Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân – an ninh nhân dân trong thời kỳ mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (932.9 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

BÙI THỊ NGỌC

XÂY DỰNG THẾ TRẬN
QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN – AN NINH
NHÂN DÂN TRONG THỜI KỲ MỚI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI - 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

BÙI THỊ NGỌC

XÂY DỰNG THẾ TRẬN
QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN – AN NINH
NHÂN DÂN TRONG THỜI KỲ MỚI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học :

Thƣợng tá. Ths: Đoàn Văn Sơn


HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này, bên cạnh sự cố gắng của bản thân, em còn
nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của thầy giáo Thượng tá. Thạc sĩ Đoàn Văn Sơn – giảng viên Trung tâm Giáo dục quốc phòng và An ninh.
Đồng thời, em còn nhận được sự giúp đỡ của các thầy giáo trong Trung
tâm Giáo dục quốc phòng và An ninh – Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2,
sự động viên, khích lệ của gia đình và những người thân trong suốt quá trình
tìm hiểu và nghiên cứu.
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn những giúp đỡ quý
báu đó.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Sinh viên

Bùi Thị Ngọc


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp được hoàn thành là kết quả
nghiên cứu và do sự cố gắng nỗ lực của bản thân.
Nội dung khóa luận tốt nghiệp này không trùng với các kết quả nghiên
cứu của các tác giả khác. Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Sinh viên

Bùi Thị Ngọc



KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
STT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

1

ANND

An nhân ninh dân

2

CNH - HĐH

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

4

NXB

Nhà xuất bản

5

QP – AN


Quốc phòng - an ninh

6

QPTD

Quốc phòng toàn dân

7

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................ 3
5. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................. 3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài. .................................................... 4
7. Kết cấu đề tài ................................................................................................ 4
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG THẾ
TRẬN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN - AN NINH NHÂN DÂN ................ 5
1.1. Một số khái niệm sử dụng trong đề tài...................................................... 5
1.1.1. Khái niệm Quốc phòng toàn dân............................................................ 5
1.1.2. Khái niệm thế trận Quốc phòng toàn dân .............................................. 6

1.1.3. Khái niệm An ninh nhân dân ................................................................. 7
1.1.4. Khái niệm thế trận An ninh nhân dân .................................................... 8
1.2. Cơ sở lý luận ............................................................................................. 9
1.2.1. Một số quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng thế trận Quốc
phòng toàn dân – An ninh nhân dân ................................................................ 9
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân –
An ninh nhân dân ........................................................................................... 11
1.2.3. Một số quan điểm của Đảng về xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân
- An ninh nhân dân trong thời kỳ mới ............................................................ 14
1.3. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 18
1.3.1.Truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam............... 18


1.3.2. Xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân – An ninh nhân dân từ khi có
Đảng lãnh đạo................................................................................................. 20
Tiểu kết chương 1........................................................................................... 22
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG THẾ
TRẬN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN - AN NINH NHÂN DÂN TRONG
THỜI KỲ MỚI ............................................................................................. 24
2.1. Một số nội dung xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân - An ninh nhân
dân trong thời kì mới ...................................................................................... 24
2.1.1. Khái quát về nội dung xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân - An
ninh nhân dân trong thời kì mới ..................................................................... 24
2.1.2. Những vấn đề chung về xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân An
ninh nhân dân ở xã, phường trong thời kì mới .............................................. 26
2.1.3. Nội dung xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân - An ninh nhân dân ở
xã, phường trong thời kì mới ......................................................................... 31
2.2. Một số biện pháp chủ yếu xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân - An
ninh nhân dân trong thời kỳ mới .................................................................... 43
2.2.1. Nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị

trong công tác xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân - An ninh nhân dân
trong thời kỳ mới nhằm thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng giữ vững an
ninh quốc gia………………………………………………………………...43
2.2.2. Xây dựng nền tảng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân gắn chặt
với thế trận an ninh nhân dân ......................................................................... 45
2.2.3. Nâng cao chất lượng của các lực lượng vũ trang, nòng cốt là Quân đội
nhân dân, Công an nhân dân trong xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân An ninh nhân dân trong thời kì mới ............................................................... 46


2.2.4. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lí của Nhà nước và
vai trò của Mặt trận nhân dân, các đoàn thể nhân dân trong công tác xây dựng
thế trận Quốc phòng toàn dân - An ninh nhân dân trong thời kì mới ............ 48
2.2.5. Thường xuyên tổ chức các đội bám nắm, đi sâu, đi sát vào thực tiễn,
đồng thời gắn kiểm tra, giám sát với tự phê bình và phê bình trong công tác
xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân - An ninh nhân dân trong thời kì mới
........................................................................................................................ 50
2.2.6. Phát huy tính chủ động, sáng tạo trong công tác xây dựng thế trận
Quốc phòng toàn dân - An ninh nhân dân ở từng vùng miền, khu vực và từng
địa phương ...................................................................................................... 52
Tiểu kết chương 2........................................................................................... 53
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................... 54
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 55


