Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Nghiên cứu nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến của đảng ta trong đánh bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân pháp năm 1946 1947

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.98 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

VŨ HOÀI NAM

NGHIÊN CỨU NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO
TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN CỦA ĐẢNG TA TRONG
ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC ĐÁNH NHANH THẮNG NHANH
CỦA THỰC DÂN PHÁP (1946 - 1947)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên nghành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI – 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

VŨ HOÀI NAM

NGHIÊN CỨU NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO
TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN CỦA ĐẢNG TA TRONG
ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC ĐÁNH NHANH THẮNG NHANH
CỦA THỰC DÂN PHÁP (1946 - 1947)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên nghành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

Nguời hướng dẫn khoa học


Đại tá.TS: Phan Xuân Dũng

HÀ NỘI – 2018


LỜI CẢM ƠN
Em xin cảm ơn Đa ̣i tá. TS. Phan Xuân Dũng đã tận tình giúp đỡ, hướng
dẫn em hoàn thành khóa luận.
Em xin được chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các cán bộ, giảng viên
Trung tâm GDQPAN Trường ĐHSP Hà Nội 2 đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập, rèn luyện tại Trung tâm và hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp.
Em xin được cảm ơn sự giúp đỡ, động viên, khích lệ của gia đình, bạn bè,
người thân trong quá trình học tập, rèn luyện và thực hiện khóa luận.
Do điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn, nên khóa luận không tránh
khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô
và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 8 tháng 5 năm 2018
Tác giả đề tài

Vũ Hoài Nam


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đề tài khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu
của riêng em, dưới sự hướng dẫn của Đa ̣i tá. TS. Phan Xuân Dũng.
Nếu sai, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 8 tháng 5 năm 2018
Tác giả đề tài


Vũ Hoài Nam


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 3
4. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 3
5. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 3
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 3
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn .................................................................... 4
8. Bố cục của khóa luận.................................................................................. 4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ NGHỆ THUẬT 5
TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN ....................................................................... 5
1.1. QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN ......... 5
1.1.1. Khái niệm toàn dân kháng chiến ........................................................... 5
1.1.2. Tư tưởng của Hồ Chi Minh về toàn dân kháng chiến ............................ 6
1.2. BỐI CẢNH CỦA VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
NĂM 1945 ..................................................................................................... 9
1.2.1 Thuận lợi ............................................................................................... 9
1.2.2. Những khó khăn ................................................................................. 10
1.2.2.1. Giặc ngoại xâm và nội phản ............................................................ 10
1.2.2.2. Tình hình chính trị, kinh tế............................................................... 10
1.2.2.3. Tình hình văn hoá, xã hội ................................................................ 10
1.3. ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ CÔNG TÁC
CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN DÂN TA ................................. 11
1.3.1 Âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp ................................................. 11

1.3.2. Công tác chuẩn bị kháng chiến của quân và dân ta ............................. 12


1.3.2.1. Xác định đường lối lãnh đạo kháng chiến của Đảng ta.................... 12
1.3.2.2. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ......................................... 15
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................... 16
Chương 2: TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC
ĐÁNH NHANH THẮNG NHANH CỦA THỰC DÂN PHÁP NĂM 1946 –
1947 ............................................................................................................. 17
2.1. CUỘC CHIẾN ĐẤU CỦA QUÂN VÀ DÂN TA TRONG NHỮNG
THÁNG ĐẦU TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN .......................................... 17
2.1.1. Cuộc chiến đấu của quân và dân ta tại Thủ đô Hà Nội và các thành phố
lớn ................................................................................................................ 17
2.1.2. Quân và dân ta phá cuộc tiến công lớn của thực dân Pháp đầu năm 1947
..................................................................................................................... 18
2.2. TỔ CHỨC HẬU PHƯƠNG KHÁNG CHIẾN; PHÁ TAN CUỘC TIẾN
CÔNG CỦA THỰC DÂN PHÁP LÊN VIỆT BẮC THU ĐÔNG NĂM 1947
..................................................................................................................... 22
2.2.1. Tổ chức hậu phương kháng chiến ....................................................... 22
2.2.2. Phá tan cuộc tiến công của thực dân Pháp lên Việt Bắc Thu Đông năm
1947 ............................................................................................................. 26
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 32
Chương 3: VẬN DỤNG NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO TOÀN DÂN KHÁNG
CHIẾN TRONG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY ......... 33
3.1. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TA
TRONG ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC ĐÁNH NHANH THẮNG NHANH
CỦA THỰC DÂN PHÁP NĂM 1946 - 1947 ............................................... 33
3.1.1. Nắm chắc tình hình, chỉ đạo sát sao công tác chuẩn bị, sẵn sàng đối phó
thắng lợi với các cuộc tiến công lớn của địch ............................................... 33
3.1.2. Kịp thời chỉ đạo chuyển hóa thế trận tác chiến linh hoạt, sáng tạo để bẻ

gãy từng gọng kìm quân địch, giành thắng lợi .............................................. 34
3.1.3. Vận dụng cách đánh linh hoạt, sáng tạo, đánh bại hoàn toàn cuộc hành
binh quy mô lớn của địch ............................................................................. 36


