Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Giải pháp góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.5 KB, 41 trang )

ĐẠI HỌC TP. HỒ CHÍ MINH

Báo cáo bài tập lớn
Đường lối cách mạng Đảng Cộng Sản Việt
Nam
Đề tài: Giải pháp góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế ở việt nam hiện nay


MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU
Bước ra từ cuộc chiến tranh khốc liệt để dành độc lập dân tộc và thống nhất đất
nước sau cả một thế kỉ bị xâm lược, Việt Nam bước vào giai đoạn xây dựng đất nước về
tất cả các mặt dù gặp phải muôn vàn khó khăn. Dành được độc lập dân tộc đã khó, việc
xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc lại càng khó khăn hơn, đòi hỏi toàn Đảng và toàn
dân phải ra sức nỗ lực. Trong thời kì trước đổi mới, Việt Nam đã gặp phải cuộc khủng
hoảng lớn về kinh tế, năng suất sản xuất kém, lực lượng sản xuất trình độ thấp, do những
sai lầm và thiếu sót trong đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tạo áp lực mạnh mẽ
cho công cuộc đổi mới về kinh tế ở Việt Nam, đặt ra yêu cầu cấp bách trong việc thay đổi
và nâng cao tư duy lãnh đạo của Đảng để phù hợp với thời cuộc trong và ngoài nước.
Bước vào thời kì đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện trong nước và quốc
tế, Đảng ra quyết định tiến hành xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế và quản lý kinh tế- xã hội từ sử dụng
sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cung với
công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động
xã hội cao.
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật


chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước công
nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Và để hiện thực hóa được các mục tiêu trên, Đảng đã nêu ra các quan điểm chỉ đạo
cụ thể quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới.
Những quan điểm này được Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII
nêu ra và được phát triển, bổ sung qua các Đại hội VIII, IX, X, XI của Đảng.
Trong bài tiểu luận này, nhóm chúng em đã nêu ra và phân tích, tìm hiểu các quan
điểm chỉ đạo của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời kì đổi mới.
Qua đó, nhờ vận dụng những kiến thức được học và tình hình thực tế, nhóm chúng em

3


tiến hành phân tích và giải quyết vấn đề:” ĐẨY MẠNH NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG
KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT LÚA GẠO Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG”. Là một nhóm sinh viên kĩ thuật, lại xuất thân từ gia
đình nhà nông ở chính Đồng bằng sông Cửu Long, chúng em luôn luôn đắn đo làm sao có
thể áp dụng những kiến thức mình đã học cùng những ứng dụng khoa học - công nghệ kĩ
thuật cao vào sản xuất lúa gạo giúp cho người nông dân như ba mẹ bớt được nỗi vất vả
“một nắng hai sương” trên cánh đồng lúa, có nguồn thu nhập tốt và ổn định từ cây lúa đã
gắn bó bao đời, đồng thời nâng cao giá cả và chất lượng hạt gạo Việt Nam, đưa thương
hiệu gạo Việt Nam trở thành thương hiệu gạo chất lượng cao xứng tầm trên trường quốc
tế. Đó chính là lý do nhóm chúng em quyết tâm chọn đề tài nêu trên.
Với vốn kiến thức còn nhiều hạn chế, dù đã cố gắng hoàn thiện và bổ sung, nhưng
bài báo cáo sẽ còn có những sai sót cần khắc phục, nhóm chúng em mong sẽ nhận được
những góp ý từ cô và các bạn để chúng em thêm hoàn thiện kiến thức của mình.
Nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn cô và các bạn!

4



NỘI DUNG
I.

Quan điểm chỉ đạo của đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay
Giai đoạn 1960-1985, do hạn chế trong tư duy nhận thức về đường lối chỉ đạo cũng
như phương thức tiến hành công nghiệp hóa dẫn đến nhiều hạn chế sai lầm dẫn đến sự trì
trệ, chậm tiến của kinh tế nước nhà, gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội khiến công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta bị ảnh hưởng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) – Đại hội đổi
mới với tinh thần “dám nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã
nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm về nhận thức và chủ trương về công nghiệp hóa thời kỳ
1960-1986. Bước đầu đánh dấu quá trình đổi mới tư duy chỉ đạo về công nghiệp hóa ở
nước ta, và cho thấy quyết tâm muốn đổi mới vì mục phát triển đất nước, xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện trong nước và
quốc tế, Đảng ta nêu ra những qua điểm mới chỉ đạo quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước trong điều kiện mới. Những quan điểm này được Hội nghị làn thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa VII nêu ra và được phát triển, bổ sung qua các kỳ Đại hội
VIII, IX, X, XI, XII của Đảng. Dưới đây khái quát những quan điểm của Đảng về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ đổi mới.
1. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát

I.1.

triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường
Khái niệm công nghiệp hóa (CNH) gắn với hiện đại hóa (HĐH)
 Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Xuất phát từ thực tiễn công nghiệp hóa ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, các học giả

phương Tây quan niệm: Công nghiệp hóa là việc đưa các đặc tính công nghiệp cho một
hoạt động, mà thực chất là trang bị các nhà máy cho một vùng, hay một nước... Trong
quan niệm này, họ đã đồng nhất công nghiệp hóa với quá trình phát triển công nghiệp. Họ
coi đối tượng của công nghiệp hóa chỉ là ngành công nghiệp, còn sự phát triển của nông
nghiệp và các ngành khác được coi là đối tượng trực tiếp của công nghiệp hóa.
Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) đưa ra quan
niệm: Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ

5


phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên phát triển một cơ cấu
kinh tế nhiều ngành với kỹ thuật hiện đại. Quan niệm này coi công nghiệp hóa là quá trình
bao trùm toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội và phù hợp với các nước phát triển,
nơi có điều kiện ứng dụng các thành tựu hiện đại của khoa học – kỹ thuật.
Trên cơ sở các quan niệm đó, có thể khái quát lại như sau: “Công nghiệp hóa là quá
trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp (hay tiền công nghiệp), từ xã hội nông nghiệp
lên xã hội công nghiệp, từ văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp”. Có thể thấy,
công nghiệp hóa là sự biến đổi về kinh tế và xã hội, là quá trình đưa nền kinh tế lên xã hội
công nghiệp với trình độ văn minh cao hơn.
Đối với khái niệm hiện đại hóa theo cách hiểu thông thường là quá trình “làm cho
mang tính chất của thời đại ngày nay”. Đó là quá trình không ngừng biến đổi từ tính chất
truyền thống cũ lên trình độ tiên tiến của thời đại hiện nay.
HĐH về kinh tế vừa có sự thay đổi về tính chất, vừa có tính xác định về thời gian.
Giai đoạn đầu của hiện đại hóa được xác định trùng với thời kỳ diễn ra cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất (còn gọi là thời kỳ CNH). Trong giai đoạn này, CNH là nội dung
cốt lõi của HĐH.
Thực tế cho thấy, ở mỗi trình độ phát triển khác nhau, HĐH mang những đặc trưng
khác nhau. Đối với các nước phát triển, HĐH là quá trình chuyển dịch từ xã hội dựa trên
nền kinh tế công nghiệp lên xã hội dựa trên nền kinh tế tri thức. Đối với các nước đang

phát triển, HĐH là quá trình tăng tốc, rút ngắn lộ trình phát triển để đuổi kịp các nước đi
trước và phát triển hơn.
 Công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa

CNH là một giai đoạn tất yếu của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, từ một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, muốn tiến lên CNXH, nhất thiết phải trải qua CNH. Công nghiệp
hóa phải gắn với hiện đại hóa giúp phát triển lực lượng sản xuất, làm thay đổi căn bản
công nghệ sản xuất, tăng năng suất lao động. Đây là thời kỳ tạo tiền đề vật chất để không
ngừng củng cố và tăng cường vai trò của kinh tế nhà nước trong điều tiết sản xuất và dẫn
dắt thị trường.

6


Do sự biến đổi nhanh chóng của tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là từ khi diễn ra
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nên những công nghệ hiện có của các
nước đang phát triển dễ bị lạc hậu. Trước những cạnh tranh trên thị trường, các nước phát
triển phải “chiếm lĩnh đỉnh cao công nghệ”, nên họ sẵn sàng chuyển giao công nghệ hiện có
của họ cho nước đi sau để bước vào thế hệ công nghệ mới. Bởi vậy, nước đi sau có rất
nhiều phương án lựa chọn trong phát triển công nghệ mà không nhất thiết phải dựa vào phát
minh. Đây chính là “lợi thế của nước đi sau”. Dựa vào lợi thế này, nước đi sau có thể rút
ngắn đáng kể thời gian để sớm trở thành nền kinh tế hiện đại. Tại các nước này, quá trình
tiến hành CNH được gắn kết với quá trình HĐH.
Từ những năm 90 của thế kỷ XX, sự phát triển của xu thế toàn cầu hóa và kinh tế tri
thức đã làm thay đổi trình tự tiến hành công nghiệp hóa của các nước. Các nước công
nghiệp hóa sau không thể tiến hành công nghiệp hóa tuần tự từ cơ khí hóa đến tự động
hóa như những nước đi trước, mà phải kết hợp cả hai quá trình đó. Bởi vậy, tại Hội nghị
lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (1994), Đảng ta xác định quan
niệm: công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quan niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa được Hội
nghị đưa ra: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi một cách căn bản và

toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và
khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Quan niệm này của Đảng ta
cho thấy: quá trình công nghiệp hóa không chỉ là phát triển công nghiệp mà còn là quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ hơn, cải tiến không ngừng; đồng thời,
phải áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến để tạo ra những sản phẩm
mang hàm lượng khoa học công nghệ cao, hiện đại thay thế cho những sản phẩm truyền
thống.

7


I.2.

CNH,HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường
 Khái niệm về kinh tế tri thức
Hiện nay, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất. Kinh tế tri thức như một xu hướng thời đại tác động và trở thành thiết yếu
đối với quá trình CNH, HĐH ở các nước trên thế giới nhất là các nước đang phát triển
như nước ta.
Năm 2000, Tổ chức Hợp tác và phát triển của các nước phát triển cùng với Diễn đàn
kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APEC) nêu quan niệm: “Kinh tế tri thức là
nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu của
tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế”.
Thuật ngữ kinh tế tri thức (KTTT) được đưa vào Văn kiện Đại hội X và Đại hội XI
của Đảng ta và được hiểu là: các hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng tri thức, tri thức
chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản phẩm xã hội và sự phát triển của nó được dựa trên bốn
trụ cột:
-


Lực lượng lao động trình độ cao, chất lượng cao.
Hệ thống sáng tạo và ứng dụng công nghệ có hiệu quả.
Hệ thống cơ sở hạ tầng, thông tin, tin học hiện đại.
Hệ thống thể chế xã hội và thể chế kinh tế hiện đại.
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Khác với nền kinh tế công nghiệp, chủ thể là công nhân với các công cụ cơ khí, cho
năng suất lao động cao; còn nền KTTT, chủ thể là công nhân trí thức với công cụ là tạo ra
tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri thức. Có thể hiểu kinh tế tri thức là một nền kinh
tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự
phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.

