Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

Nghiên cứu dịch tễ huyết thanh học bệnh quai bị và đáp ứng tạo kháng thể, phản ứng không mong muốn của vắc xin quai bị chủng leningrad 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.77 MB, 137 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh quai bị (còn được gọi là viêm tuyến mang tai dịch tễ hay viêm
tuyến mang tai do vi rút quai bị) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây
truyền trực tiếp qua đường hô hấp thông qua việc tiếp xúc với nước bọt của
người bị nhiễm bệnh. Bệnh thường gây thành dịch ở trẻ em, thanh thiếu niên
đặc biệt những người sống trong các tập thể như trường mẫu giáo, trường học,
trại tập trung, trại lính, tàu thuyền, trại trẻ mồ côi…Mặc dù bệnh thường có
biểu hiện từ nhẹ đến trung bình nhưng có tới 10 đến 15% các trường hợp quai
bị có thể biến chứng thành viêm màng não nước trong và một tỷ lệ nhỏ
(khoảng 0,02-0,03%) các trường hợp chuyển thành là viêm não - gây điếc, tàn
tật vĩnh viễn hoặc tử vong. Viêm tinh hoàn, viêm buồng trứng gây vô sinh
cũng là những biến chứng thường gặp [1] [5].
Trước những năm 1960, khi chưa có vắc xin phòng bệnh thì quai bị là
một bệnh lây nhiễm phổ biến và xảy ra ở khắp nơi trên thế giới. Tỷ lệ mắc
mới hàng năm dao động trong khoảng từ 100-1000 ca bệnh trên 100.000 dân
[6]. Ở những nơi có khí hậu ôn đới, bệnh có thể xảy ra ở bất cứ thời điểm nào
trong năm. Ngược lại, ở những nơi có khí hậu theo mùa, bệnh thường xảy ra
vào mùa đông và mùa xuân. Kinh nghiệm dịch tễ từ nhiều quốc gia cho thấy
dịch quai bị thường xảy ra theo chu kỳ từ 2-5 năm một lần. Mặc dù bệnh quai
bị được báo cáo nhiều nhất ở trẻ em từ 5-9 tuổi nhưng bệnh cũng có thể xảy
ra ở cả thanh thiếu niên và người lớn [6]. Các nghiên cứu tại một số quốc gia
trên thế giới trước khi áp dụng chương trình tiêm chủng vắc xin quai bị trên
diện rộng cho thấy tỷ lệ các trường hợp đã có kháng thể kháng vi rút quai bị
dương tính trong huyết thanh do lây nhiễm trước đó ở lứa tuổi 14-15 chiếm
khoảng 90% [6].


2


Việc bảo vệ khỏi bệnh quai bị có liên quan đến sự có mặt của kháng thể
đặc hiệu có trong huyết thanh. Kháng thể IgG kháng vi rút quai bị được tạo ra
do nhiễm tự nhiên với vi rút quai bị có thể tồn tại lâu dài thậm chí cả đời
trong máu [7]. Kháng thể IgG kháng vi rút quai bị được xem là chỉ điểm để
xác định đối tượng đã bị nhiễm với vi rút quai bị hay chưa.
Vắc xin quai bị sống giảm độc lực chính thức được cấp phép sử dụng
tại Mỹ vào năm 1967 và tại hàng loạt các quốc gia khác sau đó [7]. Tại những
quốc gia đã triển khai tiêm phòng vắc xin, tỷ lệ mắc quai bị đã giảm đi nhanh
chóng, điển hình như tại Mỹ tỷ lệ này giảm từ 90/100.000 dân (năm 1967)
xuống còn 0,7/100.000 dân (năm 1993) [1]; Ở Châu Âu, tại 44 trong số 53
quốc gia (chiếm 84%) đã đưa vắc xin quai bị vào chương trình tiêm chủng mở
rộng, vì vậy tỷ lệ mắc đã giảm xuống dưới 1/100.000 dân (năm 1993) so với
100/100.000 dân (năm 1967)... Hơn nữa, tại hầu hết các quốc gia này, biến
chứng viêm não và điếc vĩnh viễn do quai bị gần như đã bị loại trừ [1]. Theo
báo cáo của Tổ chức y tế thế giới, tính đến tháng 8/2007, đã có 112 quốc gia
(chiếm 58%) đã triển khai tiêm phòng vắc xin quai bị trong chương trình tiêm
chủng mở rộng. Mặc dù vậy, vắc xin quai bị vẫn chưa được sử dụng rộng rãi
trong chương trình tiêm chủng mở rộng ở 81 quốc gia khác trên thế giới đặc
biệt là các quốc gia đang phát triển và kém phát triển trong đó có Việt Nam.
Tại Việt Nam, theo thống kê của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, trên
phạm vi cả nước trong giai đoạn 1991-1996, số ca mắc quai bị trung bình
hàng năm là 9.579 trường hợp; Đặc biệt giai đoạn 1996-2000, dịch quai bị có
xu hướng gia tăng đáng kể với số mắc trung bình hàng năm là 21.086 trường
hợp. Đến giai đoạn 2001-2005 số mắc trung bình hàng năm lên đến 26.275
trường hợp. Hiện nay, số các trường hợp mắc bệnh quai bị được xếp hàng thứ
7 trong số 24 bệnh truyền nhiễm gây dịch được quản lý tại Việt Nam, chỉ sau
các bệnh lý viêm đường hô hấp cấp, các bệnh lý đường ruột và sốt xuất huyết


3


Dengue [Error: Reference source not found]. Cho tới nay, tại Việt nam, rất ít
các nghiên cứu về dịch tễ học bệnh quai bị được tiến hành. Các dữ liệu có
được chủ yếu là giám sát thụ động về số các trường hợp nhập viện được báo
cáo tại các bệnh viện, trạm y tế xã, huyện. Các nghiên cứu đánh giá dịch tễ
huyết thanh học bệnh quai bị là rất cần thiết để có thể đánh giá đúng thực
trạng về tình hình nhiễm vi rút quai bị trong cộng đồng cũng như các yếu tố
về dịch tễ liên quan đến bệnh quai bị. Nghiên cứu dịch tễ huyết thanh học của
bệnh quai bị cũng đặc biệt có giá trị khi mà việc giám sát bệnh dịch quai bị tại
Việt Nam còn chưa có hệ thống và đang trong quá trình xây dựng.
Cùng với công tác dự phòng bệnh quai bị, ngoài hệ thống giám sát
bệnh dịch còn có vai trò quan trọng của vắc xin quai bị. Tại Việt Nam, vắc
xin đơn giá được sử dụng gồm 2 loại: vắc xin quai bị chủng Leningrad-3 do
Viện công nghiệp khoa học liên bang Microgen – Nga và vắc xin quai bị
chủng Zagreb do công ty Maiza - cộng hòa Séc sản xuất. Trong thời gian gần
đây, một số vắc xin đa giá sởi - quai bị - rubella như vắc xin MMR-II (Merck
Sharp & Dohm), Priorix (GlaxoSmithKline) cũng đã được đưa vào thị trường
Việt Nam. Tất cả các loại vắc xin quai bị này hiện nay đều chưa được đưa vào
chương trình tiêm chủng mở rộng Quốc gia, việc tiêm chủng chủ yếu là do
người dân tự nguyện và tự trả tiền. Giá của một liều vắc xin đa giá trung bình
cao hơn khoảng 5-7 lần so với giá của một liều vắc xin quai bị đơn giá, do vậy
vắc xin quai bị đơn giá với ưu thế về giá cả vẫn được sử dụng rộng rãi và phổ
biến rộng trong cộng đồng đặc biệt ở những khu vực xa thành phố.
Vắc xin quai bị chủng Leningrad-3 được cấp phép lưu hành lần đầu tiên
tại Nga năm 1970 và được sử dụng rộng rãi trên toàn nước Nga kể từ thời
gian đó đến nay. Tại Việt Nam, vắc xin này được cấp phép đăng ký và đưa
vào sử dụng từ năm 2005. Hàng chục ngàn liều vắc xin này đã được sử dụng
và phòng bệnh quai bị cho người dân Việt nam trong thời gian qua. Tuy vậy,



