Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Vận dụng quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất đối với trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.97 KB, 14 trang )

Đề tài: Vận dụng quy luật về sự phù hợp quan hệ sản
xuất đối với trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.


Tiểu luận môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

MỤC LỤC
A.

Phần mở đầu..................................................................................................3

B.

Nội dung.........................................................................................................4
I.

Đặt vấn đề...............................................................................................4

II. Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất đối với trình độ
phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay..............5
1. Quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất đối với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất........................................................................................5
a, Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.................................5
b, Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất ......................................................................................................................6
2. Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất đối với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay...........................9
a, Trước đổi mới..........................................................................................9
b, Từ 1986 đến nay....................................................................................10
C. Kết luận........................................................................................................13


DANH SÁCH THÀNH VIÊN..........................................................................14

--------------------

2


Tiểu luận môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

A. Phần mở đầu
Trong lịch sử nhân loại từ khi xuất hiện xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình
thái kinh tế xã hội: chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư sản và xã hội chủ nghĩa. Qua
mỗi thời kì tư duy và nhận thức của con người không dừng lại ở một chỗ mà ngày
càng phát triển hoàn thiện hơn. Chính sự thay đổi về tư duy và nhận thức đã kéo
theo sự thay đổi và phát triển của lực lượng sản xuất cũng như cơ sở sản xuất. Từ
đó, quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất đối với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất trở thành quy luật hết sức phổ biến trong công cuộc xây dựng đất
nước của mỗi quốc gia. Tuy nhiên không phải quốc gia nào cũng vận dụng nó một
cách hiệu quả, việc vận dụng quy luật này cần có sự cân nhắc kĩ lưỡng. Sự mâu
thuẫn hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đều có ảnh hưởng
rất lớn tới nền kinh tế. Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, sự tác động của “quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ pháp triển của lực lượng sản xuất” tạo ra nguồn
gốc và động lực cơ bản nhất đối với sự vận động, phát triển của nền sản xuất vật
chất và do đó là sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội; sự vận động,
pháp triển của lịch sử nhân loại từ phương thức sản xuất thấp lên phương thức sản
xuất cao hơn. Quy luật này còn là cơ sở để giải thích về nguồn gốc sâu xa của toàn
bộ các hiện tượng xã hội, sự biến đổi trong đời sống chính trị. Sự tổng hoà mối
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên một nền kinh tế có lực
lượng sản xuất phát triển kéo theo một quan hệ sản xuất phát triển. Nói cách khác.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất

là một điều kiện tất yếu để phát triển một nền kinh tế. Nước ta cũng là nước vận
dụng quy luật này để đổi mới và phát triển đất nước.

B. Nội dung
I. Đặt vấn đề:
3


Tiểu luận môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử phương thức sản xuất
biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai
đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Dưới sự vận động của lịch sử loài
người, cũng như sự vận động của mỗi xã hội cụ thể, sự thay đổi về phương thức sản
xuất bao giờ cũng là sự thay đổi có tính chất cách mạng. Trong sự thay đổi đó, các
quá trình kinh tế, xã hội được chuyển sang một chất mới. Phương thức sản xuất là
cái mà nhờ nó người ta có thể phân biệt được sự khác nhau của những thời đại kinh
tế khác nhau. Mà phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản
xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. đó cũng chính là quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Do vậy, quy luật trên trước hết là quy luật kinh tế nhưng hơn thế nữa nó con
là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ đời sống xã hội của lịch sử nhân loại bởi vì nó
là quy luật của bản thân phương thức sản xuất. Sự tác động của quy luật này dẫn tới
sự thay đổi của phương thức sản xuất và kéo theo sự thay đôỉ cua toàn bộ đời sống
xã hội. Với những lý do trên, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa hết sức to lớn. Tuy nhiên, việc
nắm bắt được quy luật này không phải là đơn giản, nhận biết được một quan hệ sản
xuất có phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hay
không hoàn toàn phải phụ thuộc vào thực tiễn của sản xuất và kinh nghiệm bản
thân. Với những chính sách, đường lối và chủ trương đúng đắn, nắm bắt tốt quy

luật của đảng và nhà nước, nền kinh tế, đặc biệt là kinh nhiều thành phần đã phát
triển mạnh mẽ, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu phát triển thành nước
sản xuất nông nghiệp tiên tiến; góp phần đẩy nhanh nền kinh tế nước nhà đi sang
một hướng khác, sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.