 CNH, HĐH phải gắn với phát triển kinh tế tri thức

Trong quá trình CNH-HĐH, nước ta có thuận lợi cơ bản là nước đi sau, có thể học
hỏi được kinh nghiệm thành công của những nước đi trước và có cơ hội rút ngắn thời gian
thực hiện quá trình này. Trước đây, nước Anh thực hiện CNH đầu tiên, phải mất 120 năm;
nước Mỹ đi sau, chỉ mất 90 năm; sau nữa là Nhật Bản xuống còn 70 năm; và các nước

8


công nghiệp mới (NICs) có hơn 30 năm. Việt Nam thực thực hiện quá trình này trong bối
cảnh loài người đang bắt đầu chuyển sang phát triển kinh tế tri thức (KTTT), với sự bùng
nổ của tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ gen, công nghệ nano, công nghệ vật
liệu mới... đúng như tiên đoán của C. Mác và Ph. Ăng-ghen từ giữa thế kỷ XIX: ''Tri thức
sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp''. Đây chính là cơ hội lịch sử hiếm hoi mà thời đại
tạo ra để các nước đi sau như Việt Nam rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước đi
trước. Việc chuyển nền kinh nước ta sang hướng phát triển dựa vào tri thức trở thành yêu

cầu cấp thiết không thể trì hoãn.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp đi lên CNXH, trong bối cảnh toàn cầu hóa, chúng ta
phải tiến thành đồng thời hai quá trình: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lên kinh tế
công nghiệp (CNH-HĐH); chuyển từ kinh tế nông-công nghiệp lên KTTT. Trong khi ở
các nước đi trước, đó là hai quá trình kế tiếp nhau, thì ở nước ta, tận dụng cơ hội là nước
đi sau, hai quá trình này được lồng ghép với nhau, kết hợp các bước đi tuần tự với các
bước phát triển nhảy vọt, tức là phải gắn CNH-HĐH với phát triển KTTT.
Chính vì thế, tại Đại hội lần thứ IX, lần đầu tiên, Đảng ta đã ghi vào văn kiện luận
điểm quan trọng về phát triển KTTT “Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành
và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng
trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại
hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức
trong các nhân tố phát triển kinh tế- xã hội, từng bước phát triển KTTT ở nước ta”. Tới
Đại hội X, việc phát triển KTTT được thể hiện rõ với tư cách là một yếu tố cấu thành
đường lối CNH-HĐH đất nước: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra
và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH-HĐH đất nước theo định
hướng XHCN gắn với phát triển KTTT, coi KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và
CNH-HĐH. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa
nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức
mới nhất của nhân loại”.

9


Cho tới Đại hội XI, với định hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng, sang phát triển hợp lý giữa chiều
rộng và chiều sâu, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững, Đảng ta tiếp
tục khẳng định: “phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển KTTT, góp phần tăng nhanh năng suất, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất

nước”. Cho đến thời điểm này, vấn đề phát triển hiệu quả, phát triển bền vững nhằm đảm
bảo giữ được các giá trị về tài nguyên và môi trường và không gây ảnh hưởng đến sự
phát triển của thế hệ tương lai trở thành mục tiêu và nhiệm vụ chung của cả thế giới và
nước ta không năm ngoài phạm vi ấy.
 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với bảo vệ môi trường

Sau 25 năm đổi mới, nước ta đã vượt qua ngưỡng nước nghèo vào 2010, bước vào
nhóm nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu vượt bậc ấy,
chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về môi trường. Theo
thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, hiện nước ta có gần 4000 cơ sở sản xuất, hơn
1500 làng nghề gây ô nhiễm, hơn 200 KCN cần được kiểm soát về khả năng gây ô nhiễm.
Thực tế là, ô nhiễm nguồn nước, không khí đang lan rộng không chỉ ở các KCN, khu đô
thị, mà ở cả nhũng vùng nông thôn; đa dạng sinh học tiếp tục bị suy giảm; biến đổi khí
hậu và nước biển dâng gây ra triều cường và những hậu quả khôn lường; thành quả phát
triển của nhiều địa phương trong nhiều năm chỉ sau một đợt thiên tai có thể bị xóa sạch.
Song song với quá trình CNH-HĐH, chúng ta đang phải chịu những áp lực về thay
đổi cấu trúc và mô hình phát triển do sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường ngày
càng lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về môi trường cần được lồng ghép ngay từ quá trình
ra các quyết định về phát triến kinh tế và xã hội. Có nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường, tiếp cận mô hình tăng
trưởng xanh đã được đề cập trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI. Trong đó, Nhà
nước cần dành sự quan tâm đặc biệt để xây dựng năng lực nội sinh nhằm sử dụng và phát
triển các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng...; vì đây là động lực