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân – An ninh nhân dân trong thời
kỳ mới là một nhiệm vụ chiến lược lâu dài và quan trọng của cách mạng nước
ta hiện nay, nó được hình thành và phát triển trong quá trình đấu tranh cách
mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng

thời là sự kế thừa và phát triển mới của Tổ quốc, của dân tộc và của con
người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và
giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Thực tiễn lịch sử đấu tranh của dân tộc ta qua hơn 30 năm đổi mới cho
thấy sẽ không thể có những thắng lợi to lớn của công cuộc đổi mới nếu như
không thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân – An
ninh nhân dân. Nhờ đó mà bảo vệ được Đảng, nhà nước, bảo vệ được cuộc
sống yên bình và hạnh phúc của nhân dân. Xây dựng thế trận QPTD – ANND
là một trong những thành công nổi bật của nhiệm vụ Quốc phòng – An ninh
trong sự nghiệp đổi mới, đồng thời có ý nghĩa quyết định để giữ vững ổn
định, chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hòa bình của đất nước tạo
điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới giành thắng lợi.
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và xu
hướng toàn cầu hóa kinh tế; những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới,
đặc biệt là sự xuất hiện của các loại hình chiến tranh mới, chiến tranh sử dụng
vũ khí công nghệ cao đòi hỏi “tính linh hoạt” của thế trận Quốc phòng toàn
dân – An ninh nhân dân rất cao và cần thiết. Đi cùng với sự phát triển của
khoa học công nghệ thì đất nước ta cũng đang chuyển mình đổi mới trên tất
cả các lĩnh vực, Đảng và nhà nước ta đã và đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH –
HĐH đất nước nhằm đưa đất nước ta trở thành nước tiên tiến trên thế giới. Để
bảo vệ những thành quả mà đất nước ta đã đạt được trong những năm qua thì
1


việc xây dựng thế trận QPTD – ANND trong thời kỳ mới là hết sức cần thiết.
Nhằm bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, nhà nước và bảo vệ nhân dân đồng thời
có thể ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế
lực thù địch, vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để
phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới.
Xây dựng thế trận QPTD – ANND mang tính đặc trưng của dân, do dân,

vì dân. Vì vậy, việc xây dựng và củng cố thế trận QPTD – ANND là nhiệm
vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, nhà nước và nhân dân. Nó thể hiện sức
mạnh của một dân tộc, của một quốc gia đồng thời góp phần xây dựng lực
lượng kinh tế, chính trị, quân sự, đối nội và đối ngoại. Mọi công dân, mọi tổ
chức và mọi lực lượng đều phải tham gia theo khả năng và phạm vi của mình.
Bởi vậy, công tác xây dựng thế trận QPTD – ANND trong thời kỳ mới là rất
cần thiết.
Trên cương vị là một sinh viên, đặc biệt là sinh viên chuyên ngành Giáo
dục quốc phòng và an ninh, tôi nhận thức được tầm quan trọng và cần thiết
của việc xây dựng thế trận QPTD – ANND trong thời kỳ mới. Vì vậy, tôi đã
mạnh dạn tìm hiểu và nghiên cứu đề tài khóa luận là: “Xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân – An ninh nhân dân trong thời kỳ mới”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lí luận về xây dựng thế trận QPTD – ANND,
từ đó đề xuất các biện pháp vận dụng vào xây dựng thế trận QPTD – ANND
trong thời kỳ mới
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích và làm rõ những lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài “Xây
dựng thế trận Quốc phòng toàn dân - An ninh nhân trong thời kỳ mới”.

2


Phân tích nội dung cơ bản về xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân An ninh nhân dân ở xã phường trong thời kỳ mới.
Đề xuất các giải pháp nâng cao việc xây dựng thế trận Quốc phòng toàn
dân - An ninh nhân dân trong thời kỳ mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Do giới hạn về điều kiện nghiên cứu và năng lực bản thân nên tác giả đi
sâu nghiên cứu xây dựng thế trận QPTD – ANND tập trung vào nội dung xây

dựng thế trận QPTD – ANND ở cấp xã, phường đồng thời đề xuất một số
biện pháp chủ yếu xây dựng thế trận quốc phòng toàn và an ninh nhân dân
trong thời kỳ mới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân – An ninh nhân
dân trong thời kỳ mới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp lí luận
Tổng hợp và phân tích tài liệu liên quan đến quốc phòng và an ninh, đặc
biệt là xây dựng thế trận QPTD - ANND, sau đó lập luận chứng minh sự cần
thiết xây dựng thế trận QPTD – ANND từ lịch sử đấu tranh của dân tộc và
trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu lịch sử
Nghiên cứu các tư liệu lịch sử, các phim tài liệu về việc xây dựng thế
trận Quốc phòng toàn dân – An ninh nhân dân.
5.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Qua quá trình nghiên cứu tài liệu tiến hành tổng hợp lại những thành quả
của việc xây dựng và hoạt động của thế trận quốc phòng toàn dân để rút ra

