vạn Đại

Sơn (Trung Quốc) và từ Cao Ba Lanh (huyện Bình Liêu) về, một dòng chảy
từ vùng núi phía Đông Bắc huyện Đình Lập (tỉnh Lạng Sơn). Hai dòng này
hợp lưu ở Thác Bưởi tạo thành sông Tiên Yên chảy vào vụng Vạn Hoa. Thị
trấn Tiên Yên nằm trên vùng hợp lưu của hai chi lưu đó. Đối diện với thị trấn
là cánh đồng bằng cổ do sông Tiên Yên tạo nên gọi là Đồng Châu chạy dài ra
biển trên 6km. Đây là quê hương lâu đời của đồng bào Kinh, xã Tiên Lãng,
vùng cung cấp thực phẩm quan trọng cho thị trấn và đồng bào các xã vùng
cao. [2; Tr.7 – 15].
Đặc điểm địa hình Tiên Yên là đồi núi, thung lũng, có nhiều sông suối.
Phía Tây Bắc có dãy núi Cái Kỳ chạy dài ra cửa sông Ba Chẽ theo hướng
Đông Bắc – Tây Nam, ranh giới thiên nhiên giữa địa phận Tiên Yên và Ba
Chẽ. Nằm trong dãy núi này cao nhất là đỉnh Ngà Là. Dưới chân núi là một
dải đồng bằng ven biển và vùng biển Hà Dong thuộc xã Hải Lạng, một trong
những xã trù phú nhất của Tiên Yên. Phía Bắc vùng đồi núi trùng điệp của
các xã Điền Xá, Hà Lâu, Phong Dụ nối tiếp với huyện Đình Lập, Bình Liêu.
Phía Đông có dãy núi Pạc Sủi và Thang Châu chạy theo hướng Bắc Nam,
thấp dần xuống phía biển tạo thành vùng đồng bằng duyên hải thuộc loại bình
nguyên cổ. Đó là địa phận xã Đông Ngũ, Đông Hải, vựa lúa quan trọng của
Tiên Yên. Dưới Chân núi Pạc Sủi là những rừng quế chạy dài trên các sườn
núi phía nam, vùng quế nổi tiếng ở Tiên Yên, đó là Khe Táu, nơi định cư của
đồng bào Dao.

7


Qua dãy Pạc Sủi là thung lũng Đại Dực, với những khu ruộng bậc
thang và bản làng nhà sàn của đồng bào Sán Chỉ. Nơi đây phần nào giống
vùng Tây Bắc với nếp sống văn hóa miền núi: Hát đối còn phổ biến trong các
ngày lễ. Đại Dực là xã miền núi của Tiên Yên có nghề sản xuất miến dong nổi
tiếng đặc sản dầu sở, là nơi chăn nuôi trâu bò rất thuận tiện nhờ có đồng cỏ

ruộng.
Với điều kiện tự nhiên đó, Tiên Yên có tiềm năng kinh tế rất đa dạng:
nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp và các nghề thủ công, chế biến thực
phẩm, chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng hải sản (tôm, cua, hàu). Đất đai
Tiên Yên phù hợp cho các loại cây công nghiệp như chè, cà phê, thuốc lá, lạc,
vừng, quế,…
Rừng Tiên Yên có nhiều gỗ quý: lim, dổi, lát,… sản xuất đồ mộc cao
cấp và hàng xuất khẩu. Đặc biệt rừng Tiên Yên có nhiều tắc kè, ba kích, nấm
hương, mộc nhĩ. Trước đây rừng Tiên Yên còn có nhiều muông thú: hổ, báo,
lợn rừng, hươu, nai nhưng hiện nay còn rất ít. Đặc sản rừng của Tiên Yên
hiện nay là mật ong, tắc kè, quế, sở, nấm hương. Tiên Yên có bờ biển dài trên
40 km, bao quanh vùng biển Vạn Hoa. Ngoài biển có các đảo lớn: Cái Bầu,
Đồng Rui và các đảo nhỏ bao bọc. Biển Tiên Yên có rừng cây nước mặn: sú,
vẹt,…mọc dày, là nguồn sản xuất chất ta-nanh phong phú, là nơi sinh sản tốt
cho các loài cua, hàu, tôm… cũng là nơi quần tụ của các loài cá, tôm, mực
vào kiếm ăn và sinh đẻ, thuận tiện cho việc đánh bắt và nuôi trồng. Biển Tiên
Yên đủ các chủng loại hải sản của vùng biển đông như cá chim, thu, nhụ…
của loài hàu, sò huyết, ngán, sá sung…có giá trị dinh dưỡng cao. Cửa biển
Tiên Yên kín, thuận tiện cho tàu bè ra vào là những địa điểm tốt cho các đội
tàu đi biển xa khai thác hải sản phục vụ cho ngành đồ hộp, đông lạnh để cung
cấp cho đất nước và xuất khẩu. Trong tương lai, ngành nuôi trồng hải sản có