10


chủ yếu để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng phát triển
bền vững.
Trước tình hình đó, ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết 41- NQ/TW "Về

bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước” đã
khẳng định bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển
bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật
bảo vệ môi trường. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung bảo vệ môi trường được nâng
lên một tầm cao mới, gắn chặt với quá trình CNH-HĐH: “Đưa nội dung bảo vệ môi
trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các
chương trình dự án đầu tư”. Một điểm mới so với Đại hội X là đưa thêm nội dung “chú
trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển năng lượng
sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững là biện pháp hữu hiệu nhất có khả
năng phòng ngừa và hạn chế tối đa các tác động xấu đối với môi trường trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH-HĐH. Những yếu kém, khuyết điểm trong công tác bảo vệ môi trường trong
thời gian qua chủ yếu là do các cấp các ngành thường nặng về quan tâm tới các chi tiêu
tăng trưởng kinh tế, chưa đảm bảo hài hòa, cân bằng trong phát triển kinh tế với bảo vệ
môi trường. Do đó, cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và toàn xã hội về
nhận thức và hành động, trong chỉ đạo điều hành và đặc biệt trong tổ chức triển khai các
hoạt động bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, gắn với phát triển
KTTT.
2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Thời kì trước đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đặt trong nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung. Đó là nền kinh tế hoạt động theo kiểu toàn dân làm cho nhà nước và
nhà nước bao cấp cho toàn dân, mọi người làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu.
Trong thời kì này, không tồn tại kinh tế tư nhân, không có các hoạt động thương mại buôn

11



bán tự do trên thị trường. Các đặc điểm trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu, bao cấp đó là:
Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên
hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp được Nhà nước
cấp phát vốn và vật tư sau đó hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền về phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ
chức bộ máy, nhân sự, tiền lương,… và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao, sau đó nộp sản
phẩm lại cho Nhà nước. Phương thức phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa được thực
hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của nhà nước. Lỗ thì nhà nước bù, lãi thì nhà
nước thu.
Thứ hai, cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp, nhưng lại không chịu trách nghiệp về các quyết định của mình, doanh nghiệp
không được chủ động và gây thất thoát ngân sách của Nhà nước.
Thứ ba, Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều trung gian vừa kém năng động vừa sinh ra
đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng được hưởng quyền
lợi cao hơn người lao động.
Tuy rằng, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung là phù hợp và cần thiết trong thời kì đất
nước còn chiến tranh, hai miền Bắc- Nam còn bị chia cắt, trái tim của mọi người dân đều
hướng về độc lập dân tộc, nhưng khi bước sang thời bình, nền kinh tế này bộc lộ rõ những
yếu điểm và hạn chế, hậu quả dẫn tới nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng, suy
thoái, sản xuất nông nghiệp thấp kém, sản xuất công nghiệp hiệu quả thấp, những chính
sách cải tiến cục bộ không thay đổi được tình hình trong nước.
Dưới áp lực tình thế phải thoát khỏi khủng hoảng kinh tế trên phạm vi cả nước, Việt
Nam đã có sự thay đổi lớn về kinh tế, đó là chuyển sang thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từ kì Đại hội thứ ⅤⅠ đến nay.
Trong thời kì đổi mới, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xác định phải gắn liền với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ nghĩa – thể chế kinh tế đang diễn ra ở Việt
Nam. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật kinh tế thị trường vừa dựa


12


trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã
hội. Các đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là:
-

Gồm các thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư

-

bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh,

-

lỗ, lãi tự chủ.
Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo.
Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của kinh tế thị trường như

-

quy luật, giá trị cung cầu, cạnh tranh
Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
Nhờ sự thay đổi về nền kinh tế, trong thời kì đổi mới, Việt Nam phát huy được nguồn lực
của từng cá nhân, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không phải chỉ là việc của Nhà nước mà
là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế. Phương thức phân bổ nguồn lực để
công nghiệp hóa được thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị trường, tạo ra tính năng động và
cạnh tranh cho thị trường, mọi người dân đều cùng nỗ lực và phấn đấu, nhân tài được

trọng dụng và có cơ hội phát triển, giảm gánh nặng cho Nhà nước. Thêm vào đó, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa được đẩy mạnh khi được đầu tư đúng mức, đúng lĩnh vực và
đúng thời điểm nhờ vào sự nỗ lực, tài năng và sự nhanh nhạy của từng cá nhân và doanh
nghiệp chứ không chỉ phụ thuộc vào Nhà nước, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, sai mục

đích, kém hiệu quả gây thất thoát nguồn ngân sách.
2.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với hội nhập kinh tế quốc tế.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh
toàn cầu hoá kinh tế trở thành xu thế nổi bật và tất yếu chi phối thời đại; không ngoại trừ
một quốc gia, dân tộc nào, nếu muốn phát triển bắt buộc phải mở cửa, hội nhập vào nền
kinh tế toàn cầu. Thêm vào đó, cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới lần thứ 3 diễn ra
với nhịp độ ngày càng mạnh mẽ, mà cốt lõi là dựa trên việc ứng dụng các phát minh khoa
học công nghệ, phát triển các ngành công nghệ cao, như công nghệ truyền thông và tin
học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học,… đặt ra yêu cầu các nước phải nhanh
chóng phát triển và bắt kịp thời đại. Trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương có những
bước phát triển đầy năng động, mối quan hệ quốc tế nổi bật xu thế hòa bình ổn định hợp
tác phát triển, đấu tranh vì hòa bình, đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tham gia,

