ĐAI HOC QUÔC GIA THANH PHÔ HÔ CHI MINH
̣
̣
́
̀
́ ̀
́
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT
NHÓM 6
HỢP TÁC GIỮA
CÁC CÔNG TY FINTECH VÀ CÁC
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
MÔN: NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019
ii
ĐAI HOC QUÔC GIA THANH PHÔ HÔ CHI MINH
̣
̣
́
̀
́ ̀
́
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT
NHÓM 6:
Họ và tên
Mã số HV
Mail
Đơn vị công tác
Lê Tiêu Ngọc Liên
C18604009 letieungoclien@
2
Vũ Thị Thanh
gmail.com
GDNK
C18604037 tuyenvtt18604@ Cục thuế
3
Tuyền
Nguyễn Anh Vũ
sdh.uel.edu.vn
TP.HCM
C18604041 vuna18604@sdh Thanh tra
1
.uel.edu.vn
Công ty TNHH
TP.HCM
HỢP TÁC GIỮA
CÁC CÔNG TY FINTECH VÀ CÁC
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
Chuyên nganh:
̀ TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÔN: NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
iii
TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019
iv
MỤC LỤC
MỤC LỤC V
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT..............................................................................VI
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU.............................................................VII
TÓM TẮT: .............................................................................................................................1
1. GIỚI THIỆU........................................................................................................................1
2. TỔNG QUAN VỀ FINTECH.....................................................................................................2
3. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY FINTECH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM.....5
4. HỢP TÁC GIỮA CÁC CÔNG TY FINTECH VÀ CÁC NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM.........................5
4.1 LỢI THẾ VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM:.............................................5
4.2 LỢI THẾ VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC CÔNG TY FINTECH TẠI VIỆT NAM.....................................6
5. MỘT SỐ HỢP TÁC GIỮA FINTECH VÀ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐIỂN HÌNH TẠI VIỆT NAM
..............................................................................................................................................9
6. CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRƯỚC SỰ PHÁT TRIỂN VÀ HỢP TÁC GIỮA CÁC CÔNG TY FINTECH VÀ CÁC
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM. .................................................................................................11
6.1 Các vấn đề đặt ra cho các ngân hàng....................................................................11
6.2 Các vấn đề đặt ra cho ngân hàng nhà nước.........................................................11
7. KẾT LUẬN .......................................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................1
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NH
NHNN
NHTM
TCNH
KH
Ngân hàng
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng thương mại
Tài chính ngân hàng
Khách hàng
vi
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU
HÌNH 1: 67 CÔNG TY FINTECH HOẠT ĐỘNG TẠI VIỆT NAM, THỐNG KÊ
BỞI EY
3
vii
Trang 1/12
Tóm tắt:
Sự ra đời và phát triển của các công ty fintech đã làm thay đổi kênh phân
phối và các sản phẩm dịch vụ truyền thống của ngành TCNH. Xu thế phát triển
mạnh của các kênh giao dịch trực tuyến như: internet banking, mobile banking,
mạng xã hội, ví điện tử … . Sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn (Desk
Research), từ quan sát thực trạng hoạt động của các NHTM hiện nay và sự mở
rộng phát triển của các công ty fintech, có thể thấy được tại Việt Nam tuy các
NHTM đã và đang nghiên cứu phát triển các thiết bị tự phục vụ dựa trên công
nghệ tự động hóa, kết nối đa chiều nhưng việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng
vẫn có nhiều mặt hạn chế và trì trệ trong khi các công ty fintech đã áp dụng
thành công nhiều công nghệ đột phá nhưng lại vẫn chưa thể khai thác được hết
trong thị trường TCNH do thói quen của người Việt Nam, liên quan đến tài chính
họ thường chỉ nghĩ đến NH, làm thủ tục tại NH, tạo sự yên tâm hoặc chưa quan
tâm đến công nghệ, mặc dù sản phẩm công nghệ tài chính rất thuận tiện, nhanh
chóng nhưng KH vẫn còn e ngại. Vì vậy, để tạo bước đột phá trong ngành tài
chính, thay đổi quan niệm về cách thức hoạt động tài chính của khách hàng, thu
hút nhiều khách hàng tiến tới thực hiện ngàng tài chính hiện đại thì việc hợp tác
giữa các công ty fintech và các NHTM sẽ là một xu hướng để phát triển. Đây
không chỉ là một trong những thách thức lớn không chỉ đối với các NHTM mà còn
là một thách thức lớn đặc ra cho NHNN khi thực trạng hiện nay tại Việt Nam các
công ty fintech và các NH đang phát triển mạnh mẽ về công nghệ thì vẫn chưa có
một khung pháp lí nào trong lĩnh vực này.