4

cũng như tất cả các loại vắc xin quai bị đơn giá hay đa giá khác đang sử dụng
tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào được tiến hành để đánh giá về khả năng
đáp ứng tạo kháng thể cũng như các phản ứng không mong muốn của các vắc
xin quai bị này trong đó có vắcxin quai bị chủng Leningrad-3.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu dịch tễ huyết thanh học bệnh quai bị và đáp ứng tạo kháng thể,
phản ứng không mong muốn của vắc xin quai bị chủng Leningrad -3”.
Nhằm mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm dịch tễ huyết thanh học của bệnh quai bị tại hai tỉnh
phía Bắc Việt Nam.
2. Đánh giá hiệu quả đáp ứng tạo kháng thể của vắc xin phòng quai bị
chủng Leningrad-3.
3. Đánh giá các phản ứng không mong muốn của vắc xin phòng quai
bị trên sau tiêm chủng.


5

Chương 1

TỔNG QUAN
1.1. VI RÚT QUAI BỊ

1.1.1. Lịch sử phát hiện vi rút quai bị
Từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, Hyppocrates đã mô tả những người
bị bệnh do nhiễm vi rút hoang dại với các biểu hiện sưng đau cạnh tai do
nhiễm trùng ở một hoặc cả hai bên mang tai [Error: Reference source not
found].

“Mumps” là xuất phát từ một động từ cũ trong trong tiếng Anh, có nghĩa là
nhăn nhó (grimace), hoặc nhai trệu trạo (mumble). Halmiton, một bác sĩ cuối thế
kỷ 18, khi mô tả về bệnh học thần kinh của các trường hợp gây chết người đã đề
cập đến mối liên quan giữa hệ thống thần kinh trung ương và bệnh quai bị [Error:
Reference source not found], [9].
Các công trình nghiên cứu từ năm 1908 đã cho thấy sự đa dạng của các
vi sinh vật gây bệnh ở những người bệnh nghi mắc quai bị. Những nghiên cứu
này đã gợi ý về các yếu tố chọn lọc và lây truyền trong bệnh quai bị tuy vẫn
còn chưa hoàn toàn rõ ràng. Các công trình nghiên cứu trên thực nghiệm của
Johnson và Goodpasture đã chứng minh vi rút quai bị (VRQB) là nguyên
nhân gây sưng tuyến mang tai của khỉ Rhezus khi tiêm dịch tiết từ tuyến
mang tai của 4 đến 6 bệnh nhân bị bệnh quai bị vào lỗ ống Stensen của nó
[10].
Từ những kết quả ban đầu, Johnson và Goodpasture đã tiếp tục hoàn thiện
công trình của mình bằng một loạt các thực nghiệm như tranh thủ sự hợp tác
của hàng xóm là những người có con em tham gia tiêm thử nghiệm lây nhiễm
với VRQB được phân lập từ các mô tuyến mang tai của khỉ nhiễm VRQB. Vi
rút được đưa vào cơ thể trẻ em bằng cách phết dịch miệng vào vị trí lỗ ống


6

tuyến mang tai và hít vào bằng cách xịt qua mũi. Kết quả cho thấy không có
trẻ nào bị nhiễm quai bị trở lại trong số 4 trẻ có tiền sử mắc bệnh quai bị.
Ngược lại, có 6 trẻ được giả định là có khả năng bị sưng tuyến mang tai
nhưng thực ra chỉ có 3 trong 6 trẻ bị sưng tuyến mang tai với thời gian ủ bệnh
18 ngày [10].
Những công trình nghiên cứu tiếp theo của các tác giả Habel và Enders
vào năm 1945 đã cho thấy VRQB có thể phân lập và nhân lên trong trứng
đã có phôi với các đặc tính ngưng kết hồng cầu, ly giải hồng cầu, ái tính

với thần kinh [9]. Sau này các nghiên cứu về VRQB ngày càng sâu hơn,
đặc biệt khi công nghệ sinh học phân tử phát triển đã giúp hiểu rõ hơn về
cấu trúc, đặc điểm sinh học, bệnh học cũng như dịch tễ học của bệnh quai
bị [Error: Reference source not found], [9].
1.1.2. Một số đặc điểm sinh học của vi rút quai bị
1.1.2.1. Xếp loại vi rút quai bị
VRQB là vi rút ARN chuỗi âm, không cắt đoạn, họ Paramyxoviridae,
dòng paramyxovirinae, nhóm Rubulavi rút [Error: Reference source not
found],[9].


7

Hình 1.1: Hình ảnh vi rút quai bị dưới kính hiển vi điện tử
1.1.2.2. Hình thái vi rút
Giống như các thành viên khác cùng nhóm, VRQB đa hình dạng có kích
thước từ 100 đến 600nm, gồm 1 lõi ribonucleocapsid xoắn cuộn bao quanh
bởi lớp vỏ lipid có nguồn gốc từ tế bào vật chủ. Lớp vỏ ngoài tạo thành các
nhú 12-15nm nhô ra trên bề mặt vi rút được tạo thành bởi các glycoprotein
của vi rút. Cấu trúc lõi bên trong (nucleocapsid) là phức hợp các
ribonucleoprotein tạo thành một ống rỗng có chiều dài xấp xỉ 1µm, đường
kính 17nm, và một lõi giữa 5nm. ARN là một phân tử lớn không phân cực
âm, chuỗi đơn, không cắt đoạn gồm 15.384 nucleotides [9].
1.1.3. Các protein chính của vi rút quai bị
Rất nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu và đưa ra phác họa về hình thái của
vi rút quai bị. Cấu trúc chủ yếu của vi rút quai bị gồm 6 loại protein: 2
glycoprotein: 1 hemagglutinin - neuraminidase (HN) và 1 phân tử liên kết F (Fusion);
protein phức hợp hay gọi là protein chính M (Matrix); protein liên kết nucleocapsid
NP; phosphoprotein (P) và protein polymerase (L) liên kết nucleocapsid [Error:
Reference source not found].