8


triển vọng và điều kiện phát triển, vì Tiên Yên có nhiều vụng biển kín, thuận
tiện cho việc nuôi tôm, cua, hàu như Hà Dong, Tứ Mỹ, Đồng Rui.
Về năng lượng, Tiên Yên có tiềm năng thủy điện đáng kể vì có sông
lớn, có nhiều thác có độ dốc chảy xiết, thuận tiện cho việc xây dựng các cơ sở
thủy điện nhỏ và vừa để phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân.

1.1.2. Dân cư
Về nguồn gốc của người Dao, đến nay trong dân gian các địa phương ở
Quảng Ninh vẫn còn lưu truyền rộng rãi câu chuyện Bàn Hồ tức bàn Vương –
được người Dao nhận là vị thủy tổ của họ. Đây là câu chuyện có nhiều yếu tố
hoang đường giải thích về nguồn gốc của dân tộc Dao. Gạt bỏ những chi tiết
mơ hồ, quái dị, câu chuyện có những yếu tố phản ánh quá trình hình thành các
nhóm Dao và quá trình các cuộc thiên di của các nhóm Dao trên đất nước
Trung Quốc xưa
Người Dao có mặt tại Việt Nam từ bao giờ? Các học giả nghiên cứu
Dao học Trung Quốc đều cho rằng “Người Dao đến Việt Nam sớm nhất là thế
kỷ XIV (Trương Hữu Tuấn, 1995) còn hầu hết các học giả đều có quan điểm
người Dao đến Việt Nam từ thế kỷ XV (Hoàng Ngọc, Hoàng Phương Bình,
1993; Trần Bân, 1993; Từ Tổ Tường, 2001; Phạm Hằng Cao, 2007…).
Nghiên cứu ở Việt Nam, một số tác giả cho rằng người Dao đến Việt Nam
sớm nhất là thế kỷ XIII (Bonifacy, 1908; Bế Viết Đẳng và cộng sự, 1971).
Nhưng rất tiếc các tác giả này chưa công bố các tài liệu chứng minh cụ thể
hoặc giả thiết của mình. Trần Quốc Vượng bằng tài liệu lịch sử Trung Quốc
(Tống Sử - quyển 33) và cuốn sách cổ Quá Sơn bản văn của cụ Phùng Văn
Phấu cho rằng người Dao đến Việt Nam từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII và cả
sau này”. [17; Tr.6 – 7].
Con đường thiên di của người Dao đến Việt Nam có nhiều đường
nhưng chủ yếu là vượt biển vào các cửa sông và đi đường bộ. Đường thủy từ
9


đảo Hải Nam đến Quảng Đông vào cửa sông ở Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh,
sau đó ngược sông đến thượng nguồn sông Hồng, sông Chảy, sông Lô. Đi
đường bộ từ phủ Quy Hóa châu Vân Sơn xuống Hà Giang, Lào Cai hoặc từ
Mông Tự về Hà Khẩu xuôi sông Hồng. Mỗi nhóm Dao có con đường di cư
khác nhau.