Từ Khóa: fintech, tài chính ngân hàng, hợp tác, Việt Nam.
1. Giới thiệu
Cuộc cách mạng công nghệ lần VI đã mở ra xu hướng mới trong việc tự
động hóa, là một cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra với tốc độ nhanh và có tác
động sâu sắc trên toàn thế giới. Cuộc cách mạng diễn ra trên 3 lĩnh vực chính:
Trang 2/12
công nghệ sinh học, kĩ thuật số và vật lí. Đặc biệt, là ở vĩnh vực kĩ thuật số với
sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI), vận vật kết nối (loT) và dữ liệu lớn (Big
Data). Cuộc cách mạng đã tạo ra một diện mạo mới cho thế giới và tác động đến
toàn cầu đặc biệt đã tác động đến mô hình tổ chức và quản trị ngành TCNH.
Trong những năm gần đây thì cụm từ fintech không còn xa lạ gì đối với người
dân trên toàn thế giới. Đặc biệt, tại Việt Nam fintech đã và đang phát triển một
cách mạng mẽ. Việc áp dụng công nghệ vào lĩnh vực TCNH đã không còn là một
việc xa lạ với các NHTM. Khi cơ sở hạ tầng và các phát triển về điện tử viễn
thông đang ngày càng tiến bộ vượt bậc thì việc tiếp cận là vô cùng dễ dàng với
KH. Các NHTM đang nghiên cứu triển khai để ứng dụng vào thực tế và việc các
NHTM bắt tay với các công ty fintech thời gian gần đây đang dần tăng lên. Vậy
câu hỏi đặt ra fintech là gì? Fintech ảnh hưởng như thế nào đối với ngành
TCNH? Cũng như các vấn đề đặt ra cho NHTM và NHNN trong thời kì hội nhập
và phát triển fintech.
2. Tổng quan về fintech
Fintech là viết tắt của từ Financial Technology công nghệ tài chính, hiện nay
vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất nào về fintech. Tuy nhiên, vào năm 2018
theo Ủy ban Basel về giám sát NH (BCBS) thì fintech là “các sáng tạo tài chính
dựa trên nền tảng công nghệ để tạo ra các mô hình kinh doanh, ứng dụng, quy
trình, sản phẩm mới có tác động cụ thể đến các thị trường và định chế tài chính,
cũng như trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính”. [1]
Hiện nay, trên toàn thế giới đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến fintech, hầu
hết tất cả các nghiên cứu về fintech đều nhận định rằng fintech đã có tác động
mạnh mẽ đến các hoạt động TCNH. Trên toàn thế giới đã có rất nhiều đầu tư
vào fintech, tại Việt Nam tuy chỉ mới xuất hiện những năm gần đây nhưng tính
đến hết năm 2017 thì thị trường fintech của Việt Nam đã đạt được 4,4 tỉ USD và
hiện có 67 công ty hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau nhưng phần lớn tập
trung vào mảng thanh toán. Theo ông Nghiêm Thanh Sơn – Phó Trưởng ban chỉ
đạo fintech NHNN cho biết: "phần lớn các công ty fintech của Việt Nam hoạt
Trang 3/12
động trong lĩnh vực thanh toán, và đã có 26 doanh nghiệp được Ngân hàng nhà
nước cấp phép cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán. Hiện đã có 78 ngân hàng
triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet và 41 ngân hàng triển khai dịch vụ thanh
toán qua điện thoại di động"[2]
Hình 1: 67 công ty Fintech hoạt động tại Việt Nam, thống kê bởi EY
Theo Brian Boldt (2017) thì “Các công ty fintech là các doanh nghiệp sử dụng
công nghệ mới để tạo ra các dịch vụ tài chính mới và tốt hơn cho cả người tiêu
dùng và doanh nghiệp. Nó bao gồm những công ty thuộc các loại hình có thể hoạt
động trong quản lý tài chính, bảo hiểm, thanh toán, quản lý tài sản ...” [3]
Các công ty fintech được chia thành 2 nhóm:
Nhóm thứ nhất là các công ty cung cấp các sản phẩm tài chính mới cho
người dùng, bao gồm tất cả các các sản phẩm fintech tương ứng với các mảng
hoạt động hiện tại của ngành tài chính truyền thống gồm thanh toán; huy động
vốn; cho vay; đầu tư và quản lý tài sản; bảo hiểm được gọi là nhóm kinh doanh.
