Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

skkn một số giải pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo 3 4 tuổi thông qua hoạt dộng vui chơi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.3 KB, 15 trang )

Mẫu số 01

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Bình Xuyên
I. Tác giả sáng kiến: NGUYỄN THỊ MINH HẢI.
- Ngày tháng năm sinh:11/06/1985.

Giới tính: Nữ.

- Đơn vị công tác (hoặc hộ khẩu thường trú):Trường MN Tiên Hường.
- Chức danh: Giáo viên.
- Trình độ chuyên môn: Cao Đẳng sư phạm.
- Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến (ghi rõ đối với từng đồng
tác giả, nếu có): 100%.
II. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
- Họ tên: NGUYỄN THỊ MINH HẢI
- Đơn vị: Giáo viên Trường MN Tiên Hường.
III. Tên sáng kiến; lĩnh vực áp dụng; mô tả bản chất của sáng kiến; các
thông tin cần được bảo mật (nếu có):
1.Tên sáng kiến: " Một số giải pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ
mẫu giáo 3- 4 tuổi thông qua hoạt dộng vui chơi”.
2. Lĩnh vực áp dụng: Trẻ 3-4 tuổi tại lớp 3 tuổi B.Trường Mầm Non Tiên
Hường.
3. Mô tả sáng kiến:
Trên trang báo Sài Gòn Giải Phóng Online ra ngày 30/04/2018 với bài viết:
“Kinh tế Việt Nam phát triển ấn tượng”. Trong bài viết truyền thông nước ngoài
nhận định về kinh tế Việt Nam như sau:
Theo hãng tin Bloombeng( Mỹ), Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ từ 1
quốc gia chỉ xuất khẩu thô như café, giày dép nhưng đã trở thành một trung tâm sản


xuất thu hút những công ty lớn như SamSung Electronesco của Hàn Quốc.
Đặc biệt trên trang phân tích của viện Brookings( Mỹ) với tựa đề: “ Sự kỳ diệu
của ngành sản xuất Việt Nam” với nội dung bài học cho những nước đang phát


triển. Thương mại của Việt Nam đã tăng lên mức 190% GDP vào năm 2017 cao
hơn nhiều so với mức độ 70% của năm 2007.
Để đạt được những thành tựu và kết quả đó thì ngoài yếu tố khách quan như
nguồn nhân lực trẻ, giá rẻ, sự ổn định về chính trị, vị trí địa lý…thì phải kể đến
chính sách hợp lí của chính phủ Việt Nam về hội nhập kinh tế toàn cầu và trên con
đường hội nhập đó chúng ta cần một nguồn nhân lực có đủ tài năng, nhân cách và
phẩm chất. Vì vậy giáo dục có vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ đó
mà giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Trong mục tiêu của giáo dục mầm non thì kỹ năng giao tiếp là 1 trong những
mục tiêu hàng đầu để giáo dục trẻ. Vì kỹ năng giao tiếp là những kỹ năng mềm cực
kỳ quan trọng trong thế kỷ 21.Có kỹ năng giao tiếp tốt thể hiện cách ứng xử đối
đáp, sự tác động qua lại giữa người với người tạo ra các mối quan hệ như: bạn bè,
đồng nghiệp… trở nên gần gũi hơn thân thiện hơn.
Mà đối với trẻ mầm non vui chơi là hoạt động chủ đạo. Thông qua hoạt dộng
vui chơi giúp trẻ hình thành và phát triển cấu trúc tâm lý trong nhân cách trẻ. Mặt
khác hoạt động vui chơi gây ra những biến đổi về chất có ảnh hưởng quyết định
đến sự hình thành nhân cách của trẻ mẫu giáo và là tiền đề cho hoạt động học tập
cho lứa tuổi tiếp theo.
Người ta thường nói: “ Trẻ lên ba cả nhà học nói” thật không sai chút nào vì
ở độ tuổi 3- 4 tuổi trẻ luôn thích đặt ra câu hỏi, tìm tòi khám phá và bắt chước làm
người lớn thông qua hoạt động vui chơi. Và trong quá trình chơi của trẻ giáo viên là
người đóng vai trò quan trong để kích thích trẻ giao tiếp, cùng trẻ nhập cuộc chơi từ
đó uốn nắn kịp thời những kỹ năng giao tiếp của trẻ.
Bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp làm công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và
giáo dục trẻ. Qua nhiều năm giảng dạy tôi nhận thức được vị trí và tầm quan trọng

