Tải bản đầy đủ (.doc) (178 trang)

Nhân thân người phạm tội trên địa bàn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.24 KB, 178 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM UYÊN THY

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM UYÊN THY

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 9. 38. 01. 05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Hồ Trọng Ngũ

HÀ NỘI - 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả phân tích trong luận án hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây. Tôi xin chịu hoàn toàn
trách nhiệm về kết quả nghiên cứu trong luận án của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 5 năm
2019 Tác giả

Phạm Uyên Thy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.......................................... 7
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài.................................................................................. 7
1.2. Những nghiên cứu trong nước........................................................................................... 14
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án ............................... 23
1.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục được nghiên cứu trong Luận án ....................24
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI
PHẠM TỘI........................................................................................................................................ 27
2.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa nghiên cứu nhân thân người phạm tội .........27
2.2. Những hiện tượng xã hội tiêu cực tác động đến quá trình hình thành nhân
thân người phạm tội......................................................................................................................... 49
2.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội ........................................ 58
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG HIỆN TƯỢNG TIÊU CỰC TÁC
ĐỘNG HÌNH THÀNH NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH................................................................................... 63
3.1. Thực trạng tình hình tội phạm tại Thành phố Hồ Chí Minh................................. 63

3.2. Thực trạng nhân thân người phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh.................72
3.3. Thực trạng những hiện tượng xã hội tiêu cực tác động đến sự hình thành
nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ............................... 84
3.4. Nhận xét đánh giá chung..................................................................................................... 107
Chương 4: DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ KHÍA CẠNH NHÂN
THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI.................................................................................................... 113
4.1. Dự báo về xu hướng của các yếu tố tác động đến sự hình thành đặc điểm
nhân thân người phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh................................................. 113
4.2. Những giải pháp loại bỏ những hiện tượng tiêu cực tác động từ môi
trường sống......................................................................................................................................... 121


4.3. Những giải pháp khắc phục, dần loại bỏ những hiện tượng tiêu cực từ nhân
thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ......................................... 137
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN...................................................................... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................ 152


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự


CAND

: Công an nhân dân

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

HĐXX

: Hội đồng xét xử

NCS

: Nghiên cứu sinh

NXB

: Nhà xuất bản

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân Tối cao

TP HCM


: Thành phố Hồ Chí Minh

UBND

: Ủy ban nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân Tối cao


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu nguyên nhân của tội phạm từ việc phân tích những đặc điểm
nhân thân người phạm tội sẽ giúp cho Nhà nước nói chung kịp thời đề ra những
chính sách pháp luật phù hợp, nhằm giảm bớt những mâu thuẫn trong xã hội, đưa ra
những biện pháp phòng ngừa xã hội phù hợp, giúp cho công tác đấu tranh chống tội
phạm đạt được những kết quả bền vững, làm cơ sở xã hội để giảm tỷ lệ tội phạm
trong khi vẫn bảo đảm mục tiêu phát triển kinh tế, giữ nền chính trị ổn định nhất là

ở những thành phố lớn có vai trò trọng điểm trong nền kinh tế quốc dân.
Về mặt lý luận, nhân thân người phạm tội là một đề tài được nhiều ngành
khoa học quan tâm nghiên cứu. Hiện nay, có nhiều biện pháp đồng bộ được sử
dụng nhằm phòng ngừa tình trạng phạm tội đang gia tăng, trong đó các biện pháp
tác động ảnh hưởng tới nhân thân người phạm tội. Nghiên cứu nhân thân người

phạm tội cho phép chỉ ra quá trình hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực
của người phạm tội, chỉ ra quá trình hình thành các nguyên nhân và điều kiện của
tội phạm, bên cạnh đó nghiên cứu về nhân thân người phạm tội cũng cho phép
chỉ ra sự chuyển biến các đặc điểm nhân thân người phạm tội làm biến đổi thành
các nguyên nhân và điều kiện hình thành tội phạm. Từ đó, có thể phân loại từng
đặc điểm nhân thân để có các hệ thống biện pháp phòng ngừa theo từng loại tội,
từng nhóm đối tượng hiệu quả từ góc độ nhân thân người phạm tội.
Về mặt thực tiễn, Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm chính trị - xã hội
lớn của cả nước, là đầu cầu các hoạt động kinh tế của đất nước, với diện tích
2.095,06 km², có 19 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành. Theo thống kê của
Tổng cục Thống kê năm 2016, dân số Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng
9.224.000 người, nhưng căn cứ trên số lượng dân cư không đăng ký và dân nhập
cư, có khoảng hơn 14 triệu người, mật độ dân số 3.809 người/km². Đặc trưng dân
cư tại Thành phố Hồ Chí Minh phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở các quận
nội thành. Với vị thế là trung tâm hoạt động kinh tế xã hội, Thành phố Hồ Chí
Minh luôn được Nhà nước ưu tiên nhiều chính sách và chủ trương phát triển kinh
tế xã hội, là cơ sở để Thành phố Hồ Chí Minh kêu gọi các nguồn đầu tư,

1


đây cũng là nguồn giải quyết việc làm của người dân. Trong những năm qua, với
sự phát triển vượt bậc về kinh tế, chất lượng đời sống của người dân ngày càng
nâng cao, bên cạnh những thành tựu phát triển kinh tế đạt được, Thành phố Hồ
Chí Minh đang đối mặt với hàng loạt vấn đề xã hội, điển hình là tình hình gia
tăng tội phạm xảy ra ngày càng nhiều và diễn biến ngày càng phức tạp. Một bộ
phận nhân dân có đời sống kinh tế khó khăn, không việc làm hoặc việc làm
không ổn định; sự phân hóa giàu nghèo và sự xâm nhập văn hóa độc hại, lối sống
thực dụng, các tệ nạn xã hội ngày càng tăng… đang làm cho tình hình trật tự an
toàn xã hội hết sức phức tạp, là điều kiện thuận lợi làm phát sinh tội phạm trên

địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh mới chỉ dừng lại ở mức độ cá nhân, mà yêu cầu của
công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đòi hỏi việc nghiên cứu nhân thân
người phạm tội phải khái quát ở mức độ nhóm và cao hơn là mức độ tình hình
tội phạm, để nhận thức đúng nhất nguyên nhân của tình hình tội phạm và đề xuất
được các giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm một cách hữu hiệu nhất và
mong muốn góp phần làm giảm tình hình tội phạm, vì vậy nghiên cứu sinh chọn
đề tài "Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh", để làm
đề tài luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án có mục đích làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn nhân thân
người phạm tội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, từ đó chỉ rõ thực trạng các
đặc điểm của nhân thân tiêu cực của người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh và những hiện tượng xã hội tiêu cực trong đời sống kinh tế xã hội tác
động làm hình thành nhân thân người phạm tội; qua đó đề xuất xây dựng những
giải pháp phòng ngừa tội phạm bằng cách hạn chế, khắc phục, loại bỏ các hiện
tượng tiêu cực tác động hình thành đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm
tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.

2


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu nói trên, Luận án có những nhiệm vụ nghiên cứu sau:

- Tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài về nhân
thân người phạm tội để xác định các vấn đề kế thừa, tiếp thu và những vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu và làm rõ trong luận án.

- Hệ thống hoá, phân tích các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên
cứu như nhân thân con người, nhân thân người phạm tội, các đặc điểm của nhân
thân người phạm tội làm nền tảng lý luận và phương pháp luận cho Luận án.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng đặc điểm nhân thân người phạm tội trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, chỉ ra những đặc điểm tiêu cực nào tác động
hình thành đặc điểm nhân nhân thân tiêu cực của người phạm tội trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất các giải pháp phòng ngừa hiệu quả tình hình phạm tội trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ nhân thân người phạm tội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn nhân
thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 – 2018.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu là những vấn đề lý luận nhân thân người phạm tội dưới
góc độ chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm dựa trên thực tiễn
tình hình tội phạm tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 - 2018 với hai
nhóm tội là các tội phạm về ma túy và các tội xâm phạm sở hữu, do hai nhóm tội
này chiếm tỷ lệ cao (76,5%) trên tổng số vụ án đưa ra xét xử hình sự tại Thành
phố Hồ Chí Minh.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm trong quá trình xây dựng nhà

3


nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, áp dụng và bảo vệ pháp luật trong thời kỳ đổi

mới liên quan đến nhân thân người phạm tội làm phương pháp luận nghiên cứu.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp luật học so sánh,
phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp thống kê… Phương pháp nghiên cứu
gián tiếp thông qua tổng hợp và phân tích tài liệu, phương pháp nghiên cứu trực
tiếp thông qua khảo sát thực tế, tiếp xúc và trao đổi trực tiếp với các nhà nghiên
cứu, cũng như phỏng vấn trực tiếp người phạm tội tại trại giam Chí Hòa, Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng và thu thập số
liệu thống kê về tội phạm, các báo cáo tổng kết, các số liệu thống kê, các bản
án… của Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
để phân tích và làm rõ các đặc điểm của nhân thân người phạm tội, từ đó chỉ ra
các yếu tố tác động và hệ thống các giải pháp nhằm loại bỏ, ngăn chặn các yếu tố
tiêu cực này ra khỏi đời sống xã hội.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Luận án sử dụng phương pháp này
nhằm đánh giá các bản án điển hình về tội phạm ma tuý và xâm phạm sở hữu đã
được Toà án nhân thành phố Hồ Chí Minh xét xử điển hình nhất trong giai đoạn
2009 - 2018, nhằm phản ánh về tính chất, mức độ, đặc điểm của nhân thân người
phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phương pháp so sánh: Trong luận án, phương pháp này được sử dụng để
so sánh tình hình nhân thân người phạm tội trong địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh so với vùng miền khác.
- Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này được sử dụng trong luận án
để tiến hành các buổi trao đổi các ý kiến chuyên gia, với những người có kinh
nghiệm, với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán…. để làm rõ hơn về thực
trạng phòng ngừa tội phạm từ khía cạnh nhân thân người phạm tội trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh.

4



- Phương pháp điều tra xã hội học: Phương pháp này đươc thực hiện bằng
các bảng hỏi đối với người phạm tội đang bị giam giữ tại trại giam Chí Hòa. Mục
đích nghiên cứu nhằm khảo sát thực trạng các đặc điểm nhân thân người phạm
tội, các nguyên nhân dẫn đến họ thực hiện hành vi phạm tội và khả năng phòng
ngừa tái phạm tội.
5. Những đóng góp mới về khoa học của Luận án
Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện, có hệ thống về
“Nhân thân người phạm tội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” dưới góc độ tội
phạm học và phòng ngừa tội phạm. Những điểm mới của luận án thể hiện:
Thứ nhất, sử dụng phương pháp nghiên cứu tiếp cận liên ngành luật học
để giải quyết các vấn đề trọng tâm của luận án, đặc biệt là cách tiếp cận triết học
pháp luật; tâm lý học tội phạm kết hợp với các phương pháp nghiên cứu cụ thể,
luận án phân tích, đánh giá làm rõ đặc điểm nhân thân người phạm tội trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh;
Thứ hai, phân tích làm rõ những đặc trưng của nhân thân người phạm tội
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có tính đến yếu tố địa lý học tội phạm (đặc
thù của nhân thân người phạm tội trong mối liên hệ với yếu tố dân số, văn hóa,
phong tục, truyền thống, lối sống ...);
Thứ ba, phân tích làm rõ những tác động từ môi trường gia đình, nhà
trường, bạn bè… trong việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của
người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 - 2018;
Thứ tư, chỉ ra điểm khác biệt của đặc điểm nhân thân người phạm tội giữa
các nhóm tội khác nhau trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh;
Thứ năm, kiến nghị được những giải pháp tăng cường phòng ngừa tội
phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ nhân thân người phạm tội;
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa quan trọng trên khía cạnh lý
luận và thực tiễn trong công tác phòng ngừa tội phạm nói chung và công tác

phòng ngừa tội phạm tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.