3


những kết luận, những bài học kinh nghiệm áp dụng vào trong thế trận QPTD
– ANND tình hình hiện nay.
5.4. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp quy của Nhà nước,
sách chuyên khảo, giáo trình và các tài liệu khác để phân tích tổng hợp hệ
thống những thông tin có liên quan đến đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài góp phần hiểu sâu sắc hơn về lí luận, thực tiễn và nội dung biện

pháp xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân - An ninh nhân dân trong thời
kỳ mới.
Là tài liệu tham khảo để học sinh, sinh viên, giáo viên tham khảo vận
dụng trong quá trình học tập công tác giảng dạy.
7. Kết cấu đề tài
Gồm 2 chương :
Chương 1: Cở sở lý luận và thực tiễn về xây dựng thế trận Quốc phòng
toàn dân - An ninh nhân dân
Chương 2: Một số nội dung và biện pháp xây chủ yếu dựng thế trận quốc
phòng toàn dân – An ninh nhân dân trong thời kỳ mới.

4


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG THẾ TRẬN
QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN - AN NINH NHÂN DÂN
1.1. Một số khái niệm sử dụng trong đề tài
1.1.1. Khái niệm Quốc phòng toàn dân
Theo Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam (1996) “Quốc phòng là công cuộc
giữ nước của một quốc gia gồm tổng thể hoạt động đối nội, đối ngoại về quân
sự, chính trị, văn hóa, khoa học… của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ
đất nước tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối trong đó sức mạnh quân sự là
đặc trưng, nhằm giữ vững hòa bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây
chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình
thức và quy mô”.
“Quốc phòng toàn dân là nền quốc phòng mang tính chất “vì dân, do
dân, của dân” phát triển theo phương hướng: toàn dân, toàn diện, độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lí, điều hành của Nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hòa

bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và
bạo loạn lật đổ của các thế lực đế quốc và phản động, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[3, tr.848].
Từ quan niệm về Quốc phòng toàn dân ta thấy:
- Phạm vi hoạt động của Quốc phòng toàn dân rất rộng.
- Chủ thể hoạt động của Quốc phòng toàn dân là Đảng, Nhà nước, nhân
dân.
- Sức mạnh của Quốc phòng toàn dân là sức mạnh tổng hợp.
- Mục đích của nền quốc phòng toàn dân là để phòng thủ, bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở nước ta chỉ có một mục đích duy
nhất là tự vệ chính đáng, đó là nền quốc phòng vì dân, của dân và do toàn thể

5


nhân dân tiến hành, được huy động từ sức mạnh của toàn thể dân tộc, diễn ra
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là trách nhiệm của toàn dân,
của cả nước, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí
của Nhà nước, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tích cực chuẩn bị
mọi mặt của đất nước, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống do kẻ thù gây ra.
1.1.2. Khái niệm thế trận Quốc phòng toàn dân
Theo Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII: “Thế trận Quốc phòng toàn dân
được xác định là thế bố trí các lực lượng quốc phòng (bao gồm cả con người
và phương tiện) theo ý định chiến lược, nhằm phát huy cao độ sức mạnh quốc
phòng tổng hợp, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thế
trận QPTD vừa có vai trò răn đe đối phương, phòng ngừa, ngăn chặn loại trừ
nguy cơ chiến tranh, vừa thực hành vừa đấu tranh quốc phòng trong thời bình
và sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của các thế lực thù địch”.
Từ khái niệm thế trận QPTD ta có thể hiểu là việc tổ chức, bố trí lực
lượng toàn dân, toàn diện và tiềm lực mọi mặt của đất nước trên toàn bộ lãnh