của môn học này. Tôi cũng luôn trăn trở suy nghĩ tìm ra giải pháp tối ưu nhất để trẻ
tiếp thu một cách có hiệu quả đáp ứng được yêu cầu của giáo dục hiện nay, vì vậy
tôi đã chọn đề tài: “ Giải pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo 3-4
tuổi thông qua hoạt dộng vui chơi” để làm đề tài nghiên cứu.
3.1. Về nội dung của sáng kiến.
Các nhà khoa học đã chứng minh: Khi trẻ sơ sinh ra đời não bộ đã có 100 tỷ lệ
thần kinh và 3 năm đầu đời của trẻ là giai đoạn rất quan trọng với sự phát triển của
não bộ vì thế trẻ được tiếp xúc càng nhiều với sự vật hiện tượng từ môi trường
xung quanh giúp cho hệ thần kinh của não bộ bắt đầu phát triển từ đây tâm sinh lý
của trẻ cũng ngày càng phong phú và diễn ra một cách mạnh mẽ. Để thể hiện được


nhu cầu của bản thân trẻ sẽ học và nắm được tiếng mẹ đẻ. Do vậy phát triển kỹ
năng giao tiếp cho trẻ là rất quan trọng nó sẽ ảnh hưởng đến tư duy và quá trình học
sau này. Mặt khác giao tiếp chính là phương diện về tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ.
Dạy trẻ kỹ năng giao tiếp là nhằm đáp ứng việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Đối với trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi dùng ngôn ngữ để giao tiếp là rất quan trọng, đặc
biệt khi cho trẻ tham gia vào hoạt động vui chơi, trẻ sẽ thể hiện được nhu cầu của
bản thân và luôn tìm tòi khám phá ra những điều mới lạ từ đó giúp trẻ tích lũy kinh
nghiệm sống, mạnh dạn, tự tin, lễ phép với mọi người và nhận ra những hành vi
đúng- sai.
Vì vậy là giáo viên đứng lớp 3-4 tuổi tôi luôn tạo ra sự tự tin, thoải mái giúp
trẻ “học mà chơi, chơi mà học”. Thường xuyên thảo luận, trò chuyện, gợi mở cho
trẻ tiếp cận với cuộc sống hàng ngày qua hoạt động vui chơi giúp trẻ giao tiếp một
cách mạnh mẽ và đạt kết quả cao.
Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Qua nhiều năm làm công tác chăm sóc - giáo dục trẻ tôi thấy: Kỹ năng giao
tiếp của trẻ phát triển chưa đồng đều, một số trẻ giao tiếp khá mạnh dạn tự tin
nhưng tỷ lệ chiếm khá ít, còn số đông trẻ nhút nhát, thiếu tự tin khi giao tiếp, nói
chưa đủ câu và dùng từ còn chưa chính xác.

Mặt khác kinh nghiệm sống của trẻ chưa có nhiều do sự bao bọc của gia đình
đối với trẻ quá lớn, trẻ thường không được giao lưu tiếp xúc với mọi người xung
quanh và không được trải nghiệm thực tế với cuộc sống hàng ngày.
Ngày nay với sự bùng nổ của công nghệ thông tin làm cho con người ngày
càng xa lánh nhau. Mọi vấn đề từ xã hội, gia đình, vui chơi giải trí..... đều nằm gọn
trong một chiếc Smart phone hay một chiếc ti vi, máy tính bảng... con người không
cần phải ra khỏi nhà cũng có thể mua hàng, cũng có thể mua đồ ăn, cũng có thể
nhìn thấy được mọi hoạt động của nhau trên các trang mạng xã hội như Fecebook,
Zalo....và trẻ em thì được thừa hưởng từ chính sự bùng nổ công nghệ thông tin đó:
“trẻ chẳng cần phải có bạn chơi mà chỉ cần có chiếc smart phone trên tay thì đó là
cả một thế giới” đó là vấn đề thực tế đang diễn ra và nó có tác hại lớn đối với trẻ
làm trẻ tự kỷ, xa lánh và không muốn tiếp xúc với mọi người.
Một khó khăn nữa đó là sự nhận thức của cha mẹ trẻ về việc phát triển kỹ
năng giao tiếp cho trẻ còn hạn chế nên không quan tâm chú ý đến sự hình thành về
mặt giao tiếp cho trẻ.


Từ những thực trạng trên tôi đã tiến hành khảo sát đánh giá đúng khả năng
của trẻ để có phương hướng phấn đấu đạt được kết quả cao trong giảng dạy nên
ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát trẻ.
Bảng khảo sát chất lượng trẻ đầu năm:
Sĩ số

Các chỉ tiêu đánh giá

Kết quả
Đạt

Không đạt


29 trẻ Lắng nghe và trả lời được câu hỏi của người 18/29=62%
đối thoại.

11/29=38%

Kể lại được những sự việc đơn giản đã diễn 16/29=55,2
ra của bản thân với người khác
%

13/29=44,8
%

Mạnh dạn tham gia vào các hoạt động, mạnh 16/29=55,2
dạn khi trả lời câu hỏi.
%

13/29=44,8
%

Biết chào hỏi và nói cảm ơn, xin lỗi khi được 19/29=65,5
nhắc nhở...
%

10/29=34,5
%

Qua phần khảo sát trên tôi thấy: Kỹ năng giao tiếp của trẻ còn kém vì vậy
bản thân tôi thấy cần phải tìm ra các giải pháp để giúp trẻ có kỹ năng giao tiếp tốt.
Vì thế tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp sau:
Giải pháp 1: Tìm hiểu thực tế và lập kế hoạch khảo sát trẻ.