5


6.1. Ý nghĩa lý luận
- Dựa trên sự phân tích làm rõ lý luận về nhân thân người phạm tội và ứng
dụng vào thực tiễn tình hình tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh,
Luận án góp phần bổ sung thêm lý luận khoa học tội phạm học và phòng ngừa
tội phạm nói chung cũng như lý luận về nhân thân người phạm tội.
- Đề tài là một công trình góp phần bổ sung thêm phương pháp tiếp cận từ
việc nghiên cứu thực tiễn nhân thân người phạm tội khái quát thành lý luận
phòng ngừa tình hình tội phạm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những giải pháp được đề xuất trong đề tài sẽ là tài liệu có giá trị giúp các cơ
quan áp dụng pháp luật tham khảo, nghiên cứu và vận dụng nhằm nâng cao hiệu quả
của hoạt động phòng, chống tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Những kết quả nghiên cứu trong Luận án góp phần bổ sung thêm tài liệu
tham khảo trong nghiên cứu, học tập của các cơ sở đào tạo luật và góp phần bổ
sung, hoàn thiện lý luận nhân thân người phạm tội chuyên ngành tội phạm học
nói chung và lý luận phòng, chống tội phạm nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, luận án được kết cấu gồm 4 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Những vấn đề lý luận cơ bản về nhân thân người phạm tội
Chương 3. Thực trạng và những hiện tượng tiêu cực tác động hình thành
nhân thân người phạm tội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Chương 4. Dự báo và các giải pháp phòng ngừa tội phạm trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh từ khía cạnh nhân thân người phạm tội.

6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về nhân thân người phạm tội tiếp cận
ở nhiều góc độ khác nhau. Để có thể nghiên cứu nhân thân người phạm tội trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu sinh đã tham khảo các công trình
nghiên cứu trên thế giới, cụ thể như sau:
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về các vấn đề lý luận nhân thân
người phạm tội
Trong cuốn sách “Vì sao họ phạm tội? Tình trạng thanh, thiếu niên phạm
tội ở các nước tư bản chủ nghĩa” của Melinikova E.B [112]: Trong tác phẩm này,
nhà tội phạm học người Nga đã chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu của tình hình
tội phạm trong xã hội tư bản và cho rằng hoàn cảnh vật chất và sự chênh lệch lớn
giữa giàu và nghèo là những yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành cách xử sự
của người phạm tội, đặc biệt là đối với người chưa thành niên, trong khi đó
người chưa thành niên lại chưa được đặt vào trong các mối quan hệ xã hội phức
tạp, không có kinh nghiệm sống, không có nghề nghiệp… Theo Melinikova E.B,
bối cảnh xã hội và tình hình tội phạm cũng liên quan tới nhau, đó là các hình ảnh
trên truyền hình về phong cách, lối sống sử dụng bạo lực, vũ khí… tất cả các yếu
tố này đều ảnh hưởng tới sự hình thành thói quen, nhu cầu, nhân cách của người
chưa thành niên phạm tội.
Cuốn sách “Cơ sở lý luận của việc phòng ngừa tội phạm” của G.M.
Mikovskij (bản dịch của Viện thông tin Khoa học xã hội - 1982) [113]: nghiên
cứu chuyên sâu về lý luận phòng ngừa tội phạm, tác giả đưa ra hệ thống các biện
pháp phòng ngừa chung và riêng áp dụng đối với các đối tượng phạm tội cụ thể.

Các giải pháp được xây dựng trên nguyên tắc loại trừ các yếu tố tiêu cực tác
động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực cũng như động cơ, mục
đích của người phạm tội.
Trong cuốn sách “Youth crime and youth culture in the inner city” (Tội
phạm thanh, thiếu niên và văn hóa giới trẻ trong khu vực nội thành) của Sanders,

7


Bill [118]: Trong công trình này, tác giả phân tích xu hướng gia tăng tình hình tội
phạm do thanh, thiếu niên thực hiện ở thành phố của xã hội hiện đại, làm rõ động
cơ, thái độ của người phạm tội và tác động của môi trường kinh tế - xã hội đối
với sự hình thành các đặc điểm về nhân thân của người phạm tội… Các tác giả
tập trung nghiên cứu làm rõ động cơ, thái độ của những người phạm tội và vai
trò của môi trường kinh tế xã hội tác động đến quá trình hình thành các đặc điểm
nhân thân người phạm tội. Nghiên cứu có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định các
nguyên nhân của hành vi phạm tội xuất phát từ đặc điểm nhân thân thanh thiếu
niên phạm tội, trong đó có tội xâm phạm sở hữu.
Trong cuốn sách “An introduction to Crime and Criminology” (Giới thiệu
về tội phạm và tội phạm học) của Hennessy Hayes và Tim Prenzler [103]: Đây là
công trình chuyên khảo nghiên cứu về tình hình tội phạm và nhân thân người
phạm tội, trong đó các tác giả đã chỉ ra nguyên nhân và điều kiện của tội phạm
chịu ảnh hưởng lớn bởi các yếu tố tiêu cực, như từ phía người bị hại, từ môi
trường xã hội, môi trường giáo dục, từ chính sách pháp luật... Đây là tác phẩm có
ý nghĩa khoa học đối công tác phòng ngừa tội phạm từ khía cạnh nhân thân
người phạm tội, trong tác phẩm tác giả đã đưa ra chiến lược và các phương pháp
đấu tranh phòng, chống một số loại tội phạm cụ thể.
Trong cuốn sách “Crime prevention – Theory and Practice” (Phòng ngừa
tội phạm - Lý luận và thực tiễn) của Stephen R. Schneider [122]: Trong tác phẩm
tác giả nhấn mạnh các vấn đề lý luận về phòng ngừa tội phạm, các tình huống

phòng, chống tội phạm thông qua thiết kế môi trường… tác giả đã dựa trên
nguyên tắc loại trừ các yếu tố tiêu cực từ môi trường là nguyên nhân tác động
hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm tội. Đây là tác phẩm
có ý nghĩa khoa học trong việc xác định các yếu tố tiêu cực từ môi trường kinh tế
xã hội tác động, hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm tội.
Trong cuốn sách “White - Collar Crime and Criminal Careers Specifying
a

