Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Hoạt động tín dụng cho vay tiêu dùng và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Phát triển TP Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.67 KB, 62 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
20 năm sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đất nuớc ta đã có những
chuyển biến sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực văn hoá đời sống kinh tế xã hội.
Chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng bền vững tạo tiền đề cho các hoạt động
đầu tư, xây dựng, kinh doanh, buôn bán...phát hiển, tạo thêm nhiều việc làm góp
phàn nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Cùng với sự phát hiển
của nền kinh tế thị trường, hàng ho á tiêu dùng trở nên phong phú, đa dạng với
nhiều chủng loại, mẫu mã khác nhau phù họp với nhu cầu người mua. Tuy nhiên
với mức thu nhập hiện nay, phần lớn người tiêu dùng không thể chi trả cho tất
cả các nhu cầu mua sắm cùng lúc, đặc biệt là các vật dụng đắt tiền. Nắm bắt
được thực tế đó, các Ngân hàng đã thực hiện cung cấp các dịch vụ cho vay tiêu
dùng dưới nhiều hình thức nhằm tạo điều kiện cho khách hàng có thể thoả mản
nhu cầu của mình trước khi có khả năng thanh toán. Và chỉ trong một thời gian
ngắn khi các sản phẩm này ra đời, số lượng khách hàng tìm tới Ngân hàng
không ngừng tăng lên đã tạo nguồn thu nhập không nhỏ cho hệ thống Ngân
hàng. Mặc dù vậy, so với các hoạt động tín dụng khác thì cho vay tiêu dùng vẫn
chiếm một tỷ trọng vô cùng nhỏ bé cả về doanh số cho vay lẫn dư nợ cho vay và
chưa thực sự phát huy được vai trò vốn có của nó. Với tư cách là trung gian
quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế, các Ngân hàng phải làm gì để đẩy mạnh
hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng, trở thành kênh kết nối hiệu quả giữa
nguồn vốn huy động được với nhu cầu bị giới hạn bởi khả năng thanh toán từ đó
tạo ra lợi nhuận cho mình và cho sự phát hiển chung của toàn xã hội.

Nhận thức được tàm quan họng của hoạt động cho vay tiêu dùng trong đời
sống xã hội nói chung và đối với toàn hệ thống Ngân hàng nói riêng, sau một
thời gian thực tập tại Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh
(HDBank) chi nhánh Hà Nội, kết họp với những kiến thức trong quá trình học
tập, em đã chọn: “Hoạt động tín dụng cho vay tiêu dùng và một số giải pháp
đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà


TP Hồ Chí Minh ” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Kết cấu của chuyên đề tốt nghiệp ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục
tài liệu tham khảo gồm có 3 chương:
Chương I: Lỷ luận tổng quan về hoạt động cho vay tiêu dùng.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng
Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh.


Chương HI: Giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng
Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh.CHƯƠNG I.

LÝ LUẬN TỔNG QUAN VÈ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIỀU

DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN


1.1.
Lý luận tồng quan về cho vay tiêu dùng
1.1.1. Vay tiêu dùng

Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tiêu dùng rất hữu ích nhằm tài trợ cho
nhu cầu chi tiêu , mua sắm, sửa chữa nhà cửa...của các cá nhân, hộ gia đình.
Các khoản vay này giúp nguời tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá, dịch vụ truớc
khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ có cuộc sống với chất luợng cao hơn như
mua xe hơi, mua nhà, nghỉ ngơi, du lịch...Qua đó chúng ta có thể đưa ra khái
niệm chung nhất về cho vay tiêu dùng: “Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tín
dụng trong đó ngân hàng tho ả thuận để khách hàng là cá nhăn hay hộ gia đình
sử dụng một khoản tiền với mục đích tiêu dùng với nguyên tắc có hoàn trả cả
gốc và lãi trong một thời gian nhất định
1.1.2. Đối tượng của hoạt động cho vay tiêu dùng

- Phân theo thu nhập

+ Những người thu nhập thấp: Nhu cầu tín dụng của nhóm người này
thường hạn chế do nguồn thu nhập không đủ để thoả mãn nhu càu đa dạng của
họ. Tuy nhiên họ cũng có nhu cầu chi tiêu không khác mấy so với nhóm có thu
nhập cao hơn. Do đó nếu có phương pháp phù họp thì cũng có thể hình thành
các khoản vay họp lý tới nhóm đối tượng này.

+ Những cá nhân có thu nhập trung bình: Nhu cầu tín dụng có xu hướng
tăng trưởng ngày càng mạnh bởi khoản tích luỹ của nhóm này tuy ít song thu


nhập trong tương lai của họ ổn định có thể chi trả cho những nhu càu hiện tại.

+ Những cá nhân có thu nhập cao: Những người này thường cần tới những
khoản vay với tư cách là các khoản phụ trợ linh hoạt, trợ giúp thêm các khoản
thanh toán đặc biệt khi tiền của họ đã đầu tư vào các khoản đầu tư dài hạn. Mặc
dù việc vay mượn nhằm mục đích tiêu dùng của họ chỉ thể hiện một tỷ trọng
nhỏ trong tổng số tài sản mà họ sở hữu nhưng lại là một món tiền lớn so với các
nhóm khách hàng khác nên các ngân hàng rất quan tâm tới nhóm khách hàng
này.

- Phân theo tình trạng công tác hay lao động: Nhu cầu tiêu dùng của các
cá nhân còn phụ thuộc rất nhiều tính chất công việc, nghề nghiệp. Xét theo khía
cạnh này chúng ta có những nhóm khách hàng:

+ Cán bộ công nhân viên chức.

+ Những người làm công việc kinh doanh riêng.


+ Những người hành nghề chuyên nghiệp ( Bác sĩ, ca sĩ, tư vấn........).

+ Những người lao động tự do.

