Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Chuyển thể sáng tác văn học sang tác phẩm điện ảnh (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.82 KB, 79 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
***************

CAO THỊ SEN

CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC
SANG TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH
(TỪ BA TÁC PHẨM VĂN HỌC SỐ ĐỎ, KỸ NGHỆ LẤY
TÂY,
CƠM THẦY CƠM CÔ ĐẾN TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH TRÒ
ĐỜI)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Người hướng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN THỊ KIỀU ANH

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo của khoa Ngữ
Văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đã hết sức nhiệt tình trong quá trình
giảng dạy, giúp tôi có những kiến thức quý giá phục vụ trực tiếp cho quá
trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Kiều Anh, người đã
tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận, từ việc định hướng,
lựa chọn đề tài đến việc xây dựng đề cương và triển khai khóa luận. Cô đã có
những góp ý cụ thể và luôn luôn động viên để tôi có thể hoàn thành tốt nhiệm


vụ của mình.
Đề tài của tôi chắc hẳn sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn
chế. Tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của thầy cô cùng các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2017
Sinh viên
Cao Thị Sen


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp “Chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm
điện ảnh (Từ ba tác phẩm văn học Số đỏ, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô
đến tác phẩm điện ảnh Trò đời)” được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực
tiếp của TS. Nguyễn Thị Kiều Anh. Tôi xin cam đoan các số liệu và tài liệu
sử dụng trong khóa luận là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Cao Thị Sen


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3
3. Mục đích, ý nghĩa đề tài................................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
7. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 5
8. Quy cách trình bày ........................................................................................ 5

NỘI DUNG ....................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC CHUYỂN THỂ........................ 6
TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH ............................. 6
1.1. Thuật ngữ văn học, điện ảnh và vấn đề chuyển thể. ................................. 6
1.1.1. Thuật ngữ văn học................................................................................... 6
1.1.2. Thuật ngữ điện ảnh.................................................................................. 7
1.1.3. Phim chuyển thể - sản phẩm của sự giao thoa giữa văn học và điện ảnh
........................................................................................................................... 9
1.2. Văn học – điện ảnh mối quan hệ tương đồng và khác biệt...................... 10
1.2.1. Sự tương đồng giữa hai loại hình nghệ thuật văn học – điện ảnh......... 10
1.2.2. Văn học và điện ảnh mối quan hệ khác biệt ......................................... 16
CHƯƠNG 2: SỰ CHUYỂN THỂ BỘ BA TÁC PHẨM VĂN HỌC ............ 21
SỐ ĐỎ, KỸ NGHỆ LẤY TÂY, CƠM THẦY CƠM CÔ ĐẾN TÁC PHẨM
ĐIỆN ẢNH TRÒ ĐỜI..................................................................................... 21
2.1. Những bộ phim chuyển thể qua các thời kì của điện ảnh Việt Nam. ...... 21
2.2. Chuyển thể tiểu thuyết Số đỏ, phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm
cô – sang tác phẩm điện ảnh Trò đời .............................................................. 23
2.2.1. Tóm lược nội dung văn học và nội dung phim điện ảnh ...................... 23


2.2.2. Sự tương đồng giữa ba tác phẩm văn học với phim truyện chuyển thể 27
Trò đời ............................................................................................................. 27
2.2.3. Sự khác biệt giữa tác phẩm văn học với phim truyện chuyển thể Trò đời
......................................................................................................................... 36
2.3. Thành công và hạn chế của bộ phim truyện chuyển thể Trò đời............. 46
2.3.1.Thành công của tác phẩm chuyển thể .................................................... 46
2.3.2. Một số hạn chế của tác phẩm chuyển thể ............................................. 47
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh đã và đang là hiện tượng
hết sức phổ biến trong đời sống văn hóa nghệ thuật ở cả Việt Nam và trên thế
giới. Chưa ai có thể thống kê được con số khổng lồ về các tác phẩm văn học
đã chuyển thể thành phim. Chỉ biết rằng: hầu hết các tác phẩm văn chương
ưu tú của các dân tộc ở mọi thời đại đã một lần, thậm chí hơn một lần được
chuyển thể thành những bộ phim rất nổi tiếng. Từ những thiên anh hùng ca,
truyền thuyết, thần thoại... trong kho tàng văn học dân gian như: anh hùng ca
Iliat và Odixe, thần thoại Hy Lạp,... đến những tác phẩm văn học cổ điển
như: Đôn Kihôtê (M.d. Cervantes, 1605, văn học Tây Ban Nha), Những
người khốn khổ (V. Huygo, 1962, văn học Pháp), Chiến tranh và hòa bình
(L.N. Tônxtôi, 1865, văn học Nga), Tam quốc diễn nghĩa (La Quán Trung,
thế kỉ thứ XIV, văn học Trung Quốc), Tây du kí (Ngô Thừa Ân, xuất bản
những năm 1590, văn học Trung Quốc), Hồng lâu mộng (Tào Tuyết Cần, thế
kỉ thứ XVIII, văn học Trung Quốc),... và những tác phẩm văn học hiện đại
như: bộ truyện Hary Potter (J.K. Rowling, xuất bản từ 1997 đến 2007, văn
học Anh), Mật mã Davinci (D. Brown, 2003, văn học Mỹ), bộ ba tiểu thuyết
Chạng Vạng – Trăng non – Nhật thực, (S. Meyer, 2005, văn học Anh).... Qua
đây, đã phần nào nói lên được vị trí quan trọng của các phim chuyển thể từ
tác phẩm văn học trong thành tựu chung của nghệ thuật điện ảnh. Các tác
phẩm văn học là nguồn tư liệu hấp dẫn cho các đạo diễn điện ảnh, các nhà
biên kịch.
Trong nền điện ảnh nước nhà, không thể không kể đến những đóng
góp đáng tự hào của những bộ phim chuyển thể từ tác phẩm văn học như:
Lục Vân Tiên (1957, dựa theo truyện Nôm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình
Chiểu), Vợ chồng A Phủ (1961, chuyển thể từ truyện ngắn Vợ chồng A Phủ