Trajectory of Punctuated Situational Offending” (Tội phạm cổ cồn trắng và xu

hướng phạm tội ở độ tuổi thanh thiếu niên), của Nicole Leeperpiquero và
Michail L.Benson [116]: Là một trong các công trình nghiên cứu chuyên sâu về

8


tội phạm học. Các tác giả cho rằng những học thuyết trước đây về tội phạm
không chú ý đến kiểu tội phạm thuộc gia đình quyền thế và giàu có, là kiểu tội
phạm có những đặc trưng khác biệt với những dạng tội phạm vị thành niên và tội
phạm đường phố, được coi là đặc trưng tồn tại trong xã hội. Trong đó tội phạm
vị thành niên, gồm những người có hành vi chống đối xã hội rất sớm và tiếp tục
phạm tội trong suốt thời kỳ thành niên; còn tội phạm đường phố, gồm những
người lúc thơ ấu không có dấu hiệu chống đối xã hội, nhưng sau đó phạm tội
trong suốt thời thanh niên. Các tác giả cho rằng theo các nhà nghiên cứu, mỗi
người có thể có một quỹ đạo phạm tội gồm các khía cạnh tương quan với nhau:
sự bắt đầu của tội phạm, quá trình hoạt động tội phạm và sự chấm dứt tội phạm,
với hầu hết mọi người, các hành vi liên quan đến tội phạm thường bắt đầu giữa
những năm của tuổi thanh thiếu niên (15 đến 17 tuổi), một số khác (ít hơn) chấm
dứt hoạt động tội phạm muộn hơn (những năm đầu của tuổi 20) và không thực
hiện tội phạm sau 25 tuổi.

Các tác giả đồng tình với sự giải thích của Moffitt (1993) về hai loại tội
phạm chuyên nghiệp và tội phạm tức thời, trên có sở kết hợp giữa các yếu tố sinh
học và xã hội học khi cho rằng sự tương tác của yếu tố môi trường như bị ngược
đãi hoặc thiếu sự chăm sóc của cha mẹ, đối với sự thiếu hụt, rối loạn về thần
kinh sẽ làm cho trẻ con trở nên khó phục tùng và khó dạy dỗ... Trong thời kỳ
chuẩn bị trưởng thành (khoảng từ 14 đến 18 tuổi), trẻ em có xu hướng thích độc
lập và muốn được cư xử như người lớn. Trong khi đó, cha mẹ, thầy cô và xã hội
lại nghĩ rằng chúng không thể tự chủ được và tiếp tục đặt ra giới hạn để gò bó
hành vi và tự do của trẻ, dẫn tới trẻ thường chống lại cách đối xử này khi cố
chứng minh có thể thật sự độc lập và kết quả dẫn đến là đã phạm một số lỗi như
hút thuốc, uống rượu, quan hệ tình dục trái phép hoặc có hành động cố ý khác...
Tội phạm hạn chế ở tuổi thành niên chính là sự bắt chước cách cư xử của những
tội phạm bền bỉ... Khi có sự trưởng thành về tuổi tác, nhu cầu và sự lôi cuốn của
sự phạm lỗi ngày càng giảm đi và dần dần sẽ chấm dứt tham gia các hoạt động
tội phạm... Sự chuyển từ giai đoạn thanh thiếu niên sang giai đoạn

9


trưởng thành, có thể dẫn tới một trong các khả năng: Một số vị thành niên tiếp
tục phạm tội, một số khác sẽ chấm dứt hành vi chống đối xã hội...
Nghiên cứu còn cho thấy, sự phạm tội thời thơ ấu có ảnh hưởng tới giai
đoạn trưởng thành: Ở một số người chưa thành niên có cách cư xử chống lại xã
hội sẽ tiếp tục nếu thiếu sự kiểm soát của xã hội, nhưng ở một số khác lại vượt
qua được hoàn cảnh không tốt để sống bình thường sau khi trải qua bước ngoặc
khác, như hôn nhân hạnh phúc, công việc ổn định hoặc tham gia quân đội... Có
thể thấy đây là một công trình đề cập khá sâu đến các nguyên nhân hình thành
các đặc điểm nhân thân xấu của những người chưa thành niên phạm tội.
Nhằm xây dựng cơ sở lý luận sâu sắc khi nghiên cứu nhân thân người phạm
tội, bên cạnh việc tham khảo các công trình nghiên cứu lý luận về nhân thân người

phạm tội, nghiên cứu sinh đã tham khảo thêm một số quan điểm về tội phạm học
nói chung đề cập trong các trường phái, học thuyết khác nhau trên thế giới.

Trường phái nhân chủng học luật hình sự Ý thế kỷ XIX: Hạt nhân của
trường phái sinh học hình sự Ý là học thuyết của Lombroso trong “Der
Verbrecher”- “Người phạm tội”, năm 1876 về người phạm tội bẩm sinh, tức là
người có biểu hiện phạm tội từ khi sinh ra căn cứ về cấu tạo cơ thể, đối với
người này trước sau gì cũng phạm tội, không cải tạo được và bất chấp điều kiện
tác động của xã hội. Đến năm 1889, công trình nghiên cứu “Những nguyên nhân
và cuộc đấu tranh” đã điều chỉnh học thuyết này và khẳng định chỉ 1/3 số người
phạm tội do bản tính quyết định và không thể cải tạo, nên chỉ áp dụng hình phạt
chung thân và tử hình.
Trường phái xã hội học luật hình sự Pháp thế kỷ XIX là trường phái có
quan điểm đối lập với trường phái nhân chủng học luật hình sự Ý. Trường phái
này chủ yếu nghiêng về tính quyết định của môi trường sống, của xã hội đối với
sự hình thành tội phạm.
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về thực trạng nhân thân người
phạm tội
Nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm tội không thể không nghiên
cứu về thực trạng nhân thân người phạm tội. Những công trình nghiên cứu về