Trong thanh toán, fintech cung cấp các phương thức thanh toán hiện đại, giúp
cho việc thanh toán trở nên tiện lợi, nhanh chóng và dễ dàng ở mọi nơi có
Internet trên các thiết bị được kết nối với internet bằng phần mềm chuyên dụng,
như thanh toán di động, ví điện tử, chuyển tiền.
Trong huy động vốn, fintech tạo ra sản phẩm gọi vốn trực tuyến từ cộng
đồng cho phép người có dự án hay ý tưởng sản phẩm nhưng lại không có vốn để
thực hiện, có thể huy động vốn từ xã hội. Hiện nay trên thị trường có các hình
Trang 4/12
thức gọi vốn như: Gọi vốn theo hình thức ủng hộ, theo hình thức có đãi ngộ, theo
hình thức góp vốn, theo hình thức cho vay, theo hình thức phát hành tiền ảo.
Trong cho vay, fintech cung cấp sản phẩm cho vay ngang hàng (peertopeer
lending) dựa nền tảng trực tuyến để kết nối người đi vay và người cho vay,
nhằm giảm chi phí nhiều nhất cho người đi vay và tăng lợi cho người cho vay do
giảm bớt khâu trung gian.
Trong bảo hiểm, fintech cung cấp mô hình người môi giới và mô hình công ty
bảo hiểm giúp thúc đẩy khả năng tìm kiếm các loại hình bảo hiểm phù hợp và
mang lại những giải pháp tốt hơn cho KH thông qua việc sử dụng công nghệ.
Trong đầu tư và quản lý tài sản, fintech cung cấp các giải pháp tư vấn, lựa
chọn hình thức và quản lý các khoản đầu tư dựa trên công nghệ thông qua mạng
giao dịch xã hội và tư vấn tự động.
Nhóm thứ hai là nhóm cung cấp các giải pháp công nghệ và các công cụ
hỗ trợ mới, còn gọi là nhóm hỗ trợ như: các công cụ bảo mật, nhận diện KH,
quản lý và phân tích dữ liệu, quản lý rủi ro, quản lý quan hệ KH, các phần mềm
quản lý tài chính cá nhân và doanh nghiệp.
Trên nền tảng internet và kỹ thuật số, nhiều ứng dụng sản phẩm hay mô hình
kinh doanh trong lĩnh vực TCNH đã được các doanh nghiệp fintech phát triển.
Đặc biệt, với sự phát triển mạnh mẽ của các công nghệ mới như dữ liệu lớn
(Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI), blockchain, điện thoại thông minh…, fintech
đang phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới. Những dịch vụ tài chính
dựa trên nền tảng công nghệ mang lại nhiều tiện ích, mở ra thời đại mới trong
hoạt động tài chính trên toàn thế giới: thời đại kỹ thuật số.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn (Desk Research), nhóm đã thấy
được rằng khái niệm trên đã gây ra một làn sóng tranh luận giữa các nhà nghiên
cứu với nhau về việc các NHTM có nên hay không nên hợp tác với các công ty
fintech.
Trang 5/12
3. Tác động của các công ty fintech đối với hoạt động ngân hàng tại
Việt Nam
Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như hiện nay thì việc áp dụng kĩ thuật
công nghệ đang là vấn đề được rất nhiều sự quan tâm của tất cả các nhà đầu tư
trong tất cả các lĩnh vực khoa học kĩ thuật, giáo dục, y tế và đặc biệt là về lĩnh
vực TCNH. Theo Ủy ban về ổn định tài chính (2017), sự phát triển mạnh mẽ của
lĩnh vực fintech trong thời gian qua có thể mang lại những lợi ích và rủi ro, thách
thức đối với hệ thống NH. Fintech hiện đang có ảnh hưởng tới phần lớn các dịch
vụ truyền thống mang tính cốt lõi của NH (như huy động vốn, cho vay và thanh
toán) với hàng loạt công nghệ mang tính đột phá, hiện đại.