4


Tiểu luận môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

II. Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất đối với
trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay:
1. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất:
a, Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất:
Bất kì một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố thuộc
về người lao động (như năng lực, kỹ năng, tri thức… của người lao động) cùng các
tư liệu sản xuất nhất định (như đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu
phụ trợ của quá trình sản xuất,…). Toàn bộ các nhân tố đó tạo thành lực lượng sản
xuất của các quá trình sản xuất.
Lực lượng sản xuất chính là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá
trình sản xuất, tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra năng lượng
thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất
định của con người và xã hội.
Lực lượng sản xuất là những nhân tố có tính sáng tạo và tính sáng tạo đó có
tính lịch sử. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh
phục giới tự nhiên của con người: trình độ thủ công của lực lượng sản xuất phản
ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên thấp hơn rất nhiều so với lực lượng sản xuất ở
trình độ kỹ thuật công nghiệp và công nghệ cao.

Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, nhân tố “người lao động” là
nhân tố giữ vai trò quyết định. Bởi vì, các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động
của con người, phụ thuộc vào trình độ thực tế sử dụng và sáng tạo của người lao
động. Trong tư liệu sản xuất thì nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản ánh rõ
nhất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con
người chinh phục giới tự nhiên.
Lực lượng sản xuất là nhân tố cơ bản, tất yếu tạo thành nội dung vật chất của
quá trình sản xuất; không một quá trình sản xuất hiện thực nào có thể diễn ra nếu
5


Tiểu luận môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

thiếu một trong hai nhân tố là người lao động và tư liệu sản xuất. Thế nhưng chỉ có
lực lượng sản xuất vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực được mà còn
cần phải có những quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức xã hội của quá trình
sản xuất ấy.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội), bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản
xuất, quan hệ trong tổ chức – quản lí quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối
kết quả của quá trình sản xuất đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối,
tác động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
b, Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản
xuất và quan hệ sản xuất tác động trờ lại lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá
trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản
xuất, còn quan hệ sản xuất là “hình thức xã hội” của quá trình đó.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau,

thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình
sản xuất hiện thực của xã hội. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định của
lực lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với thực
trạng đó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức – quản lí và phân
phối thì lực lượng sản xuất mới có thể được duy trì, khai thác – sử dụng và không
ngừng phát triển. Ngược lại, lực lượng sản xuất của một xã hội chỉ có thể được duy
trì, khai thác – sử dụng và phát triển trong một hình thức kinh tế - xã hội nhất định.
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo
nguyên tắc khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển
của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ sản

6


Tiểu luận môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

xuất chỉ là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất, còn lực lượng sản xuất
là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.
Quan hệ sản xuất, với tư cách là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản
xuất, luôn luôn có khả năng tác động trở lại sự vận động, phát triển của lực lượng
sản xuất. Sự tác động này có thể diễn ra theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực,
điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với
thực trạng và nhu cầu khách quan của sự vận động, phát triển lực lượng sản xuất.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh
mâu thuẫn.
Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế - xã hội xác định,
lực lượng sản xuất của xã hội được bảo tồn, không ngừng được khai thác – sử dụng
và phát triển trong quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội. Tính ổn định, phù
hợp của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản suất càng cao thì lực lượng sản xuất

càng có khả năng phát triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại
luôn luôn tạo ra khả năng phá vỡ sự thống nhất của những quan hệ sản xuất từ
trước đến nay đóng vai trò là hình thức kinh tế - xã hội trong sự phát triển của nó.
Những quan hệ sản xuất này, từ chỗ là hình thức phù hợp và cần thiết cho sự phát
triển của các lực lượng sản xuất đã trở thành những hình thức kìm hãm sự phát
triển đó tạo ra một mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, từ đó
xuất hiện nhu cầu khách quan phải thiết lập mối quan hệ thống nhất giữa chúng
theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng
sản xuất. Khi phân tích sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, C. Mác đã từng chỉ ra rằng “Tới một giai đoạn phát triển
nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những
quan hệ mâu thuẫn hiện có…, trong đó từ trước đến nay, các lực lượng sản xuất
vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những
7


Tiểu luận môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất”. Chính nhờ các
cuộc cách mạng xã hội mà những quan hệ sản xuất cũ của xã hội được thay thế
bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản
xuất đã phát triển, tiếp tục phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất trong một hình thức quan hệ sản xuất mới.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ mâu
thuẫn biện chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh tế - xã hội của
quá trình sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này là một quá trình đi từ sự thống
nhất đến những sự khác biệt và đối lập, xung đột, từ đó làm xuất hiện nhu cầu
khách quan phải được giải quyết theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phù hợp với sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này cũng tuân theo
quy luật “từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược

lại”, quy luật “phủ định của phủ định”, khiến cho quá trình phát triển của nền sản
xuất xã hội vừa diễn ra với tính chất tiệm tiến, tuần tự, lại vừa có tính nhảy vọt với
những bước đột biến kế thừa và vượt qua của nó ở trình độ ngày càng cao hơn.
Trong phạm vi phân tích sự phát triển xã hội mâu thuẫn và sự vận động của
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là nội dung cơ bản
“quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”.
Sự tác động của quy luật này tạo ra nguồn gốc và động lực cơ bản nhất đối với sự
vận động, phát triển của nền sản xuất vật chất và do đó là sự vận động, phát triển
của toàn bộ đời sống xã hội; sự vận động, phát triển của lịch sử nhân loại từ
phương thức sản xuất thấp sang phương thức sản xuất cao hơn; là cơ sở để giải
thích một cách khoa học về nguồn gốc sâu xa của toàn bộ các hiện tượng xã hội và
các sự biến trong đời sống chính trị, văn hóa của các cộng đồng người trong lịch
sử.