Để nắm được khả năng giao tiếp của trẻ ở mức độ nào tôi đi vào thực tế đó
là: Quan sát- tìm hiểu tâm lí- trò chuyện cùng trẻ thông qua các hoạt động đặc biệt
là qua hoạt động vui chơi của trẻ ở các góc chơi. Qua đó tôi sẽ nắm được khả năng
phát âm, khả năng nghe- hiểu, cách sử dụng ngôn từ và mức độ trò chuyện của trẻ.
Từ đây tôi sẽ xây dựng kế hoạch khảo sát trẻ bằng cách: Xây dựng hệ thống
câu hỏi để trò chuyện cùng trẻ; Quan sát trẻ khi giao tiếp; Nhận xét và đánh giá
đúng khả năng nghe- hiểu; Kỹ năng sử dụng ngôn từ; Kỹ năng chia sẻ; Kỹ năng sử
dụng ngôn ngữ cơ thể; Kỹ năng trao đổi của trẻ.
Ví dụ: Khi tổ chức cho trẻ tham gia hoạt động chơi các góc tôi thấy:
- Ở góc học tập là cuộc trò chuyện giữa hai bé: Minh Đức và Khánh Ly
Minh Đức: Cho tớ mượn màu đỏ
Khánh Ly: Ừ ( kết hợp gật đầu)


Qua cách giao tiếp của 2 bé tôi thấy bé sử dụng ngôn từ và sử dụng ngôn ngữ
cơ thể.
- Góc nghệ thuật bé Phương Thảo đóng vai cô giáo và hướng dẫn các bạn
múa và các bé khác cũng thực hiện theo đúng hướng dẫn của bé Phương Thảo điều
này chứng tỏ các bé đã biết lắng nghe và hiểu lời nói của bạn.
Giáo viên cần đánh giá liên tục trong khi quan sát trẻ chơi để lắm được khả
năng giao tiếp của trẻ bằng hệ thống các câu hỏi:
+Trẻ đang thích thú, giận dữ, ghen tức hay sợ hãi?
+Trẻ có sử dụng ngôn ngữ một cách hiệu quả không?
+Các ý tưởng của cuộc chơi có phong phú không?
+Trẻ giải quyết vấn đề có tốt không?
+Trẻ thu nhận được những khái niệm nào khi chơi?
+ Trẻ có tìm ra những điều diễn tả mới không?( Cử chỉ, điệu bộ, lời nói)
+Những trẻ nhút nhát có tìm ra cách để hòa nhập vào cuộc chơi với các bạn
không?
+Những trẻ quá hiếu động có chia sẻ ý tưởng và hợp tác trong khi chơi

không?
Giải pháp 2: Xây dựng các góc chơi và cách tổ chức hoạt động chơi.
Theo chương trình giáo dục mầm non trẻ phát triển toàn diện qua 5 lĩnh vực
phát triển: Thể chất; Nhận thức; Ngôn ngữ; Tình cảm- xã hội; Thẩm mỹ gắn với 5
lĩnh vực đó là 10 chủ đề xuyên suốt năm học của trẻ. Mỗi một chủ đề lại cung cấp
những kiến thức và kỹ năng sống khác nhau và qua các góc chơi trẻ sẽ được củng
cố kiến thức tăng cường kinh nghiệm sống và vốn từ giao tiếp. Vì vậy giáo viên cần
phải biết trẻ muốn chơi gì? Khả năng chơi của trẻ như thế nào? Từ đây giáo viên sẽ
xây dựng các góc chơi phù hợp với từng chủ đề và cách tổ chức hoạt động các góc
chơi đáp ứng được nhu cầu chơi của trẻ
Với mỗi một chủ đề giáo viên sẽ trang trí các góc chơi phù hợp nhưng phải
đảm bảm tính thẩm mỹ để kích thích thị giác của trẻ, tạo cảm giác mới lạ và trẻ
nhìn vào là biết mình học chủ đề gì.Trẻ sẽ trao đổi, trò chuyện với nhau về chủ đề
đó điều này giúp trẻ khắc sâu kiến thức về chủ đề đó. Đồ chơi ở các góc cũng phải
phù hợp với chủ đề vì nó sẽ cung cấp cho trẻ nội dung chơi và cách chơi.
Ví dụ: Góc xây dựng- lắp ghép:


- Chủ đề gia đình:Đồ chơi có ngôi nhà ( Nhà cấp 4, nhà 2 tầng...), có vườn
rau, có cây ăn quả....những đồ chơi liên quan đến gia đình sẽ giúp trẻ có vật liệu để
xây - lắp ghép theo ý thích và qua đó cũng là đề tài cho trẻ trò chuyện về ngôi nhà
của trẻ đang xây.
-Với chủ đề giao thông: Đồ chơi sẽ có cột đèn giao thông, biển báo chỉ
đương, các loại xe tham gia giao thông....cách tổ chức cho trẻ xây dựng- lắp ghép
ở chủ đề giao thông cũng sẽ khác chủ đề gia đình. Điều này sẽ giúp cho kỹ năng
giao tiếp của trẻ sẽ phong phú và có nhiều kinh nghiệm chơi hơn.
Trong quá trình lựa chọn bố trí góc chơi cần có sự điều chỉnh phù hợp và hỗ
trợ kịp thời để đáp ứng nhu cầu, khả nawg của cá nhân trẻ, của các nhóm trẻ. Khi tổ
chức góc chơi giáo viên phải để trẻ được tự do trong việc: Lựa chọn trò chơi; Chơi
theo ý thích của mình; Tự nguyện và quyết định chọn bạn chơi và đảm bảm tính

giáo dục, phát triển cho trẻ. Phát triển về: Nội dung chơi, kỹ năng chơi, khả năng
thiêt lập mối quan hệ với bạn chơi, khả năng giải quyết các vấn đề khi chơi.
Các góc chơi được trang bị đầy đủ đồ chơi và trẻ đuộc tự lựa chọn góc chơi,
bạn chơi và chơi theo ý thích nhưng bên cạnh đó việc bố trí góc chơi cũng rất quan
trọng. Ví dụ như: Góc ồn ào như góc xây dựng- lắp ghép hay góc phân vai sẽ bố trí
xa góc thư viện, góc học tập, các góc sẽ có khoảng cách nhất định ( có thể được
ngăn bằng các kệ đồ chơi)
+ Góc xây dựng- lắp ghép: Là một góc động, trẻ sẽ thường xuyên trao đổi và
di chuyển vì thế sẽ bố trí xa các góc tĩnh, trong quá trình trẻ chơi giáo viên sẽ nhập
vai cùng trẻ, trong giao tiếp sẽ xưng hô bác với tôi để trẻ cảm thấy tự tin mạnh dạn
trình bày ý tưởng và giáo viên có thể gợi ý cách chơi cho trẻ bằng các câu hỏi: Các
bác đang làm gì vậy? Các bác xây gì? Theo tôi các bác bố trí khu vui chơi chỗ này
sẽ đẹp, các bác thấy có được không?.....Tuy nhiên cô phải luôn tôn trọng ý tưởng
chơi của trẻ, không áp đặt ý tưởng và cách chơi của trẻ.
+Góc phân vai:Cũng là một góc chơi động, trẻ sẽ được tự bàn bạc thỏa thuận
về cách phân vai, số lượng bạn chơi. Điều này sẽ giúp trẻ biết được vai chơi của
mình của bạn và nhiệm vụ của vai chơi điều này sẽ giúp trẻ chủ động trong giao
tiếp, trong cách xưng hô trong quan hệ tình cảm- xã hội của trẻ.
Ví dụ: Trẻ đóng vai bác sỹ luôn ân cần dịu dàng,động viên khi bệnh nhân tới
khám bị ốm bị đau. Hay trẻ đóng vai là người bán hàng thì luôn tươi cười niềm nở,
biết chào mời mua hàng biết nói cảm ơn khi khách hàng trả tiền....
+ Góc học tập: Là một góc tĩnh được bố trí xa các góc động . Ở góc này phải
có đầy đủ ánh, tranh truyện, đồ dùng học tập phong phú và có tính thẩm mỹ. Khi


chơi trẻ sẽ có ý thức trong việc trao đổi nhẹ nhàng, nói nhỏ nhẹ.Giáo viên giúp trẻ
kỹ năng giao tiếp bằng cách khéo léo đưa nhân vật thứ 3 để trò chuyện cùng trẻ.
Ví dụ: Bạn ơi, Thỏ Bông chưa biết cách lật sách đâu, bạn hãy chỉ cho Thỏ
Bông với nhé!
+ Góc nghệ thuật: Trẻ sẽ được cảm nhận cái hay cái đẹp của cuộc sống xung