Cùng với sự phát triển của ngành điện tử viễn thông mà cụ thể hơn đó chính
là sự phát triển của những chiếc điện thoại thông minh (smartphone), thiết bị di
động cùng với mạng điện thoại thì hiện nay việc tiếp cận với các sản phẩm dịch
vụ NH ngày càng dễ dàng hơn. Nó cũng góp phần thay đổi thói quen của KH
trong việc sử dụng các sản phẩm dịch vụ NH.
Chính vì thế việc hòa nhập với xu hướng phát triển fintech trên toàn cầu là tất
yếu. Việc thay đổi này không chỉ để thích ứng mà còn là một bước để phát triển
trong thời kì đổi mới công nghệ 4.0. Nhiều NH trên thế giới đã giảm bớt số
lượng các chi nhánh, phòng giao dịch, dần chuyển sang mô hình NH số. Tuy
nhiên, hiện nay nếu các NHTM tại Việt Nam đầu tư để phát triển NH số sẽ mất
rất nhiều thời gian, nếu không mau chóng hòa nhập thì sẽ trở thành lực cản vô
hình cho ngành TCNH tại Việt Nam. Vì thế thay vì chờ đầu tư xong để đi vào
hoạt động thì các NH có thể hợp tác cùng các công ty fintech để phát triển, ứng
dụng các công nghệ hiện đại, không cần bỏ ra quá nhiều chi phí cho cơ sở hạ
tầng công nghệ ban đầu và có thể đáp ứng được yêu cầu của các KH.
4. Hợp tác giữa các công ty fintech và các ngân hàng tại Việt Nam
4.1 Lợi thế và hạn chế của các ngân hàng tại Việt Nam:
Hệ thống
NH với bề dày lịch sử hình thành và phát triển lớn mạnh, góp
Trang 6/12
phần rất lớn vào sự phát triển của thị trường tài chính, với lợi thế có sẵn của
mình như:
Về uy tín thì NH có sự bảo đảm về tiềm lực tài chính, với lịch sử hình
thành và phát triển lâu đời và tiềm lực về tài chính lớn, tính ổn định rất cao, do đó
các nhà đầu tư rất an toan khi chọn NH là một kênh đầu tư. Việc kinh doanh tiền
tệ của hê thống ngân hàng phần lớn là hiệu quả, đảm bảo sự tin tưởng các nhà
đầu tư.
Về tổ chức mạng lưới được tổ chức đều khắp nơi, nắm giữ một số
lượng rất lớn KH; hệ thống được giám sát chặt chẽ, đảm bảo cho hệ thống
được vận hành ổn định, có khả năng kiểm soát rủi ro và đảm bảo an toàn cho các
giao dịch của KH.
Về vốn thì NH có nguồn vốn lớn, có thể đầu tư mạnh vào hệ thống công
nghệ phục vụ cho các dự án mới, sản phẩm dịch vụ mới.
Về kinh nghiệm có thể nói NH là một chuyên gia về tài chính và quản lý
tài chính, luôn có một đội ngũ cán bộ nhân viên chuyên nghiệp và có hiểu biết
chuyên sâu trong lĩnh vực TCNH và có sẵn mạng lưới KH và cơ sở dữ liệu KH
lớn.
Tuy nhiên, dù lịch sử hình thành và phát triển lâu đời có tiềm lực lớn nhưng
hệ thống ngân hàng và các sản phẩm của ngân hàng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu
phát triển của thời đại công nghệ, như:
Thủ tục phức tạp (hồ sơ giấy), qua nhiều bước, nhiều cấp để kiểm tra,
xác minh, do đó dẫn đến mất rất nhiều thời gian của khách hàng, thời gian để
hoàn thành giao dịch có thể là nhiều tuần và tốn kém chi phí.
Sản phẩm của ngân hàng chưa đáp ứng được nhiều đối tượng; hệ thống
chưa thật sự gần gũi với nhiều loại đối tượng khách hàng, tạo sự e ngại của
khách hàng khi thực hiện giao dịch.
4.2 Lợi thế và hạn chế của các công ty fintech tại Việt Nam
Dù là sinh sau hệ thống NH nhưng do ứng dụng công nghệ vào quản lý tài
chính, nên bước đầu tạo ra hiệu quả tốt tring ngành tài chính, đáp ứng với nhu
Trang 7/12
cầu phát triển của thời đại, như:
Ứng dụng công nghệ nên tạo nhiều sản phẩm tài chính mang tính đột phá
hơn so với sản phẩm của hệ thống NH truyền thống.