Trên thực tế, những khách hàng thuộc ba nhóm khách hàng đầu tiên có thu
nhập cao và ổn định hơn so với nhóm khách hàng cuối nên nhu cầu vay tiêu
dùng cũng chủ yếu phát sinh từ 3 nhóm trên.
1.1.3. Đặc điểm cho vay tiêu dùng
- Quy mô các khoản vay nhỏ nhưng sổ lượng các khoản vay lởn

Các khách hàng tìm đến ngân hàng với mục đích vay tiêu dùng thường có
nhu cầu vốn không lớn lám. Đó là vì khi xác định mua sắm bất cứ vật dụng gì
người tiêu dùng phải có một khoản tích luỹ từ trước( vì không khi nào ngân


hàng cho vay 100% nhu cầu vốn). Tuy nhiên số lượng các khoản vay tiêu dùng
là lớn do đối tượng của vay tiêu dùng là mọi tầng lớp dân cư trong xã hội.
- Các khoản cho vay tiêu dùng có lãi suất “ cứng nhắc ”

Không như các khoản vay kinh doanh hiện nay có lãi suất có thể thay đổi
theo điều kiện thị trường, các khoản vay tiêu dùng thường có lãi suất cố định,
đặc biệt là các khoản vay tiêu dùng trả góp.
- Các khoản vay tiêu dùng thường có độ rủi ro cao

Vì đối tượng của các hoạt động cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia
đình nên bên cạnh các yếu tố khách quan từ bên ngoài như thiên tai, mất mùa,
thất nghiệp, chu kỳ kinh tế, còn có các yếu tố chủ quan từ chính người tiêu
dùng. Đó chính là tâm lý tiêu dùng , người tiêu dùng muốn vay tiêu dùng nhưng
không muốn trả. Trong những trường hợp như vậy, cho dù có nắm giữ tài sản
đảm bảo ngân hàng vẫn đối mặt với rủi ro giảm thu nhập. Mặt khác do các

khoản vay tiêu dùng thường có lãi suất cứng nhắc nên khi lãi suất huy động
tăng lên ngân hàng đối mặt với rủi ro lãi suất.
- Cho vay tiêu dùng có chi phí khá lởn

Đặc điểm các khoản vay tiêu dùng thường có quy mô khoản vay nhỏ, thời
gian vay thường không dài nên việc thẩm định tài chính khách hàng tốn nhiều
thời gian và chi phí. Bên cạnh đó ngân hàng còn phải chịu một số chi phí như
chi phí quản lý khoản vay, theo dõi tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng...
- Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản tín dụng có khả năng sinh
lời cao nhất do ngân hàng thực hiện

Chính vì triển vọng về lợi nhận của hoạt động cho vay tiêu dùng mang lại,
mặc dù phải đối mặt với khá nhiều thách thức nhưng các ngân hàng trên thế giới
hiện nay đều hướng sự quan tâm của mình vào hoạt động tín dụng này. Coi nó
như một hoạt động chủ đạo trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng.
1.1.4. Phân loại cho vay tiêu dùng

Thông qua cách phân loại này, chúng ta có thể có được cái nhìn khá toàn
diện về hoạt động cho vay tiêu dùng từ nhiều khía cạnh khác nhau:
- Căn cứ vào mục đích vay, chúng ta có:


+ Cho vay tiêu dùng cư trú: Là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu
cầu mua sắm, xây dựng hoặc cải tạo nhà cho khách hàng là các cá nhân, hộ gia
đình.

+ Cho vay tiêu dùng phi cư trú: Là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho
việc trang trải các chi phí như chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí
cho học hành, giải trí, du lịch...
- Căn cứ vào phương thức hoàn trả


+ Cho vay tiêu dùng trả góp: Đây là hình thức cho vay trong đó người đi
vay trả nợ (gồm cả gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất
định trong thời hạn cho vay, phương thức này thường áp dụng cho các khoản
vay có giá trị lớn hoặc thu nhập từng kỳ của người đi vay không đủ để thanh
toán hết một làn số nợ vay.

+ Cho vay tiêu dùng phi trả góp: Đây là hình thức cho vay mà tiền vay
được khách hàng thanh toán chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản vay
tiêu dùng phi trả góp được cấp cho các nhu cầu vay nhỏ và thời hạn không dài.

+ Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Là khoản vay trong đó ngân hàng cho
phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc ngân hàng phát hành loại séc cho
phép thấu chi dựa trên số tiền trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này,
trong thời hạn tín dụng được thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và
thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện
việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.
- Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ:

+ Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng
mua các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay
dịch vụ cho người tiêu dùng.


Sơ đồ 1: Mô hình các bước tiến hành cho vay tiêu dùng gián tiếp

(1)
Trong đó:

(1) : Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết họp đồng mua bán nợ. Trong họp

đồng ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán
chịu, số tiền bán chịu tối đa và các loại tài sản bán chịu.

(2) : Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết họp đồng mua bán chịu
hàng hoá. Thông thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản.

(3) : Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.

(4) : Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng.

(5) : Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ.

(6) : Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng giản tiếp có ưu điểm:

• Cho phép ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng.
Cho phép ngân hàng tiết kiệm được chi phí trong cho vay.Là nguồn gốc của


việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động khác.

• Trong trường họp có quan hệ với những công ty bán lẻ tốt, cho vay tiêu
dùng gián tiếp an toàn hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Bên cạnh những ưu điểm trên, cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số nhược
điểm sau:

• Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán

chịu.


• Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán
chịu hàng hoá.

• Kỹ thuật nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao.

+ Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó
ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ
những người này. Cho vay tiêu dùng trực tiếp thường được thực hiện theo sơ đồ
sau :
Sơ đồ 2: Mô hình các bước tiến hành cho vay tiêu dùng trực tiếp


(Nguồn: Thời báo ngân hàng sổ 15 tháng 4/2006)


Trong đó:

(1) : Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết họp đồng vay.

(2) : Người tiêu dùng hả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán
lẻ.

(3) : Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ.

(4) : Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.

(5) : Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng.
So với cho vay tiêu dùng giản tiếp, cho vay tiêu dùng trực tiếp có những ưu điểm
sau:


• Trong cho vay tiêu dùng trực tiếp ngân hàng có thể tận dụng được sở trường
của nhân viên tín dụng. Những người này thường được đào tạo chuyên môn và có
nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định tín dụng trực tiếp
của ngân hàng thường có chất lượng cao hon so với trường họp chúng được quyết
định bởi những công ty bán lẻ hoặc nhân viên tín dụng của công ty bán lẻ. Ngoài ra,
trong hoạt động của mình, nhân viên tín dụng ngân hàng có xu hướng chú họng đến
việc tạo ra các khoản vay có chất lượng tốt trong khi nhân viên của những công ty
bán lẻ thường chú họng đến việc bán được hàng. Bên cạnh đó, tại các điểm bán
hàng, các quyết định tín dụng thường được đưa ra vội vàng và như vậy có thể có
nhiều khoản tín dụng được cấp ra một cách không chính đáng. Hon nữa, trong một
số trường họp, do quyết định nhanh, công ty bán lẻ có thể từ chối cấp tín dụng đối
với những khách hàng tốt.

• Cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hon so với cho vay tiêu dùng gián


tiếp.

• Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng có thể làm thoả mãn nhu
cầu của họ hon.
1.1.5. Sự khác nhau của cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh của
ngân hàng thương mại

Mặc dù cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh đều là hình thức cấp tín
dụng của ngân hàng song giũa chúng có những điểm khác biệt lớn:
Bảng 1: Phân biệt cho vay tiêu dùng và cho vay kỉnh doanh

Đối tượng

Các cá nhân và hộ gia đình


xây dụng và tu sửa nhà cửa...

Gồm các cá nhân, hộ gia đình và các

bị máy móc, nguyên vật liệu phục vụ
sản xuất kinh doanh

thường có lãi suất “cứng nhắc”

lại lợi nhận cao cho ngân hàng

lãi suất thay đổi theo điều kiện thị

độ rủi ro thấp hơn nhưng mang lại thu
nhập thấp hơn cho ngân hàng.


thường lớn

thuongí có chi phí thấp hơn

về quy trình cho vay cả hai hình thức tín dụng trên đều phải trải qua các
quy trình sau:

- Bước 1: Tìm hiểu sơ bộ về khách hàng

- Bước 2: Hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn

- Bước 3: Phân tích tín dụng


- Bước 4: Giải quyết tín dụng

- Bước 5: Giải ngân

- Bước 6: Thu nợ

Song nội dung, quy trình, thủ tục của từng bước giữa hai hình thức cho
vay có nhiều điểm khác biệt, tùy thuộc vào quy định của từng ngân hàng.
1.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến cho vay tiêu dùng của ngân hàng
thương mại
1.1.6.1. Các nhân tổ vĩ mô.

Giống như các thể chế kinh tế khác, các ngân hàng thương mại cũng hoạt
động và chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh như môi trường kinh tế xã
hội, môi trường quản lý, các môi trường về văn hóa và các chính sách kinh tế
của nhà nước.


Môi trường kinh tế xã hội mà đặc trưng là trình độ phát triển kinh tế, thu
nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, mức sống của dân cư cùng với
chế độ xã hội có ảnh hưởng khá mạnh đến tới mức tiêu dùng của dân cư. Môi
trường này mà ổn định là một trong những điều kiện thúc đẩy người dân tiêu
dùng, hạn chế tiết kiệm do đó dẫn đến mở rộng hoạt động cho vay của ngân
hàng. Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống văn bản pháp luật của nhà nước
cũng là một nhân tố vĩ mô khác có tác động sâu rộng đến hoạt động cho vay
tiêu dùng của các ngân hàng thương mại. Môi trường pháp lý có ảnh hưởng
đến trật tự, tính ổn định và tạo điều kiện cho hoạt động cho vay tiêu dùng diễn
ra thông suốt, đảm bảo sự phát triển bền vững, hạn chế những rắc rối tổn hại
đến lợi ích của các bên tham gia quan hệ vay muợn. Nếu hệ thống pháp luật có

quy định đầy đủ cụ thể các vấn đề về cho vay tiêu dùng sẽ thúc đẩy người tiêu
dùng tìm đến ngân hàng đồng thời cũng khuyến khích tính tích cực của các
ngân hàng tham gia lĩnh vực này. Ngược lại, nếu tất cả các quy định đều mang
tính chung chung không rõ ràng sẽ khiến cả ngân hàng và khách hàng gặp
nhiêu khó khăn trong việc đi đến một thỏa thuận chung.

Môi trường văn hóa như thói quen, tâm lý, trình độ học vấn, bản sắc dân
tộc (thể hiện qua những nét tính cách của người dân như thích tằn tiện hay ưa
hưởng thụ) hoặc các yếu tố về nơi ở, nơi làm việc...cũng ảnh hưởng lớn đến
thói quen chi dùng của người tiêu dùng.

Hoạt động cho vay tiêu dùng còn chịu ảnh hưởng của hệ thống các chính
sách và chương trình kinh tế của nhà nước, nếu nhà nước tăng đầu tư hoặc đưa
ra các biện pháp thông thoáng để khuyến khích đầu tư trong nước và tăng đầu
tư nước ngoài như giảm các thủ tục rườm rà, giảm thuế cho các công ty mới
thành lập, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Đây rõ ràng là tiền đề
thuận lợi để phát hiển cho vay tiêu dùng. Mặt khác các chính sách như giảm
thuế thu nhập, áp dụng lãi suất ưu đãi đối với cho vay hộ nông dân, hộ nghèo,
các hộ dân tộc ở miền núi, các chương trình xóa đói giảm nghèo nhằm thực
hiện công bằng xã hội. Tất cả các biện pháp này sẽ có ảnh hưởng đến cầu tiêu
dùng của dân cư trước mắt và lâu dài

Tuy nhiên, muốn thực hiện tốt tất cả những chủ trương chính sách và
những chương trình hành động hên cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa
các cấp, các nghành, các cơ quan, doanh nghiệp với nhau và giữa các tổ chức
đó với các ngân hàng thương mại.


1.1.6.2. Các nhân tổ vỉ mô.


Những nhân tố vi mô ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng nằm
trong phạm vi ngân hàng bao gồm các nhân tố khách quan từ phía khách hàng
và nhân tố chủ quan từ bản thân ngân hàng.
* Những nhân tổ khách quan:

Trong nhóm các nhân tố khách quan này, trước hết phải kể đến đạo đức
khách hàng, được đánh giá dựa trên năng lực pháp lý và độ tín nhiệm. Vì rằng
nếu thực sự khách hàng có thu nhập cao, ổn định để trả nợ, thậm chí đưa ra
được điều kiện đảm bảo tốt thì chưa chắc họ đã có thiện trí khi trả nợ. Bởi lẽ,
khi đi vay, có thể người vay vẫn có ý định trả nợ đày đủ, nhưng trong sử dụng
tiền vay, có thể do tư cách, do lòng tham hoặc muốn làm giàu nhanh chóng họ
sử dụng vốn vay sai mục đích vì không phải lúc nào ngân hàng cũng có đầy đủ
thông tin về người đi vay. Mặt khác, với những lĩnh vực có rủi ro cao thì khả
năng mang lại lợi nhuận cũng cao do đó người đi vay sẽ tìm mọi cách để có
được khoản vay đó. Nên trước khi cho vay, các cán bộ tín dụng phải đánh gíá
độ tín nhiệm của khách hàng trên co sở tính thật thà của người vay, ý muốn
kiên quyết của khách hàng trong việc thực hiện tất cả các giao ước trong hoạt
động tín dụng, điều này được thể hiện một phần trong hồ sơ của người xin vay.