Đã có nhiều tài liệu viết về nguồn gốc người Dao, dựa trên thư tịch và
sử sách Trung Quốc mà Dao và Hmông xuất xứ từ một cội nguồn. Họ không
chỉ gần nhau về tiếng nói (đặt chung trong nhóm ngôn ngữ Hmông – Dao),
mà cả trên một số mặt về phong tục, tập quán. Địa bàn cư trú ban đầu của họ
là ở miền nam Trung Quốc (nam Trường Giang, xác định khoảng cuối thiên
niên kỷ II trước công nguyên. Có trường hợp chỉ rõ là quanh khu vực Động
Đình Hồ (tỉnh Hồ Nam). Tư liệu khảo cổ học cho hay nơi đây và các khu vực
láng giềng, thời đồng đá, đã phát hiện một nền nông nghiệp dùng cuốc với rìu
có vai, khác với nền văn hóa Ngưỡng Thiều (R.F.I ts, 1960). Chủ nhân là
những bộ lạc gọi chung là Tam Miêu hay Miêu Dân. Về sau họ đã li tán
xuống phương nam, tới biên địa của hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông. Đến
thời Tần Hán (thế kỉ III – II trước công nguyên), trong thư tịch không còn
thấy tên gọi Tam Miêu nữa, mà xuất hiện nhiều tộc danh mới như: Man, Di,
Việt,…, kế đó là Man Dao, Man Miêu. Như vậy Man có thể là tộc danh chung
của Dao và Hmông vào đầu công nguyên ở Trung Quốc, thời Nam Bắc Triều
(265 – 583 sau công nguyên), họ còn tập trung đông đảo quanh Ngũ Linh
Sơn, và có mặt ở Hồ Nam (địa giới phía đông). Nhưng tiếp đó, từ thế kỷ thứ
VI đến thế kỷ VIII, người Hán thôn tính các lãnh địa phương nam, nên người
Man (Dao - Miêu) một lần nữa lại phải rời bỏ vùng cư trú, kéo nhau đi. Người
Hmông tiến hành cuộc di tản theo hướng tây về Quý Châu; người Dao, thẳng
phía nam xuống Lưỡng Quảng, dừng chân tại đây lâu, nhưng xuối cùng, từng
bộ phận Dao, Hmông đã tỏa xuống các nước phía Bắc Đông Dương, trong đó
10


có Việt Nam. Quá trình thiên cư của Dao và Hmông diễn ra trong thời gian
dài, hàng mấy trăm năm, lại trong điều kiên lịch sử xã hội vô cùng phức tạp,
nên họ từ chối cộng đồng đông đảo, đã hình thành những nhóm độc lập và
cách biệt. Sự kiện cuối cùng, nguyên nhân gây nên sự tách biệt Dao – Hmông,
phải tính từ thế kỷ VI sau công nguyên.

Tóm lại người Dao di cư đến Việt Nam kéo dài suốt từ đời nhà Lý đến
đầu thế kỷ XX. Có nhiều đợt thiên di khác nhau ứng với thời gian khác nhau.
Con đường thiên di chủ yếu theo 2 hướng từ Quảng Đông, Quảng Tây đến
Đông Bắc (Quảng Ninh – Móng Cái) hoặc từ Vân Nam sang các tỉnh giáp
biên giới của Việt Nam. Đường thiên di có thể là đường thủy (vượt biển, vượt
sông) hoặc đi bằng đường bộ, nhưng có nhiều đợt người Dao kết hợp cả
đường thủy lẫn đường bộ.
“Người dao ở Việt Nam vẫn tự nhận họ là Kềm Miền, Kìm Mùn, Kìm
Mần, Yiù Miền, Dìu Miền… Trước kia, họ còn được gọi là Động, Xá, Mán…
Qua nhiều tài liệu, với những tên được gọi, Động để chỉ đơn vị cư trú của
người Dao, giống như “bản” ở người Tày, “làng” ở người kinh…; Xá thấy ở
vùng Tây Bắc, là tên mà người Thái trước kia dùng để gọi các tộc thiểu số và
người Dao; Mán có lẽ bắt nguồn từ Man, bởi theo tác giả Nguyễn Văn Lợi,
Man tức là hmang – tên tự nhận của người Hmông, có nghĩa là người, nhưng
về sau, Man dùng để chỉ các tộc thiểu số trong vùng và là tên được gọi với
dân tộc Dao (Nguyễn Văn Lợi, 2003, tr. 60 – 62). Song, những tên được gọi
này đều không được người Dao chấp nhận là tên chính thức”. [19; Tr.258].
Riêng các tên gọi người Dao tự nhận, Miền, Mùn, Mần nghĩa là người;
Kềm, Kìm là rừng. Các tên gọi ấy có nội hàm là người sống ở rừng núi. Thực
tế thì sống ở rừng còn có dân tộc khác, như người Sán Chay cũng tự nhận
mình là Sơn Tử Dao, tức người Dao ở vùng núi. Do đó những tên tự nhận này
của người Dao chỉ được sử dụng trong khẩu ngữ, không thấy trong văn tự của
11