Vi rút quai bị có hai glycoprotein xuyên màng là F và HN. Glycoprotein
lớn nhất HN (hemagglutinin – neuraminidase) có cả hai đặc tính ngưng kết
hồng cầu và ái tính thần kinh [11]. Khi ở dạng tự nhiên, protein HN là một
oligomer có cầu sulfide kép, có vai trò làm trung gian trong quá trình hấp phụ
vi rút vào tế bào chủ và kháng thể đơn dòng đặc hiệu kháng HN có tác dụng
ức chế khả năng gây nhiễm của vi rút [Error: Reference source not found].
Protein F là một phức hợp bao gồm glycopolypeptide (F1 và F2) liên kết với
nhau bởi cầu nối sufide kép có kích thước không đồng nhất. Glycoprotein F liên
kết với màng lipid ở điều kiện pH trung tính, do đó có tác dụng trong việc xâm
nhập nuclecapsid của vi rút vào tế bào vật chủ và làm ly giải hồng cầu. [Error:
Reference source not found].


8

Protein M hay còn gọi là protein màng hoặc protein phức hợp là loại
protein không glycosyl hóa. Protein M đóng vai trò quan trọng trong việc tạo
nên các paramyxovi rút bằng cách liên kết các nucleocapsid ở vùng màng tế
bào chủ mà các hạt vi rút sẽ được hình thành [Error: Reference source not
found],[12].
Trong nucleocapsid của hạt vi rút, thành phần chủ yếu là protein NP, một
lượng ít hơn là protein P, và một polypeptide có trọng lượng phân tử lớn là L.
Các protein này tham gia vào quá trình sao chép vi rút khi vi rút quai bị xâm
nhập vào trong tế bào [Error: Reference source not found].
Ngoài ra, vi rút quai bị còn có hai protein không cấu trúc là: SH và I. SH
(Small Hydrophorbic) là dạng protein kỵ nước nhỏ có liên kết với màng [13],
[14]. Vai trò của các protein SH và I trong quá trình nhân lên của vi rút cho
đến nay vẫn còn chưa được biết rõ. Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy một số
chủng vi rút quai bị không có loại protein này. Điều đó có nghĩa là gen SH
không liên quan đến việc nhân lên của vi rút quai bị [Error: Reference source

not found] [15].
Vi rút quai bị có hai quyết định kháng nguyên chính là S và V tương ứng
với 2 protein NP và HN. Trong thử nghiệm trung hòa, sử dụng kháng huyết
thanh đa dòng cho thấy có tác dụng chéo đối với kháng nguyên HN của các
chủng vi rút quai bị khác nhau. Cho dù có một số kháng thể trung hòa kháng
HN đặc hiệu type nhưng không thấy có sự thay đổi đặc hiệu về chuỗi
acidnucleic ở các kháng thể đặc hiệu type này. Kháng huyết thanh đặc hiệu vi
rút và kháng thể đơn dòng kháng NP của vi rút quai bị cho phản ứng chéo
huyết thanh giữa các vi rút quai bị và các vi rút á cúm khác [Error: Reference
source not found], [16].


9

Hình 1.2: Sơ đồ các protein chính của vi rút quai bị [15]
1.2. CÁC CHỦNG VI RÚT QUAI BỊ

Mặc dù VRQB là một vi rút đơn type nhưng sự thay đổi về gen giữa các
chủng vi rút khác nhau cũng đã được nghiên cứu. Kiểu gen của VRQB được
xếp loại từ A đến L dựa vào chuỗi nucleotide của gen SH là gen có sự thay đổi
chuỗi nucleotide lớn nhất trong các gen của VRQB [18]. Gen SH hoàn chỉnh
gồm chuỗi 316 nucleotid chứa vùng mã hóa protein 171 nucleotid (57 acid
amin) và đây được xem là lượng thông tin chuỗi gen tối thiểu để xếp loại một
kiểu gen mới đối với một chủng vi rút chưa biết [17]. Sự thay đổi của các
chủng VRQB có cùng một genotype SH ở mức độ nucleotide lên tới 4%,
trong khi sự thay đổi bản thân bên trong genotype đó lên tới 8-19% [61],[62].
Điều này gợi ý đưa ra tiêu chí xác định các genotype mới là sự thay đổi ở mức
độ nucleotide phải lớn hơn 5% so với các genotype hiện hành [9].
Các nghiên cứu về phân bố địa lý và thời gian cho thấy rằng đặc điểm
genotype của VRQB có vai trò rất quan trọng trong việc giám sát bệnh quai bị



10

do đặc điểm genotype có thể giúp xác định đường lây truyền của vi rút cũng
như phân biệt được giữa chủng VRQB hoang dại với chủng VRQB sản xuất
vắc xin [17],[19], [20], [21] [22].
Để các nghiên cứu về dịch tễ học phân tử của VRQB được dễ dàng và có
thể nghiên cứu mở rộng hơn, đồng thời xây dựng tiêu chí để xác định các
genotype mới của VRQB, các nhà khoa học đã bàn bạc để đưa ra cách đặt tên
và sơ đồ đặc điểm gen chuẩn của các chủng VRQB hoang dại, tuy nhiên cho
đến nay vẫn chưa thống nhất [23],[24].
Hiện tại, tên của chủng được bắt đầu bằng 3 chữ cái mã nước, sau đó đến
năm phân lập được chủng, số nhận dạng của chủng và gen, và đưa tên MuVs
và MuVi để chỉ ra chủng vi rút được phân lập từ mẫu lâm sàng hay từ nuôi
cấy tế bào [17].

Bảng 1.1: Các chủng vi rút quai bị hoang dại tham chiếu [17]
Kiểu gen
A

B

C
D
E (C)
F
G
H


Tên chủng
End/USA 45*
SBL-1/SWE69
JL/US63 (vaccine)
Rubini (vaccine)
Ura/Jap67
Mat/Jap84
Miya (vaccine)
Hoshino (vaccine)
Bf/UK75
Bml/Uk90
Ge9/Gem77
Islip 1/UK97
Ed2/UK88
WLZ1/CNA95
WSH1/CNA96
Glouc1/CNA95
UK01-22
Be1/UK96
ManchS1/UK95

Mã nước và năm phân lập
USA 45, 50, 63; SWE69, 93; CHE74;
DEU87, 92; CAN88

JPN67-95; GBR89, 90

GBR75, 80s, 90, 98-2000; SWE80s, 92;
DEU87, 92, 93; CHE95; PRT96; LTU98-00.
DEU77; PRT96, 97, 99; LTU99; DEN80s,

90s, 01; JPN93.
GBR88
CHN95; GBR99; SWE71, 72, 84.
GBR91, 96-05; JPN99-05.
GBR88,95,96n98-01; CHE95,98-00;
KOR99; JPN97.


