Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Họa họa thời cổ trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.2 KB, 18 trang )

Hội hoạ thời Trung cổ
Chủ nhật 23, Tháng Mười Một 2008
BTV: conotos
Mức độ viếng thăm : 2%
Trên trang web Hội hoạ Kitô giáo thời kỳ đầu
Ra đời từ thế kỷ 7 TCN, thành phố Byzance mang tên người sáng lập và thủ lĩnh của di dân Hy Lạp. Đến năm 330,
Byzance trở thành kinh đô Constantinople của đế chế La Mã. Suốt thời Trung Cổ, Constantinople là thành phố giàu
nhất châu Âu và nơi phát triển phong cách nghệ thuật byzantin, trước khi trở thành kinh đô Istanbul của đế chế
Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman.
Minh họa Trường ca Roland (Các hiệp sĩ Đen và vua Massile)
Trong khi ở phía Tây, giáo hội La Mã chủ trương sử dụng các hình tượng nghệ thuật để minh hoạ, giải thích, nhằm mục
đích truyền bá đạo Kitô, thì ở phía Đông, đại bộ phận của giáo hội ở Byzance lại triệt để chống lại quan niệm này, vì cho
rằng tất cả những gì có tính chất thiêng liêng, thuộc về tâm linh, thì không thể nào trình bày một cách cụ thể bằng hình ảnh
được. Kịp đến năm 754, chủ trương của giáo hội ở Byzance thắng thế, và hình tượng nghệ thuật Kitô giáo bị cấm hẳn
trong toàn bộ các sinh hoạt tôn giáo. Việc cấm đoán này đã kéo dài trong suốt một thế kỷ.
1
Minh họa thơ tình, trường phái roman
Ra khỏi thời kỳ đó (năm 843), nghệ thuật Kitô giáo ở Byzance vẫn mang đậm ảnh hưởng của truyền thống Hy-La, với
những quy ước khá gò bó. Mặc dầu vậy, nền nghệ thuật này đã phát triển với những nét sáng tạo riêng của nó trong suốt
thời kỳ Trung cổ, từ thế kỷ IX đến ít nhất hết thế kỷ XII ở các nước phía Đông như: Syrie, Liban, Lưỡng Hà, Ai Cập,
Ethiopie, v.v. và ngay cả ở Sicile và Ý.
Đồng thời, ảnh hưởng của nền nghệ thuật này sẽ đem lại cho nghệ thuật Kitô giáo ở phương Tây một ngôn ngữ tượng
trưng hơn, cách điệu hoá hơn, và phóng khoáng hơn là ngôn ngữ hiện thực theo truyền thống Hy-La thuần tuý, từ bố cục,
nét vẽ, cho đến màu sắc.
Người ta thường bảo : người Ai Cập cổ vẽ cái mà họ biết là đúng, như trong thực tế ; người Hy Lạp cổ vẽ cái mà họ nhìn
thấy ; còn người nghệ sĩ Kitô giáo thời Trung cổ thì vẽ không phải chỉ là để tạo ra một tác phẩm có chất lượng thẩm mỹ,
mà cốt là để truyền đạt một thông điệp có ý nghĩa tôn giáo.
Thiên sứ Gabriel truyền tin cho Đức Mẹ chịu thai (tiểu hoạ ở sách Phúc Âm Souabe, Đức, 1150)
Bước vào thế kỷ XIII, nghệ thuật hội hoạ rômăng nhường bước cho hội hoạ gôtích, và mặc dầu cả hai nền nghệ thuật này,
nói chung, đều phát triển chậm hơn nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc cùng thời, song chúng ta sẽ thấy rằng cả hai, nhất là
nền hội hoạ gôtích, sẽ có một ảnh hưởng lớn lên nghệ thuật ở các thế kỷ sau.


Ở Ý, vào thời kỳ này, các hoạ sĩ tìm nguồn cảm hứng ở Byzance nhiều hơn là ở Paris, không phải chỉ vì cái nền phông cổ
điển Hy-La của nghệ thuật ở Byzance cung cấp cho họ một căn bản kỹ thuật vững vàng hơn để thực hiện những điều mà
nền điêu khắc gôtích đã thực hiện được.