1



của nhà văn Tô Hoài), Chị Tư Hậu (1963, chuyển thể từ tác phẩm Một
chuyện chép ở bệnh viện của nhà văn Bùi Đức Ái), Chị Dậu (1980, chuyển
thể từ tiểu thuyết Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố), Làng Vũ Đại ngày ấy
(1983, chuyển thể từ ba tác phẩm: Sống mòn, Lão Hạc, Chí Phèo của nhà văn
Nam Cao), Đêm hộ Long Trì (1989, được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên
của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng), Tướng về hưu (1988) và Những người thợ
xẻ (1998) – chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp, Mùa
len trâu (2004, dựa theo hai truyện ngắn: Một cuộc bể dâu và Mùa len trâu
của nhà văn Sơn Nam), Trăng nơi đáy giếng (2008, chuyển thể từ truyện
ngắn cùng tên của nữ nhà văn Trần Thùy Mai), Cánh đồng bất tận (2010,
chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư), hay Trò
đời (2013, chuyển thể từ ba tác phẩm: Số đỏ, Cơm thầy cơm cô, Kỹ nghệ lấy
Tây của nhà văn Vũ Trọng Phụng)... Ngoài ra, còn rất nhiều các tác phẩm có
giá trị mà không thể điểm hết ở đây.
Thành tựu của phim chuyển thể từ văn học đã góp phần thúc đẩy sự
hình thành phát triển của nghệ thuật điện ảnh trên thế giới và Việt Nam. Số
lượng phim chuyển thể từ tác phẩm văn học trên thế giới và Việt Nam ngày
càng nhiều và luôn được người xem chào đón rất nhiệt tình. Có nhiều nguyên
nhân đem lại thành công cho phim chuyển thể nhưng một nguyên nhân nổi
bật không thể phủ nhận là tác phẩm văn học đã mang đến cho phim truyện
chuyển thể một sức mạnh nội tại, sức mạnh tư tưởng của bộ phim.
Điện ảnh vừa “chịu ơn” các tác phẩm văn học, vừa có công chắp cánh
cho các tác phẩm văn học thăng hoa. Chọn đề tài: Chuyển thể tác phẩm văn
học sang tác phẩm điện ảnh (Từ ba tác phẩm văn học Số đỏ, Cơm thầy cơm
cô, Kỹ nghệ lấy Tây đến tác phẩm điện ảnh Trò đời), chúng tôi mong muốn
nâng cao giá trị của phim truyện chuyển thể, để điện ảnh nước nhà ngày càng



có nhiều phim truyện điện ảnh thành công trong xu hướng hội nhập quốc tế
hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mối quan hệ mật thiết, đa chiều giữa văn học và điện ảnh là một thực
tiễn sống động, không thể phủ nhận, chúng có mối quan hệ đặc biệt ngay từ
những ngày đầu điện ảnh mới hình thành. Điều đó được thể hiện trong các
cuốn sách của các nhà phê bình, nghiên cứu điện ảnh như: Văn học với điện
ảnh của Vai – Sphen, M. Rôm, I. Khâyphítxơ, E. Gabơrilôtritru, Tiết diện
vàng màn ảnh của X. Prêilich, 20 bài học điện ảnh của LarentnnTirad, Nhận
thức với điện ảnh của Trần Luân Kim....
Vấn đề này cũng được các nhà văn, đạo diễn và giới chuyên môn trao
đổi qua các bài viết tâm huyết như: Nguyễn Mai Loan với bài: Phim chuyển
thể - Những khái niệm (Tạp chí điện ảnh nghệ thuật, số 123 năm 2005),
Hoàng Lan với bài Điện ảnh không thể tách rời các nghệ thuật khác (Tạp chí
điện ảnh nghệ thuật, số 114 năm 2004), Thăng Long với bài Nhà văn Ma Văn
Kháng: Điện ảnh và văn học cần có sự kết hợp (Tạp chí điện ảnh nghệ thuật,
số 9 năm 2002)...
Trong kỉ yếu hội thảo quốc tế Những lằn ranh văn học năm 2011 do
ĐHSP. TPHCM tổ chức, có những bài viết phân tích mối quan hệ giữa văn
học và điện ảnh qua bộ phim truyện chuyển thể Cánh đồng bất tận và Cuộc
đối thoại giữa văn học và điện ảnh của Lê Thị Dương, Nhìn lằn ranh giữa
văn học và điện ảnh qua Sắc, Giới của Phan Thu Vân...
Những công trình bài viết trên chủ yếu chỉ ra những nét khái quát về
mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh, đặc biệt là vai trò giữa văn học với
điện ảnh, có phân tích ít nhiều đến sự chuyển thể từ tác phẩm văn học sang
phim điện ảnh. Vì vậy, để có được một cái nhìn tương đối đầy đủ về sự


chuyển thể từ tác phẩm văn học sang phim điện ảnh là một điều tương đối
khó khăn đối với chúng tôi khi thực hiện đề tài này.