Năng lực pháp lý là những quy định cụ thể về mặt pháp lý mà người vay
cần phải có, đây là cơ sở hình thành nghiệp vụ trả nợ của khách hàng trong
quan hệ tín dụng, thông qua thẩm định về năng lực pháp lý. Ngân hàng có thể
biết được hiện khách hàng có liên quan đến vụ án nào hay không, tài sản đảm
bảo có liên quan đến các vụ kiện hoặc các tranh chấp hay có quan hệ với các tổ
chức tín dụng khác không.

Khả năng tài chính của khách hàng cũng là một trong những yếu tố ảnh
hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng, nếu khách hàng có thu nhập cao và ổn
định thi việc trả nợ ngân hàng thường ít ảnh hưởng đến các chi tiêu khác trong
gia đình, đặc biệt là các nhu càu thiết yéu và với những người này họ sẵn sàng

thanh toán tiền cho ngân hàng để tránh những rắc rối về mặt pháp lý có thể gây
ảnh hưởng đến nghề nghiệp công việc của họ. Ngược lại, với những cá nhân
hoặc hộ gia đình có thu nhập không ổn định hoặc thu nhập ở mức trung bình
thì việc thu hồi nợ của ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn do họ không biết


trước thời điểm sẽ nhận được thu nhập là khi nào, và bao giờ mới tích luỹ đủ để
trả nợ ngân hàng. Ngày nay, phần lớn các món vay tiêu dùng quy định nguồn
trả là thu nhập thường xuyên của khách hàng trong tương lai, ngoại trừ các
khoản cho vay ngắn hạn.

Tài sản đảm bảo là cơ sở pháp lý có thêm nguồn thu nợ thứ hai cho ngân
hàng ngoài nguồn thu nợ thứ nhất, mang tính dự phòng rủi ro. Mặc dù nắm giữ
tài sản đảm bảo song nếu khách hàng không trả nợ thì ngân hàng phải đối mặt
với rủi ro thu nhập vì muốn phát mại tài sản phải có thời gian và phải mất chi
phí khác liên quan, đó là chưa kể đến có thể tại thời điểm đó giá trị tài sản trên
thị trường không được duy trì như khi định giá để cho vay. Vì vậy, tài sản đảm
bảo không giữ vai trò quyết định trong việc khách hàng vay hay không mà nó
chỉ là một tiêu chuẩn để xét duyệt khi cho vay.
* Những yêu tổ chủ quan:

Các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng của
ngân hàng thương mại nằm trong các quy định và các định hướng phát triển
của ngân hàng. Nếu ngân hàng không có một định hướng toàn thể về phát triển
cho vay tiêu dùng thì cũng có nghĩa là không có một hoạt động nào dành cho
sự phát triển của hoạt động này.

Nội dung làm việc và chế độ thưởng phạt nghiêm minh cũng ảnh hưởng
nhất định đến hoạt động cho vay tiêu dùng, nội quy làm việc quy định nghiêm
ngặt sẽ nâng cao trách nhiệm của các cán bộ trong công việc cũng như thái độ

của họ đối với khách hàng. Việc thưởng phạt nghiêm minh sẽ khuyến khích các
cán bộ ngân hàng học hỏi, phấn đấu để nâng cao khả năng trình độ của mình,
những yếu tố trên không những tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng khi đến
ngân hàng mà còn thu hút được sự quan tâm của số lượng lớn các khách hàng
đối với những sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.

Nếu như đạo đức người vay được xếp vào vai trò hàng đầu các nhân tố
khách quan thì đạo đức cán bộ tín dụng cũng ở vị trí tương đương trong nhóm
các nhân tố chủ quan. Nhiều cán bộ tín dụng vì tư lợi cá nhân mà làm tổn hại
cho cả ngân hàng và khách hàng. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, các
khách hàng sẵn sàng tìm đến ngân hàng khác nếu họ thấy rằng không đáng tin
cậy vào cán bộ trực tiếp quản lý khoản vay của họ, nếu bên cạnh trình độ


nghiệp vụ cao và trình độ hiểu biết rộng, các cán bộ ngân hàng phải luôn trau
dồi đạo đức, đặt lợi ích khách hàng và ngân hàng lên hàng đầu, sẵn sàng từ
chối các khoản vay nếu thấy có vấn đề và càng không vì nhu cầu cấp thiết của
người vay mà ép họ tư lợi cho bản thân.

Kỹ thuật và thủ tục thẩm định hiệu quả và không rườm rà, phức tạp là một
trong những phương thức quan trọng để thu hút khách hàng. Tuy nhiên sự tồn
tại các kỹ thuật và thủ tục này là không chỉ nhằm mục đích đó mà nhằm đưa ra
các đánh giá đúng đắn về khách hàng, về các khoản vay, từ đó có các quyết
định cho vay đúng đắn. Một hệ thống kỹ thuật thẩm định họp lý, khoa học,
thống nhất là yếu tố quyết định chất lượng thẩm định và do đó quyết định chất
lượng khoản vay.