13


mở rộng quan hệ quốc tế. Về bối cảnh các nước XHCN, năm 1991, sự tan rã và suy sụp
nhanh chóng của nền kinh tế liên bang Xô Viết cũ trở thành một thách thức với hệ thống
các nước XHCN, Việt Nam cần phải tự đặt quan hệ với cả các nước không theo hệ thống
XHCN để có thể phát triển và tự bảo vệ mình.
Phù hợp với xu thế đó, từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi
mới và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Sau khi bước ra khỏi cuộc chiến tranh kéo
dài cả một thế kỉ để dành lại độc lập, từ vị thế không được đất nước nào công nhận, bị cô

lập về kinh tế, Việt Nam đã nỗ lực và đặt quan hệ quốc tế với nhiều nước đồng thời tham
gia nhiều tổ chức lớn trên thế giới, cụ thể:
Về quan hệ hợp tác song phương: Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn
170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230
thị trường của các nước và vùng lãnh thổ , ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song
phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế
hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức
quốc tế.Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5 nước
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (P5), các nước trong nhóm G8; nâng quan
hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở thành đối tác chiến lược toàn diện, gia tăng nội
hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Nhật
Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha. Số lượng các cơ quan đại diện của ta ở nước
ngoài cũng tăng lên (91 cơ quan) với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn
thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn phòng kinh tế văn hóa.
Về quan hệ hợp tác đa phương: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức
tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân
hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên
một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới,
ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại tự

14


do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Đây được coi là một bước đột phá về hành động trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đó, năm 1996 Việt Nam tham gia
sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và đến năm 1998, Việt Nam được kết nạp vào
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt, tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan trọng khi Việt Nam chính thức
trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm

2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức này.
Hội nhập kinh tế quốc tế đem đến cho Việt Nam nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra

-

những thách thức không hề nhỏ:
 Về cơ hội:
Hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ, vốn đầu tư của các nước đều có thể lưu thông, luân chuyển trên
quy mô toàn cầu; phân công và hợp tác sản xuất cũng có thể diễn ra ở nhiều quốc gia trên
quy mô toàn cầu; doanh nghiệp của một nước có thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu…
Toàn cầu hóa tạo ra cơ hội cho mọi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia nghèo, chậm phát

-

triển.
Nhờ hội nhập, Việt Nam đã mở rộng thị trường cho xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ;
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nguồn vốn, thành tựu khoa học – công nghệ, để

-

đạt được những thành tựu phát triển như những năm qua.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, trở thành khu
vực phát triển năng động, có vai trò ngày càng quan trọng đối với phát triển kinh tế thế
giới. Trong khu vực, có nhiều nền kinh tế lớn, có tiềm lực tài chính, khoa học – công nghệ
mạnh, phát triển năng động như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, có
những thị trường lớn, các nguồn vốn đầu tư lớn. Là một nước nằm trong khu vực phát
triển năng động hiện nay, thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, cũng tạo ra

-


những cơ hội phát triển cho Việt Nam.
Thời đại ngày nay là thời đại cách mạng khoa học – công nghệ, trực tiếp hiện nay là cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra những bước phát
triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất xã hội; trong đó, khoa học – công nghệ, tri thức trở
thành nguồn lực và động lực quan trọng nhất đối với sự phát triển. Vai trò của các yếu tố
sản xuất khác, như vốn, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, trước đây từng là yếu tố quyết
định đối với sự phát triển của các quốc gia, giảm xuống. Với sự phát triển của hệ thống

15


internet và các mạng thông tin kết nối toàn cầu, tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc tiếp
cận và truyền bá tri thức. Những điều này tạo ra cho Việt Nam, một nước luôn quan tâm
tới phát triển giáo dục, có nền giáo dục phát triển; có hệ thống hạ tầng công nghệ thông
tin, tỷ lệ người sử dụng internet cao so với nhiều nước có thu nhập bình quân đầu người
như Việt Nam, cơ hội để có thể đi ngày vào hiện đại, phát triển theo hình thức rút gọn, đi
tắt đón đầu, phát triển kinh tế nhanh, rút ngắn khoảng cách về phát triển kinh tế với các

-

nước tiên tiến trên thế giới.
 Về thách thức:
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng sẽ đặt doanh nghiệp Việt Nam, các sản phẩm hàng
hóa của Việt Nam trước thách thức phải cạnh tranh quyết liệt với các doanh nghiệp, các
sản phẩm hàng hóa của nước ngoài không chỉ ở thị trường nước ngoài mà ngay cả ở thị
trường trong nước của Việt Nam; trong khi các doanh nghiệp Việt Nam phổ biến là doanh
nghiệp nhỏ và vừa, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính hạn chế, phải cạnh tranh
với những doanh nghiệp lớn, công nghệ cao, tiềm lực tài chính hùng hậu, có những sản
phẩm có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi
giá trị sản xuất toàn cầu, hiện nay, phần lớn là ở những công đoạn có trình độ công nghệ


-

thấp, gia công, lắp ráp.
Kinh tế Việt Nam đứng trước thách thức sẽ chịu tác động trực tiếp, nhanh chóng từ những
biến động kinh tế từ bên ngoài, từ những biến động trên thị trường khu vực, thế giới về
giá cả, lãi suất, tỷ giá của các đồng tiền, nhất là những đồng tiền có ảnh hưởng lớn; từ
những thay đổi của các luồng hàng hóa, tài chính, đầu tư quốc tế và nghiêm trọng hơn là
chịu sự tác động, ảnh hưởng rất nhanh của các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khu

-

vực và trên thế giới.
Các doanh nghiệp Việt Nam còn đối mặt với những thách thức từ những cuộc tấn công
mạng vào các hệ thống quản lý, hệ thống dữ liệu để ăn cắp dữ liệu, ăn cắp công nghệ, kế

-

hoạch, các bí quyết kinh doanh, nhất là của những đối thủ cạnh tranh.
Khi hội nhập quốc tế, việc giữ vững, không ngừng củng cố nền kinh tế độc lập, tự chủ của
đất nước cũng gặp những thách thức bởi một tỷ lệ không nhỏ các yếu tố đầu vào cho hoạt
động của nền kinh tế (vốn, công nghệ, máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu) là nhập
khẩu từ nước ngoài và thị trường bên ngoài có vai trò rất lớn, rất quan trọng đối với việc