Đức Mẹ và chúa Giêxu (phong cách Byzantin, 1280)
Lý do chính, thực ra không phải chỉ là vấn đề kỹ thuật, hay thẩm mỹ, mà là một vấn đề tâm lý, liên quan đến niềm tin của
những tín đồ Kitô giáo vào những gì thuộc về cái truyền thống mà họ cho là đích thực hơn : họ tin tưởng vào những bức
tranh thờ vẽ trên gỗ (icônes) của truyền thống Byzance hơn là bất cứ truyền thống nghệ thuật nào khác.
Một sự kiện lịch sử đã tình cờ góp phần vào sự truyền bá ảnh hưởng của Byzance sang phía Tây: năm 1204, đội quân
Thập tự chinh sau khi chiếm được Byzance đã đóng lại ở đây trong hơn nửa thế kỷ. Trong thời gian chiếm đóng này, nhiều
2
kho tàng nghệ thuật cất giữ trong các nhà thờ, tu viện, ở Byzance, cũng như nhiều tài liệu quý báu về những quy ước nghệ
thuật của nền nghệ thuật Kitô giáo ở phương Đông đã được lấy đem về phương Tây, đặc biệt là đem về Ý, và đã được
khai thác một cách triệt để ở Ý.
Simone Martini: Truyền tin (1333, trường phái Siena, Ý)
Chúng ta sẽ thấy rằng, nghệ thuật của Byzance, và của Kitô giáo ở phương Đông, nói chung, đặc biệt là nghệ thuật tranh
thờ vẽ trên nền gỗ (icônes) và các bức tiểu hoạ (miniatures), sẽ có một ảnh hưởng trực tiếp lên nền hội hoạ ở Ý vào thời
kỳ tiền phục hưng và phục hưng, bắt đầu từ các hoạ sĩ của trường phái Siena và các hoạ sĩ ở Firenze như : Pisano,
Berlinghieri, Cimabue, Duccio di Buoninsegna, Simone Martini, v.v. Ảnh hưởng này tích cực chủ yếu về mặt thẩm mỹ. Còn
về nội dung, đặc biệt về mặt hiệu quả truyền đạt các thông điệp, nhằm giáo dục quần chúng, thì theo sự đánh giá của
Roger Bacon (1219-1292), một nhà khoa học, thày tu dòng thánh Phan-xi-cô, người sẽ có một vai trò hàng đầu trong giáo
hội về mặt thẩm định nghệ thuật Kitô giáo, thì các tác phẩm này còn bị hạn chế và chưa đạt yêu cầu
MICHELANGELO (1475-1564)
Thứ sáu 5, Tháng Mười Hai 2008
BTV: conotos
Mức độ viếng thăm : 2%
Michelangelo di Lodovico Buonarroti Simoni là một nhà điêu khắc, kiến trúc sư, hoạ sĩ và thi sĩ Ý đã có sức ảnh
hưởng mãnh liệt đến nền tảng Mĩ Thuật Phương Tây sau này. Cùng với Leonardo da Vinci, ông đã tạo ra giá trị rực
rỡ cho thời kỳ Phục Hưng Đỉnh Cao.
Michelangelo tự coi là một người con của thành Florence hào hoa, cho dù ông được sinh ra vào ngày 6-3-1475 tại
một khu làng nhỏ của vùng Caprese, gần kề thủ phủ Arezzo. Ông đã có một ràng buộc chặt chẽ với thành phố quê

hương, với nền tảng mĩ thuật, văn hoá của thành phố Florence trong suốt cuộc đời mình. Tuổi thanh xuân của ông
trôi qua phần lớn tại thành Rome khi làm việc cho các Giáo Hoàng nhưng một tâm niệm luôn day dẳng trong ông
là nếu chết thì mong được chôn cất tại Florence. Và tâm nguyện đó đã được hiện thực hoá, ông đã vĩnh viễn siêu
thoát trong một khu tưởng niệm tại nhà thờ Santa Croce.