3.2. YÊU CẦU, NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG
TÌNH HÌNH MỚI ........................................................................................ 38
3.2.1.Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu,
thường xuyên” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ..................................... 38
3.2.2. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp ................................ 38
3.2.3. Sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước ........................................... 41
3.3. PHÁT HUY SỨC MẠNH TOÀN DÂN TRONG XÂY DỰNG VÀ BẢO
VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY .......................................................................... 42
3.3.1. Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc.......................................................... 43
3.3.2. Giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội; kết hợp
hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và toàn xã hội ................................... 44
3.3.3. Tăng cường mối quan hệ bền chặt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân,
củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”, trong đó “Mặt trận Tổ quốc đóng vai
trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân” ........................................... 44
3.3.4. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cần làm tốt vai trò
giám sát và phản biện xã hội ........................................................................ 45
3.3.5. Tăng cường công tác phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai
trái, thù địch phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc ....................... 45
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................... 46
KẾT LUẬN .................................................................................................. 48
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 49



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc ta vốn có truyền thống đoàn kết chiến đấu chống ngoại xâm và
đã sáng tạo ra một nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc rất phong phú
và độc đáo. Ngày nay, Ðảng ta đề ra đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Xuất phát từ đường lối đó, nghệ
thuật quân sự của ta trước hết là nghệ thuật quân sự của toàn dân kháng chiến.
Ðó cũng là sự kế thừa và phát huy lên một trình độ mới nghệ thuật quân sự
truyền thống của dân tộc.
Nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc của ta là nghệ thuật chỉ đạo
hoạt động quân sự của lực lượng vũ trang, đồng thời chỉ đạo hoạt động quân
sự của nhân dân cầm vũ khí đứng lên đánh địch, kết hợp chặt chẽ quân sự với
chính trị, tác chiến với binh vận, kết hợp tiêu diệt địch và phát động quần
chúng giành quyền làm chủ.
Đối tượng của nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng của ta là toàn dân.
Ta tổ chức lực lượng theo cấu trúc toàn dân đánh giặc; bao gồm lực lượng vũ
trang ba thứ quân gắn liền với lực lượng kháng chiến của từng huyện, tỉnh,
thành phố; kết hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực. Đó là nghệ thuật tổ chức có
tính khoa học, tính thống nhất và chặt chẽ, làm cho toàn dân ta triệu người
như một, tạo sức mạnh tổng hợp lớn nhất để đánh địch, thắng địch.
Đi đôi với nghệ thuật tổ chức lực lượng, ta xác định hai hình thức đấu
tranh chủ yếu: Đấu tranh quân sự kết hợp đấu tranh chính trị; hai phương thức
tác chiến cơ bản: Tác chiến tập trung và tác chiến du kích. Với nghệ thuật tổ
chức và vận dụng các hình thức, phương thức tác chiến như thế, ta đã xây
dựng được thế trận chiến tranh nhân dân “thiên la địa võng”, rộng khắp, vững
chắc, nhưng mạnh ở trọng điểm. Điều đó lý giải vì sao ta có thể "Mở mặt trận
ở bất cứ nơi nào có bóng địch, đánh ngay ở cả sau lưng địch, trong trung tâm

1



phòng ngự của địch" và "Kéo địch ra khỏi hang ổ mà đánh, căng địch ra mà
đánh, luồn sâu vào hậu phương địch mà đánh..."
Ngày nay, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, bài học về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đảng
đánh thắng chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch còn nguyên giá trị
và cần được vận dụng cho phù hợp trong điều kiện mới. Đặc biệt, chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra), kẻ địch xâm lược rất có thể dùng chiến lược
“đánh nhanh, thắng nhanh” bằng vũ khí công nghệ cao hòng tránh bị sa lầy,
tổn thất và phản đối của dư luận trong nước cũng như quốc tế. Do đó, việc
vận dụng nghệ thuật này đòi hỏi chúng ta phải nhất quán quan điểm của Đảng
về bảo vệ Tổ quốc ngay từ thời bình; đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và
các khu vực phòng thủ địa phương ngày càng vững chắc; xây dựng và nâng
cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, bảo đảm
không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Hiện nay, trong bối cảnh hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của
địch không chỉ bằng hành động quân sự mà còn bằng các biện pháp phi vũ
trang, nhất là chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thực hiện chiến thắng mà
không cần chiến tranh, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
chúng ta theo mưu đồ của chúng. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải hết sức tỉnh
táo, cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn đó; xác định đúng đối tượng,
đối tác và sự chuyển hóa phức tạp của nó để có đối sách hợp tác và đấu tranh
phù hợp. Trong đấu tranh, cần khôn khéo, mềm dẻo về sách lược, nhưng kiên
quyết về nguyên tắc chiến lược; kiên trì, thận trọng bằng biện pháp hòa bình,
tranh thủ sự đồng thuận và ủng hộ của bạn bè quốc tế, tránh chủ quan, manh
động dẫn đến bị cô lập, lệ thuộc, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa trong tình hình mớí.