Mặt khác, qua khảo sát chúng tôi nhận thấy chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về bộ phim chuyển thể Trò đời
của đạo diễn Nhuệ Giang. Có chăng cũng chỉ là những bài viết đăng trên các
báo, tạp chí, suy nghĩ của người xem về bộ phim. Lịch sử vấn đề như vậy quả
là thách thức đối với chúng tôi.
3. Mục đích, ý nghĩa đề tài
Từ việc phân tích đặc điểm của văn học và điện ảnh cũng như mối quan
hệ đa chiều giữa văn học và điện ảnh, chúng tôi muốn tìm hiểu sự biến thể
của văn học khi đi vào tác phẩm điện ảnh. Qua đó chỉ ra những điểm tương
đồng và khác biệt của tác phẩm văn học với phim truyện điện ảnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Khóa luận nghiên cứu khảo sát sự chuyển thể bộ ba tác phẩm văn học
Số đỏ, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô sang tác phẩm điện ảnh Trò đời.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Tiểu thuyết Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
Phóng sự Kĩ nghệ lấy Tây và Cơm thầy cơm cô của nhà văn Vũ Trọng
Phụng.
Phim truyện chuyển thể từ tác phẩm văn học: phim Trò đời.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu đặc điểm, mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh.
Tìm hiểu về tiểu thuyết Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng và phóng sự
Kĩ nghệ lấy Tây và Cơm thầy cơm cô của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
Tìm hiểu về phim truyện chuyển thể từ tác phẩm văn học: phim Trò đời.



So sánh hai thể loại và thấy được sự tương đồng, khác biệt của tác phẩm
văn học và phim truyện chuyển thể Trò đời.
6. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa tác phẩm văn học
và phim điện ảnh, chúng tôi đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp phân tích – tổng hợp.
- Phân tích phân loại – thống kê.
- Phương pháp khảo sát – so sánh.
- Phương pháp mô tả.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc chuyển thể tác phẩm văn học sang điện
ảnh.
Chương 2: Sự chuyển thể bộ ba tác phẩm văn học Số đỏ, Kỹ nghệ lấy Tây,
Cơm thầy cơm cô đến tác phẩm điện ảnh Trò đời.
8. Quy cách trình bày
- Tên các loại tác phẩm: in nghiêng không in đậm.
- Viết tắt NXB = Nhà xuất bản.
- LHP = Liên hoan phim.
- NSƯT = Nghệ sĩ ưu tú.
- Thông tin trong ngoặc vuông thứ tự là: số thứ tự tài liệu đã dẫn.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC CHUYỂN THỂ
TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH
“Văn học là nhân học” (M. Gorki) là câu chuyện về cuộc đời, về cõi

nhân sinh. Cùng hình thái ý thức nghệ thuật với văn học, ngay từ khi mới ra
đời, điện ảnh đã sử dụng nguồn tư liệu quý giá từ tư liệu văn học trong kho
tàng văn học của nhân loại, để làm nên những bộ phim truyện kinh điển và
bằng cách đó góp phần phát triển nghệ thuật điện ảnh: “Mọi loại hình nghệ
thuật đều phản ánh cuộc sống, đều biểu hiện các tư tưởng tình cảm của con
người, nên đều có nội dung chung nhưng khác nhau về hình thức thể hiện”.
[14, tr.94].
1.1. Thuật ngữ văn học, điện ảnh và vấn đề chuyển thể.
1.1.1. Thuật ngữ văn học
Nếu chất liệu của hội họa là màu sắc và đường nét, của âm nhạc là tiết
tấu và âm thanh, của vũ đạo là thể hình và động tác.... tức đều tồn tại dưới
trạng thái vật chất thì chất liệu của văn học là ngôn từ: “Văn học là nghệ thuật
ngôn từ hay văn học là loại hình nghệ thuật sáng tạo bằng ngôn từ” [13,
tr.275]. Như vậy, văn học lấy ngôn từ làm chất liệu để phản ánh đời sống xã
hội, thể hiện sự nhận thức và sáng tạo con người. Tuy nhiên, cần phải thấy rõ
chất liệu nghệ thuật của ngôn từ đó là ngôn ngữ hay nói cách khác là ngôn từ.
Những từ ấy tồn tại khách quan trong đời sống hằng ngày bởi vậy nếu chúng
ta không biết thứ ngôn ngữ viết trong tác phẩm văn học thì chúng ta sẽ không
thể nào hiểu được nội dung của nó.
Bản chất xã hội lịch sử của văn học với tư cách là hình thái ý thức xã
hội đặc thù được xác định bằng khái niệm như “tính hiện thực”, “tính nhân
loại”, “tính giai cấp”, “tính tư tưởng”.... Nhưng văn học khác với hình thái ý
thức xã hội như: chính trị, triết học, đạo đức... còn ở đối tượng nhận thức và


nội dung của nó. Văn học là sự phản ánh đời sống nên văn học lấy con người
làm đối tượng nhận thức trung tâm. Văn học nhận thức con người trong tính
tổng hợp, toàn vẹn, sống động trong các mối quan hệ đời sống phong phú và
phức tạp của nó trên các phương diện thẩm mỹ. Trong các tác phẩm văn học
nhà văn không chỉ đưa ra những nhận thức khách quan mà còn bộc lộ tư

tưởng, tình cảm, ước mơ, khát vọng của mình đối với con người và cuộc
sống. Do đó, nội dung của văn học là sự thống nhất, biện chứng và phương
diện khách quan. Đối tượng và nội dung đặc thù đòi hỏi văn học phải có
phương thức chiếm lĩnh và biểu đạt riêng, đó là hình tượng nghệ thuật. Hình
tượng nghệ thuật làm cho văn học gần gũi với các loại hình khác. Tuy nhiên,
do mỗi loại hình sử dụng một chất liệu khác nhau nên hình tượng của chúng
có những điểm riêng biệt.
1.1.2. Thuật ngữ điện ảnh
Tính đến năm 2016, điện ảnh đã có 120 năm tuổi, sự ra đời của điện
ảnh đã làm cho nghệ thuật có những biến động và khởi sắc, nó tạo tác động to
lớn đến đời sống tinh thần của nhân loại. Người ta không khỏi bất ngờ trước
diện mạo mới mẻ và trẻ trung của nó. Nhưng điện ảnh là gì thì vẫn chưa có
một khái niệm như văn học. Để hiểu được khái niệm điện ảnh một cách tương
đối đầy đủ cần phải có một cái nhìn toàn diện về những thuộc tính của nó.
“Có nhiều quan niệm khác nhau về đặc trưng điện ảnh. Song hiện nay quan
niệm phổ biến nhất cho rằng điện ảnh có 8 thuộc tính cơ bản: điện ảnh là một
nghệ thuật tổng hợp, có tinh chất quần chúng, tính dân tộc và tính quốc tế,
tính giải trí, tính kinh tế thương mại và mang giá trị tư tưởng nhân sinh sâu
sắc. Điện ảnh là con đẻ của khoa học kĩ thuật – công nghệ và nằm trong cấu
trúc văn hóa, truyền thống đại chúng”. [2, tr.16]
Điện ảnh là một ngành nghệ thuật tổng hợp bởi nhiều nguyên nhân sau.
Thứ nhất, điện ảnh tiếp thu văn học ở đề tài, cốt truyện, tư tưởng, lời thoại và