thổ theo ý định chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, xây dựng thế trận
QPTD – ANND là xây dựng thế trận toàn dân giữ nước, toàn dân tham gia
bảo vệ an ninh đất nước nhằm giữ vững hòa bình, ổn định, tạo môi trường
thuận lợi trong cả nước và quốc tế cho công cuộc xây dựng đất nước. Thế trận
đó sẽ được chuyển hóa, kết hợp chặt chẽ với nhau tạo nên sức mạnh to lớn để
giành thắng lợi và chủ động đối phó với mọi tình huống phức tạp có thể xảy
ra.
Thế trận QPTD được bố trí toàn bộ các lực lượng quốc phòng một cách
hợp lý, có lợi nhất nhằm tạo ra sức mạnh quốc phòng tổng hợp, đáp ứng mọi
yêu cầu nhiệm vụ đấu tranh quốc phòng cả trong thời bình và thời chiến. Nếu
như thế trận chiến tranh nhân dân chủ yếu là thế bố trí các lực lượng sẵn sàng
tiến hành chiến tranh đánh địch để bảo vệ Tổ quốc, thì thế trận QPTD lại có
6


nội dung rộng hơn, bao gồm thế bố trí của các lực lượng vũ trang ba thứ quân,
các lực lượng phi vũ trang: Phòng thủ dân sự, các lực lượng chuyên môn, kỹ
thuật chuyên ngành (bao gồm cả việc bố trí các khu công nghiệp) có khả nặng
tham gia bảo vệ. Vì vậy, thế trận QPTD là cơ sở để gắn kết thế và lực của các
lĩnh vực, ngành có liên quan trong quá trình xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, liên quan trực tiếp đến đến việc tổ chức, xây dựng quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng – an ninh ngay từ trong thời
bình, đặt ra những yêu cầu thực tiễn chỉ đạo xây dựng nền kinh tế - xã hội của
đất nước phát triển nhanh và bền vững, tăng cường khả năng đấu tranh quốc
phòng giữ vững an ninh quốc gia.
1.1.3 Khái niệm An ninh nhân dân
Theo Từ điển bách khoa quân sự việt Nam (1996): “An ninh là trạng thái
ổn định, an toàn không có dấu hiệu nguy hiểm đe dọa sự tồn tại phát triển
bình thường của cá nhân, của tổ chức của từng lĩnh vực hoạt động xã hội hoặc
toàn xã hội” [14, tr.126].

“An ninh nhân dân là sự nghiệp của toàn dân, do dân tiến hành, lực
lượng an ninh nhân dân làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản
lý điều hành của nhà nước. kết hợp phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc với các biện pháp nghiệp vụ của lực lượng chuyên trách, nhằm đập tan
mọi âm mưu và hành động xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã
hội, cùng với quốc phòng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa” [14, tr.126].
Từ khái niệm cho thấy An ninh nhân dân là một bộ phận của lực lượng
vũ trang nhân dân Việt Nam là lực lượng có vai trò nòng cốt trong sự nghiệp
bảo vệ an ninh quốc gia. An ninh quốc gia có nhiệm vụ đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu hoạt động xâm phạm đến an ninh quốc gia bảo vệ chế độ

7


XHCN, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, chính quyền, các lực lượng vũ trang
nhân dân, bảo vệ và giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Đặc trưng của an ninh nhân dân ở nước ta là nền an ninh vì nhân dân,
của nhân dân và do toàn thể nhân dân tiến hành, có sức mạnh tổng hợp bởi
nhiều yếu tố tạo thành, được xây dựng toàn diện, vững chắc và từng bước
hiện đại. Đó là nền an ninh nhân dân gắn bó chặt chẽ với nền quốc phòng toàn
dân. Xây dựng nền an ninh nhân dân là quan điểm cơ bản, nhất quán của
Đảng, chỉ đạo trong việc xây dựng nên an ninh nhân dân vững chắc.
1.1.4. Khái niệm thế trận An ninh nhân dân
Theo khoản 10 điều 3 Luật an ninh quốc gia (2004): “Thế trận An ninh
nhân dân là việc tổ chức bố trí lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia và các
nguồn lực cần thiết để chủ động bảo vệ an ninh quốc gia”.
Hiểu theo nghĩa hẹp, thế trận an ninh nhân dân là tổ chức, bố trí và triển
khai lực lượng, phương tiện, biện pháp của các lực lượng Công an nhân dân
theo một ý đồ chiến lược, có sự chỉ huy thống nhất trên phạm vi toàn quốc

cũng như trên từng địa bàn, tuyến, lĩnh vực, hệ, loại đối tượng nhằm chủ động
phòng ngừa, tấn công các loại tội phạm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã
hội.
Hiểu theo nghĩa rộng, thế trận an ninh nhân dân là thế bố trí lực lượng,
phương tiện trên cơ sở huy động sức mạnh tổng hợp về vật chất và tinh thần
của toàn dân, sự tham gia của các ngành, các cấp,các đoàn thể chính trị, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành, tập trung thống nhất của nhà
nước, lực lượng Công an nhân dân giữ vai trò là nòng cốt nhằm chủ động bảo
vệ vững chắc an ninh của đất nước, trật tự an toàn của xã hội.
Từ các khái niệm trên ta thấy sự gắn bó giữa thế trận QPTD và ANND là
cần thiết, là tất yếu khách quan. Trong nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc

8


cần gắn nhiệm vụ QPTD với nhiệm vụ ANND hai nhiệm vụ này có mối quan
hệ khăng khít với nhau, cùng bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ
XHCN, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, ngăn ngừa và làm
thất bại mọi âm mưu và hoạt động gây mất ổn định chính trị - xã hội, gây tổn
hại cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, ngăn chặn và đối phó hiệu
quả mọi loại hình tội phạm và mọi kẻ thù xâm lược.
Xây dựng thế trận QPTD và thế trận ANND đều mang đặc trưng “vì dân,
của dân và do toàn thể nhân dân tiến hành” cho phép ta huy động sức mạnh
tổng hợp của toàn thể nhân dân, của mọi tổ chức, mọi lực lượng tham gia thực
hiện xây dựng thế trận QPTD – ANND về mọi mặt như chính trị, quân sự, an
ninh, kinh tế, văn hóa, khoa học,… tạo nên sức mạnh to lớn cho QPAN nước
nhà.
Việc xây dựng thế trận QPTD – ANND là nhằm vào mục đích tự vệ
chính đáng, tạo ra sức mạnh tổng hợp chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa; tạo ra một quá trình xây dựng
đồng bộ, thống nhất từ trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch xây dựng; đồng
bộ các hoạt động trên phạm vi cả nước cũng như từng vùng, miền, địa
phương, các ngành, các cấp.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Một số quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng thế trận Quốc
phòng toàn dân – An ninh nhân dân
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng thế trận QPTD ANND được thể hiện qua những quan điểm về quân đội, về chiến tranh nhân
dân bảo vệ Tổ quốc. Ăngghen cho rằng “Một dân tộc muốn giành độc lập cho
mình thì không được giới hạn trong những phương thức chiến tranh thông

9


thường để tiến hành chiến tranh. Khởi nghĩa quần chúng, chiến tranh cách
mạng, các đội du kích ở khắp nơi đó là những phương thức duy nhất nhờ đó
mà một dân tộc nhỏ có thể chiến thắng”[11, tr.27]. Sự thắng lợi của cuộc
chiến tranh có sự góp phần quan trọng của phương thức chiến tranh. Chủ
nghĩa Mác - Lênin cũng khẳng định “cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng”. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đề cao tinh thần toàn
dân, đề cao sức mạnh tổng hợp, đặc biệt là luôn chú trọng đến cái cơ sở, cái
nền tảng cho cái tổng thể. Suy rộng ra, tức là trong thế trận QPTD - ANND
thì yếu tố sức mạnh tổng hợp toàn dân tạo nên một thế trận liên hoàn, khăng
khít để chống lại kẻ thù. Đồng thời, phải tập trung xây dựng vững mạnh từ
những vấn để mang tính cơ sở để có nền tảng vững chắc cho xây dựng những
vấn đề mang tính tổng thể, bao quát (từ cấp xã đến huyện, tỉnh, thành phố đến
tổng thế quốc gia).
Ph.Ănghghen cho rằng: “… toàn bộ việc tổ chức và phương pháp chiến
đấu của quân đội và do đó, thắng lợi hay thất bại, đều rõ ràng là phụ thuộc
vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế vào nhân lực và vũ

khí, nghĩa là vào chất lượng và số lượng của dân cư và của cả kỹ thuật ”[01,
tr.235]. Quan điểm đó cho thấy vai trò quan trọng của các yếu tố vật chất,
nhân lực,... trong quá trình tổ chức quốc phòng an ninh. Trong xây dựng thế
trận QPTD - ANND cũng vậy, để bố trí, tổ chức thế trận QPTD - ANND
vững chắc thì tất yếu phải có sự chuẩn bị chu đáo, đảm bảo tốt các mặt về
kinh tế, nhân lực, vũ khí, trang bị, các điều kiện vật chất khác.
Lênin cho rằng “ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn, có nhiều nguồn lực
hơn, ai đứng vững được trong quần chúng nhân dân hơn thì người ấy sẽ
giành thắng lợi trong chiến tranh”[15, tr.271]. Cuộc chiến tranh không chỉ
tiến hành giữa lực lượng vũ trang của các bên mà đó phải là cuộc chiến tranh
phải tiến hành bằng sức mạnh của cả dân tộc thì mới có thể giành được thắng

