Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

CHĂM sóc sức KHỎE CHO NGƯỜI CAO TUỔI tại HUYỆN đức HUỆ, TỈNH LONG AN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (954.92 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN QUỐC BẢO

CHĂM SÓC SỨC KHỎE CHO NGƯỜI CAO TUỔI
TẠI HUYỆN ĐỨC HUỆ, TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN QUỐC BẢO

CHĂM SÓC SỨC KHỎE CHO NGƯỜI CAO TUỔI
TẠI HUYỆN ĐỨC HUỆ, TỈNH LONG AN

Ngành: Xã hội học
Mã số: 8 31 03 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGUYỄN ĐỨC CHIỆN

Hà Nội, năm 2019


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
Chương 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VA THỰC TIỄN ................................................. 14
1.Cở sở lý luận.............................................................................................................. 14
1.1. Các khái niệm........................................................................................................ 14
1. 2. Các Lý thuyết ....................................................................................................... 16
1.2.1. Lý thuyết hệ vai trò của Merton ............................................................ 16
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chăm sóc sức khỏe người cao tuổi ..... 19
1.4. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................... 24
1.5. Tình hình kinh tế - xã hội huyện Đức Huệ ......................................................... 26
Chương 2 : CHĂM SÓC SỨC KHỎE TINH THẦN CHO NGƯỜI CAO
TUỔI Ở HUYỆN ĐỨC HUỆ ................................................................................ 29
2. Một số đặc điểm về người cao tuổi ...................................................................... 29
2.1. Tổng quan người cao tuổi ở tỉnh Long An ......................................................... 29
2.2. Tổng quan sức khỏe người cao tuổi ở huyện Đức Huệ qua kết quả khảo sát . 32
2.2.1. Một số đặc điểm về người cao tuổi huyện ............................................ 32
2.2.2. Sức khỏe thể chất .................................................................................. 35
2.2.3. Sức khỏe tinh thần của người cao tuổi huyện ....................................... 37
2.3. Chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần cho người cao tuổi ........................... 42
2.3.1. Sự chăm sóc của gia đình và dòng họ................................................... 42
2.3.2. Thúc đẩy sức khỏe tinh thần trong quá trình lão hóa lành mạnh......... 45
2.3.3. Công tác chăm lo người cao tuổi ở huyện Đức Huệ............................. 46
Tiểu kết chương............................................................................................... 51
Chương 3:Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động chăm sóc sức khỏe tinh thần
cho người cao tuổi ở huyện Đức Huệ ..................................................................... 53
3.1. Yếu tố cá nhân (học vấn thấp, sức khỏe yếu)..................................................... 53


3.2. Hoàn cảnh gia đình ............................................................................................... 54
3.3. Chính sách của Nhà nước triển khai ở huyện .................................................... 58
3.4. Vai trò của địa phương ......................................................................................... 63

Tiểu kết chương............................................................................................... 64
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................. 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 2. 1. Người cao tuổi của Việt Nam ........................................................ 30
Hình 2. 2. Khám bệnh cho người cao tuổi ở huyện ........................................ 47
Hình 2. 3. Chúc thọ cho người cao tuổi ở huyện ............................................ 48
Hình 2. 4. CLB dưỡng sinh tham gia hội thi ................................................... 49

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Người cao tuổi của huyện ........................................................... 32
Biểu đồ 2. 2. Hoạt động vui chơi và giải trí của người cao tuổi ..................... 38
Biểu đồ 2.3. Cảm giác lo lắng của người cao tuổi .......................................... 41
Biểu đồ 3.1. Các chủ thể chăm sóc người cao tuổi ......................................... 56
Biểu đồ 3.2. Các biện pháp điều trị bệnh về tâm thần .................................... 57
Biểu đồ 3.3. Chăm lo chế độ bảo trợ xã hội huyện ......................................... 61
Biểu đồ 3.4. Công tác chúc thọ, mừng thọ...................................................... 61

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tổng hợp tham gia các hoạt động kinh tế ...................................... 33
Bảng 2.2. Kết quả khám chửa bệnh năm 2018 ............................................... 36
Bảng 3. 1. Hoàn cảnh của người cao tuổi huyện ............................................ 55


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Theo dự báo, đến năm 2038, người cao tuổi (NCT) ở Việt Nam sẽ
chiếm khoảng 20% tổng dân số - tăng gấp ba lần trong vòng 24 năm, đến năm

2050, nước ta sẽ trở thành nước “siêu già”. Trong khi NCT ở nhiều nước sau
khi vền hưu vẫn có nhu cầu lao động, có cơ hội, được khuyến khích tiếp tục
cống hiến và giảm đến mức tối thiểu sự phụ thuộc vào gia đình thì đa phần
NCT ở Việt Nam vẫn có tư duy già là hết tài sản, an hưởng tuổi già; sau khi
nghỉ hưu cần được nghỉ ngơi, dành thời gian cho con cháu, chăm sóc vườn
tược, phải được con cháu phụng dưỡng, chăm sóc, được xã hội và Nhà nước
quan tâm, kính trọng chăm lo. Đây là thực tế đáng quan tâm và cũng là thách
thức các nhà nghiên cứu chính sách NCT hiện nay
Chăm sóc người già, xây dựng các chính sách an sinh, xã hội, y tế cho
người già phải là một trong những ưu tiên trong thời gian tới, đặc biệt là xây
dựng các chính sách phù hợp với già hóa dân số, trong bối cảnh nền kinh tế
nước ta vẫn còn là một nước có thu nhập trung bình thấp; đặc biệt là người
cao tuổi ở gia đình nông thôn hiện nay. Cơ cấu, quy mô, những biến đổi của
gia đình nông thôn đã tác động đến người cao tuổi không dựa trên các quy
phạm đạo đức, truyền thống và văn hoá dân tộc (Bùi Nghĩa và Nguyễn Hữu
Hoàng, tạp chí xã hội 2018).
Toàn tỉnh Long An hiện có 159.453 người cao tuổi (NCT), chiếm
10,3% trên tổng dân số của tỉnh (trong đó nam: 76.303 người, chiếm tỷ lệ
47,9%; nữ 83.150 người, chiếm 52,1%). Tổng số hội viên Hội NCT: 137.452
hội viên; trong đó hội viên Hội NCT dưới 60 tuổi: 15.953 hội viên (Báo cáo
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Long An, 2017).
Riêng huyện Đức Huệ có 7.256 người cao tuổi, chiếm 10,5% dân số
của huyện (7.256/68.697), trong đó nam: 4.115, chiếm 56,7%, nữ 3.141,
1


chiếm 43,2%; Tổng số hội viên người cao tuổi 5.364, số người cao tuổi từ 60
– 79 tuổi là 5.569 chiếm 76,7%, số người cao tuổi từ 80 – 99 tuổi là 1.245
chiếm 17,1% NCT của huyện (Báo cáo của phòng Lao động – Thương binh
và Xã hội, 2017).