quanh qua các sản phẩm tạo hình, cũng như được rèn luyện kỹ năng nghe – hiêủ,
mạnh dạn tự tin qua các bài hát. Cần phải chuẩn bị đầy đủ đồ dùng cho trẻ
Ví dụ: Cho trẻ chơi hoạt động âm nhạc thì phải chuẩn bị đầy đủ dụng cụ âm
nhạc cho trẻ như: Nơ tay, mũ âm nhạc, phách, trống...... các dụng cụ đẹp hấp dẫn sẽ
kích thích giúp trẻ hưng phấn tham gia vào góc chơi.
+ Góc thiên nhiên: Góc này sẽ bố trí ở khu vực ngoài trời với đầy đủ đồ dùng
để trẻ được trải nghiệm và khám phá ( Rổ, rá, chai nhựa, tạo ra các mô đất, hố cát,
xô, xẻng ...) Khi trẻ khám phá cho trẻ trực tiếp thực hiện và gợi ý cho trẻ dự đoán
kết quả giúp trẻ phát triển khả năng tư duy trìu tượng. Thường xuyên đặt câu hỏi để
trẻ diễn tả đuộc những việc mình đang làm và chuẩn bị làm.
Qua cách xây dựng bố trí góc chơi và cách tổ chức chơi cho trẻ một cách
khoa học cô và trò lớp 3 tuổi B đã được vui chơi, giao tiếp thoải mái với nhau, tạo
sự tự tin, thoải mái trong giao tiếp: Trẻ biết chủ động dùng ngôn ngữ đểgiải quyết
vấn đề một cách tình cảm và tích cực. Giáo viên cũng lắm được mứa độ giao tiếp
của trẻ để có sự điều chỉnh kịp thời và phù hợp.
Giải pháp 3: Vai trò của giáo viên trong giao tiếp ứng xử và cách hướng
dẫn trẻ giao tiếp
Trong quá trình trẻ chơi giáo viên đóng một vai trò rất quan trọng là người
hướng dẫn trẻ chơi và nhập vai chơi cùng trẻ vì vậy cô phải biết cách giao tiếp với
trẻ cũng như cách hướng dẫn trẻ giao tiếp trong quá trình trẻ chơi.
- Trước hết khi giao tiếp với trẻ cô nên nhẹ nhàng, sử dụng cử chỉ điệu bộ
thích hợp giúp trẻ rèn luyện thêm về ngôn ngữ cơ thể. Tránh quát to,la mắng khi trẻ
mắc lỗi điều này sẽ ảnh hưởng đến tâm lý mà những lúc như vậy cô cần nói với
giọng nghiêm chỉnh tỏ sự không bằng lòng giúp trẻ nhận ra cái sai và định hướng
cho trẻ để trẻ tự sửa sai cũng như nói nên điều mong muốn của cô với trẻ như: “
Con làm như vậy sẽ gây ra hậu quả gì?; “ Con sẽ thay đổi như thế nào?”....
- Cô nhập vai chơi cùng trẻ giúp trẻ biết cách xưng hô phù hợp với đối tượng
giao tiếp, biết lắng nghe người khác nói. Giáo viên trò chuyện với trẻ , chỉnh sửa



cách phát âm cho trẻ, giúp trẻ biết thay đổi lời nói phù hợp với nội dung avf hoàn
cảnh giao tiếp.
- Giáo viên để trẻ tự do nói chuyện với nhau và cũng tạo ra các tình huống
mang tính bất ngờ để trẻ giải quyết tình huống nếu có xảy ra mâu thuẫn hãy để trẻ
tự giải quyết mâu thuẫn cô không nên can thiệp ngay. Nếu trẻ cần sự hỗ trợ của cô
trẻ sẽ tự tin đến nhờ cô, đây chính là một sự giao tiếp chủ động và văn minh. Khi
giáo viên giải quyết mẫu thuẫn cũng nên kịp thời chỉnh sửa cũng như giáo dục trẻ
bàng các câu hỏi: Các con làm như vậy có đúng không? Bạn bè chơi với nhau phải
như thế nào?...
- Giáo viên luôn quan tâm động viên khuyến khích những trẻ những trẻ nhút
nhát, ít nói, hay chơi một mình thiếu tự tin trong giao tiếp, thì cô cần trò chuyện với
trẻ, giúp trẻ hòa nhập vào các góc chơi để nhập vai chơi, giao lưu cùng các bạn
trong lớp.
Giải pháp 4:Làm tốt công tác phối hợp với nhà trường, phụ huynh và
cộng đồng xã hội.
Phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ không chỉ thực hiện trên lớp mà cần có
sự phối hợp với các lớp khác trong trường, phụ huynh và cộng đồng.
Tham mưu và phối hợp với nhà trường tổ chức giao lưu các hoạt động giữa các
lớp ở các khối với nhau như: Cùng giao lưu trò chơi vận động, chơi ở giờ hoạt động
ngoài trời, cùng chơi các trò chơi dân gian,các chương trình giao lưu văn nghệ. Nhà
trường cùng giáo viên các lớp tạo môi trường vui chơi ngoài trời với không gian
thoáng mát, an toàn và đa dạng về đồ chơi và trò chơi. Điều này sẽ giúp trẻ mạnh
dạn tự tin trong giao tiếp, thể hiện nhu cầu và tích lũy kinh nghiệm sống.
Phối hợp với phụ huynh rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho trẻ. Cô đưa những
thông tin, tầm quan trọng và các cách giúp trẻ giao tiếp tốt dán ở các bản tuyên
truyền hay trong các buổi họp phụ huynh cô nêu ra cho phụ huynh cùng thực hiện
và cùng nhau thảo luận cách giúp trẻ rèn luyện kỹ năng giao tiếp. Trao đổi với phụ
huynh về khả năng giao tiếp của trẻ vào giờ đón- trả trẻ hàng ngày. Vận động phụ
huynh cung cấp nguyên vật liệu mở để làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ trẻ học tập,
vui chơi.