Bên cạnh các yếu tố trên, yếu tố vốn cũng giữ vai trò quan trọng, ảnh
hưởng đến hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tín dụng
nói riêng. Cũng như các doanh nghiệp kinh doanh khác, muốn tiến hành kinh

doanh ngân hàng cũng phải có vốn. vốn tự có của ngân hàng càng lớn thì ngân
hàng càng có khả năng mở rộng phạm vi cho vay và tăng cường cung cấp các
sản phẩm dịch vụ... Mặt khác, khi có vốn lớn, các ngân hàng cũng có điều kiện
đàu tu vào các cơ sở hạ tàng, máy móc công nghệ, nâng cao khả năng cạnh
tranh và uy tín của ngân hàng đồng thời đảm bảo được an toàn, hạn chế được
rủi ro trong hoạt động.
1.2. Tồng quan thực trạng cho vay tiêu dùng tại Việt Nam hiện nay.
1.2.1. Khái quát nhu cầu vay tiêu dùng tại Việt Nam hiện nay

Sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đã có nhiều đổi thay: tốc độ tăng trưởng
kinh tế ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng lên
đáng kể, hàng hoá phong phú, đa dạng, vị thế đất nước được cải thiện rõ rệt
trong khu vực và trên thế giới. Có được điều đó, bên cạnh sự nỗ lực của tất cả
các thành viên trong xã hội còn có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà
nước thể hiện trong việc hoạch định đường lối, chính sách theo hướng thông
thoáng hơn, phù họp với tình hình chung trên thế giới.

Năm 2006, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng ổn định ở mức gần
8,2%, thu hút vốn đàu tư trực tiếp nước ngoài, vốn viện trợ phát hiển chính
thức đạt mức kỷ lục (10,2 tỷ USD), xuất khẩu tăng trưởng cao với tổng kim


ngạch đạt 39,6 tỷ USD, thị trường chứng khoán bùng nổ với chỉ số VN - Index
đã lên tới trên 1000 điểm. Sự kiện Việt Nam chính thức là thành viên của Tổ
chức thương mại Thế giới (WTO) từ tháng 1 - 2007 và Tổng thống Mỹ ký Quy
chế thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam (PNTR) tạo cơ hội cho
nền kinh tế Việt Nam hội nhập bình đẳng với nền kinh tế thế giới.

Kinh tế phát hiển đã thúc đẩy nhiều hoạt động, một trong số đó là hoạt
động tiêu dùng của người dân. Neu như trước đây, mong ước của họ chỉ là “ăn

no mặc ấm” thì đến nay điều họ quan tâm là “ăn ngon mặc đẹp” và làm sao
đảm bảo cuộc sống tốt hơn cho bản thân và những người xung quanh. Mặc dù,
thu nhập hiện nay trong dân đã tăng nhưng chưa đồng đều, một bộ phận nhỏ là
có thu nhập cao còn lại là có thu nhập thấp và trung bình, số thu nhập này
thường không đáp ứng đủ nhu cầu chi tiêu và họ phải đi vay. Nắm bắt được
thực tế đó, các tổ chức tín dụng đã thực hiện cung cấp các khoản cho vay tiêu
dùng dưới nhiều hình thức và quy mô, đáp ứng nhu cầu khác nhau của người
dân. Các Ngân hàng thương mại quốc doanh, trước đây, không quan tâm chú
trọng nhiều đến lĩnh vực cho vay tiêu dùng nên thường cung cấp những khoản
cho vay có quy mô nhỏ nhưng hiện nay đã bắt đầu nhìn ra tiềm năng to lớn của
thị trường này và có những chiến lược cạnh tranh họp lý. Các Ngân hàng
thương mại cổ phần và ngân hàng nước ngoài thực hiện cho vay tiêu dùng khá
sớm (Ngân hàng thương mại cổ phàn Á Châu, Ngân hàng nhà Hà Nội,
Sacombank...) với các sản phẩm như cho vay mua nhà, cho vay tiêu dùng đối
với các cán bộ công nhân viên chức, cho vay các tiểu thương ... nhưng do quy
mô vốn nhỏ nên khả năng cạnh tranh chưa cao. Trong khi các ngân hàng đẩy
mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng thì các công ty cho thuê tài chính, ngân
hàng tiết kiệm bưu điện ... lại chưa thực sự quan tâm đến lĩnh vực này. Đây là
một thuận lợi cho các ngân hàng hiện nay. Nhưng trong tương lai, khi đội hội
đủ điều kiện, các tổ chức tín dụng trên sẽ trở thành những đối thủ cạnh tranh
mạnh với các ngân hàng về sản phẩm, dịch vụ cũng như công nghệ hiện đại và
quy mô vốn.
1.2.2. Những thuận lợi và khó khăn của hoạt động cho vay tiêu dùng tại Việt
Nam hiện nay.
Những thuận lợi
- Sự phục hồi và phát triển kinh tể của nước ta trong nhưng năm qua
*

Trong thời gian qua nền kinh tế của Việt Nam có mức tăng trưởng nhanh,
mạnh và đứng thứ hai trong khu vực chỉ sau Trung Quốc. Kinh tế tăng trưởng,

chính trị ổn định là môi trường thuận lợi thúc đẩy các hoạt động đàu tư, xây


dụng, kinh doanh... phát hiển. Tốc độ tăng trưởng trong GDP trong nhưng năm
vừa qua:

---------------*--------- »----------------------------------7-------------------------------------------------

(Nguôn: Tông cục thông kê năm 2006)

Bảng 2 : Tốc độ tăng trưởng GDP

Tốc độ tăng GDP

6.9

7.1

7.3

7.8

8.4

Và trong nghị quyết của kỳ họp thứ 8 quốc hội khóa XI, GDP năm 2006 sẽ
tăng trưởng 8% so với năm 2005, qua đó có thể nhận thấy quyết tâm của Đảng
và Nhà nước ta biến Việt Nam là một môi trường đầu tư thuận lợi thu hút các
nhà đầu tư trong và ngoài nước thúc đẩy nên kinh tế phát hiển hơn nưa, tạo ra
nhiều công ăn việc làm. Với sự tăng trưởng manh mẽ trong những năm vừa qua
đã cho chúng ta thấy một vị thế mới của Việt Nam hên trường quốc tế. Những

đấu hiệu đó đã chứng tỏ nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi và sãn sàng bước
vào hội nhập quốc tế, tạo điều kiện cho các hoạt động của ngân hàng nói chung
và hoạt động cho vay tín dụng nói riêng ngày càng phát hiển.
- Những chủ trương, chỉnh sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước.