họ. Những tên gọi tự nhận khác như Dìu Miền, Yìu Miền…thì Miền, Mùn,
Mần là người, còn Dìu, Yìu có nghĩa là Dao, Yao. Trong các tên gọi tự nhận
thì Dao hay Yao được người Dao nhắc đến nhiều hơn, được họ sử dụng phổ
biến trong các tài liệu ghi chép.
Rõ ràng Dìu Miền, Yìu Miền… từ xưa đã là tên gọi của người Dao,

được sử dụng rộng rãi trong khẩu ngữ và văn tự. Vì vậy tên gọi Dao trở thành
tộc danh chính thức đang sử dụng ở nước ta là hợp lý, phù hợp với nguyện
vọng của người Dao và tương đồng với tên gọi người Yao trên thế giới. Ngoài
ra sự phức tạp về tên gọi còn do có nhiều nhóm Dao. Tính cả tên tự gọi, tên
phiếm xưng, tên mà dân tộc khác gọi thì có trên 20 nhóm Dao. Theo phân loại
của nhiều nhà dân tộc học, dân tộc Dao ở Việt Nam có bảy nhóm: Dao Đỏ
(Đại Bản), Dao Tiền (Tiểu Bản), Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang (Thanh
Phán), Dao Quần Trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y (Dao Chàm), Dao Tuyển
(Dao Áo Dài). Nếu theo ngôn ngữ phương ngữ Miền bao gồm các nhóm Dao
Đỏ, Dao Tiền, Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang; phương ngữ Mùn có Dao Quần
Trắng, Dao Tuyển, Dao Thanh Y. [19; Tr.286].
Dao Thanh Y đến Việt Nam khỏang cuối thế kỷ XVII, họ từ Quảng
Đông vào Móng Cái qua Lục Ngạn nay còn một bộ phận ở Lục Nam), tới
sông Đuống rồi ngược lên Tuyên Quang. Một bộ phận khác lại lên Yên Bái
và Lào Cai, về sau có tên là Dao Tẻn.
Như vậy, do biến cố lịch sử đã làm cho người Dao ở Trung Quốc chia
thành nhiều nhóm nhỏ và rời khỏi quê hương của mình là đất Châu Dương và
Châu Kinh, phân tán đi các nơi khác để sinh sống. Trên con đường di cư của
mình, các nhóm Dao này đã tiếp thu thêm những yếu tố văn hóa của các tộc
người khác, đồng thời những yếu tố văn hóa mới cũng được nảy sinh mà hình
thành những tính cách riêng, những tên gọi khác nhau.

12


Dân số của huyện có 38.947 người. Trong đó dân tộc Kinh: 55%,
dân tộc Dao: 20,5% với 7.789 người, dân tộc Tày: 12%, dân số Sán Chỉ: 8%,
dân tộc Sán Dìu: 4%. Các dân tộc khác: 1% [23; tr.179].
Hơn 50 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là trong công
cuộc đổi mới của đất nước 10 năm qua, đồng bào Dao Tiên Yên đã luôn đoàn