10


lợi. Đó phải là cuộc chiến tranh nhân dân, phải toàn dân đánh giặc, đánh trên
các mặt trận, các vùng chiến lược. Một dân tộc nhỏ bé phải chống lại kẻ thù
lớn mạnh thì điều cơ bản để thắng lợi đó là phải dựa vào một thế trận quốc
phòng được bố trí sắp xếp, tổ chức sẵn sằng chủ động trước mọi âm mưu
của kẻ thù.
Đồng thời, Lênin cũng nhấn mạnh vai trò hậu phương trong xây
dựng thế trận QPTD - ANND “muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự,
phải có một hậu phương được tổ chức vững chắc”[15, tr.129]. Theo ông, hậu
phương vững chắc là kiện căn điều bản để giành thắng lợi trong chiến tranh
cũng như trong quá trình xây dựng thể trận QPTD - ANND sẵn sàng bảo
vệ Tổ quốc, chủ động trước mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Thế trận QPTD - ANND sẽ biến cuộc chiến tranh chống kẻ thù xâm lược
thành cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện; biết tìm những thế
mạnh của dân tộc ta để khai thác, để phát huy; biết căn cứ vào điều kiện cụ
thể của dân tộc để đề ra chiến lược quân sự đúng đắn và phù hợp để đánh

thắng kẻ thù bảo vệ thành công Tổ quốc, để luôn chủ động trong mọi
tình huống, luôn sẵn sàng chiến đấu khi có kẻ thù xâm lược. Như vậy, mỗi
quốc gia cần có những chiến lược quốc phòng an ninh phù hợp trong công tác
xây dựng thế trận QPTD - ANND.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân –
An ninh nhân dân
Sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn ra trong một thời kỳ
lịch sử mà cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa chống chủ
nghĩa thực dân, đế quốc đang phát triển mạnh mẽ, rộng khắp. Chính bối cảnh
lịch sử đó khiến Người dành nhiều thời gian nghiên cứu về quân sự. Người đã
làm việc, nghiên cứu và tìm kiếm không mệt mỏi để chuẩn bị về lý luận và tổ
chức cho khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng. Người đã trực tiếp
11


biên soạn nhiều tác phẩm quân sự có giá trị lý luận và thực tiễn, bồi dưỡng
kiến thức cho cán bộ đảng viên và nhân dân ta ngay trong buổi đầu cách
mạng. Trong đó, người đã đề cập đến vấn đề xây dựng thế trận QPTD –
ANND.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng thế trận QPTD – ANND thực chất là
nghệ thuật hình thành, phát huy và sử dụng sức mạnh tổng hợp của quần
chúng, xây dựng thế trận lòng dân. Người luôn quan tâm xây dựng quân đội
ta thực sự là quân đội của nhân dân: “Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà
chiến đấu”. Người nhắc nhở phải luôn nhớ nhân dân là chủ, dân như nước,
quân như cá lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân mà có. Theo Hồ Chí Minh
phương thức duy nhất để xây dựng thế trận lòng dân vững mạnh là phải dựa
vào dân: “nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội”. Người căn dặn:
“mình đánh giặc là vì nhân dân nhưng mình không phải là “cứu tinh” của
dân, mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân, phải dựa vào dân, dựa chắc
vào dân thì kẻ thù không thể nào tiêu diệt được”[04, tr.158]. Chỉ có dựa vào

thế trận lòng dân, quân với dân một ý chí thì quân đội ta mới có thể có được
sức mạnh để “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Bài học lịch sử cũng đã chỉ ra rằng chỉ cậy vào
“quân đông, thành vững” mà bỏ lòng dân thì sẽ thất bại. Người kêu gọi: “Bất
kì đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để
cứu Tổ quốc”[07, tr.396].
Để tạo ra sức mạnh nội sinh trong cuộc kháng chiến, nhiệm vụ đấu tranh
kinh tế, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh và đấu tranh trên lĩnh vực tư
tưởng – văn hóa nhằm đồng thời nâng cao, tăng cường sức mạnh vật chất,
tinh thần cho cuộc kháng chiến là yêu cầu cao của tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng thế trận QPTD – ANND. Người nói: “Phải làm cho quân đội ta

12


thành một quân đội chính của nhân dân. Đồng thời, phải phát triển và củng
cố dân quân du kích chỉ đạo về mọi mặt: Tổ chức, huấn luyện và sức chiến
đấu”[05, tr.171]. Người chủ trương xây dựng thế trận QPTD – ANND phải có
lực lượng vũ trang với ba thứ quân làm nòng cốt, có hậu phương vững mạnh.
Xây lực lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân là bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương và dân quân tự vệ. Đây là hình thức tổ chức hợp lý nhất để xây dựng
thế trận đại đoàn kết dân tộc nhằm tập hợp mọi tầng lớp nhân dân trong mặt
trận dân tộc để động viên sức mạnh của toàn dân vào công cuộc kháng chiến
cứu nước và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng lực lượng quân sự đi đôi với xây
dựng lực lượng chính trị rộng khắp, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang
và đấu tranh chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân là
xây dựng một thế trận QPTD – ANND vững mạnh dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Hậu phương vững chắc là một trong những nhân tố cơ bản cấu thành lên