11

Odate-1
AA12/Korea97
MP94H/JNP94
Loug1/UK97
DK81/01 (DMK81)
Fukuoka49/JPN00
TokyoS-III-10/JPN01
Leningrad-3 (vaccine)
L-Zagreb (vaccine)
Tay/UK50s
UNK02-19

I
J
K
L
*
*
*


JPN93; KOR97-01.
JPN94, GBR97
DNK81-88
JPN-01
RUS53
GBR50s
GBR02

*: Chủng vi rút tham chiếu để xếp loại kiểu gen mới.
Một số chủng trong số 12 chủng vi rút quai bị được đưa ra trong bảng trên
nhưng cho đến nay vẫn chưa phân lập thành công, một số chủng trong số đó
đã được dùng để sản xuất vắc xin.
Bảng 1.2: Các chủng vi rút quai bị sản xuất vắc xin đang sử dụng hiện nay
[9], [25].
Tên chủng
Jeryl Lynn
Urabe Am9

Nước phân lập
Mỹ (1967)
Nhật

Bản

Nhà sản xuất

Tế bào

(Hãng, viện)
nuôi cấy

Merck Sharpe and CEF

Dohme
(cuối SmithKline Beecham CEF

những năm 1960)

CEF

RIT 4385
Leningrad-

năm 1970)
Đức 1997
Yugoslavia

Mát xcơ va
GlaxoSmithKline
CEF
Viện huyết thanh CEF

Zageb

(Croatia)

học, Ấn Độ

(Những năm 1970) Viện miễn dịch học
Miyahara


Nhật bản

dụng
Toàn cầu
Toàn cầu

Biken

Pasteur Merioux
Leningrad-3 Liên Xô cũ (những Viện y học vi sinh,
a

Phạm vi sử

Nga
Toàn cầu
Toàn cầu
Yugoslavia

Zagreb
Viện nghiên cứu điều CEF

Nhật bản

trị huyết thanh-hóa
NK M-46

Chiba

học Chem – Sero

Chiba

CEF

Nhật bản


12

S-12

Iran

Viện vắc xin và hyết HDCS

Iran

thanh Razi

Ghi chú:
CEF (Chicken Embryo Fibroblast): nguyên bào sợi phôi gà;
HDSC (Human Diploid Cell Strain): chủng tế bào lưỡng bội người
a

: Tinh chế từ chủng Jeryl Lynn

Bảng 1.3: Các chủng vi rút quai bị đã được phân lập dùng để sản xuất
vắc xin nhưng hiện nay không sử dụng hoặc sử dụng hạn chế [9], [25].

Tên chủng


Nước phân lập

Nhà sản xuất

Tế bào

Hoshino

Nhật Bản

Viện Kitasato

nuôi cấy
CEF

Torii

(những năm 1970)
Nhật Bản

Takeda Chemicals

CEF

Sofia-6

(những năm 1970)
Bun-ga- ri (1965)


Trung

tâm

bệnh

Phạm vi sử
dụng
Nhật Bản
Nhật Bản
Bun- ga- ri

truyền nhiễm và ký
Rubini

Thụy sĩ (1985)

sinh trùng, Sofia.
Viện huyết thanh HDCS

Châu Âu

học, Thụy sĩ

1.3. CƠ CHẾ BỆNH SINH VÀ ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH CỦA CƠ THỂ ĐỐI
VỚI VI RÚT QUAI BỊ

1.3.1. Cơ chế bệnh sinh
Kết quả nghiên cứu về khả năng lan truyền của VRQB sau khi gây nhiễm
vi rút này vào dịch tiết của mũi và miệng đã cho thấy quá trình lây nhiễm tự

nhiên với VRQB được bắt đầu bằng lan truyền qua dịch tiết đường hô hấp


13

trên của người bệnh [Error: Reference source not found], [9]. Trong vòng 18
ngày ủ bệnh kể từ khi bắt đầu phơi nhiễm đến khi có biểu hiện triệu chứng
đầu tiên, VRQB sẽ nhân lên ở dịch tiết đường hô hấp trên, lan truyền qua các
hạch lympho và sau đó lan tỏa nhanh theo đường máu. VRQB có thể lây
nhiễm vào hầu hết các mô và tổ chức của cơ thể. Cơ quan lây truyền phổ biến
nhất bao gồm tuyến mang tai, thần kinh trung ương, cơ quan sinh dục, thận,
tụy, tim, các khớp và làm sưng biểu mô của các cơ quan này [9].
VRQB có mặt trong nước bọt khoảng 6 ngày trước khi khởi phát viêm
tuyến mang tai [27]. Khi quá trình bài tiết vi rút vào nước bọt kết thúc cũng là
lúc kháng thể IgA đặc hiệu được sản xuất và thường xuất hiện khoảng 5 ngày
sau khi bệnh khởi phát [26]. Kháng thể IgM đặc hiệu cũng có mặt sớm trong
nước bọt của người bệnh [28]. Do vậy, khả năng lan truyền VRQB của người
bệnh thông thường trong khoảng từ 7 đến 10 ngày [9].
VRQB biến mất trong máu cũng là thời điểm kháng thể dịch thể đặc hiệu
kháng vi rút quai bị được sản xuất và người ta có thể xác định được kháng thể
này trong huyết thanh rất sớm, khoảng 11 ngày sau khi được lây nhiễm [9], [29].
1.3.2. Đáp ứng miễn dịch của cơ thể đối với vi rút quai bị
Hiện nay, chỉ có các kháng thể trực tiếp kháng protein HN đã được xác
định là có thể trung hòa với VRQB mặc dù kháng thể trực tiếp kháng protein
F được xem là có vẻ có tác dụng trung hòa này nhưng chưa rõ ràng. Các
kháng thể này có vai trò bảo vệ cơ thể chống lại sự lây nhiễm với VRQB [30],
[31], [32]. Tiến hành các thử nghiệm trung hòa vi rút bằng các kháng huyết
thanh đa dòng cho thấy có sự phản ứng chéo rộng rãi giữa các genotype khác
nhau của vi rút quai bị [20]. Tuy nhiên, khả năng chọn lọc các kháng thể xác
định chỉ trung hòa với các chủng VRQB đặc hiệu cũng cho thấy có sự có mặt

của các epitope trung hòa đặc hiệu với chủng vi rút đó [9], [33], [34], [35].


14

Đáp ứng miễn dịch với VRQB của cơ thể rất phức tạp nhưng về cơ bản có
thể chia thành 2 loại: đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào và đáp ứng
miễn dịch dịch thể.
1.3.3.1. Đáp ứng miễn dịch dịch thể
Tiến hành thử nghiệm cố định bổ thể (CF - Complement Fixation) trong đó
sử dụng kháng nguyên VRQB đã chỉ ra rằng kháng thể đặc hiệu VRQB là chỉ
điểm ưu tiên để xác định một trường hợp nhiễm VRQB bao bồm cả các
trường hợp mắc quai bị không hoặc có biểu hiện viêm tuyến mang tai [36],
[37]. Trong thử nghiệm CF, các nhà nghiên cứu đã xác định được kháng thể
kháng protein HN mà kháng nguyên tương ứng là V và kháng thể kháng
protein NP mà kháng nguyên tương ứng là S [37]. Kháng thể kháng kháng
nguyên V tồn tại hàng năm sau khi phơi nhiễm với vi rút. Ngược lại kháng thể
kháng kháng nguyên S bị giảm đi trong vòng vài tháng sau khi phơi nhiễm.
Sự tăng giảm khác nhau giữa hai loại kháng thể này giúp cho việc phân biệt
giữa nhiễm trùng cấp tính (kháng thể kháng V cao, kháng S cao) và nhiễm
trùng mạn tính tức đã nhiễm lâu trong quá khứ (kháng thể kháng V cao, kháng
S thấp hoặc không đo được) [9].
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, các kỹ thuật
miễn dịch gắn enzym (ELISA), thử nghiệm trung hòa giảm đám hoại tử (PRN
– Plaque Reduction Neutralization), ức chế ngưng kết hồng cầu (HI –
Hemaglutinin Inhibition) hay thử nghiệm miễn dịch phóng xạ (RIA – Radio
Immuno Assay) đã dần thay thế cho thử nghiệm CF trong các nghiên cứu invitro [38], [39], [40], [41].
Đáp ứng kháng thể lớp IgM đặc hiệu kháng VRQB thường diễn ra sớm
hơn đáp ứng kháng thể lớp IgG và thường mất đi trong vòng 2 đến 6 tháng
[42]. Do vậy, đáp ứng kháng thể lớp IgM đặc hiệu VRQB được coi là chỉ