kết, nghe theo tiếng gọi của Đảng thực hiện cuộc vận động định canh, định
cư. Từ chỗ trước đây đồng bào Dao chủ yếu sống du canh, du cư trên các
sườn núi cao và tập trung ở vùng sâu, vùng xa dựa vào nương rẫy, khai thác
tự nhiên, cuộc sống rất nghèo khổ, khó khăn. Tháng ba, ngày tám nạn đói xảy
ra triền miên. Nhưng từ năm 1986 lại đây, huyện đã lãnh đạo, hướng dẫn
đồng bào Dao thực hiện định canh, định cư, ổn định cuộc sống. Đi đôi với di,
dãn dân, đồng bào từ nhiều khe, bản ở vùng sâu, vùng xa trong huyện đã
xuống lập nghiệp, định cư, sinh sống đan xen với các dân tộc anh em khác ở
vùng thấp. 30 hộ người Dao ở Phong Dụ đã di chuyển xuống cư trú, sinh sống
ở Cô Tô (vùng đất ven biển của xã Tiên Lập). Ban đầu bà con chưa quen với
nghề lúa nước và khai thác hải sản biển, nhưng nay đã ổn định dần. Một số
gia đình Dao từ Khe Hố trong, ở Khe Cát của Hải Lạng, ra sinh sống ở Đội 7,
hòa nhập, chung sống với đồng bào Kinh ở đây. Lúc đầu bà con còn gặp bỡ
ngỡ, khó khăn vì chưa quen với nghề canh tác lúa nước, chỉ quen sống ở đầu
khe, ngọn nguồn, nước ở khe suối có thể dẫn, chảy vào tận bếp nấu ăn của
từng gia đình.
Một thành tích đáng kể khác là bà con người Dao Tiên Yên đã tích
cực tham gia cuộc vận động xóa đói, giảm nghèo. Ở đây thông qua Hội Phụ
nữ, huyện đã tổ chức thực hiện tín chấp quản lí một số nguồn vốn cho dân
vùng cao vay để phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo. Trong đó, chỉ riêng
khe Vàng của Điền Xá trước đây đói triền miên, vài năm gần đây Hội Phụ nữ

13


đứng ra tín chấp cho chị em ở đây vay gần 30 triệu đồng kết hợp hướng dẫn
sản xuất. Đến nay cơ bản 30 hộ đồng bào người Dao ở Khe Vàng đã khắc
phục được nạn đói triền miên.
Đặc điểm của cuộc sống du canh, du cư của người Dao, chủ yếu
trong một khu vực, nghiã là sản xuất trên những đám nương trong một thời

gian nhất định, rồi quay lại nương cũ khi đất màu ít nhiều đã được phục hồi.
Khi chuyển cư xây dựng bản mới, người ta vẫn quan tâm đến bản cũ, thường
trồng các loại cây có củ, cây ăn quả ở đó để dùng về sau này và có lẽ đó cũng
là việc đánh dấu quyền chiếm hữu đất đai giữa đồng bào với nhau. Sau nữa, ở
nhiều nơi đồng bào có truyền thống trồng chè, quế, khi cưới nhau nam nữ
thanh niên trồng một số cây quế cho gia đình.
1.2. ĐỜI SỐNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA NGƢỜI DAO THANH Y
1.2.1.Đời sống kinh tế của người Dao Thanh Y
Đặc trưng của đời sống kinh tế người Dao trước đây mang nặng tính
khép kín, sản xuất tự cung, tự cấp. Nguồn sống chính là trồng lúa và làm nghề
rừng. Nghề phụ có chăn nuôi gia súc, làm thủ công như kéo sợi, dệt vải, đóng
đồ gỗ, làm nghề rèn, đồ trang sức… Kỹ thuật in hoa văn trên vải bằng sáp ong
và nhuộm màu chàm là nét nổi trội, độc đáo của người Dao.
Trước đây người Dao sống du canh, du cư trong điều kiện thiên nhiên rất
khắc nghiệt, đất đai luôn bị xói mòn, xâu chuột và thú rừng phá hoại mùa
màng nên thu hoạch thấp, làm cho đời sống của đồng bào rất cực khổ, cơm
không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được học hành.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhất là từ ngày chính quyền về
tay nhân dân lao động, đời sống kinh tế, văn hóa của người Dao được từng
bước nâng lên rõ rệt. Đặc biệt, từ khi Đảng ta thực hiện đường lối đổi mới,
xây dựng đất nước, xóa bỏ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp, thực hiện
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
14