Nhằm tạo động lực thúc đẩy kinh tế đất nước vượt qua khó khăn thử
thách, tiếp tục quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và tạo môi trường
thuận lợi cho hoạt động sản xuất- kinh doanh, hoạt động tài chính- tiền tệ, lãnh
đạo Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trưng, chính sách mới, phù họp với
nhu cầu và nguyện vọng của người dân, trong số đó có quyết định tăng số ngày
nghỉ lên 2 ngày/tuần và quyết định tăng lương với mức tối thiểu là 450.000
đồng/llao động/1 tháng đã thúc đẩy hoạt động tiêu dùng của người dân tăng
mạnh

Hoạt động tiền tệ- tín dụng cũng đạt được những kết quả mới sau khi
chuyển từ ấn định lãi suất sang áp dụng lãi suất thỏa thuận, làm cho tăng
trưởng tín dụng cao hơn tăng trưởng huy động- điều chưa từng xảy ra trong


các năm trước đó. Tâm lý nắm giữ USD giảm hẳn do tỷ giá VND/USD ổn định,
tốc độ tăng giá đồng USD năm 2005 là 1.2%, bằng một nửa tốc độ tăng giá hàng
tiêu dùng và bằng một nửa so với năm 2003.
Bảng 3: Tổng phương tỉện thanh toán, huy động vén và dư nợ tín
dụng so vói GDP trong thòi kỳ 1989-2004

°/o

TONG PHƯƠNG TIỆN THAI TOÁN, HUY DỌNG VỐN VÀ DƯ NỌ
ĨÌN DỤNG so VƯI
1

GPP TRONG THỜI KỲ Dổi MỚI. 1989 200

I0M3 PUyỢNG nỆN THANH TOÀN CM21/G0P

ti LỀ HUY DỘNG VÕN/GOP — TÝLÉDUl#ạ™ ĐilHQGOT

(Nguồn: Thông cảo của ngân hàng nhà nước Viêt NamS/2007)

Bảng 4: Tỷ lệ thất nghiệp tại các thành phổ lớn
Năm

2000

2001

2002

1 Những khó khăn
-Tỷ lệ thất nghiệp tại các đô thị còn khá ỉớn và diễn biến phức tạp

2003


------------------*--------- ị-----------------------------------7--------------- - -

(Nguôn: Tông cục thông kê)

Từ bảng số liệu trên chúng ta có thể nhận thấy tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta còn
khá cao, đặc biệt là tại các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nang, Tp HÒ Chí Minh.
Hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp tuy đã giảm nhưng vẫn ở mức cao (khoảng 6.01% vào

năm 2002). Đặc biệt, cơ cấu lao động của nước ta còn nhiều điểm bất cập, xuất phát
từ cơ chế đào tạo chưa họp lý, bộ phận quản lý thì thừa biên chế trong khi các ngành
kỹ thuật vẫn thiếu kỹ sư. Mặc dù, Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách
thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động cho họp lý nhưng công việc tiến hành rất
chậm, chẳng những làm ảnh hưởng đến năng suất lao động của cả nước nói chung
mà còn làm cho thu nhập của dân cư và sức mua có khả năng thanh toán không
được cải thiện nhiều.
- Cơ cấu và thu nhập của dân cư còn nhiều điểm chưa hợp lý

Dân cư nước ta phân bố không đều và có sự chênh lệch về mức sống, trình độ,
tích luỹ và thói quen chi tiêu....Những người có thu nhập trung binh và cao tập trung
ở thành thị cũng có nghĩa là số này chiếm tỷ họng nhỏ, khoảng 25%, còn lại khoảng
75% dân số sống ở nông thôn có thu nhập cũng như mức sống thấp, khả năng tiêu
dùng hàng hoá rất hạn chế. Thêm vào đó, mức cầu tiêu dùng của người dân ở khu
vực đô thị, tức bộ phận có thu nhập trung bình và cao, đã giảm so với thu nhập của
họ từ 77.48% năm 1996 xuống còn khoảng 65,15% hiện nay. Bản chất của hoạt
động cho vay nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng là cho phép sử dụng trước
thu nhập trong tưng lai. Việc giảm tiêu thụ hàng hoá cũng có nghĩa là nhu cầu vay
để sử dụng hàng hoá giảm, điều này sẽ có ảnh hưởng xấu đến hoạt động cho vay
tiêu dùng của các ngân hàng.

Ngoài các yếu tố trên, các yếu tố về văn hoá- xã hội, cạnh tranh ngân hàng...
cũng có ảnh hưởng rất mạnh đối với hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho
vay tiêu dùng nói riêng của các ngân hàng.
1.2.3. Các đoi thủ cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng


Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng đang ngày càng gay gắt, không chỉ giữa
các ngân hàng trong nước với nhau, mà còn giữa các ngân hàng trong nước với ngân
hàng nước ngoài, giữa các ngân hàng với các tổ chức tài chính. Tuy nhiên trong lĩnh

vực cho vay tiêu dùng, các tổ chức tài chính chưa thực sự là đối thủ cạnh tranh
mạnh vì họ chưa quan tâm nhiều đến lĩnh vực này. Còn lại, hàu hết các ngân hàng
đều tích cực phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng, bởi lẽ, hơn ai hết, họ ý thức
được những lợi ích to lớn mà cho vay tiêu dùng mang lại: việc tập trung tương đối
vào khu vực dân cư đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng tạo dựng danh
tiếng trong khu vực này đồng thời có thể thu hút nguồn vốn ổn định và tưng đối rẻ
do đó, thu về một tỷ suất lợi nhuận cao hơn.

Hiện nay, đối thủ cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng có thể được
chia thành 3 nhóm chính:

+Nhóm 1: Bao gồm các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Đây là các ngân
hàng có ưu điểm nổi trội về vốn, thị trường, bề dày hoạt động và mạng lưới đối tác.
Các ngân hàng này có quy mô họp lý, cơ cấu tối ưu, giá thành huy động vốn rẻ vì
vậy họ cạnh tranh mạnh về giá song điểm yếu của họ là chất lượng và tinh thần phục
vụ, tác phong làm việc còn mang nặng tính quan liêu. Tuy nhiên, gần đây họ đã bắt
đầu đầu tư vào nâng cấp chất lượng dich vụ và cạnh tranh ngày càng mạnh trong
lĩnh vực cho vay tiêu dùng, tạo sức ép ngày càng tăng lên các ngân hàng cổ phần.