Tuy nhiên, đời sống nhân dân còn thấp, NCT của huyện đang gặp một
số khó khăn, hộ nghèo của huyện năm 2018 chiếm 10,23%; đa phần người
cao tuổi không có thu nhập hoặc thu nhập thấp, trợ cấp xã hội còn hạn chế,
đặc biệt không gian sinh hoạt cộng đồng cho người cao tuổi hạn chế về số
lượng và chất lượng, người cao tuổi không được hưởng các quyền và nghĩa vụ
phụng dưỡng được nhận nuôi dưỡng chăm sóc tại cộng đồng hoặc nuôi dưỡng
trong các cơ sở chăm sóc NCT, hay được chăm sóc thông qua các mô hình
nhận nuôi dưỡng, chăm sóc tại cộng đồng. Các xã, thị trấn chưa có những mô
hình phù hợp nhằm chăm sóc và phát huy vai trò của NCT trên địa bàn tham
gia và hưởng lợi. Việc quản lý và thực hiện các chính sách an sinh xã hội cho
NCT theo những quy định của Nhà nước, huyện chưa có cách tiếp cận khoa
học trong việc chăm sóc sức khỏe tinh thần cho NCT….Thực tiễn này đặt ra
nhiều câu hỏi cần nghiên cứu làm rõ thực trạng và nhu cầu chăm sóc sức khỏe
tinh thần, vui chơi giải trí cho người cao tuổi huyện Đức Huệ - nhất là vùng
nông thôn, biên giới trong thời gian hiện nay và những năm tới. Đây chính là
lý do tác giả chọn đề tài “Chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi tại huyện
Đức Huệ, tỉnh Long An”.
2. Tổng quan nghiên cứu
Một số nghiên cứu của nước ngoài
“Già hóa dân số” là thuật ngữ được nói đến nhiều trong những năm gần
đây, đã tác động không nhỏ đến đời sống xã hội, đặc biệt là người cao tuổi,
ảnh hưởng đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia.
Chính vì thế, việc nghiên cứu về người cao tuổi được nhiều ngành khoa học
2


quan tâm: như tâm lý học, y học, công tác xã hội, xã hội học. Mỗi môn khoa
học có hướng tiếp cận khác nhau, có khi nghiên cứu mang tính chất liên
ngành nhằm thực hiện chính sách an sinh xã hội; đưa ra các chính sách phù
hợp, mô hình mới trong việc chăm sóc người cao tuổi. Và công việc này đã

được tiến hành từ những năm 50 của thế kỷ 20 ở các nước Châu âu và Châu
Á, đặc biệt là các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore….
Theo M.T. Yasamy, T. Dua, M. Harper, S. Saxena Tổ chức Y tế thế
giới, công bố 2013, Dân số thế giới chưa bao giờ nhiều người cao tuổi như
hiện nay. Số người trong độ tuổi từ 60 trở lên là hơn 800 triệu người. Ước
tính con số này sẽ tăng lên hơn 2 tỉ người vào năm 2050. Những người trong
độ tuổi 60 có thể sống thêm được 18.5 đến 21.6 năm nữa. Chẳng mấy chốc
mà số người cao tuổi trên thế giới sẽ nhiều hơn số trẻ em. Đối lập với các
quan niệm phổ biến, phần lớn người cao tuổi sống ở các quốc gia thu nhập
thấp và thu nhập trung bình, tỷ lệ già hóa sẽ tăng trưởng nhanh nhất ở những
khu vực này.
Liên hiệp quốc sử dụng mốc 60 tuổi để chỉ những người cao tuổi
(UNFPA, 2012). Tuy nhiên, ở rất nhiều quốc gia thu nhập cao mốc 65 tuổi
mới được cho là người cao tuổi vì ở mức tuổi này người ta mới được hưởng
an sinh xã hội cho người già. Mức tuổi cao hơn này có thể không phù hợp với
tình trạng của các quốc gia đang phát triển bao gồm cả Châu Phi, nơi có tuổi
thọ trung bình thường thấp hơn ở các quốc gia thu nhập cao.
Các nghiên cứu về sức khỏe người cao tuổi:
Tác giả Bùi Thế Cường trong công trình nghiên cứu “Già hóa dân số ở
Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với chính sách người cao tuổi” công bố
2001 đã Chỉ ra rằng quá trình già hóa dân số ở Việt Nam đang diễn ra một
cách nhanh chóng. Điều này sẽ gây áp lực rất lớn đối với hệ thống chính sách
đối với người cao tuổi. Theo tác giả, mặc dù có nhiều quy định của pháp luật
3


và chính sách liên quan đến người cao tuổi song chưa thể nói rằng Việt Nam
có một hệ thống chính sách tốt đối với vấn đề này. Tác giả cũng nhấn mạnh
hai điểm cần quan tâm. Một là Việt nam còn đang thiếu hụt một khuôn khổ
hành động tổng quát cho vấn đề già hóa dân cư. Hai là, nguồn lực kinh tế và

năng lực tổ chức để đưa ra các quy định pháp luật và chính sách vào thực tiễn
còn rất hạn chế. Như vậy, trong bài viết này tác giả chủ yếu tập trung để việc
tìm hiểu các chính sách pháp luật cần quan tâm trước tình hình dân số cao
tuổi đang tăng lên nhanh chóng. Những phát hiện này thực sự bổ ích trong
việc nhìn nhận và đánh giá về chính sách đối với người cao tuổi. (Bùi Thế
Cường, 2001)
Nghiên cứu tiếp theo của Ủy ban dân số Gia đình và Trẻ em năm 2005
– 2006 về một số đặc trưng của NCT Việt Nam và đáng giá mô hình chăm
sóc sức khỏe đang ứng dụng cho NCT đã chỉ ra thực trạng người cao tuổi Việt
Nam và mô hình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi ở vùng nông thôn, đặc
biệt nghiên cứu này có khảo sát người cao tuổi có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn ở khu vực ven đô. (Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em (2005-2006).
Đến năm 2011, báo cáo của Quỹ dân số Liên Hợp Quốc chỉ ra rằng: số lượng
người cao tuổi ngày càng tăng cao nhưng hệ thống chăm sóc sức khỏe cho
người cao tuổi vẫn chưa được coi trọng. Khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc
sức khỏe của người cao tuổi đặc biệt khu vực nông thôn còn thấp. Tuy nhiên,
báo cáo cũng chưa có những con số về khả năng tiếp cận cũng như sử dụng
bảo hiểm y tế của người cao tuổi, thái độ của người cao tuổi đối với việc sử
dụng bảo hiểm y tế... (UNFPA, 2011)
Tác giả Lê Ngọc Văn trong công trình nghiên cứu về chính sách gia
đình làm trung tâm trong việc phụng dưỡng và chăm sóc NCT đã cho thấy
những thuận lợi và khó khăn của gia đình, bản thân người cao tuổi và Nhà
nước với việc lấy chính sách gia đình làm trung tâm trong việc phụng dưỡng
4