2


Để tìm hiểu về nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến, đoàn kết toàn
dân đánh giặc cứu nước, kế thừa phát huy truyền thống chống giặc ngoại xâm
cực kỳ oanh liệt của dân tộc và những bài học kinh nghiệm quý báu về kháng
chiến toàn dân từ đó vận dụng nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến vào
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc trong giai đoạn mới, tôi lựa chọn đề
tài “Nghiên cứu nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến của Đảng ta trong
đánh bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp năm 1946 1947” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, làm sâu sắc thêm nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến
của Đảng ta trong đánh bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân
Pháp (1946 - 1947). Rút ra bài học kinh nghiệm, phát huy sức mạnh toàn dân
chung sức thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc trong giai đoạn
mới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về nghệ thuật toàn
dân kháng chiến.
Phân tích làm rõ nghệ thuật toàn dân kháng chiến trong đánh bại chiến
lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp năm 1946 - 1947.
Vận dụng nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến trong xây dựng và
bảo vệ Tổ Quốc hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
Nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến của Đảng ta trong đánh bại
chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp năm 1946 - 1947.
5. Phạm vi nghiên cứu
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược thực dân Pháp (1946 - 1947).
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp


3


7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
7.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả của nghiên cứu góp phần làm rõ thêm nghệ thuật chỉ đạo toàn
dân kháng chiến của Đảng ta trong đánh bại chiến lược đánh nhanh thắng
nhanh của thực dân Pháp 1946 - 1947.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Vận dụng nghệ thuật chỉ đảo toàn dân kháng chiến vào nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ Quốc trong giai đoạn mới.
8. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu về danh mục tài liệu tham khỏa , nội dung khóa luận gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về nghệ thuật toàn dân
kháng chiến.
Chương 2: Toàn dân kháng chiến đánh bại chiến lược đánh nhanh
thắng nhanh của thực dân Pháp 1946 - 1947.
Chương 3 : Vận dụng nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến trong
xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.

4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ NGHỆ THUẬT
TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN

1.1. QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN

1.1.1. Khái niệm toàn dân kháng chiến
Đường lối toàn dân kháng chiến là sự kế thừa và phát triển truyền thống
yêu nước, truyền thống quân sự cả nước chung sức đánh giặc của dân tộc Việt
Nam lên một trình độ mới, một chất lượng mới phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại và thực tế của cách mạng Việt Nam.
Toàn dân kháng chiến: là nội dung chính của chiến tranh nhân dân Việt
Nam, chi phối mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chi phối kế
hoạch tác chiến nghệ thuật quân sự và phương hướng xây dựng lực lượng.
Toàn dân kháng chiến là tất cả mọi người dân Việt Nam đều tham gia
đánh giặc, trong đó lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt. Cách đánh
giặc trong chiến tranh nhân dân là thế “thiên la địa võng” đối với quân thù;
đánh địch ở phía trước, ở phía sau, ngay trong lòng địch, chiến trường không
phân chiến tuyến. Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo
đài, tạo ra thế cài răng lược, chiến tranh lộn ẩu, chiến tranh bao vây, chiến
tranh không mặt trận, chiến tranh tiêu thổ. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu rõ trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (tháng 12-1946): “Bất
kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để
cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm
thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu
nước”, đây chính là một định hướng chiến lược, một cẩm nang hoạt động đối
với toàn dân ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

5


1.1.2. Tư tưởng của Hồ Chi Minh về toàn dân kháng chiến
Trước yêu cầu bức thiết của lịch sử, ngày 18 và 19-12-1946, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng tổ chức cuộc họp mở rộng khẩn cấp tại Vạn
Phúc, Hà Đông do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì; quyết định chủ trương phát

động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước;
đề ra đường lối, chủ trương kháng chiến chống Pháp xâm lược là kháng chiến
lâu dài. Ngay đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương
Đảng và Chính phủ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Lời kêu gọi chỉ có
19 dòng, 199 từ ngắn gọn và súc tích, nhưng đã thể hiện những quan điểm cốt
lõi của Người về kháng chiến toàn dân cũng như mệnh lệnh của non sông,
thôi thúc cả dân tộc chung sức, đồng lòng vùng dậy quyết chiến, quyết thắng
quân Pháp xâm lược.
Kế thừa những lý luận trong học thuyết quân sự Mác - Lênin, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã phân biệt rõ đâu là chiến tranh chính nghĩa, cách mạng và
đâu là chiến tranh phi nghĩa, phản cách mạng. Người cho rằng, quần chúng
nhân dân lao động, nếu được giác ngộ và có nhận thức đúng đắn, sẽ ủng hộ và
hăng hái tham gia cuộc chiến tranh chính nghĩa. Vì thế, chỉ có chiến tranh
chính nghĩa mới có thể huy động, tập hợp được đông đảo quần chúng, được
toàn dân tham gia chiến đấu. Có thể thấy, chiến tranh nhân dân do toàn dân ta
tiến hành nhằm giành lại và giữ vững nền độc lập, tự do cho Tổ quốc mình là
chiến tranh chính nghĩa. Khẳng định tính chính nghĩa là một trong những
nhân tố hàng đầu để đưa cuộc chiến tranh của nhân dân ta đi đến thắng lợi,
cho dù phải trải qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, thậm chí kéo dài, “chúng ta
thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ… Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy
sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi độc lập dân tộc và tự do hòa bình là mục tiêu
phấn đấu suốt đời mình. Thế nhưng trong điều kiện phải đương đầu với kẻ thù