nghĩa, sản xuất của người Dao có sự vươn lên vượt bậc. Bà con đã dần dần
xóa bỏ phương thức sản xuất tự cung, tự cấp, bước đầu làm quen với nền sản
xuất hàng hóa, tiếp thu kiến thức mới trong chọn giống cây trồng, vật nuôi có
năng xuất cao, có giá trị xuất khẩu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, làm thủy lợi để mùa vụ không phải hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên;

biết dùng các biện pháp khoa học để diệt trừ các loại sâu bệnh…Mùa vụ
không còn bấp bênh, năng suất tăng nhanh, đời sống kinh tế được cải thiện
đáng kể so với trước. Tuy nhiên, ở từng vùng, từng nơi, nhất là ở các xã thuộc
các huyện Ba Chẽ, Hoành Bồ, Tiên Yên, số gia đình người Dao ở mức sống
nghèo, thiếu đói còn chiếm tỉ lệ tương đối cao.
Từ năm 1954, miền Bắc được giải phóng và năm 1975, sau khi đất nước
giành được độc lập, thống nhất, người Dao Quảng Ninh theo Đảng bước vào
con đường làm ăn tập thể tổ đội, hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc
kinh tế tập thể khác trong các thành phần kinh tế. Một bộ phận thu nhập theo
kết quả sản xuất của hợp tác xã, một bộ phận hưởng chế độ của công nhân
lâm nghiệp, đời sống đã khá lên và có nhiều hộ thuộc loại giàu.
Bằng công sức tập thể, Đồng bào Dao tham gia làm thủy lợi, cấy trồng
giống lúa mới…nên kết quả sản xuất đã đưa năng suất lúa trước đây chỉ đạt
70kg/ha lên 2,6 tạ/ha (tăng gần 4 lần), góp phần thiết thực nâng cao đời sống
của người Dao. Điển hình trong cách làm ăn mới của người Dao là các hợp
tác xã Khe Táu và được Nhà nước tuyên dương đơn vị anh hùng.
Do ảnh hưởng của cơ chế quản lý quan liêu, tập trung, bao cấp trước đây
kéo dài nên việc phát huy tính năng động, sáng tạo trong lao động của nhân
dân còn rất thấp, sản xuất còn chậm phát triển, đời sống của người Dao ít
được cải thiện. Tỷ lệ hộ Dao sống ở mức nghèo còn quá cao. Có nơi 40 – 50
% hộ gia đình sống ở mức nghèo đói. Ở một số nơi, tỷ lệ này cũng còn 20 –
30 %. Cùng với mức sống thấp, cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư xây dựng, các
15


phương tiện thông tin, nghe nhìn còn rất ít, công cụ lao động sản xuất chậm
được cải tiến, năng suất lao động thấp nên đời sống của người Dao nhìn
chung còn nhiều khó khăn. Qua khảo sát 6.784 hộ ở 11 xã, thị trấn huyện Tên
Yên, có 4.751 hộ nông dân, số hộ có đời sống khó khăn là 879 hộ, chiếm
18,6% hộ nông dân trong huyện. Xã Hà Lâu, Yên Than đa số là người Dao

sinh sống, có tới 30% hộ nghèo. Các xã Đại Dực, Phong Dụ, Điền Xá có tới
25% hộ nghèo. Do khó khăn về đời sống, có trên 100 hộ đã phải chuyển vào
miền Nam làm ăn sinh sống. Chỉ tính từ năm 1987 đến năm 1996 tỉnh Quảng
Ninh có trên 1000 hộ gồm 6500 khẩu đã tự di chuyển vào các tỉnh phía nam
sinh sống. Đến nay có khoảng ½ số hộ đó lại tự trở lại Quảng Ninh. Do quen
nếp sống du canh, du cư, đồng bào luôn luôn không ổn định về nơi cư trú, làm
ăn nên đời sống đã khó khăn càng khó khăn thêm.
Đến năm 1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Trong đó, trước hết tập trung đổi mới
về kinh tế, chuyển đổi nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh
tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của nhà nước. Cơ chế này đã phát huy tính năng động, sáng tạo của
các cơ sở kinh tế và người lao động trong cả nước và đem lại hiệu quả thiết
thưc. Đảng và nhà nước đã có 4 nghị quyết chuyên đề về miền núi. Đời sống
của nhân dân cả nước và dân tộc Dao đã từng bước ổn định và cải thiện rõ rệt.
Đặc biệt, sau khi có nghị quyết số 22/TW của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VII và quyết định số 72/QĐ của Thủ tướng Chính phủ về
chương trình phát triển kinh tế, xã hội đối với miền núi và dân tộc, kinh tế, xã
hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số có nhiều bước phát triển mới. Đồng bào
được giao đất, giao rừng, được tự quyết định việc đầu tư cho sản xuất và
hưởng kết quả lao động do chính họ làm ra, được quyền tự định đoạt trong
làm ăn, sản xuất. Trên cơ sở đó, người Dao đã tiếp tục phát huy truyền thống
16