và chăm sóc người cao tuổi hiện nay. Theo đó, Chính sách lấy gia đình làm
trung tâm trong việc chăm sóc và phụng dưỡng người cao tuổi nhận được sự
ủng hộ cao của người cao tuổi và không có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi,
giới tính, khu vực sinh sống và trình độ học vấn của người cao tuổi: 85% số

người cao tuổi được hỏi cho rằng gia đình chịu trách nhiệm chủ yếu trong
việc phụng dưỡng, chăm sóc người cao tuổi, 13,8% cho rằng gia đình chỉ chịu
trách nhiệm một phần và chỉ 1,3% cho rằng gia đình không phải chịu trách
nhiệm chủ yếu trong việc này.
Như vậy, bài viết tập trung hướng đến mô hình, vai trò và trách nhiệm
của gia đình, bản thân người cao tuổi và Nhà nước trong việc chăm sóc sức
khỏe người cao tuổi hiện nay. Điều này rất có ý nghĩa với bản thân tác giả
trong việc đề xuất các chính sách các đối tượng trong công tác chăm sóc sức
khỏe người cao tuổi. (Lê Ngọc Văn, 2009).
Tác giả Lê Ngọc Lân đã dựa trên những kết quả nghiên cứu sẵn có
đồng thời sử dụng và xử lý số liệu của hai cuộc nghiên cứu: Điều tra gia đình
Việt Nam năm 2006 và Điều tra người cao tuổi tại 3 tỉnh đồng bằng sông
Hồng năm 2008 và tiến hành điều tra tại thành phố Hồ Chí Minh với hai
phương pháp nghiên cứu chủ yếu là nghiên cứu định tính và nghiên cứu định
lượng. Kết quả của nghiên cứu đã nêu lên bức tranh về thực trạng người cao
tuổi Việt Nam hiện nay bao gồm: tình hình sức khỏe của người cao tuổi, tình
trạng bệnh tật, các loại bệnh thường gặp... Nghiên cứu cũng đã chỉ ra vai trò
của gia đình, cộng đồng và xã hội trong việc chăm sóc sức khỏe người cao
tuổi. Cuối cùng, nghiên cứu hướng đến đề xuất các chính sách trợ giúp xã hội
đối với người cao tuổi. Có thể thấy, nghiên cứu của Lê Ngọc Lân đã chỉ ra cơ
bản thực trạng đời sống, tình trạng sức khỏe của người cao tuổi nói chung và
các giải pháp phát huy hiệu quả của các chính sách về người cao tuổi. Tuy
nhiên, do nghiên cứu tập trung nhiều vào vấn đề sức khỏe người cao tuổi và
các trợ giúp xã hội đối với người cao tuổi nói chung nên cũng chưa thực sự đi
5


sâu vào tìm hiểm cuộc sống và hưởng thụ chính sách trợ giúp của NCT yếu
thế. (Lê Ngọc Lân, 2010)
Trung ương Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiến hành điều tra quốc gia

quốc gia về NCT đã cung cấp những thông tin khá đầy đủ và chi tiết về mức
sống, việc làm, tình trạng sức khỏe của người cao tuổi cả nước nói chung.
Tuy nhiên, cuộc điều tra tập trung tìm hiểu vào việc chăm sóc sức khỏe người
cao tuổi. Mặc dù có đề cập đến việc tham gia bảo hiểm y tế của người cao
tuổi nhưng cũng chưa chú trọng đến tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng và mức độ
hài lòng của người cao tuổi đối với các dịch vụ bảo hiểm y tế. (Trung ương
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, 2011)
Nghiên cứu của Bế Huỳnh Nga (2010) về “Người cao tuổi Việt Nam
phúc lợi xã hội và các mô hình chăm sóc sức khỏe” đăng trên tạp chí xã hội số
2 (110), 2010 cho rằng cũng như các nước phát triển khác, Việt Nam là nước
tăng nhanh về tuổi thọ trung bình cũng như số lượng người cao tuổi. Điều này
đã làm cho mô hình đau ốm cũng thay đổi . Bệnh tật thường hay xuất hiện ở
lứa tuổi già. Tuổi cao là yếu tố nguy cơ mắc bệnh đặc biệt là các bệnh mãn
tính và bệnh thoái hóa. Sự thay đổi này đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt của hệ
thống y tế và toàn xã hội trong chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi. Những
vấn đề về sức khỏe và khả năng tiếp cận chăm sóc y tế là các vấn đề ưu tiên
của người cao tuổi.
Nghiên cứu của Trịnh Duy Luân, Trần Thị Minh Thi (2017) về chăm
sóc người cao tuổi trong xã hội Việt Nam đang chuyển đổi: những chiều cạnh
chính sách và cấu trúc. Đang có những "khoảng trống" về chăm sóc người cao
tuổi, trong hệ thống chủ thể tham gia (Nhà nước, thị trường, gia đình và cộng
đồng). Các chính sách trợ giúp xã hội của Nhà nước cho người cao tuổi mới
tập trung vào nhóm người có công và NCT yếu thế với mức trợ cấp còn khá
khiêm tốn. Có rất ít trung tâm bảo trợ xã hội hay nuôi dưỡng NCT ở khu vực
6


nhà nước và tư nhân. Gia đình có vai trò quan trọng trong chăm sóc NCT nhưng
vai trò này đang thay đổi hoặc mâu thuẫn với vai trò hỗ trợ giữa các thành viên
trong gia đình. Trong bối cảnh chuyển đổi, bên trong các gia đình đang tiềm ẩn