3
Chúa Trời tạo ra Adam. Nhà nguyện Sixtin
Thân phụ của ông tên là Ludovico Buonarroti Simoni, một quan chức của thành Florence có quan hệ với chính
quyền của gia đình Medici, đã gửi gắm cậu con trai 13 tuổi của mình vào xưởng vẽ của hoạ sĩ Domenico
Ghirlandaio. 2 năm sau, Michelangelo theo học tại trường đào tạo điêu khắc đặt tại gia viên nhà Medici và không
lâu sau ông được mời đến khu biêt thự Tráng Lệ của ngài Lorenzo de Medici. Tại đây ông có cơ hội được làm
quen với con cháu nhà Medici, những người sau đó trở thành Giáo Hoàng Leo X và Clement VII. ông cũng trở
thành bạn thân của nhà Nhân Chủng học Marsilio Ficino và thi sĩ Angelo Poliziano.
Cuộc chiến của các Nhân Mã
Florence
Michelangelo đã sáng tác ít nhất 2 tác phẩm điêu khắc vào thời gian này, khi ông mới 16 tuổi, đó là tác phẩm: The Battle of
the Centaurs (Cuộc chiến của các Nhân Mã), và The Madonna of the Stairs (Đức Mẹ trên cầu thang, 1489-92, Casa
Buonarroti, Florence), và 2 tác phẩm này đều thể hiện thành công phong cách cá nhân của ông trong những năm trẻ tuổi.
Lorenzo, nhà bảo trợ của ông, mất vào năm 1492, chỉ 2 năm sau ngày Michelangelo từ giã thành Florence khi gia đình
Medici bị trục xuất khỏi xứ sở. Michelangelo đã định cư tại thành Bologna, và chính tại đây ông đã tạc một số bức tượng
bằng đá cẩm thạch tại khu Thánh Cốt Arca trong nhà thờ San Domenico vào năm 1494 và 1495.
Sau đó Michelangelo đi Rome, tại đây ông đã thử nghiệm rất nhiều những pho tượng mang một hơi thở mới, phong cách
mới nhưng tiếc thay hầu hết những tác phẩm này đã bị phá huỷ. Ông cũng hoàn thành công trình điêu khắc cỡ lớn đầu tiên
4
của mình, đó là tác phẩm về thần rượu Bacchus trong giai đoạn 1496-1498 và hiện đang trưng bày tại Bargello, Florence.
Một số tác phẩm của ông thường mô tả về những chủ đề Đa thần giáo hơn là những chủ đề mang tính Thiên Chúa Giáo,
trái ngược hoàn toàn với xu hướng tạc tượng thời đó, nhưng các tác phẩm này đã nhận được sự ngưỡng mộ của phong
trào Phục Hưng Đỉnh Cao tại thành Rome.
Tượng Pietà (1498-1500)
Cũng trong thời gian này, ông cũng tạc bức Pietà (1498-1500) bằng đá hoa cương, và bức tượng này vẫn tại vị đúng nơi
ông đã đặt tác phẩm: nhà thờ Thánh Phêrô (Peter’s Basilica). Đây là một trong những bức tượng nổi tiếng nhất mà ông

hoàn thành trước tuổi 25 và cũng là tác phẩm duy nhất được ông ký tên lên. Đức Mẹ Mary trẻ trung hiện lên ở vị trí đang
ngồi rất nghiêm kính, ôm trong lòng thi thể của Đức Chúa, một đề tài thường thấy ở Mĩ thuật vùng Bắc Âu. Thay vì biểu lộ
nỗi đau khổ cực độ, đức Mẹ lại tỏ rõ sự chịu đựng nhẫn nhục và những biểu hiện bên ngoài của đức Mẹ tới người xem
chính là đức Nhẫn Nhục của bà. Trong tác phẩm này, ông đã thâu tóm thành công những tiến bộ trong ngành điêu khắc từ
thế kỷ 15 của các bậc tiền bối như Donatello, trong khi vẫn thổi vào hồn tác phẩm những nét tinh hoa của trào lưu Điêu
khắc trong thế kỷ 16 của phong trào Phục Hưng Đỉnh Cao.