10


thực trạng nhân thân người phạm tội ở nước ngoài mà nghiên cứu sinh tham
khảo có thể kể đến như:
Cuốn sách “Crime and criminology in Japan” (tạm dịch: Tội phạm và tội
phạm học ở Nhật Bản hiện đại) của Can Ueda, Giáo sư, tiến sĩ luật học, Trường
Đại học Tổng hợp Ritsumeikan được dịch từ bản dịch tiếng Nga của Nhà xuất
bản Tiến Bộ, Moskva, năm 1989 do Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành

năm 1994. Trong cuốn sách này, nhà tội phạm học người Nhật cho rằng tội phạm
học không phải là khoa học duy nhất nghiên cứu tội phạm, mà là đối tượng của
một số ngành khoa học khác như: Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Xã hội học,
Tâm lý học….Theo Can Ueda “Tội phạm học là khoa học nghiên cứu tội phạm
và đề ra các biện pháp đấu tranh, phòng chống”. Tác phẩm đã nghiên cứu
chuyên sâu về nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, đưa ra các đặc điểm nhân
thân của tội phạm đặc trưng ở Nhật Bản, như đặc điểm về giới tính, lứa tuổi:
Trong số phụ nữ phạm tội bị cảnh sát bắt giữ có 42,3% là nữ vị thành niên
(1980); trung bình cứ 100.000 người dân trên 15 tuổi thì có 65,6 người phạm tội,
trong số những người bị bắt giữ vì phạm tội năm 1981 có 0,7% người bị tổn hạn
về thần kinh, sự bất thường nhiễm sắc thể giới tính và tội phạm không có mối
quan hệ với nhau. Đây là đặc điểm của tội phạm để nghiên cứu sinh tham khảo,
so sánh, làm sáng tỏ các đặc điểm nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu.
Khi nghiên cứu về tình trạng bạo lực trong trường phổ thông. Can Ueda cho rằng
“tình trạng các nhóm lưu manh càn quấy đe doạ học sinh và các thầy cô, hành vi
phạm tội của chúng đã gây ra thương tích, chết người và các thiệt hại khác. Các
nhóm càn quấy có tới 95% các em học sinh hư hỏng tham gia, nguyên nhân
trước hết là sự dồn nén tâm lý và hình thành ý thức phá hoại, một số do rèn luyện
kém trở nên lỗ mãng, ngỗ ngược, do ảnh hưởng của phim ảnh, sách báo, bao lục
rùng rợn, sự đô thị hoá nhanh, phá vỡ xã hội truyền thống làm phát triển tư tưởng
cá thể, thói ích kỷ”. [Can Ueda 1989 Crime and criminilogy in Japan, Trường
Đại học Tổng hợp Ritsumeikan, (dịch từ bản dịch tiếng Nga của Nhà xuất bản
Tiến Bộ), Moskva] [94].

11


Trong cuốn “Street Robbery” (Cướp giật trên đường phố, Tạp chí Viện An
ninh và Khoa học tội phạm, ISSN: 2050-4853, năm 2012) của Lisa Tompson
[109]: Trong bài viết, tác giả đã phân tích và rút ra kết luận cướp giật trên đường

phố là việc sử dụng hoặc đe dọa vũ lực để cướp tài sản từ một người trong không
gian công cộng; chỉ ra một số đặc trưng của tội phạm này như: xảy ra vào những
thời điểm cụ thể; trong không gian công cộng ngắn gọn; nạn nhân thường là
người mới giao dịch ở các cây ATM, cửa hàng tiện lợi, nhà hàng thức ăn nhanh
hoặc lưu thông trên đường có mang theo tài sản. Trên có sở đó, tác giả đưa ra các
biện pháp phòng ngừa đối với tội cướp giật trên đường phố và các yêu cầu đặt ra
đối với hệ thống pháp luật trong phòng ngừa tội phạm này.
Công trình “Race, crime, and justice” (Tạm dịch: Chủng tộc, tội phạm và
công lý) của các tác giả Shaun L.Gabbidon và Helen Taylor Greene, Nhà xuất
bản Routledge, New York, năm 2005. Công trình có sự tham gia của nhiều học
giả tên tuổi với 15 chuyển khảo nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của tình
hình tội phạm. Đặc biệt là chuyên đề thứ 11 có chủ đề “Up it up: Gender and the
accomplishment of street robbery” (Tạm dịch: Chủ đề nóng: Giới tính và hậu
quả của tội cướp trên đường phố) của học giả Jody Miller có nội dung rất rộng…
Theo học giả Jody Miller, cho thấy nam giới tương đối phù hợp cho việc thực
hiện các hành vi phạm tội liên quan đến mại dâm, nhưng điều đó không loại trừ
nữ giới thực hiện hành vi phạm tội cướp, cướp giật đường phố. Nữ giới, đặc biệt
là nữ giới Mỹ gốc phi có liên quan nhiều hơn đến các tội phạm bạo lực và tội
cướp, cướp giật đường phố hơn phụ nữ da trắng. Điều đó cho thấy ngoài giới
tính, chủng tộc cũng có vai trò đáng kể đến việc thực hiện các tội phạm bạo lực,
tội cướp và cướp đường phố. Đây là đánh giá hữu ích về thực trạng đặc điểm về
giới tính và chủng tộc người phạm tội để nghiên cứu sinh tham khảo liên quan
luận án [119].
1.1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về các giải pháp tăng cường
phòng ngừa tình hình tội phạm từ khía cạnh nhân thân người phạm tội
Trong cuốn “Crime prevention - Theory and Practice” (Phòng ngừa tội
phạm - Lý luận và thực tiễn) của Stephen R. Schneider, Giáo sư về lĩnh vực khoa