8


Tiểu luận môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

2. Sự vận dụng quy luật phù hợp quan hệ sản xuất đối với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay:
Lịch sử xã hội nói chung phát triển tuần tự từ thấp lên cao, nhưng thực tiễn
lịch sử chứng minh rằng nhiều nước đã bỏ qua một số phương thức sản xuất để tiến
lên phương thức sản xuất cao hơn, Việt Nam là một trong những nước đó.
a, Trước đổi mới:
Trước đây, nước ta là một nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng
sản xuất thấp kém, trình độ quản lí thấp với nền sản xuất nhỏ tự cung, tự cấp, tự
túc. Hơn nữa, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến trải qua hai cuộc đấu
tranh, nhiều lần bị đế quốc Mĩ bao vây nền kinh tế vì vậy lực lượng sản xuất chưa
có điều kiện phát triển.

Sau khi giành được chính quyền, nước ta vẫn là một nước nông nghiệp, lực
lượng sản xuất chưa phát triển, chủ yếu với tư liệu lao động thô xơ, lực lượng lao
động còn thấp kếm, tụt hậu, không động đều… Trước yêu cầu xây dựng chủ nghĩa
xã hội, nước ta đã vứt bỏ hết các yếu tố tư bản chủ nghĩa với quan niệm tư bản chủ
nghĩa là xấu, không áp dụng nó chỉ cho tồn tại những quan hệ chủ nghĩa xã hội,
nước ta xóa bỏ nhanh chế độ tư hữu chuyển sang chế độ công hữu với hai hình thức
toàn dân và tập thể lúc đó được coi là điều kiện chủ yếu, quyết định, tính chất, trình
độ xã hội hoá sản xuất cũng như sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Song trong thực tế cách làm này đã không mang lại kết quả như mong muốn,
vì nó trái quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất, trong khi lực lượng sản xuất còn yếu kém thì quan hệ sản xuất lại
quá phát triển, phát triển với mức độ cao, đã để lại hậu quả là: kinh tế kiệt quệ,
nguy cơ nghèo đói tăng cao, việc tiến hành tập thể nhanh chóng tư liệu sản xuất
dưới hình thức cá nhân bị tập trung dưới hình thức sở hữu công cộng, người lao
9


Tiểu luận môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

động bị tách khỏi tư liệu sản xuất, không làm chủ được qúa trình sản xuất, phụ
thuộc vào lãnh đạo hợp tác xã, họ cũng không phải là chủ thể sở hữu thực sự dấn
đến tư liệu sản xuất trở thành vô chủ, gây thiệt hại cho tập thể, kinh tế quốc doanh
thiết lập tràn lan trong tất cả các ngành. Về pháp lý tư liệu sản xuất cũng thuộc sở
hữu toàn dân, người lao động là chủ sở hữu có quyền sở hữu chi phối, định đoạt tư
liệu sản xuất và sản phẩm làm ra nhưng thực tế thì người lao động chỉ là người làm
công ăn lương, chế độ lương lại không hợp lý không phản ánh đúng số lượng và
chất lượng lao động của từng cá nhân đã đóng góp… dẫn tới tình trạng đơn vị kinh
tế mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém
hiệu quả nhưng lại không ai chịu trách nhiệm, không có cơ chế giàng buộc trách
nhiệm, nên người lao động thờ ơ với kết quả hoạt động của mình, sinh ra tiêu cực

trong phân phối, chỉ có một số người có quyền định đoạt phân phối vật tư, vật
phẩm, đặc quyền đặc lợi.
b, Từ năm 1986 đến nay:
Đối với đất nước của chúng ta, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường hợp với
xu thế của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Tuy nhiên, chúng ta tiến lên
chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, nên phải trải qua thời kỳ quá độ. Việc bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa về thực chất là bỏ qua chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa, nhưng
chúng ta lại kế thừa những giá trị của chủ nghĩa tư bản với tư cách là lực lượng sản
xuất, để hướng nền sản xuất đi lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Đi lên chủ nghĩa xã hội, nước ta thực hiện chính sách từng bước đổi mới đất
nước,đưa đất nước phát triển tiến lên mục tiêu đã đề ra. Tại Đại hội lần thứ VI (năm
1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm với nội dung cơ bản là phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay, đất nước ta đã có những
10