thế trận QPTD – ANND. Đối với Hồ Chí Minh, hậu phương không chỉ là sức
mạnh vật chất, nguồn nhân lực mà còn là sức mạnh tinh thần, trong đó lòng
dân là sức mạnh to lớn của thế trận QPTD. Người chỉ rõ: “Chiến tranh ngày
càng phức tạp và hết sức khó khăn không dùng toàn lực của nhân dân về mọi
mặt để ứng phó, không thể thắng lợi được”[08, tr.126] và “căn cứ hậu
phương vững chắc nhất là lòng dân”[08, tr.240]. Những chỉ đạo sáng suốt
của Người tạo nên nhân tố quyết định thắng lợi trong các cuộc kháng chiến
của nhân dân ta từ chống Pháp, đuổi Nhật đến chống Mỹ xâm lược và bảo vệ
Tổ quốc ngày nay.
Hồ Chí Minh luôn chủ trương phải gắn thế trận QPTD với thế trận
ANND. Người chỉ ra: “Nhân dân ta có hai lực lượng. Một là quân đội, để
đánh giặc ngoại xâm, để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn hòa bình. Một lực lượng
nữa là công an, để chống kẻ địch trong nước, bọn phá hoại”[06, tr.403]. Hai

13


lực lượng này tuy có chức năng khác nhau nhưng có chung một đối tượng là
kẻ thù của dân tộc và giai cấp. Vì vậy, bất cứ nhiệm vụ nào của quốc phòng
và an ninh đều có sự kết hợp chặt chẽ giữa hai lĩnh vực đó nhằm thực hiện
thắng lợi những nhiệm vụ cách mạng của Đảng và của nhân dân, làm tốt công
tác an ninh trật tự, giữ vững bên trong được bảo đảm an toàn về mọi mặt là
tạo điều kiện cho sự vững chắc về quốc phòng. Ngược lại, quốc phòng vững
mạnh có tác dụng răn đe các thế lực thù địch và các âm mưu chống phá trật tự
an ninh trong nước ta.
Đất nước chúng ta, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đang bước vào
thời kỳ phát triển mới với những cơ hội lớn và những thách thức lớn đan xen.
nhiệm vụ xây dựng Tổ quốc gắn bó sâu sắc với nhiệm vụ bảo vệ vững chắc
Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng mà nhân dân ta dày công đấu tranh, xây
dựng nên. Tình hình đó, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, vận

dụng sáng tạo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng thế trận
QPTD – ANND trong thời kỳ mới để trực tiếp tạo nên xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
1.2.3. Một số quan điểm của Đảng về xây dựng thế trận Quốc phòng toàn
dân - An ninh nhân dân trong thời kỳ mới
Xây dựng thế trận QPTD - ANND là một nhiệm vụ chiến lược cơ bản,
lâu dài và là yêu cầu tất yếu của cả thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.
Quá trình xây dựng và phát triển thế trận QPTD - ANND luôn có liên quan
mật thiết với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
từng thời kỳ.
Do vậy, trước những biến động của tình hình thế giới và ở trong nước,
Đảng tiếp tục đổi mới tư duy nhận thức để có chủ trương, giải pháp xây dựng
thế trận QPTD - ANND phù hợp với thực tiễn. Tại Đại hội XI của Đảng đã
chỉ rõ: “Nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới
14


đang thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển
vẫn là xu thế lớn, những xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can
thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi
truyền thống, tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn
cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biển đổi
khi hậu, sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp”[03, tr.16]. Mặt khác, cục diện thế giới
đa cực đã hình thành ngày càng rõ hơn và sẽ tác động lớn đến độc lập, chủ
quyền của các quốc gia; xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế sẽ tiếp tục
phát triển, nhưng vẫn bị chi phối bởi các nước lớn; toàn cầu hóa sẽ thúc đẩy
cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, hình thành xã hội
thông tin và kinh tế tri thức; sự cạnh tranh giữa các nước về kinh tế - thương
mại; sự giành giật tài nguyên, năng lượng, thị trường và nguồn nhân lực;
….ngày càng gay gắt. Vì vậy, để xây dựng thế trận QPTD - ANND vững

mạnh toàn diện, cần phải dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng đặc điểm
tình hình của từng thời kỳ, tiếp tục đổi mới tư duy, xác định các chủ trương,
biện pháp xây dựng thế trận QPTD - ANND phù hợp với điều kiện, khả năng
của đất nước và đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ
mới.
Đảng và Nhà nước ta tiếp tục quán triệt mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng thế
trận QPTD - ANND trong thời kỳ mới đó là: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ XHCN, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị và an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động đấu tranh, làm thất bại mọi âm
mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta”[03, tr.128] và “Tăng cường quốc phòng – an ninh là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân,