6


xâm lược có sức mạnh quân sự và kinh tế lớn hơn ta nhiều lần, có quân số
đông và vũ khí hiện đại, cần phải huy động sức mạnh của toàn dân để chiến

dấu. Muốn đánh bại kẻ thù hung bạo, mạnh hơn ta gấp bội thì mỗi người dân
Việt Nam đều phải trở thành chiến sĩ đứng lên bảo vệ độc lập, chủ quyền đất
nước. Khi nhấn mạnh vai trò của nhân dân, về tính chất chính nghĩa, động lực
của cuộc kháng chiến là bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, Người
khẳng định: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng
chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm
cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Bằng sự khẳng định
đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định mục đích chính nghĩa của cuộc kháng
chiến và lòng tin tưởng của Người vào sức mạnh ý chí bảo vệ độc lập, tự do
và thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta.
Từ quan điểm về vai trò của con người trong lĩnh vực quân sự và lòng
tin vào sức mạnh của nhân dân - có dân là có tất cả, Người nhấn mạnh, phải
dựa vào dân, khơi nguồn sức mạnh, sức sáng tạo của nhân dân. Nhân dân
trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là toàn dân Việt Nam. Người giải
thích, toàn dân kháng chiến là ai cũng phải đánh giặc, bất cứ đàn ông, đàn bà,
người già, người trẻ, ai cũng tham gia kháng chiến. Tổ quốc là Tổ quốc
chung, Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do, nếu mất nước thì ai cũng phải
làm nô lệ. Người đã tìm thấy điểm tương đồng, chất keo kết dính các tầng lớp,
giai cấp, dân tộc chính là lợi ích tối cao của dân tộc. Đây là nguyên tắc sống
còn được Người khái quát ngắn gọn nhưng vô cùng sâu sắc: dân tộc trên hết,
Tổ quốc trên hết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng
lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ, không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp cứu Tổ quốc…”. Điều đó thể hiện ý chí toàn thể dân tộc Việt Nam quyết

7



“đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải” để bảo vệ nền tự do,
độc lập mà Người đã tuyên bố trong Tuyên ngôn Độc lập trước toàn thế giới.
Quyết tâm đó dựa trên cơ sở lòng tin vào sức mạnh của nhân dân, vào thắng
lợi cuối cùng của cả một dân tộc đồng lòng. Người nhấn mạnh: “Bọn thực dân
phải biết rằng dân Việt Nam không muốn đổ máu, dân Việt Nam yêu chuộng
hòa bình. Nhưng nếu cần phải kháng chiến bao nhiêu năm để giữ gìn quyền
độc lập của Việt Nam, để cho con cháu Việt Nam khỏi kiếp nô lệ, thì chúng ta
vẫn kiên quyết hy sinh và kháng chiến.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát huy sức mạnh của dân tộc, thực hiện
toàn dân kháng chiến nhưng phải lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Cùng
với kêu gọi toàn dân kháng chiến, Người kêu gọi anh em binh sĩ, tự vệ dân
quân phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn non sông đất nước. Do
đó, khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực
lượng vũ trang các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi
phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt các đội vũ trang
của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm
cho các đội này trưởng thành mãi lên. Tư tưởng này đã được Đảng ta vận
dụng, phát triển sáng tạo trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
cứu nước. Đảng đã tập trung xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân gồm bộ
đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Đây chính là phương thức
tổ chức lực lượng thích hợp nhất để động viên và tổ chức toàn dân đánh giặc,
kết hợp lực lượng nòng cốt với lực lượng rộng khắp của toàn dân, lực lượng
cơ động và lực lượng tại chỗ trên cả nước và từng khu vực để tạo nên sức
mạnh lớn nhất tiêu diệt quân thù.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh toàn dân kháng chiến lấy lực lượng
vũ trang làm nòng cốt, song Người cũng yêu cầu: “Điểm trọng yếu là bất kỳ
bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám sát lấy dân,
rời dân ra nhất định thất bại. Bám lấy dân là làm sao cho được lòng dân, dân