16


tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa mà nền kinh tế đất nước tạo ra. Hàng hóa nước ngoài nhập
khẩu vào Việt Nam sẽ góp phần làm phong phú hơn hàng hóa trên thị trường, đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nhưng sẽ trở thành thách thức nếu hàng hóa nước ngoài

chiếm lĩnh thị trường, loại hàng hóa Việt Nam ra khỏi thị trường, bóp chết sản xuất trong
-

nước.
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế đất nước,
tạo việc làm cho người lao động, nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nguồn thu ngoại tệ
cho đất nước, nhưng có thể trở thành thách thức lớn nếu quản lý thiếu chặt chẽ, để gây ra
ô nhiễm môi trường, nước ta trở thành bãi thải công nghệ lạc hậu cho các nước phát triển,
để các nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng các chính sách ưu đãi, khai thác tài nguyên, nguồn
lao động giá rẻ của đất nước, khi hết thời hạn ưu đãi, không còn có thể khai thác tài
nguyên và tận dụng lao động rẻ, họ sẽ bỏ đi, để lại nhiều gánh nặng mà đất nước phải giải

-

quyết…
Tốc độ phát triển rất nhanh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, của những thay
đổi, phát triển công nghệ diễn ra nhanh chóng trên thế giới. Theo kịp tốc độ phát triển này
đối với Việt Nam là một thách thức lớn. Hơn nữa, trong khi ở Việt Nam, hệ thống thể chế
cho các hoạt động, các lĩnh vực, các mô hình kinh doanh mới, việc bảo vệ sở hữu trí tuệ,
bảo vệ người tiêu dùng, xử lý tranh chấp,… việc quản lý các hoạt động kinh tế, sinh hoạt
xã hội trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn chưa hình thành; việc đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực, phát triển khoa học - công nghệ, xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng… đáp ứng đòi hỏi phát triển kinh tế đất nước trong cuộc cách mạng công nghiệp lần

thứ tư cũng không phải là nhiệm vụ đơn giản, dễ dàng.
3. Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững
Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa yếu tố con
người luôn được coi là yếu tố cơ bản nhất. Cũng như để tăng trưởng kinh tế cần năm yếu
tố chủ yếu là: vốn; khoa học và công nghệ; con người; cơ cấu kinh tế; thể chế chính trị và

quản lý nhà nước, thì trong đó yếu tố con người là yếu tố quyết định nhất.
Dưới góc độ quản lý nhà nước thì giữa thuật ngữ “nguồn lực con người” và “nguồn nhân
lực” có ý nghĩa tương đồng. Theo Tổ chức Liên Hợp Quốc, nguồn lực con người là tất cả

17


những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người, có quan
hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước; quan điểm của Nicholas Henry cho

18


rằng: “Nguồn nhân lực là nguồn lực con người của những tổ chức (với quy mô, loại hình,
chức năng khác nhau) có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá trình phát triển của tổ
chức cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, khu vực, thế giới”; Tổ chức Lao
động quốc tế (ILO) cũng cho rằng: “Nguồn nhân lực là lực lượng lao động, là tổng thể các
tiềm năng lao động của con người, của một quốc gia đã được chuẩn bị ở một mức độ nhất
định, có khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” v.v...
Để thấy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản nhất trong phát triển xã hội C.Mác
từng khẳng định: “sự phát triển của xã hội không phải do bất kỳ một lực lượng siêu nhiên
nào, mà chính con người đã sáng tạo nên lịch sử của mình - lịch sử xã hội loài người” và
“...trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” (1).
Điều này có nghĩa là, nguồn lực con người là điều kiện tiên quyết cho sự thành, bại của
một quốc gia.
Theo các chuyên gia kinh tế thế giới, có 3 nguồn lực chính để tạo nên sự phát triển
của một quốc gia, đó là: nguồn lực thiên nhiên chiếm 15%, nguồn lực sản xuất chiếm
15% và nguồn lực con người chiếm tới 70%. Điều này đã được chứng minh ở nhiều quốc
gia phát triển trên thế giới. Ví dụ, Nhật Bản là một nước không có nguồn tài nguyên thiên
nhiên dồi dào, chịu nhiều ảnh hưởng của thiên tai, tuy nhiên với chính sách tập trung vào

giáo dục để phát triển nguồn nhân lực nội tại của quốc gia đã đưa Nhật Bản trở thành một
siêu cường về nhiều mặt nhất là kinh tế. Còn đối với Singapore, một trong những chính
sách quan trọng nhất của Chính phủ nước này là chiến lược phát triển nguồn nhân lực,
đặc biệt là nguồn nhân lực lao động chất lượng cao để từ đó đưa nền kinh tế phát triển với
tốc độ cao và bền vững.
Vấn đề là, xây dựng và phát huy nguồn lực con người như thế nào. Sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng: “vô luận việc gì cũng đều do con người làm ra...”. Con người và công
việc đối với con người được coi là quốc sách hàng đầu trong tư tưởng Hồ Chí Minh và
được Người căn dặn trong Di chúc viết tay tháng 5-1968 rằng: “Đầu tiên là công việc đối
với con người”. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) do Đại
hội Đảng lần thứ IX đề ra, việc phát triển nguồn lực con người là một trong những nội
dung quan trọng để đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Đặc biệt nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đòi hỏi

(1). C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập – tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