cần cù, sáng tạo trong trồng trọt, chăn nuôi, xây dựng đời sống mới. Nhiều
người Dao đã tích cực phát huy các loại giống mới có năng suất cao, phù hợp
với điều kiện đất đai, khí hậu vùng cao. Từ sản xuất tự cung, tự cấp là chính,
người Dao Tiên Yên hiện nay đã tiếp cận với nền kinh tế sản xuất hàng hóa,
mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm với các vùng, các dân tộc khác; biết sử

dụng các nguồn lực tại địa phương vào việc đầu tư, mở rộng sản xuất, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho mọi thành viên cộng đồng.
Bằng những nỗ lực phấn đấu cao, đồng bào Dao đã đưa năng suất lúa
bình quân từ 26 tạ/ha (năm 1980) lên 36 tạ/ha (năm 1996) tăng gần 40%. Thu
nhập của từng gia đình người Dao tăng nhanh so với trước đây. Hiện nay số
đông người Dao có mức thu nhập từ 5 đến 10 triệu đồng/năm. Trước đây, có
nơi trong tỉnh số hộ nghèo là 80% nay đã giảm được 20 đến 30%..[9;Tr.1-5]
Nhiều gia đình đã mua được ô tô, máy cày, máy bơm nước, máy xát gạo, xe
máy, ti vi,… Về lâu dài, kinh tế của gia đình người Dao còn có khả năng phát
triển cao hơn nữa vì bà con đang đầu tư trồng cây có giá trị xuất khẩu và cây
ăn quả với số lượng khá lớn.
1.2.2. Đời sống văn hoá – xã hội của người Dao Thanh Y
Dân tộc Dao huyện Tiên Yên cũng như dân tộc Dao trong cả nước vốn
có nền văn hóa dân gian lâu đời. Đồng bào Dao rất tự hào về truyền thống văn
hóa đó và có ý thức bảo tồn, lưu truyền trong đời sống cộng đồng. Nền văn
hóa dân gian đó có tác dụng tích cực đối với cuộc sống, lao động, sinh hoạt
của nhân dân.
Do điều kiện cư trú và nghề nghiệp, sản xuất của nền kinh tế tự cung, tự
cấp, khép kín, người Dao đã sáng tạo ra những công cụ sản xuất phù hợp vớ
hoàn cảnh của dân tộc mình. Với sự tác động của khoa học kỹ thuật, nhiều
công cụ cải tiến đã ra đời. Đồng thời, người Dao Quảng Ninh đã phục hồi
những nghề truyền thống thuộc kỹ năng, kỹ xảo độc đáo của họ.
17


Ngày nay, trong thôn bản của người Dao ở huyện Tiên Yên và các
huyện khác của tỉnh Quảng Ninh, những công cụ lao động truyền thống như
chiếc cày chìa vôi, chiếc gậy nhọn để chọc lỗ tra hạt… của đồng bào dùng để
làm ruộng, cây lúa nước, tra hạt, trồng ngô vẫn được sử dụng. Song nổi tiếng
nhất vẫn là nghề nhuộm chàm và in hoa trên vải bằng sáp ong.