những xu hướng có tác động tiêu cực đến chăm sóc người cao tuổi.
Các yếu tố chi phối sức khỏe người cao tuổi:
Nghiên cứu Người già cô đơn của tác giả Mạc Tuấn Linh cho thấy đến
đầu năm 1990 có khoảng hơn 150 cụ không có người ruột thịt. Họ được nhận
trợ cấp xã hội chính thức, nhưng khoản trợ cấp này chỉ chiếm 20% (khu vực
đô thị) đến 30 % (khu vực nông thôn) trong tổng thu nhập đã hết sức ít ỏi của
họ.1/4 thu nhập của người già cô đơn nông thôn từ lao động của bản thân, con
số này ở người già cô đơn thành phố chỉ chiếm 8%. Một phần lớn thu nhập
(hơn 60%) của người già cô đơn thành phố có được là nhờ sự trợ giúp nhân
đạo của cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên nghiên cứu chưa đi sâu vào làm rõ
vai trò của trợ giúp xã hội rất quan trọng đối vối người già cô đơn. (Mạc Tuấn
Linh, 1993)
Vai trò của nhà nước
Cũng nghiên cứu về chính sách phúc lợi xã hội cho NCT của tác giả
Đàm Hữu Đắc, đã phân tích những lý luận và thực trạng về phát triển hệ
thống chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và dịch vụ xã hội như bảo
hiểm xã hội và bảo hiểm y tế cho người cao tuổi, ưu đãi xã hội đối với người
cao tuổi, v.v. Đề tài cũng cảnh báo trong vài chục năm tới, đa số người cao
tuổi sẽ sống ở các nước nghèo, là nơi điều kiện kinh tế khó khăn, hệ thống
chính sách phúc lợi xã hội chưa hoàn chỉnh. Ngoài ra, đề tài còn phân tích chi
tiết nhu cầu của người cao tuổi về phúc lợi xã hội và dịch vụ xã hội, gồm nhu
cầu được chăm sóc sức khỏe, nhu cầu được sống khỏe mạnh, không ốm đau
hoặc ít đau ốm, nhu cầu được làm việc, nhu cầu thêm hiểu biết, nhu cầu vui
chơi, giải trí phù hợp với lứa tuổi. Tuy nhiên, tác giả cũng chưa nghiên cứu
đến vai trò của phúc lợi xã hội đối với NCT. (Đàm Hữu Đắc, 2009).
7


Một nghiên cứu khác về chính sách an sinh xã hội hướng về dân số già
của hai tác giả Giang Thanh Long và Bùi Thế Cường đã chỉ ra những cơ hội

để thực hiện chính sách an sinh xã hội toàn diện hướng về dân số già, gồm:
lực lượng lao động lớn hơn nhiều so với lực lượng phụ thuộc sẽ đóng góp lớn
cho quỹ an sinh xã hội và thúc đẩy sự bền vững về tài chính; tuổi thọ tăng lên,
sức khỏe người cao tuổi tốt hơn nên tỷ lệ người cao tuổi tham gia hoạt động
kinh tế cũng tăng.Tuy nhiên đề tài chỉ đưa ra được cơ hội để thực hiện chính
sách an sinh xã hội cho NCT mà chưa quan tâm nghiên cứu đến vai trò của
các chính sách an sinh xã hội cho NCT. (Giang Thanh Long và Bùi Thế
Cường, 2010)
Báo cáo tổng hợp đề tài cấp bộ của tác giả Trịnh Duy Luân và cộng sự
năm 2011 đã đưa ra một số vấn đề mà nhà nước ta đang gặp phải về quản lý
xã hội. Trong đó có hệ thống an sinh xã hội, an sinh xã hội và giảm nghèo là
những vấn đề được đề cập nhiều hiện nay nhằm đảm bảo xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh cũng được đề cập trong báo cáo này. Báo cáo đưa ra những
hệ thống an sinh xã hội ở các nước lớn như: Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn
Quốc, Đài Loan, Hồng Kông , Các nước này đều có hệ thống an sinh xã hội
mạnh và luôn là điều mà các quốc gia này coi trọng; và Việt Nam có thể tham
khảo, khi mà chế độ an sinh xã hội nông thôn nước ta còn quá nhiều bất cập.
Trong báo cáo cũng đưa ra an sinh xã hội và giảm nghèo; đề cập đến vấn đề
thực hiện hệ thống an sinh xã hội cho những rủi ro, những đối tượng khó khăn
trong cuộc sống. Những giai đoạn thực hiện và luôn thay đổi hệ thống an sinh
sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, nhưng trong hệ thống cũng gặp
một số khó khăn và các vấn đề đặt ra nhằm hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội
nước ta tạo ra những phúc lợi xã hội cho mọi người dân. Hạn chế của công
trình này là chưa nói đến đối tượng bảo trợ cụ thể mà chỉ nêu những hệ thống
chung, mà chưa giải quyết đến những vấn đề cụ thể của các nhóm đối tượng
8


trong nền kinh tế hiện nay, nhất là nhóm người cao tuổi yếu thế. (Trịnh Duy
Luân và cộng sự, 2011).

Tác giả Đặng Nguyên Anh nghiên cứu về an sinh xã hội ở Việt Nam
năm 2013 chỉ ra thực trạng hệ thống an sinh xã hội ở nước ta hiện nay.
Nghiên cứu cho thấy chính sách an sinh xã hội hiện nay tập trung vào công
tác cứu trợ và xóa đói giảm nghèo, chưa xem xét chú ý đến nhu cầu an sinh
ngày càng tăng của nhóm cận nghèo và những đối tượng cần được trợ giúp
khác. Tác giả chỉ ra được những đối tượng cần sự trợ giúp của các chính sách
an sinh xã hội như người tàn tật, trẻ em lang thang cơ nhỡ, người già không
nơi nương tựa. Bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều những tồn tại và thách thức
trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay. (Đặng
Nguyên Anh, 2013)
Một yếu tố rủi ro quan trọng đối với sức khỏe và sức khỏe tâm thần của
người cao tuổi, một vấn đề nhân quyền quan trọng, là sự bạc đãi đối với người
cao tuổi. WHO định nghĩa bạc đãi người cao tuổi là “một hành vi đơn lẻ hoặc
lặp lại, hoặc thiếu các hành động phù hợp, xảy ra trong bất kỳ mối quan hệ mà
ở đó người ta mong đợi sự tin tưởng, dẫn đến tổn thương hoặc đau khổ đối
với người cao tuổi”. Hành động này bao gồm lạm dụng thể chất, tình dục, tâm
lý, cảm xúc, tài chính vật chất, bỏ mặc, thờ ơ, đánh mất phẩm giá và lòng tự
trọng nghiêm trọng. Ở các nước thu nhập cao, nơi có dữ liệu, khoảng 4-6%
người cao tuổi đã từng trải qua một hình thức ngược đãi ở nhà. Con số thực tế
có thể cao hơn vì có nhiều người cao tuổi không dám hoặc không thể báo cáo
tình trạng ngược đãi. Các dữ liệu về tình trạng này ở các cơ sở như bệnh viện,
nhà điều dưỡng và các cơ sở chăm sóc người cao tuổi khác thường khan hiếm
và được coi như là cao hơn nhiều so với ngược đãi người cao tuổi tại nhà.
Ngược đãi người cao tuổi có thể dẫn đến các chấn thương thể chất, thậm chí
là các hậu quả tâm lý nghiêm trọng, lâu dài bao gồm cả trầm cảm và lo âu.
9