+Nhóm 2: Gồm các ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng liên doanh vốn. Các
ngân hàng này nhằm vào các khách hàng truyền thống là cộng đồng người nước
ngoài tại Việt Nam do họ có ưu thế về chất lượng dịch vụ, nổi bật trong số này là
HSBC, ANZ.... Bên cạnh đó, trên tiến trình hội nhập WTO vào ngày 1-4-2007 vừa
qua, thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ký quyết định cho phép các ngân hàng nước
ngoài được phép lập ngân hàng chi nhánh tại Việt Nam. Đây chính là những đối thủ
cạnh tranh trước mắt của các ngân hàng thương mại cổ phân nói chung.

+ Nhóm 3: Các ngân hàng cổ phần. Đây là nhóm không đồng nhất. Các ngân
hàng cổ phần thành công nhất là có định hướng khách hàng rõ ràng, tập trung vào
một thị phần nhất định. Hiện nay, các ngân hàng ACB và SACOMBANK đang dẫn

đàu về hoạt động cho vay mua nhà, cho vay cán bộ công nhân viên và cho vay các
tiểu thương.
1.3.

Những văn bản pháp luật quy định hoạt động cho vay tiêu dùng


Tính đến thời điểm hiện nay, các văn bản pháp luật quy định các vấn đề có
liên quan đến hoạt động cho vay tiêu dùng như sau:

Thông tư 06/2000/TT-NHNN1 ngày 4/4/2000 trong chưng VI mục 1 quy
định: “Tổ chức tín dụng được phép lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản khi cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để thực hiện các
dự án đầu tư phát hiển hoặc phưng án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống đối
với khách hàng vay”. Trong đó một trong các điều kiện được vay vốn là “Có dự án
đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi phù họp với quy định
của pháp luật. Trường họp vay để phục vụ nhu cầu thiết yếu của đời sống thì khách
hàng vay phải có phuơng án trả nợ khả thi”.

Tiếp đến, trong quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nuớc về “Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng”, điều 8 có quy định: “Tổ chức tín dụng xem xét quyết định cho khách
hàng vay theo các thể loại ngắn hạn, trung hạn, và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu
vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đời sống và các dự án đầu tu phát triển”.
Đồng thời, điều 19 cũng quy định: “Tổ chức tín dụng không đuợc cho vay đối với
thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng
giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng, cán bộ nhân viên trong chính tổ
chức tín dụng đó thẩm định quyết định cho vay. Tổ chức tín dụng cũng không đuợc
cho vay đối với bố, mẹ, vợ, chồng, con của các thành viên Hội đồng quản trị, Ban
kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc)”. Nhu

vậy, với quy định mới này, những đối tuợng trên sẽ không được vay (kể cả cho mục
đích tiêu dùng) tại những tổ chức tín dụng mà bản thân họ là người làm nhiệm vụ,
người giữ chức vụ hoăc có thân nhân là người trực tiếp làm nhiệm vụ hoặc giữ chức
vụ.

Bên cạnh các văn bản pháp quy quy định về cho vay tiêu dùng đối với khách
hàng, Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam cũng ban hành các văn bản pháp luật quy
định việc cho vay tiêu dùng đối với các cán bộ công nhân viên nhằm mục đích chính
đáng như nâng cấp nhà ở, mua phương tiện đi lại...

Tuy nhiên, các văn bản đó chỉ đưa ra những quy định chung nhất, khi áp
dụng vào thực tế hoạt động của các ngân hàng thì còn nhiều điểm thiếu, chưa phù
họp. Do vậy, mỗi ngân hàng, tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và đặc điểm của


mỗi sản phẩm, dịch vụ cung cấp, đều đưa ra những quy định riêng dựa trên cơ sở
những quy định chung đó. Là một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần thực
hiện hoạt động cho vay tiêu dùng ngay từ khi nhu càu của dân cư bắt đàu tăng,
HDBank cũng đã ban hành một số quy định cụ thể về hoạt động cho vay tiêu dùng
thông qua thực tiễn hoạt động:

- Quyết định số 00163/QĐ-HĐQT ngày 08/02/2002 của hội đồng quản trị
Ngân hàng thương mại cổ phần Phát hiển Nhà TP HCM về “Quy chế cho vay đối
với khách hàng”, khoản 4 điều 6 quy định điều kiện vay vốn “Có khả năng tài chính
đủ đảm bảo thực hiện phương án kinh doanh, phương án phục vụ đời sống và đủ trả
nợ trong thời gian cam kết: Phải có vốn tự có tham gia vào phương án kinh doanh,
phương án phục vụ đời sống với tỷ lệ tối thiểu là 30% tổng chi phí thực hiện phương
án kinh doanh, phương án phục vụ đời sống đối với trường họp cá nhân vay vốn”

- Quyết định số 00622/TCB-QĐ.TGĐ ngày 8/7/2002 của Tổng giám đốc Ngân

hàng thương mại cổ phần Phát hiển Nhà TP HCM về thể lệ “Cho vay nhà mới”,
Điều 1 quy định “Ngân hàng thương mại cổ phần Phát hiển Nhà TP HCM cho các
đối tượng là thể nhân và pháp nhân vay vốn bằng VND xây, mua, sửa nhà, chuyển
quyền thuê lại nhà của Nhà nước và chuyển quyền sử dụng đất theo chưng trình
“Cho vay nhà mới” nhằm thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, tạo điều kiện cho việc
cải thiện tình hạng về nhà ở, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân và tạo
điều kiện hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế trong quá trình sản xuất,
kinh doanh”. Đồng thời, điều 3 cũng quy định “Trường họp vay vốn xây, sửa nhà,
mức vay tối thiểu là 30 hiệu đồng, mức vay tối đa là 2 tỷ đồng, trường họp mua nhà,
chuyển quyền sử dụng đất thì mức vay tối thiểu là 50 hiệu đồng, mức vay tối đa là 7
tỷ đồng”.