Người Dao Tiên Yên bảo lưu tục thờ cúng tổ tiên. Tổ tiên được thờ tới
9 đời. Tuy nhiên, hằng ngày người Dao chỉ cầu khấn tới ông tổ 3 đời. Bàn thờ
tổ tiên được coi là nơi tôn nghiêm nhất trong nhà. Lễ cúng Bàn Vương – vị
thủy tổ của người Dao – thường được bà con tổ chức trong khoảng từ ngày 20
đến ngày 30 tháng Chạp. Theo truyền thuyết, hiện thân của Bàn Vương là con
chó thần. Vì thế người Dao kiêng ăn thịt chó và không bao giờ cho giết chó ở
trong nhà. Trường hợp đặc biệt, người Dao đồng ý cho giết chó, nhưng phải
mang đi xa nơi họ ở.
Người Dao có nhiều dòng họ. Trong đó, họ Bàn được tôn trọng nhất và
suy tôn làm anh cả. Các họ khác là bậc em. Tập tục này được đánh giá là một
nét sinh hoạt độc đáo, được bà con đánh giá là tích cực trong việc xây dựng
tình làng nghĩa xóm, đoàn kết dân tộc. Tập tục truyền thống này có ý nghĩa
giáo dục con cháu người Dao đoàn kết, thống nhất dân tộc, chống thiên tai,
định họa, bảo vệ và xây dựng quê hương, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
[5; Tr.3 – 4].
Hôn nhân của người Dao là một vợ một chồng, một tập quán của xã hội
văn minh. Tuy nhiên, việc cưới vợ cho con ở tuổi dưới 15 trước đây còn khá
phổ biến. Ngày nay tệ tảo hôn đã giảm đáng kể. Đặc biệt, luật tục về hôn nhân
của người Dao Tiên Yên quy định cấm hai nhóm người Dao Thanh Y và Dao
Thanh Phán không được lấy nhau. Người trong hai nhóm dân tộc này chỉ kết
hôn với người dân tộc khác. Ngoài ra, trong người Dao Tiên Yên vẫn còn một
18


số tục lệ, tập quán cũ, lạc hậu khác gây trở ngại đáng kể cho hôn nhân. Không
ít những đôi trai gái người Dao yêu nhau thắm thiết nhưng không thành được
vợ chồng vì một số xã trong huyện còn giữ tục lệ cũ, thách cưới quá cao, rất
tốn kém.
Tín ngưỡng của người Dao còn tồn tại nhiều hủ tục mê tín, lạc hậu.
Người Dao cúng ma để cầu mong thần linh phù hộ cho mùa màng bội thu,

cúng ma để cầu mong, hy vọng ma khỏi bắt tội, chữa khỏi bệnh tật… Đó là
những tập tục lạc hậu, do trình độ nhận thức còn thấp kém, chưa hiểu biết
nhiều về sự phát triển và tính ưu việt của khoa học – công nghệ.
Người Dao còn rất coi trọng và chú ý đến tục lệ “xuất hành”. Họ cho
rằng mọi sự bình an, phát tài đều phụ thuộc vào giờ mở cửa và hướng đi của
sáng ngày mồng một Tết.
Nhìn chung, người Dao có nhiều tín ngưỡng, nhưng không theo một tôn
giáo lớn nào. Họ chỉ thờ tổ tiên, thần linh tại gia. Trong toàn huyện, chỉ có
người Dao ở bản Hợp Thành, xã Phong Dụ là theo đạo thiên chúa. Đây là một
trường hợp đặc biệt trong sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của người Dao huyện
Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
Văn hóa, nghệ thuật của người Dao khá phong phú về thể loại. Bà con
rất thích thú về truyền thống và giá trị văn hóa nghệ thuật của dân tộc mình.
Đó là những truyện cổ tích, dân gian, truyện cười, thi ca, múa hát… Tính tư
tưởng của kho tàng văn hóa, nghệ thuật này đều nhằm vào việc động viên
nhau hang hái lao động, sản xuất, khuyên răn mọi người làm điều tốt. Ngày
nay, người Dao còn tự hào về những tác giả văn học, nghệ thuật của dân tộc
mình đã có tác phẩm đạt trình độ ngang hàng với các dân tộc khác. Tiêu biểu
là nhà thơ Bàn Tài Đoàn ở huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.
Ngoài những câu chuyện cổ tích, chuyện dân gian, người Dao còn lưu
truyền nhiều bài ca dao, nhiều câu tục ngữ. Nội dung chủ yếu là tập trung
19


×