các thủ pháp nghệ thuật. Điện ảnh còn tiếp thu ở hội họa và các loại hình nghệ
thuật khác như điêu khắc, kiến trúc... để tạo ra những thành tố cho một bộ
phim. Mỗi bộ phim giống như một tác phẩm hội họa mà ở đó dưới sự chỉ đạo
của người đạo diễn, sự bày trí của người họa sĩ, cách đặt máy quay của người
quay phim, diễn xuất của diễn viên hay một cảnh thiên nhiên tĩnh lặng ... đều
là một tác phẩm hội họa có bố cục, có màu sắc... có chủ điểm ý tưởng mà

những người làm phim muốn gửi đến. Điện ảnh còn tiếp thu âm nhạc và đưa
âm nhạc vào phim không chỉ để phụ họa làm nền mà còn làm tăng tính chất
trữ tình và thi vị cho bộ phim...
Những gì mà điện ảnh tiếp nhận ở những loại hình nghệ thuật khác đã
tạo nên tính tổng hợp của nghệ thuật điện ảnh. Bởi vậy, nói về điện ảnh có
nhà nghiên cứu đã phải khẳng định rằng: “Điện ảnh là một nghệ thuật tổng
hợp, mang đến cho hàng triệu người xem ngôn từ của nhà văn, tranh của họa
sĩ, diễn xuất của diễn viên, giai điệu của nhạc sĩ.... Đây là nghệ thuật liên kết
hội họa và kiến trúc, âm nhạc và văn học. Phim có âm thanh và màu sắc, khổ
rộng và lập thể - đây quả thực là một nghệ thuật tổng hợp” [7, tr.17]. Với tính
tổng hợp về ngôn ngữ biểu hiện như vậy, điện ảnh có thể phản ánh đời sống
một cách phong phú,hiện thực hơn tất cả các loại hình nghệ thuật khác. Tuy
nhiên, sẽ rất sai lầm nếu nghĩ điện ảnh chỉ là sự hòa lẫn các loại hình nghệ
thuật khác nhau. Điện ảnh hoàn toàn là một loại hình độc lập, tính chất độc
lập của nó không kém gì so với các loại hình nghệ thuật khác. Nó chỉ sử dụng
một cách sáng tạo kinh nghiệm phong phú của quá trình phát triển nghệ thuật
trước kia chứ không phải là sự liên kết các loại hình nghệ thuật khác như một
con số cộng.
Nói đến nghệ thuật người ta thường nói đến cái đẹp. Nhưng nghệ thuật
điện ảnh không chỉ mang những vẻ đẹp của loại hình nghệ thuật thời thượng
bậc nhất mà nó còn có kinh tế thương mại cao. Điện ảnh vừa là một loại hình


nghệ thuật đồng thời cũng vừa là một ngành công nghiệp: công nghiệp điện
ảnh.
1.1.3. Phim chuyển thể - sản phẩm của sự giao thoa giữa văn học và điện
ảnh
Chuyển thể là một trong những hoạt động điển hình trong sự giao lưu
văn học và điện ảnh, mô tả sự chuyển hóa tiểu thuyết, kịch cùng những nguồn
văn học khác của phim. Dù thuật ngữ này đôi khi chỉ dẫn tới một hoạt động

sao chép kém sáng tạo, thì cũng cần nhớ rằng ngay cả những tác phẩm điện
ảnh và văn học nguyên bản nhất cũng có thể được coi là chuyển thể những tư
liệu từ nguồn này sang nguồn khác. Không chỉ những tác phẩm văn học nổi
tiếng như vở kịch của Shakespeare hay Ulysses của James Joy, lấy nguồn từ
tài liệu lịch sử hay những tư liệu văn học ban đầu mà ngay cả tác phẩm có vẻ
nguyên bản nhất cũng xây dựng hoặc chuyển thể thông tin hay tài liệu từ
những cuộc thảo luận, báo chí, từ những giấc mơ hay sự kiện lịch sử.
Các tác phẩm nổi tiếng của văn học kinh điển (như Hamlet hay Mobby
Dick) có thể thừa nhận sự quen thuộc của người xem với bản gốc, và tác
phẩm chuyển thể có thể đề cập tới nhận thức và sự công nhận của công chúng
với tác phẩm gốc đó thông qua sự thay đổi hay lược bỏ. Ngược lại, có nhiều
tác phẩm phim chuyển thể từ một tác phẩm văn học lạ lẫm hay ít được biết
đến và mặc nhiên nó được coi như một khía cạnh vô hình của bộ phim mà
nhiều độc giả không biết mà cũng chẳng cần biết. Những vấn đề nói trên và
những điều kì vọng của khán giả vào bộ phim chuyển thể cần được cân nhắc
với bất cứ nhà đạo diễn nào.
Các tác phẩm văn học được chuyển thể sang phim điện ảnh dưới khá
nhiều hình thức và mức độ. Tuy nhiên về cơ bản có 2 hình thức chuyển thể,
đó là chuyển thể theo sát nguyên bản và chuyển thể không theo sát nguyên
bản. Trong hình thức chuyển thể theo sát nguyên bản văn học, bộ phim sẽ