Tiểu luận môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

bước phát triển vượt bậc, thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và luôn đạt
mức tăng trưởng cao. Những thành tựu đó khẳng định tính đúng đắn của đường lối
đổi mới nói chung và chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nói riêng.
Điểm nổi lên là kinh tế của chúng ta còn quá nghèo nàn, lạc hậu … vì vậy khâu
trọng yếu mà chúng ta phải xây dựng đó là phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã
hội.
Tuy nhiên cũng không phải đạt được kết quả ngay tức thì, mặc dù lực lượng
sản xuất của nước ta không ngừng phát triển, trình độ của người lao động không
ngừng được nâng lên công tác giáo dục và đào tạo được chú trọng… nhưng chưa

đúng yêu cầu của thời kì đổi mới, không có tính cạnh tranh.Tư liệu sản xuất tuy
phát triển song vẫn còn thấp kém, lạc hậu, không đều,sở hữu tư liệu sản xuất dẫn
đến tình trạng phân hóa giàu nghèo. Nhưng Đảng và Nhà nước nhạy bén trước thời
cuộc khắc phục tình hình, với việc đưa ra quan hệ sản xuất bằng con đường đúng
đắn với cơ chế tồn tại nhiều thành phần kinh tế do đó tồn tại cùng một lúc nhiều
quan hệ sản xuất khác nhau tương ứng với trình độ phát triển cao, thấp khác nhau,
với lực lượng sản xuất thấp kém không đồng đều nước ta sử dụng quan hệ sản xuất
không đồng đều, khắc phục tình trạng lực lượng sản xuất thấp kém lại sử dụng quy
luật quan hệ sản xuất quá cao hoặc không phù hợp diều này hợp quy luật bước đầu
vận dụng đúng quy luật.
Hiện nay, Đảng ta đang lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc công nghiệp
hóa - hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Muốn làm tốt trọng trách
này, thì phải tạo điều kiện cho bản thân nền kinh tế, trong đó thành phần kinh tế tư
nhân là một thành phần rất năng động, hiệu quả. Trong suốt quá trình đổi mới 25
năm qua, Ðảng ta không ngừng tìm tòi, phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trên tổng thể và đối với từng yếu tố cấu
11


Tiểu luận môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

thành của quan hệ sản xuất. Ðó là một quá trình vận động, phát triển liên tục về
nhận thức thông qua lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn.
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong thời gian qua đã đạt
được những thành tựu to lớn: 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Đây là giai đoạn
chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước
quá trình đổi mới đời sống KTXH và giải phóng sức sản xuất Giai đoạn 2005-2010:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt
cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77% so với kế

hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỉ USD, gấp hơn
2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001-2005. Tổng vốn ODA
cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt
khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 16%. GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD, chỉ số
HDI đã liên tục tăng cao.
Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh
thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước
phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại. Hệ thống kết cấu hạ tầng có
bước phát triển khá, đáp ứng yêu cầu trước mắt và tọa được những năng lực gối
đầu cho thời kì sau. Cơ sở vật chất của các ngành giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ , y tế, văn hóa, thể duc thể thao… đều được tang lên đáng kể. Sự nghiệp
giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng hình thức và
cơ sở vật chất, chất lượng giáo dục – đào tạo từng bước chuyển biến phát triển. Vấn
đề việc làm và đời sống của nhân dân được giải quyết có nhiều hiệu quả công tác
xóa đói giảm nghèo được triển khai mạnh mẽ, rộng khắp nhất là ở các vùng cao, xã
nghèo, đạt được kết quả tốt. Đời sống nhân dân của người vùng cao được cải thiện

12


Tiểu luận môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

rõ rệt. Các công tác xã hội ngày càng nhiều, được mở rộng và đạt được những kết
quả tốt.
Qua 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng
bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần
và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Đạt được
những thành tựu như trên là do Đảng và Nhà nước ta vận dụng đúng quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta đem

lại.

C. Kết luận:
Với những thành tựu mà nước ta đã đạt được ta thấy hiệu quả của việc Đảng
và Nhà nước ta đã nhạy bén với thời cuộc, xem xét, nắm bắt tình hình nước ta một
cách chính xác để đưa ra các chính sách phù hợp. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo sự định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là tuân thủ quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất đối với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Không thể phủ
nhận hiệu quả của việc vận dụng quy luật này mang lại cho nước ta trong công
cuộc đổi mới đất nước. Nhờ đó Việt Nam đã từng bước phát triển và khẳng định vị
thế trên trường quốc tế.

13


Tiểu luận môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

14



×