điểm huyết thanh nhạy nhất để xác định tình trạng nhiễm vi rút cấp tính hoặc


15

nhiễm mới. Ngoài ra, loại kháng thể này có ưu điểm là ít có phản ứng chéo
với các kháng nguyên liên quan khác của các vi rút á cúm [42]. Đáp ứng
kháng thể lớp IgG đặc hiệu VRQB thường chỉ đạt nồng độ cao nhất khoảng 3
tuần sau khi có biểu hiện bệnh trên lâm sàng nhưng có thể không tồn tại suốt
đời [42]. Tuy nhiên, với kỹ thuật ngưng kết miễn dịch cho thấy các kháng thể
lớp IgG nhận diện đối với HN, F, NP, P được sản sinh kéo dài sau khi nhiễm
tự nhiên nhưng đối với kháng nguyên M thì không tuân theo quy luật này.
Đáp ứng miễn dịch đối với IgG chủ yếu ở phân lớp IgG1 và có một phần nhỏ
ở phân lớp IgG3 [43] có liên quan đến đáp ứng của tế bào hỗ trợ T loại 1
(Th1). HN là protein đích chính tạo ra đáp ứng miễn dịch dịch thể bảo vệ cơ
thể khỏi VRQB [31], [44], [45], [46]. Kháng thể IgA chế tiết có được sau khi
nhiễm vi rút tự nhiên hoặc sau tiêm vắc xin cũng có vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ cơ thể chống tái nhiễm [47], [48], [49].
Vai trò của kháng thể dịch thể trong việc bảo vệ cơ thể chống lại VRQB là
rõ ràng. Tiến hành tiêm VRQB với nồng độ 109 đơn vị tạo đám hoại tử (PFUPlaque-Forming-Units) vào cơ thể người đã có huyết thanh dương tính với
kháng thể kháng VRQB, kết quả là những người này chỉ có biểu hiện sốt
thoảng qua và không có triệu chứng tái nhiễm cho dù hiệu giá kháng thể có
tăng trở lại sau đó khoảng 4-5 ngày [50]. Mặt khác, tiêm kháng thể đơn dòng
trung hòa một vài ngày sau khi đưa VRQB vào cơ thể động vật cũng có tác
dụng bảo vệ tránh nhiễm vi rút thử thách có độc tính [51]. Nghiên cứu trên
chuột đất vàng cho thấy có mối liên quan giữa việc tăng kháng thể trung hòa
đối với kháng nguyên HI và VRQB với việc giảm hiệu giá vi rút tại các tổ
chức bị lây nhiễm. Tuy nhiên, trên chuột đất vàng, kháng nguyên vi rút vẫn
tiếp tục tăng và các triệu chứng thần kinh trung ương thực tế vẫn xảy ra trên
lâm sàng ngay cả sau khi hiệu giá vi rút đã giảm đi đáng kể [29] .

1.3.3.2. Đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào


16

Kết quả nghiên cứu in-vitro ở những đối tượng huyết thanh dương tính với
kháng thể kháng VRQB cho thấy có đáp ứng tăng sinh tế bào lympho [52]. Đáp
ứng miễn dịch qua trung gian tế bào đối với kháng nguyên được nhận diện trước
đó có thể giảm trong vòng 4 tuần ở người nhiễm VRQB chủng sản xuất vắc xin
cũng như đối với phần lớn các chủng VRQB tự nhiên.
Tế bào lympho T gây độc và CD8 + xuất hiện trong máu và trong dịch não
tủy sau khi gây nhiễm với các chủng VRQB hoang dại hoặc các chủng vi rút
sản xuất vắc xin [53], [54], [55], [56]. Hiện tượng tăng sinh các tế bào đơn
nhân ở các tổ chức mô bị nhiễm VRQB tại thời điểm khởi phát bệnh trên lâm
sàng chứng tỏ rằng đáp ứng miễn dịch tế bào đặc hiệu đã diễn ra trong thời kỳ
ủ bệnh. Sự xuất hiện của các tế bào lympho T biểu hiện phức hợp hòa hợp mô
(MHC - Major Histo-Compatibility) và các tế bào cảm nhiễm đặc hiệu ở trong
cả máu và dịch não tủy của một số bệnh nhân viêm màng não do nước trong
do quai bị cũng đã khẳng định thêm quan điểm này [57]. Đáp ứng miễn dịch
đạt được cao nhất là khoảng từ 2 đến 3 tuần sau nhiễm vi rút [54]. Đáp ứng
của tế bào T gây độc lưu hành đã cản trở các tế bào đích bị nhiễm vi rút được
thấy trong 1 vài tuần đầu tiên ở bệnh nhân viêm màng não nước trong do quai
bị. Thêm vào đó, những thay đổi trong đáp ứng miễn dịch tế bào của vật chủ
đối với các tế bào nhiễm vi rút cũng ảnh hưởng đến các biểu hiện lâm sàng
của bệnh và góp phần tạo nên các bệnh cảnh lâm sàng khác nhau của bệnh
quai bị.
Qua các nghiên cứu về miễn dịch học đối với các vi rút cùng họ (ví dụ: vi
rút sởi…) một lần nữa đã chứng tỏ tầm quan trọng của đáp ứng miễn dịch tế
bào trong quá trình khỏi bệnh và miễn dịch bảo vệ kéo dài [58],[59],[60].
1.4. BỆNH QUAI BỊ


1.4.1. Đặc điểm lâm sàng của bệnh quai bị


17

Đặc điểm lâm sàng bệnh quai bị phản ánh bệnh cảnh nhiễm trùng.
Khoảng 1/3 trong số các trường hợp bệnh không xuất hiện triệu chứng [63].
Các nghiên cứu gây nhiễm nhân tạo và dịch tễ học đã cho thấy thời gian ủ bệnh
kể từ khi bắt đầu phơi nhiễm đến khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên khoảng 16
-18 ngày. VRQB có mặt trong nước bọt của người bệnh vài ngày trước khi bắt
đầu xuất hiện các triệu chứng lâm sàng và tồn lưu trong nước bọt khoảng 5 ngày
[26]. VRQB cũng có thể được xác định trong nước tiểu của người bệnh vài tuần
sau khi các triệu chứng lâm sàng xuất hiện [9].
Triệu chứng phổ biến nhất trong bệnh quai bị là sưng tuyến nước bọt,
xảy ra ở khoảng 95% các trường hợp có triệu chứng. Tuyến mang tai cũng
thường bị liên quan và có khoảng 90% các trường hợp viêm tuyến mang tai cả
2 bên. Viêm tuyến hàm dưới lan tỏa và tuyến dưới lưỡi cũng xảy ra. Viêm
lan tỏa ở các tuyến này thường xảy ra tối đa là trong vòng 48 giờ là thời
điểm triệu chứng đau nổi bật nhất [64]. Triệu chứng sưng có thể kéo dài vài
tuần hoặc hơn. Sốt vừa thường xuất hiện ngay khi khởi phát bệnh và giảm
sau vài ngày.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy bệnh quai bị có liên quan một cách
rộng rãi, đa dạng và có tính chất hệ thống với nhiều các cơ quan nội tạng khác
nhau như tinh hoàn, hệ thần kinh, mào tinh hoàn, tuyến tiền liệt, buồng trứng,
gan, tuyến tụy, lách, tuyến giáp, thận, tai trong, mắt, tuyến yên, tim, tuyến vú,
phổi, tủy xương, và các khớp nối [Error: Reference source not found],[9]. Các
cơ quan này có thể bị nhiễm vi rút sau khi đã viêm tuyến mang tai nhưng các
liên quan của chúng có thể biểu hiện trên lâm sàng trước, trong hoặc thậm chí
không có sưng tuyến mang tai [9]. Sau khi nhiễm VRQB, khoảng 1/4 các