bám sát tác phẩm văn học từ tên tác phẩm, cốt truyện, hệ thống nhân vật, ý
tưởng chủ đề đến hình thức, ngôn ngữ... Tất nhiên, sự theo sát này cũng chỉ là
tương đối mà thôi. Bản chất của quá trình chuyển thể này là dựa hoàn toàn
vào nguồn nguyên liệu của văn học, không đặt ra thêm vấn đề gì ngoài những
cái đã có. Thực chất đây là hình thức chọn từ tác phẩm văn học những cái tốt
nhất, phù hợp nhất cho sự vận động cũng như hiệu quả hành động, kịch tính...
Không hiếm các bộ phim đã “đọc” một cách trung thành những tác phẩm văn
học nổi tiếng và có chỗ đứng vững chắc trong đời sống phim ảnh quốc tế. Với

hình thức không thể theo sát nguyên bản văn học, tức là chuyển thể tự do thì
tác phẩm văn học chỉ góp một phần hoặc chỉ là cái cớ để cho ra đời một bộ
phim điện ảnh. Ở Việt Nam, hình thức “dựa theo” tác phẩm văn học có vẻ
phổ biến hơn vì đó là hình thức mà tác giả phim thấy tương đối “thoải mái”
khi sử dụng cốt truyện, cấu trúc, nhân vật, lời thoại và chất liệu khác từ văn
học.
Cả hai hình thức cơ bản vừa nêu trên đều gặp những thuận lợi và khó
khăn nhất định trong quá trình chuyển thể. Không ít bộ phim hay được tạo
nên từ tác phẩm văn học và cũng khá nhiều tác phẩm văn học nhờ được
chuyển thể thành phim ảnh mà được rất nhiều công chúng biết đến. Rõ ràng,
văn học và điện ảnh đã phối hợp, kế thừa nhau, dựa vào nhau để tồn tại và cao
hơn để sáng tạo.
1.2. Văn học – điện ảnh mối quan hệ tương đồng và khác biệt
1.2.1. Sự tương đồng giữa hai loại hình nghệ thuật văn học – điện ảnh
Văn học và điện ảnh là những loại hình nghệ thuật đồng nhất về ý thức
thẩm mỹ, ý thức nghệ thuật trong phản ánh những vấn đề của đời sống xã
hội. Từ đó, dẫn đến tương đồng về nội dung tư tưởng và thể loại trong tác
phẩm văn học và điện ảnh.


1.2.1.1. Nội dung tư tưởng
Nhà văn, biên kịch, đạo diễn, quay phim, nhạc sĩ là những người nghệ
sĩ có cùng sự đa cảm, trí tưởng tượng và sự tinh nhạy điêu luyện các giác
quan thẩm mỹ (thính giác, thị giác....). Cho nên, tư duy của người nghệ sĩ
sáng tạo tác phẩm nghệ thuật khác hẳn với tư duy nhà nghiên cứu thuộc lĩnh
vực khoa học – kỹ thuật. Hình thức của tư duy nghệ thuật là sự phản ánh hiện
thực theo quy luật của cái đẹp, là một mô hình đặc biệt nhằm tái hiện và tái
tạo một cách sinh động hiện thực cuộc sống với những nhu cầu và khát vọng
của con người.
Tư duy của nhà biên kịch, đạo diễn gần gũi với tư duy của nhà văn nên

khi tiếp cận tác phẩm văn học, các tác giả điện ảnh dễ thẩm thấu tư tưởng,
tình cảm của nhà văn gửi gắm trong tác phẩm. Sự “đồng thanh tương ứng” đã
làm nên tiếng nói chung trong xây dựng hình tượng nghệ thuật. Sáng tạo
nghệ thuật là lĩnh vực của cảm xúc, là sự mách bảo của con tim nên tâm hồn
nghệ sĩ thường gặp nhau qua tác phẩm. Nhà văn khi viết tác phẩm không hề
nghĩ “đứa con tinh thần” của mình sẽ có đời sống thứ hai trên màn ảnh, các
tác giả điện ảnh đã tìm thấy sự đồng điệu của “trái tim” qua các tác phẩm văn
học và mong muốn biến lời ca “tiếng hát của tâm hồn” hiện hữu lên màn ảnh.
Như vậy, từ tình cảm chân thành với những tác phẩm văn học, các tác
giả điện ảnh đã có cơ sở vững chắc về tư tưởng tình cảm để sáng tạo nên
những kịch bản văn học điện ảnh chất lượng và một bộ phim giá trị trong
tương lai. Trong nghệ thuật, tình cảm bao giờ cũng chứa đựng tư tưởng, và tư
tưởng bao giờ cũng thấm đượm tình cảm, đó là mối quan hệ biện chứng
không thể tách rời. Với ý nghĩa đó, tư tưởng trong tác phẩm đã trở thành sự
nung nấu dằn vặt, là ngọn lửa tình yêu mà người nghệ sĩ gửi gắm trong tác
phẩm làm nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn cho tác phẩm và do đó thuyết phục người
xem.