Qua các báo cáo, nghiên cứu trên có thể thấy: vấn đề người cao tuổi đã
và đang được quan tâm sâu sắc nhằm đảm bảo đời sống cho người cao tuổi

nói chung. Các vấn đề được quan tâm người cao tuổi thể hiện trên các lĩnh
vực đặc biệt về đời sống và chăm sóc sức khỏe người cao tuổi.. Tuy nhiên,
tổng quan về tình hình nghiên cứu, có thể nhận thấy chưa thực sự có nghiên
cứu nào đi sâu vào tìm hiểu về chăm sóc sức khỏe cho NCT yếu thế ở khu
vực nông thôn vùng biên giới miền Tây Nam Bộ, đặc biệt chưa quan tâm đến
tìm hiểu sự tham gia và các yếu tố chi phối hoạt động chăm sóc sức khỏe của
người cao tuổi yếu thế. Đây được xem là một khoảng trống về nhận thức cần
quan tâm nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích:
Tìm hiểu tình hình chăm sóc sức khỏe và các yếu tố ảnh hưởng đến
chăm sóc sức khỏe cho NCT ở huyện Đức Huệ, từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm cải thiện chăm sóc sức khỏe cho NCT trên địa bản huyện Đức Huê
Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận: các khái niệm và lý thuyết nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng sức khỏe và hoạt động chăm sóc sức khỏe cho
các nhóm NCT ở huyện Đức Huệ
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động chăm sóc sức khỏe cho
các nhóm NCT ở huyện Đức Huệ
- Để xuất các giải pháp nhằm cải thiện chăm sóc sức khỏe cho NCT
trên địa bàn huyện
4. Đối tượng, Khách thể và Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Chăm sóc sức khỏe tinh thần cho NCT ở huyện Đức Huệ.
Khách thể: NCT khuyết tật, NCT thuộc diện nghèo, NCT không có
người phụng dưỡng.
10


Phạm vi thực hiện: đề tài tập trung nghiên cứu chăm sóc sức khỏe cho
nhóm Người cao tuổi thuộc nhóm: NCT khuyết tật, NCT thuộc diện nghèo,

không có người phụng dưỡng trên phạm vi các xã biên giới của huyện Đức
Huệ, tỉnh Long An.
5. Giả thuyết nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Tình trạng chăm sóc và hoạt động chăm sóc sức khỏe Người cao tuổi
yếu thế ở huyện Đức Huệ như thế nào?
Những yếu tố nào đang chi phối hoạt động chăm sóc sức khỏe tinh thần
cho Người cao tuổi yếu thế ở huyện Đức Huệ hiện nay?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
- NCT yếu thế có tình trạng sức khỏe thể chất, tinh thần không tốt và
hoạt động chăm sóc sức khỏe ít được quan tâm một cách thường xuyên, chủ
yếu diễn ra ở NCT đơn thân hay hộ NCT có vợ chồng nhưng không có con
cái.
- NCT chưa có nhận thức tốt về việc chăm sóc sức khỏe, hòa cảnh gia
đình khó khăn và sự quan tâm của cộng đông địa phương cũng đang chi phối
hoạt động chăm sóc sức khỏe của NCT tinh thần ở huyện Đức Huệ.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phân tích tài liệu thứ cấp: gồm các báo cáo, kế hoạch của ngành lao
động – thương binh và xã hội về quản lý và chăm lo cho ngưòi cao tuổi,
chương trình hành động của Hội người cao tuổi huyện.
Khảo sát thông tin sơ cấp: Quy trình thực hiện, sau khi xây dựng xong
dự thảo bảng hỏi và gợi ý phỏng vấn sâu. Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn
thử 03 trường hợp ở xã để xem xét lại các câu hỏi và phương án trả lời, bổ
sung và rà soát phỏng vấn sâu và bảng hỏi. Sau đó chúng tôi thực hành phỏng
vấn sâu và quan sát 25 trường hợp (13 nữ và 12 nam), trường hợp chính chia
11


thành các nhóm tuổi 60 – 69, 70 -79 và trên 80; người có hưởng trợ cấp xã hội
hay không có hưởng trợ cấp, việc chăm sóc (tự bản thân, gia đình, dòng họ),

nhu cầu NCT như thế nào. Ngoài ra chúng tôi còn hỏi 05 cán bộ đại diện
ngành lao động – thương binh và xã hội, hội người cao tuổi, UBND xã về
việc đánh giá chăm sóc sức khỏe tinh thần cho NCT ở địa phương.
Quan sát không tham dự: trong quá trình phỏng vấn sâu chúng tôi kết
hợp với quan sát ghi chép những thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu
như: thiết bị nghe nhìn, đời sống vật chất, các hoạt động sinh hoạt, lao động
sản xuất trong ngày.... để xác định nhu cầu đời sống tinh thần hằng ngày.
Sau cùng là phỏng vấn 200 bảng hỏi gồm các thành phần NCT ở địa
phương từ 60 -79 còn minh mẫn, đảm bảo sức khỏe, người cô đơn, người
khuyết tật, người sống cùng con cháu, mỗi xã chọn mẫu chủ đích 20 NCT,
trong tổng số 10 xã nằm trong mẫu nghiên cứu.
Khung phân tích
Bối cảnh kinh
tế, xã hội và
các chính sách
xã hội

- Giới
- Tuổi
- Thu nhập
- Hoàn cảnh
gia đình
- Sức khỏe
thể chất

- Lý thuyết hệ
vai
trò
của
Merton

- Lý thuyết
mạng lưới xã hội

Chăm sóc sức khỏe
tinh thần cho người
cao tuổi

Điều kiện
kinh tế - xã
hội và thực
hiện trợ giúp
xã hội ở địa
phương

- Bản thân
- Gia đình
- Cộng đồng
- Nhà nước
- Đoàn thể

12

Sức khỏe Tinh
thần:
- Xem ti vi,
nghe đài
- Thăm hỏi,
tham gia xã hội.
- Chùa, tham
quan du lịch