trường hợp nam giới phát triển thành viêm tinh hoàn, biến chứng này thường
gặp ở một bên nhiều hơn và tỷ lệ mắc cao sau tuổi dậy thì [63]. Viêm tinh
hoàn thường dẫn đến teo mào tinh hoàn [65]. Khoảng 15% các trường hợp nữ
giới có triệu chứng sưng và đau vú. Cũng như viêm tinh hoàn ở nam giới, tỷ


18

lệ viêm vú cao gấp đôi ở các trường hợp nữ giới sau dậy thì [63]. Buồn nôn
và nôn kèm theo đau hoặc không đau vùng thượng vị hoặc ¼ trái trên là các
triệu chứng thường gặp trong bệnh quai bị và được ghi nhận trong một vụ
dịch quai bị xảy ra ở hòn đảo St. Lawrence [9],[63]. Tuy nhiên, các triệu
chứng này có phản ánh mối liên quan giữa bệnh quai bị và tụy hay một số cơ
quan nội tạng khác hay không còn chưa rõ ràng. Ngoài ra, các triệu chứng
toàn thân như đau mỏi cơ, chán ăn, khó chịu cũng thường xuất hiện và không
đặc hiệu cho nhiễm các loại vi rút nói chung [9].
Viêm màng não trên lâm sàng do quai bị có thể xảy ra ở khoảng <15%
các trường hợp, viêm não ít xảy ra hơn [67],[68],[69]. Viêm màng não do quai
bị có thể xảy ra trước khi viêm tuyến mang tai nhưng biểu hiện rõ nét thường
vào khoảng 5 ngày sau khi có biểu hiện viêm tuyến mang tai. Các nghiên cứu
cũng cho thấy có khoảng 50% trong số những người viêm màng não do quai
bị không có biểu hiện viêm tuyến nước bọt [9],[70].
1.4.2. Chẩn đoán bệnh quai bị
1.4.2.1. Chẩn đoán lâm sàng
Chẩn đoán lâm sàng bệnh quai bị là rất khó khi không có triệu chứng
viêm tuyến mang tai và đặc biệt là trong những trường hợp bệnh xảy ra đơn lẻ
không mang tính dịch tễ. Tuy nhiên, cũng cần loại trừ các nguyên nhân khác
gây viêm tuyến mang tai như do ăn tinh bột, nhạy cảm với iodine, khối u, hội
chứng Sjogren, bệnh Sarcoit, nhiễm trùng có mủ bao gồm nhiễm
Mycobacterial không điển hình và nhiễm các vi rút khác như á cúm tuýp 1 và

3, cúm A, Coxsackie [Error: Reference source not found].
Chẩn đoán lâm sàng bệnh quai bị chủ yếu dựa vào triệu chứng sốt và
các hội chứng của các cơ quan nội tạng (ví dụ: viêm tuyến mang tai) thường
xảy ra khoảng 3 tuần sau khi phơi nhiễm. Các triệu chứng của viêm màng não
nước trong nếu có sẽ gồm đau đầu, nôn, sốt, và cứng gáy thường xảy ra vào
khoảng 3-5 ngày sau khi khởi phát các triệu chứng viêm tuyến mang tai và


19

kéo dài trong khoảng 1-2 tuần sau đó [67],[71]. Các dấu hiệu Kernig và
Brudzinski thường dương tính ở các bệnh nhân viêm màng não và chẩn đoán
phân biệt với viêm não có thể dựa vào kết quả EEG bình thường mặc dù đôi
khi trong viêm não kết quả EEG cũng bình thường [72]. Trong rất nhiều
trường hợp, việc chẩn đoán có thể dựa vào tỷ lệ kháng thể trong dịch não tủy
và huyết thanh tăng lên [73],[42]. Viêm màng não nước trong do quai bị nhìn
chung thường là lành tính và hồi phục hoàn toàn sau từ 3-4 ngày [9]. Trạng
thái mê sảng lành tính và tổn thương thần kinh khu trú ít phổ biến [70], [74].
Sự cải thiện rõ rệt về chức năng thần kinh trên lâm sàng ở các bệnh nhân viêm
màng não nước trong và viêm não do quai bị không có tổn thương thần kinh
khu trú, không có các cơn co giật cục bộ kéo dài hoặc tái diễn thường diễn ra
trong vòng từ 2-4 ngày. Thậm chí với những trường hợp tổn thương sâu, bệnh
nhân vẫn có thể hồi phục nhưng để lại một vài di chứng [75].
Khi bệnh quai bị không biểu hiện triệu chứng điển hình bằng viêm
tuyến mang tai hoặc viêm tuyến nước bọt lan tỏa chỉ thoáng qua trong khi
biểu hiện tại các cơ quan khác hay triệu chứng TKTƯ có phần trội hơn thì
việc chẩn đoán bệnh quai bị cần dựa vào kết quả chẩn đoán cận lâm sàng,
thậm chí ngay cả khi có yếu tố dịch tễ [Error: Reference source not found],
[9].
1.4.2.2. Chẩn đoán cận lâm sàng

Hiện nay, việc chẩn đoán cận lâm sàng bệnh quai bị có thể dựa vào
phân lập vi rút, các chẩn đoán huyết thanh học tùy theo mẫu huyết thanh bệnh
nhân đó ở giai đoạn cấp tính hay giai đoạn hồi phục, hoặc xác định genome
của vi rút bằng kỹ thuật phản ứng chuỗi men ngược (RT-PCR: Reverse
Transcription – Polymerase Chain Reaction) [Error: Reference source not
found],[9].
* Phân lập vi rút quai bị