Qua những trang viết của mình, nhà văn lớn M. Gorki đã thổi vào văn
học luồng gió mới, buộc những người cầm quyền đương thời phải thay đổi
những suy nghĩ đã thành nếp về con người, về cuộc đời. Bằng trái tim nhân
đạo cách mạng, M. Gorki mô tả cuộc sống bị đàn áp, đói khổ của các tầng lớp
dưới đáy xã hội, đồng thời thấu hiểu ánh sáng lương tâm trong tâm hồn. Nhà
văn cho rằng: “Nghệ thuật căn bản là một cuộc đấu tranh hoặc là để tán
thành hoặc là để phản đối, chứ không có và không thể có một nền nghệ thuật
bàng quan, bởi vì con người không phải là một chiếc máy ảnh, con người
không ghi chép hiện thực mà hoặc là xác nhận, hoặc là thay đổi” [6, tr.17].
Nội dung tư tưởng ấy hiện diện trong hầu hết các tác phẩm của ông. Trong tài
sản gần 20 tác phẩm văn học bao gồm cả tiểu thuyết, truyện ngắn và kịch của

M. Gorki đã được chuyển thể sang điện ảnh. Tiêu biểu nhất là bộ phim câm
Người mẹ.
Nội dung tư tưởng trong tác phẩm nghệ thuật rõ ràng có một vai trò
quan trọng đối với toàn bộ cơ cấu của tác phẩm, được quyết định bởi tư
tưởng tác giả. Tư tưởng tác phẩm có thể sâu sắc hay nông cạn, đúng hay sai
lầm, khẳng định hay phủ định. Tất cả đều phụ thuộc vào sự lĩnh hội nhận
thức thế giới của người nghệ sĩ, liên quan mật thiết với tư tưởng, thế giới
quan, lý tưởng xã hội thẩm mỹ. Nhà nghiên cứu Biêlinxki nhận định: “Trong
tác phẩm nghệ thuật chân chính, tư tưởng đâu phải là một khái niệm trừu
tượng được thể hiên một cách giáo điều, mà nó là linh hồn của chúng, nó
chan hòa trong chúng như ánh sáng chan hòa trong pha lê” [3, tr.132].
Trong tác phẩm nghệ thuật, từ ngôn ngữ đến các phương tiện nghệ
thuật đều mang dấu ấn của tư tưởng, được người nghệ sĩ thể hiện qua các
hiện tượng, sự kiện, nhân vật, chi tiết... theo khuynh hướng tư tưởng – thẩm
mỹ nhất định. Tất cả hợp thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt các chủ đề, làm nền
tảng cho tác phẩm. Đúng như các nhà nghiên cứu đã khẳng định: “Trong tác


phẩm tính tư tưởng không thể tách rời với tính nghệ thuật” [3, tr.242]. Điều
này làm nên thành công của những áng văn chương và điện ảnh nổi tiếng trên
thế giới và Việt Nam.
Như vậy, một khi đã xác định được nội dung tư tưởng, người nghệ sĩ
sẽ thổi những tư tưởng, tình cảm ấy vào từng chi tiết, từng nội dung cụ thể
của tác phẩm và làm nên giá trị nghệ thuật cho tác phẩm.
1.2.1.2. Đề tài, chủ đề
Đề tài là “Khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêu tả và
phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học” [7, tr.78]. Văn học đã trở thành
kho tàng bách khoa toàn thư về muôn mặt của cuộc sống xã hội. Từ những
hiện tượng của cuộc sống, người nghệ sĩ đã lĩnh hội và chọn lựa theo cảm
nhận của riêng mình. Đề tài mang dấu ấn rõ rệt của đời sống khách quan

nhưng nó cũng là sự ghi nhận chủ quan của người sáng tác. Mỗi nghệ sĩ với
thế mạnh và khả năng riêng biệt về một đề tài tiêu biểu, đã tạo nên phong
cách độc đáo trong phản ánh hiện thực. Nhà biên kịch Nga nổi tiếng
Gabrilôvich nhận xét: “Không một bộ phim nào, dù quy mô đến đâu, lại có
thể tồn tại bên ngoài số phận con người, ngoài những quan hệ phức tạp của
con người, thậm chí hết sức phức tạp” [10, tr.123]. Cùng chọn con người và
xã hội làm đề tài phản ánh hiện thực, văn học và điện ảnh có sự gần gũi,
tương đồng về đề tài.
Nhà văn Nguyễn Tuân nổi tiếng với khả năng sáng tạo, biến hóa tuyệt
vời với ngôn từ qua những tác phẩm như: Vang bóng một thời, Tùy bút Sông
Đà.... Cùng cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp đất nước và con người qua tác phẩm của
nhà văn Nguyễn Tuân, nữ đạo diễn Việt Linh chọn Chùa đàn trong Vang
bóng một thời để phóng tác và cho ra đời bộ phim truyện nghệ thuật Mê Thảo
– Thời vang bóng.


Văn học Việt Nam trước năm 1945, đề tài phản ánh hiện thực xã hội
đen tối, bất công đối với những con người cùng khổ được chú ý nhất, nhưng
mỗi tác giả có cách phát hiện và ghi nhận hiện thực theo chủ quan riêng của
mình. Phạm vi hiện thực cuộc sống trong đề tài có thể hẹp hay rộng phụ
thuộc nhiều vào cảm hững sáng tạo, sở trường và khả năng, trách nhiệm của
người nghệ sĩ trước cuộc sống. Ở tác phẩm của nhà văn Nam Cao cũng là cái
đói, cái nghèo đeo đẳng, hành hạ con người đến cùng cực như Lão Hạc, kiếp
người vật vờ bị chà đạp, bị hủy hoại cả nhân hình và nhân tính như Chí Phèo,
hay cuộc sống quẩn quanh không lối thoát của giới giáo chức trong Sống
mòn. Từ yêu mến đề tài trong tác phẩm của Nam Cao, biên kịch Đoàn Lê và
đạo diễn Phạm Văn Khoa đã chuyển thể thành phim Làng Vũ Đại ngày ấy
năm 1983.Việc lựa chọn đề tài thể hiện khá rõ khuynh hướng tư tưởng lập
trường của người nghệ sĩ, vì vậy đề tài trong tác phẩm có quan hệ mật thiết
với chủ đề và tư tưởng.