8



tin, dân mến, dân yêu. Như vậy thì bất kể việc gì khó cũng làm được cả và
nhất định thắng lợi. Muốn thế phải bảo vệ, giúp đỡ, giáo dục nhân dân… phải
vận động nhân dân tự nguyện, tự giác, nếu bắt buộc thì chỉ có thể có kết quả
tạm thời ngay lúc đó thôi, còn sau đó thì không thấm…” . Theo Người, kháng
chiến toàn dân phải đánh địch bằng mọi lực lượng, mọi thứ vũ khí. Tức là mỗi
ngành, mỗi giới, mỗi lĩnh vực công tác, chiến đấu sản xuất, công tác đều nỗ
lực tạo ra hiệu quả to lớn để phục vụ cuộc kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã diễn đạt một cách dễ hiểu về tính toàn diện của cuộc kháng chiến:
Nó lấy vũ lực ta không sợ, nó lấy chính trị ta không mắc mưu, nó lấy kinh tế
phong tỏa thì ta lấy kinh tế đánh nó. Ở tiền tuyến, chiến sĩ hy sinh xương máu
để bảo vệ non sông. Ở hậu phương, toàn dân gia sức tăng gia sản xuất… thế
là đồng bào hậu phương cùng ra sức tham gia kháng chiến. Người kêu gọi:
“Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng
cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
1.2. BỐI CẢNH CỦA VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
NĂM 1945
1.2.1 Thuận lợi
Trên thế giới, chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống lớn mạnh do Liên
Xô đứng đầu, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát
triển, phong trào dân chủ và hòa bình cũng vươn lên mạnh mẽ.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
ra đời. Đảng và nhân dân Việt Nam có bộ máy chính quyền nhà nước làm
cộng cụ để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhân dân Việt Nam có truyền thống
yêu nước và truyền thống cách mạng, được hưởng những thành quả của cách
mạng, nên có quyết tâm bảo vệ chế độ mới.
Đảng đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo,
đã trở thành đảng cầm quyền, là trung tâm đoàn kết toàn dân trong công cuộc
đấu tranh để xây dựng và bảo vệ chế độ cộng hoà dân chủ.


9


1.2.2. Những khó khăn
1.2.2.1. Giặc ngoại xâm và nội phản
Quân đội các nước đế quốc, dưới danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp
quân đội Nhật Bản, lũ lượt kéo vào Việt Nam. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc có
gần 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc. Theo sau Trung Hoa Dân quốc là Việt
Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt
Cách) với âm mưu xúc tiến thành lập một chính phủ bù nhìn. Dã tâm của
chúng là tiêu diệt Đảng Cộng sản, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách
mạng còn non trẻ của nhân dân Việt Nam. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam có hơn
1 vạn quân Anh kéo vào, tạo điều kiện cho Pháp trở lại xâm lược Việt Nam.
Ngoài ra còn quân Nhật đang chờ để giải giáp. Một bộ phận theo lệnh đế quốc
Anh đánh lại lực lượng vũ trang cách mạng, tạo điều kiện cho quân Pháp mở
rộng chiếm đóng Nam Bộ. Chưa bao giờ trên đất nước Việt Nam lại có nhiều
loại kẻ thù đế quốc cùng xuất hiện một lúc như vậy.
1.2.2.2. Tình hình chính trị, kinh tế
Về chính trị: Chính quyền cách mạng còn non trẻ, chưa được củng cố.
Đảng và nhân dân Việt Nam chưa có kinh nghiệm giữ chính quyền. Nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chưa nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại
giao. Cách mạng Việt Nam ở trong tình thế bị bao vây, cô lập.
Về kinh tế: Nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 chưa được khắc
phục. Nạn lụt lớn, làm vỡ đê ở 9 tỉnh Bắc Bộ, tiếp theo đó là hạn hán kéo dài
làm cho hơn một nửa diện tích ruộng đất không thể cày cấy được. Ngân sách
Nhà nước hầu như trống rỗng, Chính quyền cách mạng chưa quản lí được
ngân hàng Đông Dương. Trong khi đó quân Trung Hoa Dân quốc tung ra thị
trường các loại tiền của Trung Quốc đã mất giá, càng làm cho nền tài chính
thêm rối loạn.

1.2.2.3. Tình hình văn hoá, xã hội

10


Tàn dư văn hoá lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến để lại hết sức
nặng nề, hơn 90% dân số bị mù chữ. Các tệ nạn xã hội cũ như mê tín dị đoan,
rượu chè, cờ bạc, nghiện hút ngày đêm hoành hành. Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà đứng trước tình thế hiểm nghèo. Vận mệnh dân tộc như “ngàn cân
treo sợi tóc”.
Trong hoàn cảnh đó, ngày 25 - 11 - 1945, Trung ương Đảng ra bản chỉ
thị “Kháng chiến, kiến quốc”, xác định: Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng
Việt Nam “vẫn là giải phóng dân tộc”, khẩu hiệu của nhân dân là “dân tộc
trên hết, Tổ quốc trên hết”; Kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược; Bốn
nhiệm vụ cấp bách trước mắt là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp
xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân; Phương hướng
đối ngoại là kiên trì nguyên tắc bình đẳng, hợp tác”, “thêm bạn, bớt thù”, đối
với quân Trung Hoa dân quốc thực hiện khẩu hiệu “Hoa, Việt thân thiện”, đối
với Pháp thực hiện “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”.
1.3. ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ CÔNG TÁC CHUẨN BỊ
KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN DÂN TA