20

Phân lập vi rút hầu hết là trực tiếp từ nước bọt, tuy nhiên phương pháp
này ngày càng ít được sử dụng. Phân lập vi rút từ nước bọt trong vòng 4-5
ngày xuất hiện triệu chứng [76] và từ nước tiểu cho đến 2 tuần [77]. Ở những
bệnh nhân viêm màng não, tốt nhất phân lập VRQB trong dịch não tủy trong
vòng khoảng 8-9 ngày khởi phát các triệu chứng thần kinh trung ương [78].
Hiếm khi phân lập được VRQB từ máu [79].
* Chẩn đoán bằng huyết thanh học
Chẩn đoán huyết thanh học chủ yếu dựa vào kết quả tăng hiệu giá
kháng thể trong huyết thanh giai đoạn cấp tính và giai đoạn phục hồi. Mẫu
huyết thanh giai đoạn cấp tính được lấy ở thời điểm khởi phát bệnh và giai
đoạn phục hồi lấy ở thời điểm tối thiểu 2 tuần sau đó [Error: Reference source
not found]. Bởi vì phần lớn các trường hợp hoặc được tiêm vắc xin hoặc phơi
nhiễm tự nhiên với vi rút quai bị nên phát hiện kháng thể đối với VRQB đơn
thuần trong huyết thanh bệnh nhân không chẩn đoán được tình trạng nhiễm vi
rút cấp tính. Tuy nhiên, hiệu giá kháng thể phải cao ít nhất gấp 4 lần hoặc hơn
ở mẫu huyết thanh giai đoạn phục hồi lấy được từ 2-4 tuần sau giai đoạn khởi
phát so với mẫu huyết thanh lấy được trước đó hoặc lấy được vào giai đoạn
khởi phát sẽ có giá trị trong chẩn đoán.
Thêm vào đó, nồng độ kháng thể IgM và IgG đối với VRQB có sự khác

biệt khi chỉ có mẫu huyết thanh ở giai đoạn cấp tính. Đáp ứng kháng thể IgM
đặc hiệu kháng vi rút quai bị thường diễn ra sớm hơn so với kháng thể IgG và
trở về bình thường sau khoảng từ vài tuần đến vài tháng [42],[80]. Kháng thể
IgG thường tồn tại bền vững. Phương pháp xác định kháng thể kháng VRQB
phổ biến hiện nay là ELISA. Ngoài ra, một số phương pháp khác như CF, HI,
trung hòa vi rút … cũng được thực hiện nhưng ít phổ biến hơn.
* Kỹ thuật RT-PCR:
Việc khuếch đại và giải trình gen (ví dụ: gen SH) bằng kỹ thuật RTPCR tiến hành trực tiếp hoặc sau khi đã nuôi cấy tế bào từ các mẫu bệnh


21

phẩm thu được trên lâm sàng có thể giúp nhận dạng được chủng VRQB và
đưa ra được các dữ liệu quan trọng về dịch tễ học của bệnh [9], [81]. Kỹ thuật
này rất đặc hiệu và nhạy, có thể xác định được VRQB trong các mẫu bệnh
phẩm lâm sàng với lượng rất nhỏ mà phương pháp nuôi cấy tế bào trước đó
đã cho kết quả âm tính [82],[83]. Trong trường hợp bệnh nhân có biểu hiện
viêm tuyến mang tai thì nên xét nghiệm mẫu bệnh phẩm từ nước bọt và hầu
họng của bệnh nhân. Kỹ thuật PCR-RT rất có giá trị để xét nghiệm dịch não
tủy của bệnh nhân trong trường hợp nghi ngờ viêm màng não do quai bị.
Trong một nghiên cứu, các nhà khoa học đã xác định được RNA của vi rút
quai bị ở 96% các trường hợp trước đó đã được chẩn đoán là hội chứng
TKTƯ do vi rút trên lâm sàng. Ngược lại, chỉ có khoảng 39% trong số các
trường hợp này có kết quả dương tính với VRQB khi tiến hành xét nghiệm
bằng phương pháp nuôi cấy tế bào [83]. Tỷ lệ xác định được VRQB bằng kỹ
thuật RT-PCR trong nước tiểu bệnh nhân là rất thấp [9],[82].
1.5. DỊCH TỄ HỌC BỆNH QUAI BỊ

Ngày nay, bệnh quai bị không còn giới hạn về địa lý ngoại trừ một số ít
những vùng dân cư xa xôi hẻo lánh hoặc ở những hòn đảo nhỏ. Tại những nơi

đô thị hiện đại ngày nay không được bao phủ bởi vắc xin phòng bệnh, bệnh
quai bị xảy ra thành dịch với tỷ lệ mắc tập trung vào các tháng mùa đông và
mùa xuân [74]. Bệnh được xác định lưu hành rộng trên toàn thế giới gây nên
nhiều vụ dịch đối với lứa tuổi trẻ em, thanh thiếu niên, những nơi tập trung
đông người như nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, trại mồ côi, nhà tù, trại lính,
tàu thuyền... [9],[84]. Các vụ dịch quai bị vẫn tiếp tục xảy ra ở cả các quốc gia
có nền kinh tế phát triển và kém phát triển thậm chí ở những quần thể đã được
tiêm phòng vắc xin quai bị [85],[86],[87],[88].
1.5.1. Tình hình bệnh quai bị trên thế giới
Việc thu thập các số liệu về tỷ lệ mắc quai bị đã gặp khó khăn bởi có
tới 30% các trường hợp mắc bệnh quai bị không có biểu hiện triệu chứng trên


22

lâm sàng [89],[90]. Thêm vào đó, do tính thông thường nói chung của bệnh,
nên chỉ có khoảng 25% các trường hợp được thăm khám trên lâm sàng và chỉ
có khoảng 14% trong số các trường hợp này được báo cáo tới các cơ sở y tế
công cộng [9],[74].
Theo số liệu giám sát dịch tễ quai bị của WHO, số ca mắc quai bị từ
năm 2002 đến 2006 tại một số quốc gia trên thế giới được trình bày trong
bảng sau [91] :

Bảng 1.4: Số ca mắc quai bị từ 2002 – 2006 tại một số quốc gia trên thế
giới
Quốc gia
Argentina
Bỉ
Bulgaria
Trung quốc

Pháp
Cộng hòa Czech
Cuba
Iraq
Nhật bản
Nga
Singapore
Thái lan
Anh
Mỹ

2006
11461
54
911
273242
7500
5172
882
1865
0
2361
844
7595
5691
6339

2005
10727
70

608
291135
1803
346
3243
0
3017
1003
8791
63525
-

2004
11483
56
91
226619
13749
244
279
15256
84672
4366
1003
10767
10055
258

2003
94

180
13000
753
84672
9191
877
10608
197

2002
334
748
254711
11490
1090
544
238

-: không có số liệu báo cáo
Hằng năm, dịch quai bị vẫn xảy ra trên toàn thế giới không chỉ ở những
quốc gia chưa có vắc xin bao phủ mà cả ở những quốc gia vắc xin quai bị
được đưa vào chương trình tiêm chủng thường xuyên từ rất lâu. Các lý do


23

chính của việc các dịch quai bị vẫn tiếp tục xảy ra là do không có vắc xin quai
bị, hoặc vắc xin quai bị mới được đưa vào tiêm chủng gần đây, hoặc đã được
đưa vào từ lâu nhưng độ bao phủ thấp, hoặc miễn dịch bảo vệ giảm, không
bảo vệ được khỏi vi rút quai bị.