Thực hiện giao dịch một cách nhanh chóng và thuận tiện ở mọi nơi có
thiết bị thông minh được kết nới với internet, KH không cần đến phòng giao dịch
của NH nhưng vẫn thực hiện vay, cho vay, thanh toán,…. chỉ cần vài thao tác trên
thiết bị thông minh, kết quả thực hiện trong khoản 10 giây.
Giảm bớt khâu trung gian nên tiết kiệm được chi phí.
Đối tượng KH được mở rộng, tạo sự thoải mái khi thực hiện giao dịch.
Do đó, với những lợi thê nêu trên thì Fintech là xu hướng tất yếu của tương
lai ngành TCNH. Tuy fintech đạt được nhiều ưu thế vượt trội so với hệ thống
NH truyền thống nhờ ứng dụng công nghệ nhưng vẫn còn những thách thức,
như:
Do ứng dụng công nghệ nên phải ưu tiên bảo đảm an toàn của hệ thống,
bảo mật thông tin, có biện pháp phòng ngừa những gian lận, tội phạm công
nghệ.
Thói quen của KH là giao dịch tại các phòng giao dịch của NH hoặc các tổ
chức tài chính, do đó để thay đổi thói quen của người dùng là một khó khăn của
các tổ chức tài chính số (nếu không phải hệ thống NH).
Do mới hình thành nên tiềm lực về tài chính của fintech cũng chưa lớn
mạnh, chưa thu hút nhiều KH.
4.3 Hợp tác giữa các công ty fintech và các ngân hàng tại Việt Nam
Chính vì những lợi thế hạn chế của NH và fintech do đó để phát triển ngành
TCNH phù hợp với xu hướng của thời đại thì NH và các công ty fintech hợp tác
với nhau để cùng nhau phát triển.
Chính vì những lợi ích thiết yếu và ưu điểm lớn là có sẵn công nghệ và chi
phí sử dụng thấp, ngoài ra còn tiết kiệm được thời gian hơn so với việc giao dịch
thanh toán tại các chi nhánh, phòng giao dịch nếu ứng dụng fintech, nên fintech đã
và đang tiếp cận nhanh đến các KH. Các NH cũng đã và đang tận dụng lợi thế có
Trang 8/12
sẵn của mình như: ngân hàng có uy tín, với tiềm lực lớn về tài chính, mạng lưới
và hệ thống, có khả năng kiểm soát rủi ro và đảm bảo an toàn cho các giao dịch
của khách hàng, ngân hàng có nguồn vốn lớn nên có thể đầu tư mạnh vào hệ
thống công nghệ phục vụ cho các dự án mới, sản phẩm dịch vụ mới và bề dày
kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính và quản lý tài chính, đội ngũ cán bộ nhân
viên chuyên nghiệp và có hiểu biết chuyên sâu trong lĩnh vực TCNH và có sẵn
mạng lưới KH và cơ sở dữ liệu KH lớn. Đo đó, kết hợp với công nghệ trong
hoạt động tài chính thì sẽ tạo ra nhiều sản phẩm mang tính bức phá, phù hợp với
nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Hiện nay một số NH đã và đang và sẽ sẵn sàng bắt tay cùng các công ty fintech.
Việc bắt tay này là dựa trên thuyết Win – Win, cả hai với vai trò bù trừ cho nhau,
hạn chế được điểm yếu của mình và tận dụng được lợi thế của đối tượng còn
lại (Romānova & Kudinska, 2016).