Chủ đề được hình thành và thể hiện trên cơ sở của đề tài, là yếu tố cấu
thành nội dung tư tưởng của tác phẩm nghệ thuật. Chủ đề của tác phẩm luôn
là những vấn đề nảy sinh từ đời sống xã hội, thông qua khả năng khái quát
của nhà văn. Đó là những vấn đề cơ bản, vấn đề trung tâm được tác giả nêu
lên, đặt ra qua nội dung cụ thể của tác phẩm văn học.
Chủ đề có vai trò quan trọng trong phát hiện, đặt vấn đề và giải quyết
vấn đề trong tác phẩm. Nhưng quan trọng hơn cả là sự tác động của tác phẩm
vào nhận thức tư tưởng của người thưởng thức. Cho nên, người nghệ sĩ sáng
tác trong quá trình xây dựng tác phẩm của mình thường tập trung “trí và lực”
để nêu bật vấn đề mình muốn đề cập qua các hệ thống hình tượng cảm xúc,
hình tượng nhân vật, hoặc qua những biến cố, sự kiện khác thường... Cũng có
khi thể hiện qua các chi tiết: tên tác phẩm, lời thoại của nhân vật hay lời bình
của tác giả.


Trong văn học và điện ảnh thế giới, rất nhiều tác phẩm nổi tiếng có
chủ đề thể hiện ngay ở tựa đề như: Chiến tranh và hòa bình của L. Tônxtôi,
Tội ác và trừng phạt của Đôstôievski, Số phận con người của Sôlôkhốp,
Những người khốn khổ của V.Huygô....
Điều này cũng thể hiện trong văn học và điện ảnh Việt Nam qua những
tểu thuyết và phim truyện như: Xa và gần, Thời xa vắng... Ý nghĩa tựa đề
của mỗi tác phẩm đã mang đến cho người xem những cảm nhận đầu tiên,
bao quát về những vấn đề mà tác phẩm đặt ra. Như vậy, khi chuyển thể tác
phẩm văn học sang điện ảnh, các tác giả điện ảnh thường chọn chủ đề gần
gũi với tác phẩm văn học gốc. Đó cũng là một lý do mà ngày càng nhiều
tác phẩm văn học có đời sống thứ hai trên màn ảnh.
1.2.1.3. Sự kiện, nhân vật
Thông qua các sự kiện, số phận và tnh cách của hình tượng nhân vật
được bộc lộ và phát triển. Hiện thực khách quan với những quy mô xã hội
khác nhau trong đó con người tham gia các hoạt động xoay quanh các sự

kiện xã hội. Đó có thể là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập của cuộc sống:
cái tốt và cái xấu, cái mới và cái cũ, sự sống và cái chết, tích cực và tiêu
cực.... Những xung đột xã hội là môi trường để tính cách nhân vật được
bộc lộ và tỏa sáng chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
Tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố miêu tả sự kiện sưu thuế nặng nề,
vô lý đè nặng lên đôi vai héo mòn của những người nông dân nghèo đói
những năm trước Cách mạng tháng 8 năm 1945. Không có tiền nộp sưu thuế
cho chồng và người em chồng đã chết, chị Dậu buộc lòng mang cái Tý và đàn
chó bán cho địa chủ Nghị Quế. Hình ảnh cái Tý bốc từng hạt cơm thừa của
đàn chó trên sân nhà địa chủ Nghị Quế, trong âm thanh, giọng nói chì chiết
của vợ chồng Nghị Quế trên phim khiến người xem uất nghẹn vì cảm thương.
Đạo diễn Phạm Văn Khoa cùng đồng nghiệp đã chọn lọc những chi tiết điển


hình, những đoạn văn giàu ý nghĩa nhất để tái hiện chân thực sự kiện đau
thương của dân tộc lên màn ảnh. Qua đó lột tả tnh cách độc ác, vô lương
tâm của tầng lớp thống trị mà vợ chồng địa chủ Nghị Quế là đại diện và tình
cảnh đáng thương khốn cùng của những người dân vô tội như gia đình chị
Dậu. Mỗi sự kiện được xác định bởi tnh lịch sử xã hội nhất định nên nó
tương ứng với mẫu tính cách nhân vật phù hợp, bởi một tnh cách là đại
diện tron mức độ nhất định của hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Tính cách chị Dậu
là đại diện cho những người phụ nữ, nông dân bần cùng, khốn khổ trước năm
1945.
Như vậy, qua những ví dụ trên cho ta thấy nội dung tư tưởng, đề tài,
chủ đề, sự kiện, nhân vật là những nội dung tương đồng giữa tác phẩm
văn học và phim truyện chuyển thể.
1.2.2. Văn học và điện ảnh mối quan hệ khác biệt
1.2.2.1. Sự khác biệt về đặc trưng ngôn
ngữ
Đặc trưng hình thái học ngôn ngữ là đặc trưng cơ bản nhất. Từ khác

biệt về đặc trưng ngôn ngữ đã tạo nên sự khác biệt của hai hình tượng
nghệ thuật, hai loại tác phẩm và hai loại hình nghệ thuật khác nhau là văn
học và điện ảnh. Đồng thời cũng tạo nên hai dạng nghệ sĩ có tài năng khác
nhau là nhà văn và đạo diễn cùng ekip làm phim. Đặc trưng ngôn ngữ của
văn học là loại hình nghệ thuật đơn với chất liệu duy nhất là ngôn từ. Ngôn
từ văn học gồm ngữ âm và ngữ nghĩa gắn liền với nhau để tạo nên ý nghĩa
nội dung của từ, câu, đoạn... Ngôn ngữ văn học có tnh “phi vật thể” nên
không bị hạn chế trong miêu tả cái vi mô và vĩ mô. Văn học có khả năng hấp
thụ vào tác phẩm mọi vấn đề của cuộc sống xã hội từ cổ đại đến hiện đại. Từ
những vấn đề lớn lao của triết học, đạo đức học, xã hội học đến những lĩnh