Sau thời gian kết hợp với nhà trường và phụ huynh đã tạo được môi trường vui
chơi học tập bổ ích cho trẻ. Lớp học đã có thêm nhiều đồ chơi được làm từ nguyên
vật liệu mở, phụ huynh đã quan tâm tới việc giao tiếp với trẻ khi ở nhà và cung cấp
kịp thời những tâm tư nguyện vọng và khả năng của trẻ cho giao viên và từ đó cô
giáo có phương pháp rèn luyện thích hợp hơn với từng cá nhân trẻ.


Giải pháp 5:Giáo viên tự học và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn.
Bản thân tôi luôn có ý thực tự luyện tập để nâng cao kỹ năng giao tiếp của mình
như: Đọc sách, báo để tìm hiểu về tâm sinh lý trẻ mầm non để có kế hoạch thích
hợp rèn cho trẻ, xem tin tức để có thông tin, học hỏi từ đồng nghiệp những điều hay
có những nội dung trò chuyện hấp dẫn, cần thiết và phù hợp với trẻ. Tìm trên mạng
và tự suy nghĩ sáng tạo ra các đồ dùng, đồ chơi các góc mới lạ, đảm bảo an toàn,
phù hợp với chủ đề, đa dạng phong phú có tính thẩm mỹ
Đi dự giờ thăm lớp học hỏi đồng nghiệp cách tổ chức chơi góc cho trẻ.
Tôi đã hiểu hơn về khả năng giao tiếp của trẻ và đã dễ dàng trò chuyện cùng trẻ,
khi chơi trẻ trò chuyện với tôi một cách thoải mái, tự nhiên và sẵn sàng chia sẻ
những tâm tư nguyện vọng những hiểu biết của trẻ cho tôi.
3.2 Về khả năng áp dụng của sáng kiến: Sáng kiến có khả năng áp dụng
rộng rãi cho trẻ 3-4 tuổi trong các trường mầm non và đã áp dụng tại trường mầm
non Tiên Hường năm học 2018- 2019.
4. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải
pháp trong đơn theo ý kiến của tác giả với các nội dung sau:
Qua thực tiễn nghiên cứu đề tài “ Một số giải pháp phát triển kỹ năng giao
tiếp cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi thông qua hoạt dộng vui chơi ”. Sau gần một thời
gian áp dụng một số biện pháp trên để dạy trẻ tôi thấy trẻ có kỹ năng giao tiếp rất
tiến bộ, mạnh dạn tự tin trong mọi hoạt động, biết hoà đồng cùng các bạn trong lớp,
hồn nhiên khi giao tiếp, vốn từ phát triển rộng rãi phong phú hơn. Hơn nữa trẻ
ngoan, lễ phép với mọi người, đoàn kết giúp đỡ bạn bè, tự tin thích thú khi tham gia
hoạt động và giao tiếp với mọi người xung quanh

Sau khi tôi áp dụng một số giải pháp mới thay đổi hình thức dạy cho trẻ ở
lớp tôi phụ trách tôi thấy trẻ hứng thú tham gia, tích cực vào các giờ học, đặc biệt là
kỹ năng giao tiếp của trẻ đã thành thạo và tự tin rất nhiều.

Kết quả khảo sát trẻ trước khi áp dụng sáng kiến (9/2018)


Sĩ số

Các chỉ tiêu đánh giá

Kết quả
Đạt

Không đạt

29 trẻ Lắng nghe và trả lười được câu hỏi của 18/29=62%
người đối thoại.

11/29=38%

Kể lại được những sự việc đơn giản đã diễn 16/29=55,2
ra của bản thân với người khác
%

13/29=44,8
%

Mạnh dạn tham gia vào các hoạt động, 16/29=55,2
mạnh dạn khi trả lời câu hỏi.