Tượng vua David
Đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác điêu khắc của Michelangelo là tác phẩm David khổng lồ (4,34 m) mà ông đã gia công từ
năm 1501 đến 1504, ngay sau khi ông trở lại Florence. Người anh hùng huyền thoại này được mô tả trong trạng thái khoả
thân, rất uyển chuyển và mềm dẻo, những múi cơ bắp tuyệt đẹp đầy tính đe doạ; David đang nhìn vào một khoảng không
mông lung sau khi đã đã đánh gục người khổng lồ Goliath, kẻ thù bất ngờ của chàng. Khuôn mặt chàng biểu lộ lòng quả
cảm và quyết tâm cao độ khiến người ta phải hãi hùng, e sợ và đây cũng là đặc điểm tiêu biểu của rất nhiều hình tượng
sáng tác của Michelangelo, cũng như dấu ấn cá nhân của riêng ông. David - tác phẩm nổi tiếng của ông đã trở thành biểu
tượng của thành phố Florence xinh đẹp và hiện nay vẫn được đặt nguyên vị tại quảng trường Piazza della Signoria ngay
phía trước Cung điện Palazzo Vecchio, nay là toà thị chính. Với bức tượng này, ông đã vượt hẳn lên so với những nghệ sĩ
đương thời, không những tại Hy Lạp và La Mã mà còn hơn hẳn các nghệ sĩ hiện đại bằng những kỹ thuật mô tả những
đường nét và hồn tác phẩm rất mạnh mẽ và tuyệt đẹp.
Khoả thân (trần nhà nguyện Sixtin)
Trong thời gian chú tâm cho bức tượng David, Michelangelo vẫn thể hiện khả năng hội hoạ của mình trong sứ mệnh vẽ
bức tranh tường The Battle of Cascina (Trận chiến Cascina) tại Sala dei Cinquecent (Phòng 500 đại biểu) ở Palazzo
Vecchio (Cung điện cổ); tác phẩm này đối diện với tác phẩm Battle of Anghiari (Trận chiến Anghiari) của danh hoạ
5
Leonardo da Vinci. Nhưng chẳng ai hoàn thành tác phẩm của mình cả, tất cả chỉ dừng lại ở mức phác thảo với kích cỡ
thật. Michelangelo đã phác thảo hàng loạt những hình tượng ở trạng thái khoả thân hay có y phục và tất cả những phác
thảo này đều được đem vào tác phẩm chính của ông sau này, bức tranh trên trần nhà nguyện Sixtin, tại Vatican.
Nhà nguyện Sixtin
Khi Michelangelo được chính đức Giáo Hoàng Julius II vời lại Rome vào năm 1505 để thực hiện 2 tác phẩm lớn (một trong
số đó chính là bức tranh vòm đã nói trên), ông thấy đây quả thật là một công việc khó khăn và nguy hiểm. Ông phải làm
việc ở độ cao, treo mình trên những giàn giáo và ông đã vẽ trong tư thế đó suốt từ năm 1508 đến năm 1512 để tạo ra một
loạt trong số những bức hoạ đẹp nhất mọi thời đại.

Đức Mẹ (trần nhà nguyện Sixtin)
Trên khung vòm tại nhà nguyện này ông tạo ra một hệ thống trang trí vô cùng phức tạp bao gồm 9 cảnh lấy từ Chương
"Chúa sáng tạo ra thế giới" (Kinh Cựu Ước), bắt đầu bằng cảnh Chúa phân chia Ánh Sáng và Bóng Đêm, cảnh tạo ra
Adam, cảnh tạo ra Eve, sự quyến rũ và sa ngã của Adam và Eve, cảnh đại hồng thuỷ. Những bức hoạ này được đặt tại vị
trí trung tâm, bao quanh bởi các hình ảnh về những vị tiên tri, những bà đồng cốt, bệ đá đăng quang, bởi những hình
tượng lấy trong Cựu Ước, và những hình ảnh về các bậc tổ của loài người.