Theo thống kê của tổng cục thống kê thì dân số Việt Nam tính đến tháng 6
năm 2019 là hơn 97,3 triệu người dân, trong đó 64,08% dân số sống ở vùng nông
thôn [4]. Vậy nên việc hợp tác này đã góp phần đưa các dịch vụ tài chính tiếp cận
được với người tiêu dùng đặc biệt là khu vực nông thôn. Vì hiện nay nếu hoạt
động đơn lẽ thì việc KH ở vùng nông thôn tiếp cận được với các dịch vụ tài
chính của NH rất khó do sự phân bố vị trí các chi nhánh, phòng giao dịch không
đồng đều mà phần lớn là tập trung tại khu vực thành thị, khu vực nông thôn thì
thưa thớt, có nhiều khu vực còn cách xa vị trí của những người tiêu dùng ở vùng
nông thôn và cũng như việc tâm lý e ngại khi đến NH và sử dụng, cất giữ tiền
mặt còn khá là nhiều. Trong khi nhu cầu về dịch vụ tài chính tại khu vực nông
thôn là một thị phần khá là phát triển. Việc bắt tay hợp tác giữa fintech và NH sẽ
mang đến cho KH một trải nghiệm hoàn toàn mới, mang đến các sản phẩm phù
hợp hơn cho KH cũng như sẽ góp phần thúc đẩy phát triển cho hai bên. Hợp tác
này còn góp phần thúc đẩy việc dịch vụ thanh toán qua Internet, điện thoại di
động, thẻ NH, trung gian thanh toán..., phát triển đề án thanh toán không dùng
tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020 theo quyết định số 2545/QĐTTg
Trang 9/12
ngày 30/12/2016. Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh – Trưởng Ban Chỉ
đạo fintech của NHNN nhận định, bên cạnh những dịch vụ mới mà làn sóng
fintech mang lại thì sự hợp tác NH – fintech sẽ biến fintech trở thành cánh tay nối
dài của các NH tới những đối tượng dùng chưa có tài khoản ở NH truyền thống
hay những đối tượng chưa tiếp cận dịch vụ truyền thống (unbanked), mang lại
những trải nghiệm tốt, linh hoạt, nhiều tiện ích cho KH, hỗ trợ đắc lực cho phổ
cập tài chính (financial inclusion) sâu rộng hơn, góp phần quan trọng vào phát
triển kinh tế xã hội. Bởi một trong những điểm nổi bật của fintech chính là tăng
cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính cho KH [5]. Theo ông Trần Phương,
phó Tổng giám đốc NH BIDV thì “sự hợp tác, chia sẻ về ý tưởng của các fintech
sẽ mang đến nhiều lợi ích, trải nghiệm và tiết kiệm cho KH, cắt giảm chi phí
giao dịch, sự chính xác mọi lúc mọi nơi và đồng thời đảm bảo độ an toàn và tin
cậy. Sự hợp tác này là đôi bên cùng có lợi”
5. Một số hợp tác giữa fintech và các ngân hàng thương mại điển hình
tại Việt Nam
Thị trường Việt Nam được đánh giá là một thị trường fintech tiềm năng với
dân số hơn 97,3 triệu dân [4] và là quốc gia đứng thứ 16 trên thế giới với hơn 60%
dân số sử dụng internet mỗi ngày với thời gian sử dụng trung bình 7 tiếng /ngày
[6]
. Mặc khác, các dịch vụ tài chính được cung cấp bởi NH ngày càng đa dạng và
phong phú, hiện đại, an toàn về bảo mật đã đáp ứng hầu hết các nhu cầu của
người tiêu dùng. Các NH đang dần thay đổi để thích nghi với cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 cũng như thích nghi với các công ty fintech tạo ra các mô hình
mới với mông muốn mang lại cho các KH các giải pháp, dịch vụ tài chính minh
bạch, hiệu quả và thuận tiện với chi phí thấp hơn so với các dịch vụ tài chính
truyền thống.
Theo số liệu của NHNN, hiện nay tại Việt Nam có khoảng 10.000 đơn vị
chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử và 26 tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử
như MoMo, AirPay, ZaloPay, Vimo, VTCPay, SenPay, Ví TrueMoney, Moca... .
Tính đến cuối năm 2018, đã có 4,2 triệu ví đã liên kết với tài khoản NH, 16 NH
Trang 10/12
đã triển khai dịch vụ thanh toán QR Code, có hơn 30.000 điểm chấp nhận thanh
toán QR Code. Việc thanh toán qua ví điện tử ngày càng phổ biến ở các thành
phố lớn như trả tiền điện, nước, internet, mua hàng hóa, dịch vụ, thẻ cào, bảo
hiểm… Việc thanh toán qua ví điện tử (quý III/2018) tăng 21% so với cùng kỳ
năm 2017, giá trị thanh toán qua các loại ví điện tử cùng thời gian này tăng 161%.
[7]
VietinBank đã ký thỏa thuận hợp tác với Công ty Opportunity Network (ON)
để cung cấp nền tảng cho việc kết nối doanh nghiệp là KH của VietinBank với
trên 15.000 doanh nghiệp ở 113 quốc gia là thành viên của ON, tạo ra cơ hội mở
rộng thị trường hiệu quả cho các doanh nghiệp trong nước với các đối tác nước
ngoài.