%

13/29=44,8
%

Biết chào hỏi và nói cảm ơn, xin lỗi khi được 19/29=65,5
nhắc nhở...
%

10/29=34,5
%

Kết quả khảo sát trẻ sau khi áp dụng sáng kiến (01/2018)
Sĩ số

Các chỉ tiêu đánh giá

Kết quả
Đạt

29 trẻ Lắng nghe và trả lời được câu hỏi của người 27/29=93,1
đối thoại.
%

Không đạt
2/29=6,9%

Kể lại được những sự việc đơn giản đã diễn 26/29=89,6
ra của bản thân với người khác
%


3/29=10,4%

Mạnh dạn tham gia vào các hoạt động, 27/29=93,1
mạnh dạn khi trả lời câu hỏi.
%

2/29=6,9%

Biết chào hỏi và nói cảm ơn, xin lỗi khi được 27/29=93,1
nhắc nhở...
%

2/29=6,9%

BẢNG SO SÁNH KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI


S
T
T

Nội dung

Khảo sát trước Khảo sát sau
So sánh
khi thực hiện
khi thực hiện
Đạt


Không
đạt

Đạt

38%

93,1% 6,9%

31,1%

2 Kể lại được những sự việc 55,2% 44,8%
2 đơn giản đã diễn ra của bản
thân với người khác

89,6% 10,4%

33,6%

3 Mạnh dạn tham gia vào các 55,2% 44,8%
3 hoạt động, mạnh dạn khi trả
lời câu hỏi.

93,1% 6,9%

37,1%

4 Biết chào hỏi và nói cảm ơn, 65,5% 34,5%
4 xin lỗi khi được nhắc nhở...


93,1% 6,9%

27,6%

1 Lắng nghe và trả lười được 62%
1 câu hỏi của người đối thoại.

Không
đạt

Tỉ lệ đạt
Tăng

Áp dụng biện pháp này tôi nhận thấy trẻ không chỉ tiến bộ về mặt kỹ năng
giao tiếp mà còn phát triển cả kỹ năng ngôn ngữ, tình cảm xã hội cũng như tư duy,
quan hệ tình cảm xã hội, khả năng nhận thức và kỹ năng sống. Điều này được thể
hiện thông qua bảng đánh giá chất lượng giáo dục trẻ của lớp tôi qua 5 lĩnh vực
phát triển.
Việc phát triển ngôn ngữ cũng như kỹ năng giao tiếp cho trẻ phải được bắt đầu
từ rất sớm, ngay từ khi trẻ mới ra đời. Cho nên giáo viên cũng như phụ huynh cần
phải đề ra nhiệm vụ, nội dung, phương pháp phát triển ngôn ngữ, rèn kỹ năng giao
tiếp cho trẻ phải đúng lúc và phù hợp với lứa tuổi.
* Đối với giáo viên: Qua việc thực hiện đề tài này, kết quả trên trẻ cho thấy
hiệu quả của việc thay đổi, vận dụng một số hình thức giúp trẻ phát triển kỹ năng
giao tiếp qua hoạt động vui chơi là rất cần thiết và không thể thiếu trong quá trình
tổ chức hoạt động của cô và trẻ. Tôi thấy việc thực hiện đề tài này không chỉ phù
hợp với lớp tôi mà còn có thể triển khai ở các lớp nhà trẻ khác khác nói riêng cũng
như các lứa tuổi mẫu giáo nói chung và có thể tiếp tục thực hiện trong những năm
sau. Việc nghiên cứu đề tài này đã giúp tôi dễ dàng trong việc thực hiện các yêu
cầu, kỹ năng cần đạt phù hợp với trẻ 3-4 tuổi, tạo cho trẻ niềm vui, sự hứng thú khi

tham gia các hoạt động cũng như tạo sự gần gũi, yêu thương giữa cô và trẻ.


* Số tiền làm lợi:
Khi sử dụng các biện pháp đã giúp tôi tiết kiệm được rất nhiều thời gian và
công sức. Bởi như chúng ta đã biết hiện nay công nghệ thông tin đã bùng nổ chính
vì vây mà tôi thường xuyên lên mạng sưu tầm những đoạn phim ngắn hay hình ảnh
rất sinh động về làm tài liệu hay thông qua các phương tiện hiện đại như máy tính,
máy chiếu tôi đã tạo nên các bài giảng powerpoint rất hấp dẫn trẻ và đạt hiệu quả
rất cao khi dạy trẻ.
Ngoài ra khi áp dụng biện pháp này giúp tôi tiết kiệm được rất nhiều về tiền
bạc, kinh phí đầu tư vì tôi đã sưu tầm được rất nhiều đồ dùng, đồ chơi, tận dụng
được những phế liệu bỏ của địa phương để làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ và thông
qua công tác tuyên truyên truyền với các bậc phụ huynh, các bậc phụ huynh đã ủng
hộ rất nhiều các nguyên vật liệu để phục vụ tiết dạy.
5. Các thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không.
IV. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
*Điều kiện về cơ sở vật chất:
- Các trang thiết bị cần thiết: Máy tính, máy chiếu.
- Các đồ dùng, đồ chơi sẵn có và tự tạo...
- Lớp học đầy đủ trang thiết bị cần cho trẻ: Tranh ảnh, rối, sân khấu, dụng cụ
âm nhạc, đồ chơi các góc...
*Điều kiện về giáo viên:
- Giáo viên mầm non, yêu nghề, nhiệt tình, ham học hỏi, sáng tạo.
* Điều kiện phối hợp với phụ huynh:
Nhiệt tình ủng hộ các phong trào của nhà trường, của lớp, đặc biệt là tuyên
truyền phối hợp với giáo viên trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ nhằm nâng cao
kỹ năng nhận biết tập nói cho trẻ.
*Điều kiện về trẻ:
- Trẻ ngoan ngoãn, lễ phép, đi học đều, có kỹ năng giáo tiếp tốt với cô giáo,