18


phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, lại có khả năng nắm bắt và sử dụng các
thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ
mới.
Vì vậy, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc phát triển nguồn lực con người thể
hiện ở nhiều mặt, nhiều nội dung khác nhau như giáo dục, xóa đói giảm nghèo, giải quyết
việc làm, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân… góp phần nâng cao hơn nữa nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước.
Cụ thể, trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo được thể hiện ở các Quyết định số
500/TTg ngày 8-7-1997 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng chiến lược phát triển giáo
dục và đào tạo của Việt Nam đến năm 2020. Trong chính sách dân số, thể hiện tại Quyết

định số 147/2000/QĐ-TTg ngày 22-12-2000 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt
Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010; Quyết định số 35/2001/QĐ-TTg ngày
19-3-2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
nhân dân giai đoạn 2001-2010… và rất nhiều các văn bản quy phạm pháp luật của Đảng,
Nhà nước cũng như các Bộ, ban, ngành nhằm xây dựng, chuẩn bị cho một chiến lược phát
triển, phát huy nguồn lực con người có “chất lượng” để phục vụ nhiệm vụ xây dựng và
phát triển đất nước.
Từ những chính sách, biện pháp đúng đắn trong xây dựng và phát triển nguồn lực
con người của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua, Việt Nam đã thực sự bước vào
giai đoạn dân số vàng tính từ năm 2007. Đây là một cơ hội lớn để đưa nước ta trở thành
một nước công nghiệp phát triển, hiện đại. Theo dự báo của Tổng cục Thống kê: thời kỳ
dân số vàng sẽ kéo dài trong khoảng 34 năm và kết thúc vào năm 2041 (1). Như vậy, chúng
ta đã trải qua hơn 10 năm trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, nhưng thực tế cho thấy giá trị
thặng dư, hiệu suất kinh tế chưa tương xứng với số lượng lao động hiện có của cả nước.
Điều này thể hiện rõ ở việc so sánh năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn nhiều so
với một số nước trong khu vực Đông Nam Á: chỉ bằng 7% của Singapore, bằng 17,6%
Malaysia; 36,5% của Thái Lan; 42,3% của Indonesia; 56,7% của Philippines và 87,4% so

(1). Theo Thống kê của Tổng cục Thống kê
(2). Theo Thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư

19


với Lào...”(2). Điều này cho thấy “chất lượng” nguồn nhân lực trong nước chưa thật sự tốt,
chưa thực sự đảm bảo về mặt chuyên môn; lại thiếu khả năng cạnh tranh về năng suất lao
động so với nhân lực các nước trong khu vực.

(1). Theo Thống kê của Tổng cục Thống kê
(2). Theo Thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư


19


Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ những cán bộ trong các cơ quan hành chính
nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập cũng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Đội ngũ
cán bộ đông, nhưng chưa mạnh; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế. Thiếu
những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều
lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán
bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên
môn; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế
còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không
nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt. Một số cán bộ lãnh đạo,
quản lý, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ,
quan liêu, xa dân, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Không ít cán
bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật, cố
ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng.
Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, chạy tội..., trong đó có cả cán bộ cấp
cao, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.
Từ nhu cầu thực tế đặt ra, nhằm xây dựng và phát huy nguồn lực con người thực sự
chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đặc
biệt là triển khai thật tốt nhiệm vụ tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán
bộ cấp chiến lược đồng thời phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội nhất là tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và
năng lực làm việc, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, đối với vấn đề giáo dục, thực hiện chuyển đổi nền giáo dục truyền thống
sang nền giáo dục hiện đại. Cần đổi mới ngay từ cấp tiểu học trở lên để hình thành nhân
cách con người Việt Nam có lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Giáo dục phải giúp cho sự
định hướng xã hội, sử dụng truyền thống như là tiền đề, sức mạnh có khả năng thích ứng
với sự thay đổi của tiến bộ thế giới, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.


22


Bên cạnh đó, Chính phủ cần khuyến khích và tạo điều kiện cho việc hình thành hệ
thống giáo dục theo mô hình doanh nghiệp, liên kết đào tạo những lĩnh vực mà xã hội,
doanh nghiệp cần, nhất là lực lượng lao động có tay nghề cao, chuyên môn giỏi, đồng thời
khích lệ hoạt động sáng tạo của người lao động để thích ứng với mọi điều kiện; rèn luyện
khả năng tìm tòi sáng tạo cùng với việc chú trọng thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao,
đội ngũ các nhà khoa học, nhà sáng chế, các chuyên gia nước ngoài để giảng dạy, truyền
đạt và tương tác trong lao động, trong giáo dục ở nước ta.
Hai là, cần có chủ trương khuyến khích các nhà khoa học, học giả trong và ngoài
nước cùng tham gia đóng góp vào xây dựng các chính sách, chiến lược phát triển quốc
gia. Để làm tốt vấn đề này, cần có những chính sách thu hút, đãi ngộ nhân tài thống nhất
từ Trung ương xuống các địa phương.
Ba là, phải thực sự lựa chọn được những cán bộ có đức, có tài để phục vụ nhân dân,
phát triển đất nước. Vì vậy, ngay từ khâu tuyển chọn, bổ nhiệm phải thực hiện nghiêm
túc, khách quan, thực hiện quy trình từ dưới lên và lấy ý kiến tham khảo rộng rãi trong
nhân dân; tổ chức mở rộng các hình thức thi tuyển, đặc biệt là các chức danh lãnh đạo,
quản lý với quy trình chặt chẽ và theo đúng tiêu chuẩn. Tránh tình trạng “gửi gắm” hoặc
“thân quen” khi tuyển dụng, bổ nhiệm.
4. Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Hiện nay sự phát triển của khoa học công nghệ là “bệ phóng” đưa kinh tế thế giới
phát triển nhanh với tốc độ chóng mặt. Những tiến bộ về mặt khoa học còn là thước đo
cho sự phát triển của các quốc gia trên thế giới, đây chính là xu hướng phát triển của thời
đại – của thế giới, vì vậy để đưa đất nước phát triển ổn định cũng như rút ngắn khoảng
cách với thế giới chúng ta cần đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ theo hướng toàn
diện và bền vững.
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt từ khi tiến hành công

cuộc đổi mới toàn diện, Đảng ta đã sớm có các định hướng và chỉ đạo đúng đắn về vị trí,