12



học xã hội học và tội phạm, thuộc Đại học Saint mary, Halifax, Nova Scotia,
Canada [122]. Tác giả nhấn mạnh các vấn đề lý luận về phòng ngừa tội phạm,
biện pháp phòng chống tội phạm thông qua thiết kế môi trường. Theo tác giả,
việc phòng ngừa tội phạm còn được thực hiện thông qua hoạt động phát triển xã
hội cho thanh, thiếu niên và người lớn, thông qua cộng đồng xã hội… Với công
trình này, tác giả đưa ra và giải thích một cách khoa học về hoạt động phòng
ngừa tội phạm như: Giảm nguy cơ phạm tội bằng cách thay đổi hành vi của các
nạn nhân tiềm tàng trong xã hội; giám sát mọi cơ hội tiếp cận để phòng ngừa
hành vi phạm tội; các biện pháp kiểm soát lãnh thổ, không gian, kiểm soát xã hội
không chính thức, nhằm giảm những nguyên nhân, điều kiện cần thiết để thực
hiện tội phạm. Tác giả cũng chỉ ra được những hạn chế và cách giải quyết những
hạn chế của việc áp dụng các giải pháp giải quyết vấn đề xã hội cho người phạm
tội, tập trung vào công tác phòng ngừa tái phạm, nâng cao trách nhiệm của cộng
đồng trong phòng ngừa tội phạm.
Trong cuốn “Street Robbery: Problem Oriented Guides for Police” (Cướp
trên đường phố: Những định hướng các vấn đề về chính sách - 2010) của John E.
Eck, Khadija Monk, Justin A. Heinonen [106]: Trong tác phẩm này, các tác giả
đã phân tích những vấn đề về tội phạm cướp trên đường phố và đưa ra những
khuyến cáo về cách thức thực hiện, thời gian, địa điểm thường xảy ra tội phạm.
Ngoài ra, công trình còn phân tích làm rõ những đặc điểm tâm lý của người
phạm tội thích lựa chọn những nhóm nạn nhân nhất định, để đề xuất các biện
pháp phòng ngừa tội phạm hiệu quả hơn.
Trong cuốn “An introduction to Crime and Criminology” (Giới thiệu về tội
phạm và tội phạm học) của Hennessy Hayes và Tim Prenzler [103]: Đây là công
trình chuyên khảo nghiên cứu về tình hình tội phạm và nhân thân người phạm tội,
trong đó các tác giả đã chỉ ra nguyên nhân và điều kiện của tội phạm chịu ảnh
hưởng lớn bởi các yếu tố tiêu cực, như từ phía người bị hại, từ môi trường xã hội,
môi trường giáo dục, từ chính sách pháp luật... đồng thời đưa ra chiến lược và các
phương pháp đấu tranh phòng, chống một số loại tội phạm cụ thể.


13


Các công trình này đều đề cập đến nhân thân người phạm tội như một yếu
tố và nguyên nhân làm phát sinh hành vi phạm tội, làm sáng tỏ cơ chế của hành
vi phạm tội, là nguồn tài liệu tham khảo trạng thái nghiên cứu về lý luận về
nguyên nhân, điều kiện, tình hình tội phạm, nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa
tội phạm.
Do tội phạm trong tội phạm học là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học nên phải tiếp cận bằng đa ngành, liên ngành. Phân tích công trình nước
ngoài khẳng định được các đặc điểm nhân thân người phạm tội như đặc điểm về
sinh học (đặc điểm gen, ngoại hình...), là đặc điểm quan trọng nhưng không
quyết định đến hình thành tội phạm mà môi trường xã hội mới quyết định hình
thành nhân cách của con người, để từ đó định hướng, kế thừa và làm rõ vấn đề
nghiên cứu của Luận án là nhân thân người phạm tội được hiệu quả, lập luận
chặt chẽ và logic.
1.2. Những nghiên cứu trong nước
1.2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về các vấn đề lý luận nhân thân
người phạm tội
Nhân thân là một trong những vấn đề được nhiều ngành khoa học quan
tâm nghiên cứu như: y học; tâm lý học; sinh học; luật học… Trong lĩnh vực pháp
luật, việc nghiên cứu nhân thân không chỉ có ý nghĩa trong việc đề ra biện pháp
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm có hiệu quả. Bên cạnh luật hình sự nghiên
cứu về nhân thân người phạm tội, tội phạm học cũng là một lĩnh vực khoa học đi
sâu nghiên cứu về nhân thân người phạm tội. Dưới đây là một số giáo trình, sách
chuyên khảo; luân văn, luận án và các bài báo khoa học nghiên cứu làm rõ khái
niệm thân nhân người phạm tội.
Sách chuyên khảo “Tội phạm học Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn”, của tập thể tác giả Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật do TS.

Phạm Hồng Hải làm chủ biên, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2000. Công
trình đã làm rõ định nghĩa nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc tính, các
dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người mà trong những điều kiện,

14


hoàn cảnh nhất định và dưới sự tác động của chính các điều kiện, hoàn cảnh đó
động cơ phạm tội nảy sinh. [80, tr. 92].
Sách chuyên khảo “Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam”, của GS.TS.
Nguyễn Văn Cảnh và PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh, Học viện CSND, năm 2013. Công
trình đã đưa ra khái niệm nhân thân người phạm tội là tổng hòa các yếu tố, các đặc
điểm riêng biệt của người phạm tội ở một địa bàn hành chính – lãnh thổ nhất định,
trong một khoảng thời gian nhất định về các mặt tâm - sinh lý - xã hội, nhân khẩu nhân chủng học, dân tộc học và pháp lý, những cái có ý nghĩa, có giá trị thiết thực
cho việc xác định nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để có giải pháp phòng ngừa
tội phạm phù hợp. So với định nghĩa trên, định nghĩa này thể hiện chi tiết, cụ thể
hơn những nhóm đặc điểm đặc trưng của nhân thân người phạm tội [6].