Để chuẩn bị cho tác phẩm đồ sộ này, ông đã phải nghiên cứu, thiết kế hàng loạt phác thảo, tạo ra các hình tượng hạt nhân
cho mỗi mẫu nhân vật. Chính điều đó đã thể hiện khả năng độc nhất vô nhị của ông trong việc nghiên cứu về giải phẫu học
cơ thể, nghiên cứu các chuyển động của con người, nghiên cứu các hình ảnh huyền bí trong tôn giáo vô cùng kỹ lưỡng.
Do vậy ông đã làm thay đổi về phong cách hội hoạ của Phương Tây một cách mạnh mẽ.
Tượng tộc trưởng Mose
Nhà Mồ của Giáo Hoàng Julius II
Trước khi vẽ tác phẩm trên, ông cũng được đức Giáo Hoàng Julius II giao phó công việc thiết kế một công trình tiêu biểu
nhất thời đại Thiên Chúa Giáo: lăng tẩm của Julius II. Lăng này dự kiến đặt tại nhà thờ thánh Peter, và đây lại là một thử
thách đối với Michelangelo. Công trình tuyệt phẩm này bao gồm hơn 40 nhóm tượng mà chất liệu phải là đá cẩm thạch xứ
Carrara. Tuy nhiên, do nguồn tài chính có hạn, Giáo hoàng đã yêu cầu ông đem vào lăng tẩm của mình một vài bức hoạ
giáo hoàng ưa thích trong nhóm tranh trên trần nhà nguyện Sixtin. Khi tiến hành xây dựng lăng tẩm, ông đã tái thiết kế
những bức tranh đó với hơi hướng hiện đại nhất.
Ông cũng hoàn thành một số tác phẩm điêu khắc đẹp nhất đời mình cho khu lăng tẩm của Julius, bao gồm tượng Tộc
trưởng Mô-sê (1515), giờ đặt tại nhà thờ San Pietro in Vincoli - Rome. Hình tượng Mose hiện ra với các cơ bắp thon chắc
ngồi trong ánh sáng nhạt, đang giữ chặt Cuốn 10 điều răn của Chúa, bộ râu dài chạm sát đôi cánh tay khoẻ mạnh. Mose
nhìn mơ hồ vào khoảng không và dường như đang nói chuyện với Chúa.
6
Người nô lệ hấp hối
Hai bức tượng siêu phẩm khác, The Bound Slave (Người Nô lệ bị giam giữ) và The Dying Slave (Người Nô lệ hấp hối) đều
hoàn thành trong giai đoạn 1510-1513, và hiện trưng bày tại Bảo tàng Louvre, Paris. Chúng càng thể hiển rõ nét hơn
phương pháp tiếp cận của Michelangelo trong điêu khắc. Ông thể hiện sự cầm tù nhân vật của mình bằng các khối đá và
chỉ cần lược bỏ đi những "mẩu đá thừa" thế là tác phẩm đã được hình thành. Ở đây, trái với tác phong sáng tác của mình,
Michelangelo đã để tác phẩm trong tình trạng dang dở (non-finito) có lẽ ông đã hài lòng với tình trạng này của tác phẩm và
muốn dùng sự dang dở đó để truyền đạt tới người xem thân phận khốn khổ của những con người nô lệ.

Leonardo da Vinci (1452-1519)
Thứ hai 9, Tháng Hai 2009
BTV: conotos
Mức độ viếng thăm : 2%
Trên trang web Hội hoạ thời Phục Hưng
Chân dung tự họa. Leonardo di ser Piero da Vinci sinh ngày 15 tháng 4 năm 1452 tại Anchiano, Ý. Ông mất ngày 2
tháng 5 năm 1519 tại Amboise, Pháp.
Da Vinci từng làm họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư, nhà giải phẫu, nhà sáng chế và nhà
triết học tự nhiên. Ông được coi là một thiên tài toàn năng của thời Phục Hưng.
Bữa ăn tối cuối cùng (1498)
7

×