23


vai trò của khoa học và công nghệ (KHCN) đối với sự phát triển kinh tế – xã hội; đồng
thời, luôn coi trọng và tạo điều kiện thuận lợi để KHCN phát triển. Quan điểm coi KHCN
là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa được
khẳng định trong nhiều văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Tại Đại hội VI (1986) Đảng ta coi KHCN là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước. Đại hội VII (1991) khẳng định KHCN là nền tảng của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đại hội Đảng VIII (1996) và Đại hội IX (2001) coi KHCN là quốc sách
hàng đầu, là nền tảng và động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội XI (2011) đề ra
đường lối đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và KHCN giữ vai trò then chốt trong
phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh
và bền vững.
Về mặt kinh tế, KHCN có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm chi
phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung. Cả nước
có 3 khu công nghệ cao quốc gia ở 3 miền; có 13 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao tại các địa phương giải quyết rất nhiều việc làm cho người dân địa phương góp phần
tăng khả năng sản xuất hàng hóa trong nước đồng thời thu hút hoạt động đầu tư từ ngoài
nước đóng góp quan trọng trong tăng trưởng GDP, kích thích tăng trưởng kinh tế nói
chung. Đồng thời hiện nay trên cả nước có nhiều cơ sở ươm tạo công nghệ cao và ươm
tạo doanh nghiệp công nghệ cao đã được xây dựng và đi vào hoạt động, góp phần hỗ trợ
việc thành lập và phát triển các doanh nghiệp công nghệ cao.
Các nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn đã cung cấp luận cứ khoa học phục
vụ hoạch định các chủ trương, đường lối lớn của Đảng và Nhà nước, đề xuất nhiều nội
dung, quan điểm và giải pháp mới trong Báo cáo tổng kết 30 năm đổi mới và Văn kiện
Đại hội XII của Đảng; bổ sung, hoàn thiện pháp luật; tạo tiền đề đổi mới tư duy kinh tế;
khẳng định chủ quyền quốc gia đối với Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông, xây dựng

đường lối và chính sách đối ngoại của Việt Nam.

24


Các tiến bộ KH&CN đã đóng góp khoảng 30-40% vào tăng trưởng nông nghiệp tùy
theo từng lĩnh vực cụ thể. Các kết quả KH&CN đã được ứng dụng trong tất cả các khâu
của quá trình sản xuất nông nghiệp, từ nghiên cứu, chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi; kỹ
thuật gieo trồng, chăm sóc, canh tác; thức ăn chăn nuôi; phân bón, thuốc bảo vệ thực vật,
thuốc thú y; kỹ thuật chế biến và bảo quản sau thu hoạch.
Hơn nữa áp dụng KHCN nhằm đảm bảo an ninh, quốc phòng, cải thiện an sinh xã
hội và chất lượng cuộc sống của nhân dân.Trong công nghiệp và dịch vụ, lực lượng
KH&CN trong nước đã có khả năng thiết kế, chế tạo thành công nhiều công nghệ, thiết bị
nội địa đạt tiêu chuẩn quốc tế; có năng lực hấp thụ và làm chủ công nghệ mới, công nghệ
cao trong một số ngành thiết yếu như điện, điện tử, dầu khí, đóng tàu, xây dựng, y tế,
công nghệ thông tin và truyền thông. Đặc biệt nhất là những thành tựu nổi bật trong y
học, các công trình nghiên cứu đã góp phần dự phòng, đẩy lùi nhiều dịch bệnh nguy hiểm.
Nhiều kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán và điều trị bệnh đã được nghiên cứu ứng dụng
thành công, nhiều loại bệnh đã được chẩn đoán và điều trị với tỷ lệ thành công cao, giá
thành rẻ, tiết kiệm cho xã hội hàng trăm tỷ đồng.
Tuy nhiên trong thực tế KH&CN vẫn chưa thể trở thành động lực thực sự cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền khoa học và công nghệ nước ta phát triển chậm, chưa tương
xứng với tiềm nǎng sẵn có, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, còn thua kém so với nhiều nước trong khu vực.
Chưa được thực sự được ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia đầu tư. Do đó,
KH&CN chưa thực sự là “quốc sách hàng đầu”, chưa gắn với các điều kiện của kinh tế thị
trường; cơ chế quản lý hoạt động KH&CN vẫn mang nặng tính hành chính; cơ chế phân
bổ ngân sách chưa hợp lý, còn “cào bằng”, chưa tập trung đầu tư cho các nhiệm vụ
KH&CN ưu tiên.
Trình độ công nghệ thấp, chậm được đổi mới trong nhiều nghành sản xuất, kinh

doanh, dịch vụ và quản lý. Sản phẩm nghiên cứu khoa học và công nghệ trong nước chưa

25


×