1.3.1 Âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp
Mặc dù đã kí Hiệp định Sơ Bộ ngày 6 - 3 và Tạm Ước ngày 14 - 9 1946, thực dân Pháp vẫn đẩy mạnh việc chuẩn bị chiến tranh xâm lược. Ở
Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp mở các cuộc tiến công. Ở Bắc Bộ,
hạ tuần tháng 11 - 1946, quân Pháp tiến công ở Hải Phòng, Lạng Sơn. Sau khi
nổ súng ở Hải Phòng và Lạng Sơn, thực dân Pháp càng ráo riết chuẩn bị lực
lượng hòng nhanh chóng đánh chiếm cả nước bằng chiến lược “chớp
nhoáng”. Kế hoạch của chúng nhằm đánh úp các cơ quan đầu não của ta tại
Thủ đô Hà Nội, tiêu diệt bộ đội Vệ quốc quân và Tự vệ tại các thành phố lớn,

đồng thời đánh chiếm những địa bàn chiến lược ở Trung bộ và Bắc Bộ. Tháng
12 - 1946, Pháp gây hấn ở Hà Nội, chiếm trụ sở Bộ Tài chính, gây ra vụ thảm
sát ở phố Hàng Bún (Khu phố Yên Ninh)… Ngày 18 - 12 - 1946, quân Pháp

11


gửi tối hậu thư đòi giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, để cho Pháp làm nhiệm
vụ giữ gìn trật tự ở Hà Nội, nếu không chúng sẽ giành toàn quyền hành động
vào sáng ngày 20 - 12 - 1946.
Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Bộ đội ta công
kích đồng loạt vào các vị trí quân Pháp, sau đó nhanh chóng chuyển sang bao
vây, ghìm giữ quân địch ở Hà Nội và các thành phố, thị xã trên địa bàn cả
nước.
Bị sa lầy tại các thành phố, thị xã, thực dân Pháp xúc tiến việc chuẩn bị
một cuộc tiến công lớn lên Việt Bắc thực hiện âm mưu phá tan cơ quan đầu
não kháng chiến, tiêu diệt phần lớn lực lượng bộ đội chủ lực của ta; dùng
thắng lợi quân sự để thúc đẩy việc thành lập chính quyền bù nhìn toàn quốc
do Bảo Đại đứng đầu và kết thúc chiến tranh; “Bịt kín biên giới, loại trừ mọi
sự chi viện từ ngoài vào. Truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt, đánh cho tan
tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ”, thực dân Pháp đã huy động hơn 12.000
quân, cùng nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại tiến công lên Việt Bắc với
chiến lược “đánh nhanh giải quyết nhanh”. Hành động của kẻ xâm lược đã đặt
cuộc kháng chiến của nhân dân ta đứng trước thử thách nghiêm trọng. Chúng
ta phải đối đầu với cuộc tiến công mà tương quan lực lượng nghiêng hẳn về
phía địch. Trong khi chưa có kinh nghiệm về tổ chức chiến dịch, ta phải huy
động về sức người, sức của cho cuộc chiến đấu có quy mô lớn, diễn ra trong
thời gian dài.
1.3.2. Công tác chuẩn bị kháng chiến của quân và dân ta
1.3.2.1. Xác định đường lối lãnh đạo kháng chiến của Đảng ta

Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng ta mà đứng đầu là chủ tich Hồ
Chí Mimh đã vạch ra đường lối kháng chiến để chỉ đạo mọi mặt kháng chiến
của quân và dân ta. Ngày 17 và 18 - 12 - 1946, hội nghị bất thường Ban chấp
hành Trung ương mở rộng họp tại Vạn Phúc - Hà Đông dưới sự chủ tọa của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn

12


quốc. Đêm ngày 19 - 12 - 1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Sáng ngày
20 - 12 - 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”,
phát động nhân dân cả nước kháng chiến chống Pháp, bảo vệ nền độc lập dân
tộc. Ngày 22 - 12 – 1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị toàn
dân kháng chiến.
Đường lối kháng chiến của ta là: Kháng chiến toàn dân, toàn diện,
trường kì, và tự lực cánh sinh. Đường lối này đã thể hiện tính chất của cuộc
kháng chiến của nhân ta là một cuộc chiến tranh cách mạng chính nghĩa,
chống lại một cuộc chến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp. Cuộc kháng
chiến của nhân dân ta nhằm mục đích giành độc lập và thống nhất Tổ Quốc,
bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân. Trong cuộc kháng chiến này, dân tộc
Việt Nam vừa đấu tranh để tự cứu mình, vừa đấu tranh cho hòa bình thế giới.
Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam do đó còn là một cuộc
chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, vì dân chủ hòa bình.
Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến:
Kháng chiến toàn dân: Là toàn dân kháng chiến, toàn dân đánh giặc
không phân biệt già trẻ, trai gái, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là
một pháo đài. Sở dĩ như vậy là vì: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì
lợi ích toàn dân nên phải do toàn dân tiến hành.
Kháng chiến toàn diện: Là kháng chiến trên tất cả các mặt: Quân sự,
chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao….Vì thực tiển giặc Pháp không những