- Hoạt động
giải trí


7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Nghiên cứu vận dụng lý thuyết hệ vai trò của Merton,
Thuyết mạng lưới xã hội để làm rõ thêm công tác chăm sóc sức khỏe người
cao tuổi. Chăm sóc sức khỏe tinh thần cho người cao tuổi ở nông thôn còn
nhiều khó khăn, trong đó về xây dựng các khu sinh hoạt tập thể cho NCT còn
thiếu cách thức tổ chức, mô hình phù hợp. Việc tư vấn tâm lý cho người cao
tuổi bị cô đơn, bệnh tật hay biến cố trong cuộc sống không có khả năng thực
hiện vì điều kiện kinh tế, kết cấu hạ tầng, gây khó khăn cho cách tiếp tận các
dịch vụ chăm sóc người cao tuổi. Hành động nào đang biến đổi, hành động xã
hội mới nào đang hình thành, các mạng lưới xã hội ở nông thôn có thể phát huy
sức mạnh trong việc chăm sóc người cao tuổi. Nhìn chung, chăm sóc sức khỏe
tinh thần là điều vô cùng khó khăn, việc áp dụng lý thuyết chỉ đáp ứng giải
thích một chiều cạnh nào đó của quá trình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi.
Chúng tôi giới thiệu vận dụng các lý thuyết vào nghiên cứu các chính
sách người cao tuổi, góp phần vào việc thực hiện chính sách an sinh xã hội
cho người cao tuổi của ngành lao động – thương binh và xã hội.
Ý nghĩa thực tiễn: Với kết quả nghiên cứu chăm sóc sức khỏe NCT ở
nông thôn huyện biên giới nhằm giải quyết những vấn đề khó khăn trước mắt
cho người cao tuổi. Đồng thời, khi xây dựng các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội lưu tâm đến già hóa dân số; chú ý xây dựng các công trình công cộng
phục vụ cho người cao tuổi - xây dựng các mô hình vui chơi, giải trí, chăm
sóc sức khỏe tinh thần… Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống
của người cao tuổi về sức khỏe, vật chất, tinh thần. Đồng thời, chung tay giúp
đỡ người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn, ổn định đời sống.
8. Cơ cấu luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Chăm sóc sức khỏe tinh thần cho người cao tuổi ở huyện Đức Huệ

Chương 3: Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động chăm sóc sức khỏe
tinh thần cho người cao tuổi ở huyện Đức Huệ

13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VA THỰC TIỄN
1. Cở sở lý luận
1.1. Các khái niệm
Người cao tuổi: Người cao tuổi được quy định trong Luật này là công
dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên.
Người cao tuổi có quyền và nghĩa vụ; trách nhiệm của gia đình, Nhà
nước và xã hội trong việc phụng dưỡng, chăm sóc và phát huy vai trò người
cao tuổi; Hội người cao tuổi Việt Nam (Luật Người cao tuổi, 2009)
Người cao tuổi có các quyền sau đây:
Được bảo đảm các nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, ở, đi lại, chăm sóc sức khoẻ;
Quyết định sống chung với con, cháu hoặc sống riêng theo ý muốn;
Được ưu tiên khi sử dụng các dịch vụ theo quy định của Luật này và
các quy định khác của pháp luật có liên quan;
Được tạo điều kiện tham gia hoạt động văn hoá, giáo dục, thể dục, thể
thao, giải trí, du lịch và nghỉ ngơi;
Được tạo điều kiện làm việc phù hợp với sức khoẻ, nghề nghiệp và các
điều kiện khác để phát huy vai trò người cao tuổi(Luật Người cao tuổi, năm 2009)
Người cao tuổi yếu thế: bao gồm người cao tuổi tàn tật, người cao tuổi
cô đơn không nơi nương tựa, người cao tuổi các hộ quá nghèo… Tuy có hoàn
cảnh khác nhau, nhu cầu khác nhau nhưng đại bộ phận số người cao tuổi yếu
thế cần được quan tâm đặc biệt kể cả việc chăm sóc về tinh thần, vật chất,
chăm sóc y tế… (Nguyễn Kim Liên, 1999)
Sức khỏe: của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) Có rất nhiều quan niệm về

sức khỏe, nhưng nhìn chung đều thống nhất ở khái niệm của WHO: “Sức
khỏe là một trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không
chỉ là không có bệnh hay thương tật” và được khẳng định tại Điểm 1, Bản
14


Tuyên ngôn Alma-Ata năm 1978. Như vậy, sức khỏe gồm ba thành tố: sức
khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần, sức khỏe xã hội. Chỉ có thể hiểu khái niệm
sức khỏe, khi và chỉ khi lĩnh hội được đầy đủ các thành tố trên.
Sức khoẻ tinh thần: Sức khoẻ tinh thần là sự thỏa mãn về mặt giao
tiếp xã hội, tình cảm và tinh thần. Nó được thể hiện ở sự sảng khoái, ở cảm
giác dễ chịu, cảm xúc vui tươi, thanh thản; ở những ý nghĩ lạc quan, yêu đời;
ở những quan niệm sống tích cực, dũng cảm, chủ động; ở khả năng chống lại
những quan niệm bi quan và lối sống không lành mạnh. Có thể nói, sức khoẻ
tinh thần là nguồn lực để sống khoẻ mạnh, là nền tảng cho chất lượng cuộc
sống, giúp cá nhân có thể ứng phó một cách tự tin và hiệu quả với mọi thử
thách, nguy cơ trong cuộc sống. Sức khoẻ tinh thần chính là sự biểu hiện nếp
sống lành mạnh, văn minh và có đạo đức. Cơ sở của sức khoẻ tinh thần là sự
thăng bằng và hài hòa trong hoạt động tinh thần giữa lý trí và tình cảm (Giáo
trình CSSKTT-CDDD1-NTT-5- 2011).
Chăm sóc sức khỏe: có rất nhiều quan điểm khác nhau về chăm sóc
sức khỏe: Theo tác giả Hoàng Đình Cầu trong cuốn: “Quản lý chăm sóc sức
khỏe ban đầu”, NXB y học Hà Nội năm 1995 thì: Chăm sóc sức khỏe là việc
làm thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt (nhu cầu đầy đủ dinh dưỡng, được
vui chơi, giải trí...), để đảm bảo trạng thái thỏa mãn về thể chất, tinh thần, xã
hội của mỗi thành viên trong xã hội.
Chăm sóc sức khỏe tinh thần: Để có được sức khỏe tinh thần tốt mỗi
cá thể cần phải trang bị cho bản thân những cách quản lý và đối phó với stress
hiệu quả nhất; phải luôn luôn sống lạc quan, yêu đời; hãy học cách ứng phó
với những thay đổi có thể ảnh hưởng đến bản thân (tăng cường khả năng thích