Giáo trình “Tội phạm học” của tập thể tác giả Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nhà xuất bản CAND, năm 2012, định nghĩa “nhân thân người phạm tội là
tổng hợp những đặc điểm sinh học, tâm lí và xã hội của người phạm tội và các
đặc điểm này kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh khách quan bên ngoài đã dẫn
đến con người đó thực hiện hành vi phạm tội” [69, tr. 150].
Sách chuyên khảo “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm”, của
GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2001 [91, tr
106], tác giả đã đưa ra quan điểm nhân thân người phạm tội dưới góc độ “cá
nhân kẻ phạm tội”, “có nghĩa là chúng ta đề cập tới các đặc điểm cá nhân con
người gây ra tội phạm” [92, tr.141], công trình đưa ra 04 căn cứ để phân loại
nhân thân người phạm tội: Phân loại theo các tài liệu nhân khẩu học như giới
tính, lứa tuổi; phân loại theo các tiêu chí kinh tế - xã hội như trình độ văn hóa,

điều kiện sống, nơi cư trú, địa bàn cư trú…; phân loại theo quốc tịch; phân loại
theo tình trạng cá nhân vào thời điểm phạm tội (say rượu, nghiệm ma túy, phạm
tội có tổ chức, phạm tội trong khi cải tạo tại trại giam…) và phân loại theo đặc
điểm của hành vi phạm tội (cố ý phạm tội hay vô ý phạm tội; phạm tội có sử
dụng bạo lực, trục lợi chiếm đoạt tài sản…).
Sách chuyên khảo “Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn”, của tập thể tác giả Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật do TS.

15


Phạm Hồng Hải làm chủ biên, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2000, nhóm
tác giả đưa ra quan điểm căn cứ vào nguồn gốc hình thành, nhân thân người
phạm tội chia thành hai loại: “Đặc điểm xã hội và đặc điểm sinh học” [40,
tr.103], tuy nhiên “tội phạm học Việt Nam thừa nhận nhân thân người phạm tội
là tổng hợp cả hai loại đặc điểm trên, trong đó đặc điểm xã hội có tính quyết
định” [40, tr.103], ngoài ra còn có các phân loại khác, trong đó phổ biến là “đặc
điểm xã hội – nhân khẩu học; đặc điểm về động cơ, mục đích; đặc điểm về đạo
đức – tâm lý” [40, tr.105].
Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb. Công an
nhân dân (2013). Giáo trình đã dành chương 6 từ trang 127 đến trang 153 để làm
rõ lý luận về nhân thân người phạm tội. Tác giả nhấn mạnh “Nhân thân người
phạm tội là một bộ phận cấu thành tất yếu và rất quan trọng của cơ chế hành vi
phạm tội” [86, tr.127]. Đây là một nhận thức quan trọng và là tiền đề để các
nghiên cứu về tội phạm học khai thác khía cạnh nhân thân người phạm tội để
làm rõ cơ chế hành vi phạm tội. Giáo trình cũng chỉ ra phương pháp nghiên cứu
nhân thân người phạm tội là “một mặt phải xuất phát và dựa vào những luận
điểm chung” đã trình bày trong giáo trình và “mặt khác cần phải cân nhắc cả
một số đặc điểm mang tính chất tội phạm học” [86, tr. 129]. Giáo trình cũng chỉ
rõ “Việc hiểu biết đúng đắn về nhân thân nói chung chỉ có thể có được trên cơ sở

hiểu biết tất cả các đặc điểm xã hội và các biểu hiện của chúng, hiểu biết sự
tương quan, chẳng hạn của “tỷ trọng” của các đặc điểm tốt về mặt xã hội và các
đặc điểm tiêu cực về mặt xã hội” [86, tr. 130]. Đặc biệt, giáo trình đã đưa ra một
định nghĩa rất khoa học về nhân thân người phạm tội: “Nhân thân người phạm
tội tức là người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật
hình sự quy định là tội phạm được hiểu là tổng thể tất cả các dấu hiệu, đặc điểm
có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên
ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó.” [86, tr.131]
Trong cuốn giáo trình Tội phạm học của tập thể tác giả Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nhà xuất bản CAND, năm 2012, chia nhân thân người phạm tội
thành 03 nhóm: Nhóm đặc điểm sinh học, nhóm đặc điểm tâm lý, nhóm đặc

16


điểm xã hội. Trong đó, “nhóm đặc điểm sinh học bao gồm giới tính, tuổi và một
số đặc điểm thể chất khác” [69, tr.154], “nhóm đặc điểm tâm lý của người phạm
tội thường được kể đến là những đặc điểm tâm lý tiêu cực của người phạm tội ”
[69, tr.156], “nhóm đặc điểm xã hội có thể kể đến các đặc điểm về việc làm, nghề
nghiệp, thành phần xã hội, về hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh kinh tế… và các
đặc điểm về môi trường, quá trình được giáo dục, đào tạo…” [69, tr.158]
Đề nghiên cứu sâu hơn về lý luận nhân thân người phạm tội, nghiên cứu
sinh có tìm hiểu và nghiên cứu thêm một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ để
làm cơ sở lý luận cho luận án của mình, cụ thể:
Luận án Tiến sĩ “Nhân thân người phạm tội trong luật Hình sự Việt Nam”,
Nguyễn Thị Thanh Thủy, Viện Nhà nước và pháp luật, năm 2005, ủng hộ quan
điểm chia nhân thân người phạm tội thành ba nhóm dấu hiệu đặc điểm, đặc trưng
của nhân thân người phạm tội: Nhóm các đặc điểm, dấu hiệu về nhân khẩu học xã hội (giới tính, độ tuổi, học vấn, hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp, nơi cư trú);
nhóm các đặc điểm, dấu hiệu theo pháp lý - hình sự (động cơ, mục đích thực
hiện tội phạm; tái phạm; đồng phạm và mức độ có tổ chức của người phạm tội);