ông bà, cha mẹ và những người xung quanh. Đặc biệt thân thiện với bạn bè.
V. Về khả năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ quan, tổ
chức nào hoặc những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):
Sáng kiến có khả năng áp dụng rộng rãi cho trẻ nhà trẻ 3-4 tuổi tại các trường
mầm non.


Tôi làm đơn nay trân trọng đề nghị Hội đồng sáng kiến xem xét và công nhận
sáng kiến. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự
thật, không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hoàn toàn chịu trách
nhiệm về thông tin đã nêu trong đơn.
Hương Canh, ngày 28 tháng 01 năm 2018
NGƯỜI VIẾT ĐƠN
Nguyễn Thị Minh Hải

PHÒNG GD&ĐT BÌNH XUYÊN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TRƯỜNG MN TIÊN HƯỜNG


Số:

/NXSK-MNTH

Hương Canh , ngày

tháng

năm 2019


BẢN NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
VÀ ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Bình Xuyên
Phòng giáo dục và đào tạo huyện Bình Xuyên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Tiên Hường nhận được đơn đề nghị công
nhận sáng kiến của Bà: Nguyễn Thị Minh Hải
- Ngày tháng năm sinh: 11/06/1985; Giới tính: Nữ
- Đơn vị công tác: Trường Mầm Non Tiên Hường.
- Chức danh: Giáo viên.
- Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm mầm non.
- Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến : 100%
- Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Minh Hải.
- Tên sáng kiến: " Một số giải pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu
giáo 3- 4 tuổi thông qua hoạt dộng vui chơi”.
- Lĩnh vực áp dụng: Trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi tại lớp 3 tuổi B.Trường Mầm
Non Tiên Hường.
Sau khi nghiên cứu đơn đề nghị công nhận sáng kiến.
- Tôi tên là: Nguyễn Thị Xuân
- Chức vụ: Hiệu trưởng trường mầm non Tiên Hường
Thay mặt trường mầm non Tiên Hường nhận xét, đánh giá như sau:
1. Đối tượng được công nhận sáng kiến:
- Giải pháp chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non.
+ Tìm hiểủ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.
+ Phương pháp lấy trẻ làm trung tâm.
+ Dạy trẻ qua các hoạt động trên lớp
+ Ứng dụng công nghệ thông tin trong tiết dạy


+ Phối kết hợp giữa giáo viên- gia đình và nhà trường
2. Nhận xét, đánh giá về nội dung sáng kiến:

a) Đảm bảo tính mới, tính sáng tạo:
- Không trùng với nội dung của giải pháp trong đơn đăng ký sáng kiến nộp
trước;
- Chưa bị bộc lộ công khai trong các văn bản, sách báo, tài liệu kỹ thuật đến
mức căn cứ vào đó có thể thực hiện ngay được;
- Không trùng với giải pháp của người khác đã được áp dụng hoặc áp dụng
thử, hoặc đưa vào kế hoạch áp dụng, phổ biến hoặc chuẩn bị các điều kiện để áp
dụng, phổ biến;
- Chưa được quy định thành tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm bắt buộc phải
thực hiện.
b) Giải pháp có khả năng mang lại lợi ích thiết thực:
- Mang lại hiệu quả kinh tế: Thiết thực, hiệu quả, không tốn tiền.
- Mang lại lợi ích xã hội: Phát huy năng khiếu của trẻ, nâng cao kỹ năng giao
tiếp cho trẻ
c) Về khả năng áp dụng của sáng kiến : Sáng kiến có khả năng áp dụng rộng
rãi cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi tại các trường mầm non.
3. Kiến nghị đề xuất:
- Công nhận sáng kiến sáng kiến đảm bảo có hiệu quả tốt.
- Trường Mầm non Tiên Hường. Đề nghị Hội đồng sáng kiến xét công nhận
sáng kiến" Một số giải pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo 3- 4
tuổi thông qua hoạt dộng vui chơi”.
Xin trân trọng cảm ơn.
HIỆU TRƯỞNG
(Ký ghi rõ họ và tên)

Nguyễn Thị Xuân




×