ứng) biết cách điều chỉnh và ứng phó cảm xúc của bản thân, đặc biệt là những
xúc cảm tiêu cực, hướng vào bản thân (Đặng Phương Liên, 2018, Dịch vụ
công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe người cao tuổi thuộc hộ nghèo từ
thực tiễn huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang)
15


1. 2. Các Lý thuyết
1.2.1. Lý thuyết hệ vai trò của Merton
Merton mở rộng khái niệm vị thế – vai trò của Ralph Linton. Theo
quan niệm của Linton, vị thế là vị trí trong cấu trúc xã hội với những quyền
lợi và nghĩa vụ tương ứng và vai trò là kiểu hành vi hướng tới sự mong đợi
của những người khác xung quanh. Nhưng trong khi Linton cho rằng mỗi một
vị thế có một vai trò tương ứng, thì Merton quan niệm rằng một vị thế có
nhiều vai trò mà ông gọi là hệ vai trò.
Merton đưa ra khái niệm “hệ vai trò” để chỉ một cấu trúc gồm các vai
trò và các quan hệ của chúng mà cá nhân thực hiện khi nắm giữ một vị thế xã
hội nhất định. Ông đặc biệt quan tâm tới hệ vai trò bởi vì khái niệm này liên
quan trực tiếp tới chức năng. Vai trò chính là chức năng mà là các hành vi cá
nhân hay thiết chế xã hội đảm nhận thực hiện. Hệ vai trò thực chất là hệ thống
các chức năng và phản chức năng, chức năng trội và chức năng lặn có liên
quan chặt chẽ với nhau.
Quan niệm của Merton về hệ vai trò đặt ra một loạt vấn đề nghiên cứu
quan trọng trong xã hội học. Đó là tìm hiểu sự tác động của cấu trúc xã hội
đối với việc hình thành hệ vai trò. Đó là xem xét cách thực hiện hệ vai trò để
đảm bảo tính cân bằng, ổn định cũng như giải quyết những mâu thuẫn, xung
đột có thể xảy ra giữa các vai trò (Lê Ngọc Hùng, 2008).
Việc áp dụng lý thuyết hệ vai trò của Merton để thấy được vai trò của
gia đình, cộng đồng, nhà nước đối với chăm sóc người cao tuổi. Qua đó,
chúng ta có thể nhận thấy được tại địa phương, các cơ quan đã thực hiện đúng

vai trò và trách nhiệm của mình theo luật quy định hay chưa
Thuyết mạng lưới xã hội: Vũ Quang Hào (2017:136-139) Theo James
J.Chriss, khái niệm mạng lưới xã hội được bắt đầu từ G. Simell, người đầu
tiên trong xã hội học cho rằng, hình thức tồn tại xã hội là tương tác xã hội
16


(sociation). Để hiểu thuyết mạng lưới xã hội trước tiên chúng ta cần nhắc lại
định nghĩa xã hội. Xã hội là tập hợp nhóm các cá nhân có quan hệ xã hội với
nhau sống trong một khoảng không gian có biên giới lãnh thổ riêng biệt so
với nhóm xã hội khác. Trong xã hội có nhiều cách thức tổ chức khác nhau mà
đều do con người tạo dựng nên để đáp ứng nhu cầu của chính họ. Con người
tạo dựng nên xã hội, nhưng xã hội sau khi hình thành thì có các quy luật tồn
tại của riêng nó. Sự hình thành các thiết chế các tổ chức xã hội theo chiều dọc
của các thang bậc quyền lực phản ánh bất bình đẳng trong xã hội là điều kiện
quan trọng để chúng ta nhận dạng xã hội được quản lý như thế nào qua các
tầng lớp xã hội của nó. Chúng ta có thể đi đến định nghĩa phân tầng xã hội
như sau: Phân tầng xã hội là sự phân phối bất bình đẳng xã hội về tài sản hay
hàng hóa, cổ phần có giá trị trong một tập hợp dân cư. Các cơ may xã hội và
tài sản hay hàng hóa của xã hội thường được phân phối theo các tiêu chí về
giai cấp, vị thế, cấp bậc xã hội. Mỗi xã hội đều có cách tổ chức theo thứ bậc
hành chính với những thẩm quyền cụ thể. Con người không phải lúc nào cũng
thuận lợi quan hệ theo bậc hành chính mà nó tìm các cơ hội khác để tồn tại và
phát triển tốt hơn. Vì thế con người liên kết với nhau theo các mạng lưới theo
các tiêu chí nào đó mà họ tự thỏa thuận và thỏa mãn lẫn nhau. Thuyết mạng
lưới xã hội là thuyết giải thích loại hình tổ chức xã hội này. Người ta thường
nói nền hành chính chính thống quan hệ xã hội theo chiều dọc của thang bậc
quyền lực chính thống. Trong khi đó mạng lưới xã hội được tổ chức theo
chiều ngang và quyền lực phi hành chính. Vì thế nhiều nhà xã hội học định
nghĩa như sau: mạng lưới xã hội là một khuôn mẫu các quan hệ xã hội trong

một tập hợp dân số của các chủ thể hành động xã hội.
Thuyết mạng lưới xã hội là loại lý thuyết trung gian giữa thuyết vi mô
và thuyết vĩ mô. Mạng lưới xã hội trong đó hành động cá nhân đã được in dấu
ấn vào, nó đã được cấu trúc bởi các hành động cá nhân do đó các mối liên hệ
17