nhóm các đặc điểm, dấu hiệu về đạo đức - tâm lý. [47].
Luận văn thạc sĩ “Vai trò nhân thân người phạm tội – Dấu hiệu quy định
trách nhiệm hình sự”, tác giả Chu Thị Quỳnh, năm 2015, tác giả rút ra một số
đặc điểm và các dấu hiệu nhân thân người phạm tội ảnh hưởng đến việc xác định
trách nhiệm hình sự gồm: Các đặc điểm mang tính chất sinh học (tuổi, giới tính,
tình trạng sức khỏe), các đặc điểm mang tính chất xã hội (học vấn, nghề nghiệp,
hoàn cảnh gia đình, nơi cư trú), các đặc điểm mang tính pháp lý hình sự (động
cơ, mục đích, phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm). Tác giả cũng
nêu lên ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội đến việc quy định
trách nhiệm hình sự, cụ thể là có ý nghĩa trong việc xác định nguyên nhân của tội
phạm, có thuyết phục để Tòa án quyết định hình phạt này hay hình phạt khác,
đảm bảo hình phạt đã tuyên có tính thực tế, phù hợp các nguyên tắc của luật hình
sự cũng như đáp ứng được mục đích trừng trị, cải tạo, giáo dục người phạm tội
có ý nghĩa rất lớn đối với việc cá thể hóa hình phạt.

17


Các công trình ở trên đã cơ bản phân tích chuyên sâu về nội dung các đặc
điểm về nhân thân người phạm tội. Điểm chung của các công trình nghiên cứu
trên là đa số đều đồng tình với quan điểm chia các đặc điểm nhân thân người
phạm tội thành các đặc điểm sinh học, tâm lý, xã hội, pháp lý. Phân tích, tiếp cận
các quan điểm ở trên, nghiên cứu sinh đồng quan điểm chia các đặc điểm của
nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thành 3 đặc
điểm:
- Các đặc điểm xã hội – nhân khẩu;
- Các đặc điểm xã hội – tâm lý;
- Các đặc điểm xã hội - pháp lý.
1.2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về các vấn thực tiễn nhân thân
người phạm tội

Luận văn thạc sĩ “Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu từ thực
tiễn tỉnh Bình Dương” của Phạm Thị Triều Mến, năm 2016. Trong công trình
nghiên cứu, tác giả đã ủng hộ quan điểm chia nhân thân người phạm tội xâm
phạm sở hữu thành 03 nhóm: Nhóm đặc điểm xã hội – nhân khẩu (Giới tính, lứa
tuổi, nơi cư trú, dân tộc, địa vị xã hội, nghề nghiệp, quốc tịch, hoàn cảnh gia
đình, trình độ học vấn…); nhóm đặc điểm xã hội – tâm lý (Quan điểm, thái độ,
nhận thức đối với các giá trị đạo đức xã hội, pháp luật; nhu cầu, sở thích, thói
quen; động cơ, mục đích phạm tội; tôn giáo, tín ngưỡng,…); nhóm các đặc điểm
xã hội - pháp lý (những đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm phạm sở
hữu và có ý nghĩa trong việc định tội, định khung và quyết định hình phạt). Từ
việc phân tích thực tiễn nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn
tỉnh Bình Dương giai đoạn 2011-2015, tác giả đã kiến nghị các giải pháp phòng
ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ góc độ
nhân thân người phạm tội. Nghiên cứu của tác giả cho thấy được phương pháp
luận trong việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội theo một nhóm tội, trên địa
bàn của một tỉnh.
Luận văn thạc sĩ luật học “Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu
trên địa bàn tỉnh Kiên Giang” của tác giả Hồ Thanh Lam, năm 2016, Học viện

18


Khoa học xã hội. Trong luận văn tác giả đã khẳng định tầm quan trọng của việc
nghiên cứu nhân thân tội phạm học và phòng ngừa tội phạm và chỉ rõ: Nghiên
cứu làm rõ nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, góp phần làm cho quá
trình định tội, định khung và quyết định hình phạt được chính xác. Các đặc điểm
của nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các vấn
đề: Truy cứu trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt, yếu tố định tội hoặc định
khung hình phạt… Pháp luật tố tụng hình sự quy định, các đặc điểm nhân thân
người phạm tội phải được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập đầy đủ trong hồ

sơ vụ án và phải được thể hiện trong bản kết luận điều tra của Cơ quan Điều tra,
Cáo trạng của Viện kiểm sát và Bản án của Tòa án. Các đặc điểm nhân thân
người phạm tội xâm phạm sở hữu có ý nghĩa trong việc định tội và định khung
hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu, như: Động cơ và mục đích tư lợi…
Nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, giúp xác
định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội xâm phạm sở hữu (nguyên nhân từ
phía người phạm tội và nguyên nhân từ phía xã hội). Việc nhận thức, phân tích các
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội xâm phạm sở hữu không thể thiếu việc
nghiên cứu nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, bản chất, các đặc điểm và
quá trình hình thành nó. Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu với tổng thể
các đặc điểm có tác động chi phối hành vi phạm tội và cũng chính là kết quả của sự
tác động qua lại giữa người phạm tội và môi trường xã hội của người phạm tội xâm
phạm sở hữu. Bằng những nghiên cứu tổng quát về nhân thân người phạm tội xâm
phạm sở hữu và những số liệu về các loại tội xâm phạm sở hữu góp phần làm rõ
những tác động tiêu cực của môi trường gia đình, nhà trường, môi trường kinh tế,
văn hóa, xã hội vĩ mô đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người
phạm tội xâm phạm sở hữu. Nghiên cứu cụ thể về các đặc điểm và những yếu tố tác
động đến quá trình hình thành các đặc điểm tiêu cực của nhân thân người phạm tội
xâm phạm sở hữu sẽ cho thấy rõ những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh
hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu.

Nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu giúp đề ra
biện pháp phòng ngừa tội xâm phạm sở hữu nói riêng và tội phạm nói chung. Về

19


×