vực bao la rộng mở của khoa học, nghệ thuật... và những sinh hoạt đời
thường trong cuộc sống.
Điện ảnh là nghệ thuật tổng hợp vì sử dụng một số hình thức ngôn
ngữ
của các loại hình như văn học, nhiếp ảnh, hội họa, âm nhạc và diễn xuất
để


sản xuất phim. Ngôn ngữ điện ảnh tuy cũng có khả năng phản ánh giống văn
học nhưng bị hạn chế bởi tính ước lệ, nên không thể chuyển thể tất cả
những gì văn học miêu tả lên phim, mà phải chọn nhưng chi tiết phù hợp.
Màn ảnh dù là cỡ rộng, cũng chỉ có một khuôn khổ nhất định. Nó không thể
chứa đựng nổi cả một tiểu đoạn triển khai trên thực địa hoặc cả một tuyến
tên lửa dài hằng trăm cây số. Tập trung người, tập trung pháo để có cảnh
quay như trong đời sống thật là rất cần thiết vì màn ảnh tạo cho người xem
trong giây lát một cảm giác tương đương với cảm giác của người đang chứng
kiến trên thực địa. Tính tổng hợp của ngôn ngữ điện ảnh bao gồm nhiều bộ
môn và diễn ra trực tếp ngay trước mắt khán giả. Khi xem phim khán giả

được thưởng thức cùng một lúc nhiều loại hình nghệ thuật: văn học, kịch
nghệ, âm nhạc, hội họa, kiến trúc. Các bộ môn nghệ thuật khi đến với điện
ảnh phải kết hợp với nhau chặt chẽ, nhuần nhuyễn. Sự tổng hợp đó nhằm
tạo nên một hiệu quả, có ý nghĩa nhất định về tư tưởng cũng như về thẩm
mĩ của phim. Điều đó giúp ngôn ngữ điện ảnh rất gần với cuộc sống và có
tính đại chúng .
Từ khác biệt về ngôn ngữ đã dẫn đến sự khác biệt về hình tượng nghệ
thuật. Lấy ngôn từ làm chất liệu, hình tượng văn học tác động vào tư duy, gợi
lên liên tưởng và tưởng tượng trong tâm trí người đọc, khi tiếp xúc với tác
phẩm văn học người đọc không thể nhìn thấy, nghe thấy, trực tiếp bằng
thính giác, thị giác nhưng gì nhà văn miêu tả. Hình tượng văn học thiếu tnh
trực quan nhưng bù vào đó nó lại tác động vào thế giới tnh thần của con
người, kích thích sự liên tưởng, tưởng tượng... Khác với văn học, ngôn ngữ
điện ảnh sử dụng chất liệu nghe và nhìn như màu sắc, đường nét, diễn
viên,... để xây dựng nên hình tượng. Những chất liệu ấy là những vật thể hữu
hình có khả năng tác động trực tiếp đến thị giác và thính giác của người xem.
Hình tượng văn học khi chuyển sang điện ảnh có đem lại cảm xúc cho người


xem hay không phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố, nhưng yếu tố quyết định là
sự hóa thân


của diễn viên vào nhân vật. Người diễn viên góp phần quan trọng trong việc
khắc họa trong hình tượng nghệ thuật làm giàu cho tính cách nhân vật bằng
chính tâm hồn, khát vọng và cả con người họ.
1.2.2.2. Sự khác biệt về đặc trưng chủ thể sáng
tạo
Tác giả theo nghĩa chung “là người sản xuất các sản phẩm sáng tạo trí
tuệ”[1, tr.284]. Trong văn học nhà văn là tác giả sáng tạo ra tác phẩm nghệ

thuật ngôn từ như truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết.... Trong nghệ thuật
điện ảnh, tác giả sáng tạo ra bộ phim truyện điện ảnh là một tập thể tác giả
gồm có biên kịch, đạo diễn, quay phim, diễn viên... trong đó đạo diễn
là người tổng chỉ huy, chịu trách nhiệm chính về chất lượng bộ phim.
Nhưng khác hẳn với văn học, tập thể tác giả nghệ sĩ sáng tác điện ảnh chỉ có
thể sáng tạo khi có sự tham gia của nhà sản xuất và đội ngũ kĩ thuật trong
quá trình làm phim và thưởng thức phim.
Chủ thể sáng tạo một tác phẩm văn học dường như rất đơn giản đó
là nhà văn, trang giấy, cây bút, nhưng để có một tác phẩm văn học đích thực,
công việc sáng tạo của nhà văn cực kì gian khổ. Họ đã lao động miệt mài để
dệt nên những áng văn thơ giá trị, làm phong phú cho đời sống tinh thần
của con người. Vì vậy, thành công của những tác phẩm văn học nổi tiếng mà
các nhà văn để lại thật vô giá đúng như Maiacopski từng ca ngợi: “Những
chữ ấy làm cho rung động triệu trái tim trong triệu năm dài” [4, tr.148].
Trong sản xuất phim truyện điện ảnh tác phẩm hay của nhà văn, nhà
biên kịch chuyển thành kịch bản và đạo diễn từ kịch bản tạo nên những bộ
phim hay. Tất cả cùng phối hợp để thể hiểu câu chuyện văn học lên màn ảnh
qua từng cảnh, từng khuôn hình của phim truyện điện ảnh chuyển thể.
Trong quá trình chuyển thể từ tác phẩm văn học sang kịch bản,
nhà biên kịch chỉ viết ra những gì có thể hiện diện trên màn ảnh. Trên


×