đánh ta về quân sự mà con phá ta cả về kinh tế, chính trị, văn hóa…Cho nên
ta không những kháng chiến chống Pháp trên mặt trận quân sự mà phải kháng
chiến toàn diện trên tất cả các mặt. Đồng thời kháng chiến toàn diện còn để
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân.
Kháng chiến trường kỳ (nghĩa là đánh lâu dài): Đây là một chủ trương
vô cùng sáng suốt của Đảng ta, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-

13


Lê Nin vào hoàn cảnh nước ta. Ta yếu, địch mạnh nên phải đánh lâu dài để
chuyển hóa lực lượng.
Tự lực cánh sinh: Chủ yếu là dựa vào sức mình là chính sức mạnh của
nhân dân không trông chờ ỷ lại vào bên ngoài, đồng thời phải tranh thủ sự
viện trợ của quốc tế. Muốn đánh lâu dài thì phải dựa vào sức mình là chính.
Ý nghĩa và tác dụng của đường lối kháng chiến chống Pháp: Toàn bộ
đường lối kháng chiến thấm nhuần tư tưởng chiến tranh mhân dân sâu sắc. Nó
chứng tỏ cuộc kháng chiến của ta là chính nghĩa, nên được nhân dân ủng hộ.
Đường lối kháng chiến có tác dụng dộng viên, dẫn dắt nhân dân ta tiến hành
cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù
phải trải qua nhiều hy sinh gian khổ nhưng nhất định sẽ giành thắng lợi.
Về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng,
chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc
yêu chuộng tự do, hòa bình.
Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích
chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, là "triệt để dùng du kích, vận
động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài... vừa đánh vừa võ trang
thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ".
Về kinh tế: Xây dựng kinh tế tự cấp, tập trung phát triển nền nông

nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng. Về văn
hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ theo
ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực.
"Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp", sẵn sàng đàm
phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập,... Kháng chiến lâu dài (trường
kì): là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian
phát huy yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa" của ta, chuyển hóa tương quan

14


lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
Dựa vào sức mình là chính: "phải tự cấp, tự túc về mọi mặt", vì ta bị bao vây
bốn phía. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song
lúc đó cũng không được ỷ lại. Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian
khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi. Đường lối kháng chiến của Đảng với
những nội dung cơ bản nêu trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được
kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ.
1.3.2.2. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng
Sau khi ra đời, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đặc biệt coi trọng
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh làm nòng cốt để bảo vệ
chính quyền cách mạng. Ngay từ Hội nghị quân sự toàn quốc (10-1946),
Đảng ta đã xác định, xây dựng lực lượng vũ trang là nhiệm vụ trọng tâm,
quan trọng hàng đầu. Khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, thực hiện chủ
trương quân sự hóa toàn dân, vũ trang hóa toàn dân của Đảng, hàng triệu nam,
nữ thanh niên đã hăng hái tham gia dân quân tự vệ, trong đó có hơn 8 vạn
người tình nguyện xung phong gia nhập Vệ Quốc đoàn. Nhờ đó, lực lượng vũ
trang từ chỗ chỉ có khoảng 5.000 người (8-1945), đến tháng 12-1946 đã có

hơn 85.000 cán bộ, chiến sĩ, được tổ chức thành 27 trung đoàn ở miền Bắc và
30 đơn vị vũ trang tập trung cấp chi đội và tiểu đoàn ở Nam Bộ, tăng gấp 70%
so với cuối năm 1945. Ngay tại Hà Nội, chưa đầy một tháng sau ngày Toàn
quốc kháng chiến, trung đoàn đầu tiên mang tên Trung đoàn Thủ Đô đã ra
đời, sau đó là Trung đoàn 52 và Trung đoàn 48 được thành lập. Các đơn vị
lực lượng vũ trang cùng với khoảng 2 triệu dân quân du kích và tự vệ là lực
lượng nòng cốt, quan trọng, quyết định đến thắng lợi của toàn quốc kháng
chiến và cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ của dân tộc Việt
Nam chống thực dân Pháp xâm lược.

15


TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Sau thắng lợi vang dội của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945,
nước ta gặp vô vàn khó khăn, rơi vào tình trạng “ngàn cân treo sợi tóc”.
Chính quyền còn non trẻ, kinh tế cạn kiệt, văn hóa lạc hậu. Tuy Pháp đã kí
Hiệp định Sơ bộ và Tạm Ước nhưng Pháp vẫn đẩy mạnh xâm lược nước ta.
Thực hiện chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” tiến công lên Việt Bắc để
nhanh chóng tiêu diệt cơ quan đầu não của ta, thiết lập chính quyền và kết
thúc chiến tranh. Đảng ta đã vạch ra đường lối kháng chiến là “Kháng chiến
toàn dân, toàn diện, trường kì, và tự lực cánh sinh”. Động viên toàn dân dù
phải trải qua nhiều hy sinh gian khổ nhưng nhất định sẽ giành thắng lợi.