15


trong đó Quân đội nhân dân, công an nhân dân là lực lượng nòng cốt”[03,
tr.128].
Như vậy, các mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng của nước ta trong thời gian
tới cơ bản không thay đổi. Nhưng trước những yêu cầu thực tiễn của việc bảo
vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, Nghị quyết Đại hội XI tiếp tục khẳng định,
cũng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân,
trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Đại
hội đã nhấn mạnh sự ổn định và phát triển bền vững về mọi mặt đời sống kinh
tế và xã hội là nền tảng để xây dựng thế trận QPTD - ANND vững chắc;
ngược lại, tăng cường xây dựng thế trận QPTD - ANND vững chắc là cơ sở,
điều kiện bảo đảm cho xây dựng kinh tế xã hội phát triển nhanh và bền vững.
Mối quan hệ đó phải được kết hợp chặt chẽ trong từng chiến lược, quy hoạch,

kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế xã hội.
Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng - an ninh của nước ta, việc
xây dựng thế trận QPTD – ANND phải bảo đảm toàn diện, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ cả thời bình và thời chiến. Do vậy, thế trận QPTD - ANND không
chỉ có tổ chức bố trí lực lượng vũ trang mà còn phải kết hợp chặt chẽ với bố
trí các lực lượng khác liên quan đến đấu tranh quốc phòng. Báo cáo Chính trị
trình Đại hội XI của Đảng đã xác định: “Xây dựng thế trận quốc toàn dân, thế
trận an ninh nhân dân vững chắc. Phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự
chiến tranh nhân dân và lý luận khoa học an ninh nhân dân; kết hợp chặt chẽ
kinh tế với QP - AN, QP - AN với kinh tế”[03, tr.16]. Quán triệt chủ trương
đó, việc tổ chức xây dựng thế trận QPTD - ANND trong thời gian tới cần tiếp
tục vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng cho phù hợp với tình hình
mới. Bố trí thế trận QPTD - ANND ngày nay không những phải kết hợp chặt
chẽ với thế trận an ninh nhân dân, mà còn phải coi trọng gắn kết với thế trận

16


đối ngoại. Đặc biệt, khi nước ta tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác, tăng cường
hội nhập kinh tế quốc tế thì các doanh nghiệp nước ngoài sẽ đầu tư ngày càng
nhiều vào Việt Nam. Trong khi lợi ích của các doanh nghiệp luôn gắn với thị
trường và lợi nhuận thì việc bố trí, sắp xếp các cơ sở kinh tế gắn với yêu cầu
quốc phòng - an ninh sẽ có thể nảy sinh các mâu thuẫn giữa quyền lợi chung
và riêng. Do vậy, khi tổ chức bố trí thế trận QPTD - ANND phải luôn kết hợp
chặt chẽ giữa các quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế xã hội
với phương án bảo vệ của QP - AN, lồng ghép hợp lý với dự án xây dựng các
khu kinh tế quốc phòng.
Thế trận QPTD - ANND của nước ta được tổ chức xây dựng toàn diện
trên mọi lĩnh vực, từng khu vực, địa bàn, từ địa phương cho đến toàn quốc,
nhưng trước tình hình mới, cần tập trung: “Tăng cường sức mạnh QP - AN cả

về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững
mạnh; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo
vệ Tổ quốc”. Từ tinh thần của Đại hội XI cho thấy, Đảng ta luôn coi trọng
xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) là một nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên. Bởi đó là những hạt nhân tạo thành nền tảng vững chắc cho thế
trận QPTD - ANND của cả nước. Trong xây dựng thế trận QPTD - ANND,
một lần nữa Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh phải xây dựng “thế trận lòng dân”
vững chắc để bảo vệ Tổ quốc. Đây là một nhân tố quyết định sức mạnh của
yếu tố chính trị - tinh thần và là sức mạnh căn bản của thế trận QPTD ANND trong thời kỳ mới.
Như vậy, Đảng và Nhà nước đã xác định chủ trương, phương hướng
phù hợp với yêu cầu xây dựng thế trận QPTD - ANND . Đây là những định
hướng cơ bản để chỉ đạo chung cho xây dựng thế trận QPTD – ANND trong
thời kỳ mới. Vì vậy, cần phải nắm vững bối cảnh tình hình thế giới và trong
nước; nắm chắc mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ xây dựng thế trận QPTD -

17


×