Quyết định 01377/QĐ-TGĐ của Tổng giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần
Phát hiển Nhà TP HCM về việc “Cho cán bộ công nhân viên mua nhà trả góp”,
điều 2 quy định điều kiện hưởng ưu đãi như sau: “Cán bộ công nhân viên đang
làm việc tại HDBank tối thiểu là 2 năm, các đối tượng chưa đủ 2 năm nhưng có
thành tích công tác xuất sắc, cán bộ cấp trưởng phòng, trưởng quỹ trở lên có thể
được ban Tổng giám đốc xem xét và quyết định”.CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG CHO VAY TIỀU DÙNG TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN NHÀ
THÀNH PHỐ HÒ CHÍ MINH
2.1: Tổng quan về Ngân hàng Thương mại cổ phần Phát triển nhà TP Hồ Chí
Minh (HDBank)
2.1.1: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển

Ngày 04/01/1990 Ngân hàng Thương mại cổ phần( TMCP) Phát triển Nhà
TP. Hồ Chí Minh (HDBank) được thành lập. Là một trong những ngân hàng
TMCP đầu tiên của cả nước với vốn điều lệ ban đầu là 3 tỷ đòng, HDBank đã

mang lấy sứ mệnh “phát triển nhà ở và chỉnh trang đô thị, góp phần xây dựng TP.
Hồ Chí Minh văn minh hiện đại”. Lấy sứ mệnh làm mục tiêu hoạt động và phát
triển, HDBank có chức năng thực hiện kinh doanh tổng họp, đa dạng trong lĩnh
vực nhà ở; kinh doanh tiền tệ, tín dụng thông qua việc đầu tư vốn, cung ứng tín
dụng và dịch vụ nhà; tập trung huy động vốn và quản lý tất cả các nguồn vốn để
phục vụ chương trình phát triển nhà và chỉnh trang đô thị; tư vấn cho Uỷ ban
nhân dân TP. Hồ Chí Minh về chương trình, kế hoạch phát triển nhà và chỉnh
trang đô thị.

Ngành nghề kinh doanh huy động vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn với các
hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn, chứng chỉ tiền gửi. Tiếp nhận vốn đầu


tư và phát triển của các tổ chức trong nước. Vay vốn các tổ chức tín dụng khác.
Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy
tờ có giá. Hùn vốn và liên doanh. Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng,
kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc theo tiêu chuẩn quốc tế ở thị trường trong nước và
thị trường nước ngoài. Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, huy động vốn
từ nuớc ngoài và các dịch vụ ngân hàng khác trong quan hệ với nuớc ngoài.

Toàn bộ hoạt động của HDBank đều được thực hiện thống nhất theo các Qui
trình, Qui chế của HDBank, tuân thủ nghiêm ngặt theo qui định của pháp luật.
Năm 2004 vốn điều lệ đạt 150 tỷ đồng (tăng 114% so với năm 2003), tỷ lệ chia cổ
tức cho cổ đông đạt 12% /năm, giữ được tỷ lệ nợ quá hạn luôn thấp hon mức
Ngân hàng Nhà Nước cho phép.

Cho đến thời điểm tháng 12 năm 2005, HDBank đã đạt được mức vốn điều
lệ là 300 tỷ đồng, tăng 100% so với năm 2004. Sau nhiều đợt thanh tra chặt chẽ
của thanh tra Ngân hàng Nhà nước, HDBank đã hoàn toàn đáp ứng được các tiêu
chí về sự phát hiển lành mạnh của một ngân hàng thưong mại cổ phàn. Vào ngày

02-04-2007 vừa qua, tại đại hội cổ đông của HDBank,các cổ đông đã thống nhất
tăng vốn điều lệ của HDBank từ 500 tỷ đồng (2006) lên 1000 tỷ đồng vào ngay
trong tháng 4/2007.

Mặc dù là một ngân hàng TMCP có qui mô còn nhỏ, nhưng nếu xét về "tỷ
suất lợi nhuận đạt được/vốn điều lệ" HDBank có thể sánh ngang với các ngân
hàng TMCP hàng đầu ở Việt Nam hiện nay.

Bên cạnh những hiệu quả về lợi nhuận, HDBank cũng rất quan tâm đến việc
xây dựng và quảng bá thưomg hiệu của mình, nhằm mục đích đưa thưong hiệu
HDBank trở thành một thưong hiệu có giá trị cao trong thị trường tài chính.

Ngân Hàng Thưomg mại cổ Phần Phát Triển Nhà Tp Hồ Chí Minh (dưới
đây được gọi là “Ngân hàng”) được cấp phép hoat động theo Giấy phép hoạt
động số 00019/NH-GP ngày 06 tháng 06 năm 1992 do Thống đốc NHNN Việt
Nam cấp và có:


1 .Tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam.

2. Tên của Ngân hàng là: NGẦN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẨN PHÁT
TRIỂN NHÀ THÀNH PHỔ HỒ CHÍ MINH.

. Tên viết tắt: NGẦN HÀNG PHÁT TRIỂN NHÀ.

.

Tên đầy đủ bằng tiếng Anh: HOUSING
COMMERCLAL JOINL STOCK BANK.


DEVELOPMENT

. Tên viết tắt bằng tiếng Anh: HOUSING DEVELOPMENT BANK
(HDBank).

3. Trụ sở chính đặt tại: số 33-39 đường Pasteur, P.Nguyễn Thái Bình, Quận
1, TP Hồ Chí Minh.

Điện thoại: (84-8) 8299344 Fax : (848)8299371 Email : Hoưsingbank@bdvn ■
vnn .net Webside : www.hdb.com.vn

Hiện nay HDBank đã có 13 chi nhanh trong cả nước tuy nhiên phạm vi hoạt
động chủ yếu tại TP Hồ Chí Minh với 10 chi nhánh, cùng với 1 chi nhánh đặt tại
Cần Thơ, 1 chi nhánh tại Bình Dương và vào tháng 9-2006 HDBank đã mở rộng
ra thị trường phía bắc khi khai trương chi nhánh HDBank tại Hà Nội và có định
hướng phát triển các mạng lưới chi nhánh tại các tinh phía Bắc 2.1.2: Cơ cẩu tổ
chức

- Cơ cẩu cổ đông và đại hội cổ đông: Hiện có 8 doanh nghiệp quốc doanh là
cổ đông của ngân hàng chiếm 55.94% vốn điều lệ, các doanh ngiệp ngoài quốc
doanh chiếm 27.99% và các thể nhân chiếm 16.07% vốn điều lệ. Đại hội cổ đông
là cơ quan có quyền quyết định về chuyến lược phát hiển của ngân hàng và bầu ra


×