16


Chương 2
TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC ĐÁNH
NHANH THẮNG NHANH CỦA THỰC DÂN PHÁP NĂM 1946 – 1947

2.1. CUỘC CHIẾN ĐẤU CỦA QUÂN VÀ DÂN TA TRONG NHỮNG THÁNG ĐẦU
TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN

2.1.1. Cuộc chiến đấu của quân và dân ta tại Thủ đô Hà Nội và các thành
phố lớn
Trước những hành động mới của kẻ thù, ngày 13 - 12 - 1946, Hội nghị
các khu trưởng họp tại thị xã Hà Đông đã quyết định: “Phải chuẩn bị cấp tốc
để tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện và trường kỳ”, vạch kế hoạch tác
chiến chung và phương án phá hoại, làm “vườn không nhà trống”. Trong hội
nghị này, Bộ Tổng chỉ huy giao nhiệm vụ tác chiến cho Khu 11 tiêu diệt một
bộ phận quân Pháp ở Hà Nội, tích cực bám đánh, giam chân địch, tạo điều
kiện cho cả nước chuẩn bị kháng chiến. Khu 2 tiến công địch ở Nam Định,
đánh quân tăng viện cho Nam Định bằng đường bộ và đường thủy. Khu 3 tiến
công địch đóng ở thị xã Hải Dương và cầu Phú Lương, cầu Lai Vu, bao vây
địch ở Hải Phòng, cắt đường bộ Hải Phòng - Hà Nội. Khu 12 đánh địch ở Bắc
Giang, Bắc Ninh, bao vây địch ở Lạng Sơn, cắt đường bộ Lạng Sơn - Hà Nội.
Khu 4 đánh địch ở Vinh, Huế, đánh địch tăng viện từ Đà Nẵng ra, cắt đường
bộ Đà Nẵng - Huế. Khu 5 tiến công và giam chân địch ở Đà Nẵng, cắt đứt
đường bộ Huế - Đà Nẵng. Các chiến trường cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ
có nhiệm vụ phát động chiến tranh du kích, tích cực tiến công địch, giam
chân, gây khó khăn cho chúng trong việc tăng viện ra Bắc.
Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tổng chỉ huy, Bộ chỉ huy các khu, các
thành phố, thị xã đã khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến và tiến hành
chuẩn bị về mọi mặt. Nhờ đó, khi toàn quốc kháng chiến nổ ra, mặc dù điều
kiện chiến đấu không cân sức song bằng thế trận được tạo lập và xây dựng

17


vững chắc, chúng ta vẫn tổ chức thành công những đợt tác chiến và hoàn

thành xuất sắc nhiệm vụ, nhất là tác chiến trong các đô thị. Tại thủ đô Hà Nội,
không gian và thời gian của các đợt tác chiến đã vượt ra ngoài phạm vi của
từng trận cụ thể; nhiều trận đánh ác liệt, diễn ra đồng thời và kế tiếp có tác
dụng hỗ trợ, đáp ứng yêu cầu chung của các cấp chiến lược. Kết quả trong
chiến đấu, chúng ta đã giam chân địch ở thành phố Đà Nẵng và vùng ngoại ô
kéo dài 1 tháng; ở Huế kéo dài 50 ngày; ở Nam Định kéo dài gần 3 tháng; ở
Hà Nội kéo dài trong 60 ngày đêm...
Cuộc chiến đấu của quân và dân ta chủ động vây đánh địch trong các
thành phố đã thắng lợi vẻ vang. Nó đã đánh bại hoàn toàn âm mưu và kế
hoạch của thực dân Pháp hòng đánh úp cơ quan đầu não của ta tại Hà Nội,
tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta ở các thành phố lớn. Nó đã tiêu hao và vây
hãm quân địch dài ngày trong các thành phố, tạo điều kiện cho cả nước
chuyển vào kháng chiến.
Cùng với toàn dân đánh giặc, lực lượng vũ trang của ta không những đã
tiêu hao, tiêu diệt địch, bảo toàn mình mà còn phát triển lực lượng. Đây là
cuộc chiến đấu của công nhân và các tầng lớp nhân dân thành thị, có Vệ quốc
quân và Tự vệ làm nòng cốt, có nông thôn ngoại thành làm chỗ dựa, dùng
cách đánh du kích chủ động tiến công trước khi quân địch kịp trở tay và chủ
động kết thúc trước khi kẻ địch đem toàn lực phản kích. Cuộc chiến đấu của
quân và dân ta tại Thủ đô Hà Nội và các thành phố đã cỗ vũ tinh thần quyết
chiến quyết thắng của toàn thể dân tộc Việt Nam, mở đầu cuộc kháng chiến
thần thánh chống thưc dân Pháp trên phạm vi cả nước.
2.1.2. Quân và dân ta phá cuộc tiến công lớn của thực dân Pháp đầu năm
1947
Tháng Giêng và tháng Hai năm 1947, thực dân Pháp tăng viện binh, nâng
tổng số quân viễn chinh Pháp lên 10 vạn, chúng mở cuộc phản công và tiến công
lớn, đánh ồ ạt ở Trung Trung Bộ, Tây Bắc, Đông Bắc, Đường số 5 và đồng bằng

18



×