xã hội nối liền với các cá nhân có liên quan tới hành động của họ lại với nhau.
Từ quan niệm này, có hai cách tiếp cận khác nhau xuất hiện.
Tiếp cận thứ nhất cho rằng, cá thể như là người tiếp nhận một cách thụ
động về các áp lực môi trường cách tiếp cận này nhấn mạnh cấu trúc xã hội. Các
mạng lưới xã hội sinh ra những nè nén kìm hãm sự tự do hành động cá nhân.
Tiếp cận thứ hai cho rằng, các mạng lưới chỉ là các nguồn lực xã hội,
trong đó các cá nhân là chủ thể hành động là những người đi tiên phong khám
phá những mối liên hệ xã hội để thực hiện mục tiêu có lợi cho chính họ. Tức
là nhấn mạnh tính tìm tòi chủ động sáng tạo của cá nhân.
Wellman (1983: 156-157) cho rằng, con đường trực tiếp để nghiên cứu
một cấu trúc xã hội là nghiên cứu mô hình của các mối liên hệ nối các thành
viên mạng lưới xã hội lại với nhau. Các nhà lý thuyết mạng lưới thiên hướng
nghiên cứu cách thức con người điều tiết các quan hệ mạng lưới hơn là việc
nhấn mạnh những nghiên cứu quá trình xã hội hóa và nội tâm hóa các chủ thể
hành động theo một hệ tư tưởng chung. Trong quan hệ mạng lưới, tồn tại ở
cấp độ vi mô lẫn vĩ mô. Ở cấp độ vi mô, các cá nhân quan hệ với nhau theo
cấu trúc vi mô hay liên cá nhân. Trong khi đó, ở cấp độ vĩ mô các nhóm xã
hội liên kết với nhau trong một cấu trúc mạng lưới xác định (Wellman và
Wortly (1990). Trong khi đó Mak Granovetter (1985:490) đi sâu vào giải
thích mối quan hệ mạng lưới ở cấp vi mô. Ông cho rằng, hành động của cá
nhân được thấm nhuần sâu sắc trong các quan hệ cá nhân và cấu trúc của các
quan hệ liên cá nhân đó. Mak Granovetter cho rằng, trong mạng lưới vi mô
tồn tại hai loại liên kết (link) là liên kết mạnh và liên kết yếu. Liên kết mạnh

là loại liên kết hay loại quan hệ giữa những người bạn thân với nhau, trong
khi đó liên kết yếu là loại quan hệ lỏng lẻo chưa bền chặt.
Vận dụng các mô hình quan hệ này, xã hội học có thể cắt nghĩa nhiều
mối quan hệ phức tạp theo chiều ngang, chứ không phải theo chiều dọc quyền
lực của nền hành chính mà Weber gọi là “cái lồng sắt.”
18


Loại hình mạng lưới xã hội trong xã hội nông thôn truyền thống
theo Nguyễn Đức Chiện (2018: 78) là tập hợp những mối quan hệ, liên kết
của các cá nhân trong một nhóm hoặc tổ chức xã hội. Các mối liên kết và trao
đổi đó có thể giúp các thành viên trong cùng mạng lưới xã hội thực hiện mục
tiêu chung hay mục tiêu riêng một cách có hiệu quả. Khi bàn về mạng lưới xã
hội, một trong những đặc điểm cơ bản của mạng lưới xã hội được các nhà xã
hội học nhấn mạnh là: cơ cấu, vị thế, vai trò, chuẩn mực và tính chất vận hành
của mỗi mạng lưới xã hội. Đây cũng là cơ sở tạo nên đặc trưng và tính cố kết
bền vững bên trong mỗi mạng lưới. Vận dụng lý thuyết mạng lưới vào nghiên
cứu chăm sóc NCT yếu thế nhằm tìm hiểu sự tham gia của các mạng lưới gia
đình, dòng họ, cộng đồng và chính quyền địa phương trong việc hỗ trọ châm
sóc sức khỏe cho NCT…
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chăm sóc sức khỏe người
cao tuổi
Ngày 22 tháng 11 năm 2012 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết
định số 1781/QĐ-TTg về Phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về
người cao tuổi Việt Nam giai đoạn 2012 - 2020
Mục tiêu tổng quát
Phát huy vai trò của người cao tuổi; nâng cao chất lượng chăm sóc
người cao tuổi; đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động chăm sóc và phát huy vai
trò người cao tuổi phù hợp với tiềm năng và trình độ phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.

Mục tiêu cụ thể:
Phát huy vai trò, kinh nghiệm, tạo điều kiện để người cao tuổi tham gia
có hiệu quả vào các hoạt động văn hóa, xã hội, giáo dục, kinh tế, chính trị phù
hợp với nguyện vọng, nhu cầu, khả năng; thực hiện đầy đủ các quyền lợi và
nghĩa vụ của người cao tuổi;
19


Tăng cường sức khoẻ về thể chất và tinh thần của người cao tuổi; nâng
cao chất lượng mạng lưới y tế chăm sóc sức khỏe, phòng bệnh, khám, chữa
bệnh và quản lý các bệnh mãn tính cho người cao tuổi; xây dựng môi trường
thuận lợi để người cao tuổi tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch,
vui chơi, giải trí;
Nâng cao chất lượng đời sống vật chất của người cao tuổi; hoàn thiện chính
sách trợ giúp và bảo trợ xã hội hướng tới đảm bảo mức sống tối thiểu cho người
cao tuổi; phát triển, nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ và cơ sở chăm sóc
người cao tuổi, chú trọng người cao tuổi khuyết tật, người cao tuổi thuộc diện
nghèo không có người phụng dưỡng, người cao tuổi dân tộc thiểu số.
Chỉ tiêu cụ thể đến năm 2020:
50% người cao tuổi trực tiếp sản xuất, kinh doanh tăng thu nhập, giảm
nghèo có nhu cầu hỗ trợ được hướng dẫn về sản xuất kinh doanh, hỗ trợ
phương tiện sản xuất, chuyển giao công nghệ, tiêu thụ sản phẩm, vay vốn phát
triển sản xuất;
Trên 80% tổng số xã, phường, thị trấn hỗ trợ cho việc thành lập và hoạt
động của Quỹ chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi trên địa bàn;
100% người cao tuổi khi ốm đau được khám, chữa bệnh và được hưởng
chăm sóc của gia đình, cộng đồng;
90% tổng số bệnh viện đa khoa, bệnh viện chuyên khoa (trừ bệnh viện
chuyên khoa Nhi, bệnh viện Điều dưỡng – Phục hồi chức năng), bệnh viện y
học cổ truyền có quy mô từ 50 giường bệnh kế hoạch trở lên tổ chức buồng

khám bệnh riêng cho người cao tuổi tại khoa khám bệnh, bố trí giường bệnh
điều trị nội trú cho người cao tuổi và 100% các bệnh viện đa khoa, chuyên
khoa cấp tỉnh có khoa lão khoa;
100% cơ quan phát thanh, truyền hình cấp Trung ương và địa phương
có chuyên mục về người cao tuổi tối thiểu 01 lần/01 tuần;
20


×