* Các quốc gia chưa đưa vắc xin quai bị trong chương trình tiêm chủng:
Ở những quốc gia chưa đưa vắc xin quai bị vào chương trình tiêm
chủng, bệnh quai bị thường xảy ra thành từng dịch và chu kỳ của các dịch
thường lặp lại từ 2-5 năm [103]. Tỷ lệ mắc cao nhất ở lứa tuổi từ 5-9 tuổi. Ví
dụ các quốc gia chưa có vắc xin quai bị trong chương trình tiêm chủng đại trà
đã xảy ra các vụ dịch quai bị trong thời gian gần đây như Bhutan (25.554 ca
quai bị vào năm 1999), Việt nam (18.008 trường hợp quai bị vào năm 1999),
Kenya (30.468 trường hợp vào năm 2000), Trung Quốc (226.619 trường hợp
vào năm 2004), Romania (64.427 trường hợp năm 2004), và Zambia (17.472
trường hợp năm 2004) [103].
* Các quốc gia mới đưa vắc xin quai bị vào chương trình tiêm chủng trong
thời gian gần đây:
Đối với những quốc gia này, dịch quai bị vẫn tiếp tục có thể xảy ra ở
nhóm chưa được tiêm vắc xin quai bị. Ví dụ như Argentina là nước đã đưa
vắc xin MMR vào tiêm chủng quốc gia cho trẻ em 1 tuổi từ năm 1997, tỷ lệ
bao phủ vắc xin được báo cáo là 99% năm 1998. Tuy nhiên dịch quai bị vẫn
bùng phát với số các trường hợp quai bị lên đến 24.028 vào năm 1999. Hoặc
như nước cộng hòa Ả rập Xy-ri đã đưa vắc xin tam liên sởi – quai bị - rubella
(MMR: Measles – Mumps – Rubella) vào chương trình tiêm chủng trên diện
rộng cho trẻ em 15 tháng tuổi từ năm 1999 với tỷ lệ bao phủ vắc xin được báo
cáo đạt 94% năm 2000. Tuy nhiên, đại dịch quai bị vẫn bùng phát trên diện
rộng vào năm 2001 với số ca mắc bệnh là 18.651. Tương tự như vậy, Ba Lan
cũng đã đưa vắc xin MMR vào chương trình tiêm chủng cho trẻ em 13-14


24

tháng tuổi năm 2003 nhưng dịch đại quai bị vẫn tiếp tục xảy ra vào năm 2004
với tổng số 135.179 ca được báo cáo.


* Các quốc gia đã đưa vắc xin quai bị vào chương trình tiêm chủng nhưng tỷ
lệ bao phủ thấp:
Các quốc gia đã đưa vắc xin quai bị vào chương trình tiêm chủng
nhưng tỷ lệ bao phủ còn thấp thì dịch quai bị cũng vẫn tiếp tục có thể xảy ra.
Ví dụ: tại Nhật Bản, vắc xin quai bị đã được đưa vào tiêm chủng từ năm 1981
(ngoại trừ giai đoạn 1989-1993: giai đoạn này vắc xin quai bị được đưa vào
chương trình tiêm chủng quốc gia) nhưng mức độ bao phủ vắc xin này vẫn
còn thấp và chỉ đạt khoảng 30-40%, các trường hợp mắc quai bị được báo cáo
năm 2004 tại Nhật Bản lên đến 84.672 ca [103].
* Các quốc gia đã được bao phủ vắc xin quai bị trong nhiều năm:
Các vụ dịch quai bị thậm chí vẫn xảy ra ở cả các quốc gia đã đưa vắc
xin quai bị vào tiêm chủng từ nhiều năm nay. Ví dụ: Bắc Tây Ban Nha với
1.300 ca được chẩn đoán quai bị trong vụ dịch xảy ra vào tháng 8/2006 01/2007 [101]; tại Mid-Ulster của Bắc Ireland với 729 ca được báo cáo trong
vụ dịch xảy ra vào tháng 11/1999 - 8/2000 [102]; Bulgari với 997 ca năm
2007; tại Anh với 2 vụ dịch lớn xảy ra trong 2 năm liên tiếp 2004-2005 với
tổng số 56.000 trường hợp mắc quai bị được báo cáo [104],[105]; tại Bỉ với ít
nhất 105 trẻ em của 7 trường tiểu học năm 2004 [99]; tại Áo với ít nhất 150 ca
mắc tại 5 quận của 1 tỉnh miền Nam và 2 tỉnh miền Bắc vào tháng 7/2006
trong đó có 2 ca viêm màng não do quai bị, 9 ca bị viêm tinh hoàn và 2 ca
viêm tụy, 1 phụ nữ có thai [100]; tại Thụy Điển với 42 ca xảy ra từ tháng 24/2004 [98]...
Từ 1999, Tổ chức y tế thế giới (WHO – World Health Organization) đã
yêu cầu tất cả các quốc gia thành viên phải báo cáo thường niên số ca mắc
quai bị của nước đó. Dữ liệu giám sát quai bị rất khác nhau giữa các vùng


25

khác nhau của WHO, và ở hầu hết các nước việc giám sát chủ yếu là thụ động
[103]. Trong giai đoạn từ 1999-2004, gần 3 triệu trường hợp mắc quai bị đã
được báo cáo chính thức trên toàn thế giới [103].

Bảng 1.5: Số ca quai bị trên thế giới được báo cáo chính thức cho WHO
giai đoạn 1999-2004 [103].
Năm
Khu vực
Châu Phi
Châu Mỹ
Trung Đông
Châu Âu
Đông Nam Á
Tây Thái Bình
Dương
Tổng số

1999

2000

2001

2002

2003

2004

13.327
35.825
64.361
385.428
34.250


38.713
43.840
65.935
243.344
9.395

15.731
46.894
35.431
160.350
14.994

18.023
9.477
19.861
169.110
2.710

11.550
20.712
12.351
188.413
13.318

19.266
29.947
26.492
251.003
12.861


25.111

142.866

138.941

257.898

87.719

314.647

558.122

544.093

412.197

477.079

334.063

654.216

1.5.2. Tình hình bệnh quai bị tại Việt nam
Kết quả giám sát bệnh quai bị hiện nay cho thấy bệnh quai bị lưu hành
rộng rãi ở mọi nơi trên lãnh thổ nước ta. Tỷ lệ mắc trung bình trong 10 năm
(1991-2000) là 20,6/100.000 dân và không có tử vong. Tỷ lệ mắc bệnh cũng
được ghi nhận khác nhau giữa các miền. Miền Bắc có tỷ lệ cao nhất là

32,5/100.000 dân; Tây Nguyên 24/100.000 dân; Miền Trung 16/100.000 dân;
Miền Nam 6,6/100.000 dân [1], [2]. Hiện nay, số mắc bệnh quai bị được xếp
hàng thứ 7 trong số 24 bệnh truyền nhiễm gây dịch được quản lý ở nước ta,
chỉ xếp sau các bệnh về viêm đường hô hấp cấp, các bệnh về đường ruột và
sốt xuất huyết Dengue [Error: Reference source not found].
Theo thống kê của Viện VSDTTƯ trên phạm vi cả nước trong giai đoạn
1991-1996, số mắc bệnh trung bình hàng năm là 9.579 trường hợp [1]. Sang
giai đoạn 1996-2000, dịch ngày càng có xu hướng gia tăng một cách đáng kể
với số mắc trung bình hàng năm là 21.086 trường hợp [2]. Đến giai đoạn
2000-2006, số mắc trung bình hàng năm tăng lên 24.001 trường hợp.


×