BIDV đã hoàn thành kết nối thanh toán với các thương hiệu fintech phổ
biến trên thị trường như Napas, Momo, Zalo, Moca, Airpay, VTC pay, Payoo,
Baokim, Vimo, Onepay, Wepay, Ngân lượng, Vnpay, Samsungpay, Truemoney,
Viettel, Vinatti…
VIB cũng đã kết hợp với công ty fintech Weezi cho ra mắt sản phẩm
MyVIB Keyboard, một ứng dụng chuyển tiền qua mạng xã hội.
Techcombank đã cùng với Công ty fintech Fastacash giới thiệu tính năng
F@st Mobile, phương thức chuyển tiền nhanh chóng qua Facebook và Google+
(TTXVN, 2018).
MB Bank dựa trên sự hợp tác với đối tác chiến lược Viettel.
Vietcombank và Công ty M_Service trong thanh toán chuyển tiền… .
VPBank đã và đang tận dụng nền tảng NH số Timo để cung cấp dịch vụ
tài chính đến giới trẻ. Vào tháng 9 năm 2018, VPBank đã ra mắt NH kỹ thuật số
độc lập có tên YOLO đi kèm với các dịch vụ NH truyền thống như tài khoản tiết
kiệm và cho vay, nhưng cũng cung cấp các dịch vụ hàng ngày như đặt taxi, phim,
đặt phòng khách sạn và đặt hàng thực phẩm và đồ uống... .
Maritime bank đang hợp tác với MEED, một công ty công nghệ có trụ sở
tại Hoa Kỳ cung cấp nền tảng toàn cầu cho các tổ chức tài chính. MEED cung
Trang 11/12
cấp nền tảng NH di động cho NH.
NH Shinhan Việt Nam được cho là đang đàm phán với các công ty fintech
bao gồm M_Service, VNPay và Payoo ... .
6. Các vấn đề đặt ra trước sự phát triển và hợp tác giữa các công ty
fintech và các ngân hàng tại Việt Nam.
6.1 Các vấn đề đặt ra cho các ngân hàng.
Các NH nên tìm kiếm các đối tác hợp tác phát triển các dịch vụ, sản phẩm
phù hợp với chiến lược phát triển của NH.
Các NH có thể nghiên cứu để có một công ty fintech riêng, một công ty con
fintech, liên doanh với người ngoài hoặc sử dụng các công ty fintech khác làm đại
lý của NH.
Các NH có thể tận dụng các thế mạnh hiện tại như danh tiếng, mạng lưới,
cơ sở KH và vốn chủ sở hữu để phát triển các sản phẩm fintech phù hợp với
thực tế và nhu cầu KH.
Các NH nên mở rộng việc nghiên cứu để da dạng hóa dịch vụ, tăng cường
chất lượng dịch vụ cung cấp cho KH.
Phát triển các dịch vụ NH dựa trên nền tảng và sự phát triển của mạng di
động.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có trình độ không chỉ về chuyên môn
TCNH mà còn cả về công nghệ tài chính.
6.2 Các vấn đề đặt ra cho ngân hàng nhà nước
Đánh giá cao tầm quan trọng của fintech, đây được xem như là một cơ hội
cũng như thách thức lớn đối với ngành TCNH, NHNN đã và đang tiến hành
nghiên cứu để triển khai nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện hệ sinh thái góp phần
thúc đẩy sự phát triển của các công ty fintech và tạo ra tạo môi trường thuận lợi
cho sự hợp tác giữa fintech và các NH.
Theo Quyết định 844/QĐTTg ngày 18/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến
Trang 12/12
năm 2025", NHNN đã thành lập Ban Chỉ đạo lĩnh vực Công nghệ tài chính
(fintech) của NHNN vào tháng 3/2017 nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện
hệ sinh thái, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp fintech ở Việt Nam phát triển.
Tại Diễn đàn Công nghệ tài chính (fintech) Việt Nam diễn ra vào ngày
30/5/2018, Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng đã khẳng định, NHNN ủng hộ sự
hợp tác NH và fintech và sẽ tạo điều kiện hoàn thiện pháp lý cũng như hệ sinh
thái cho sự phát triển fintech. Việc hợp tác giữa fintech và NH được coi là tiền đề
cho việc nâng cao tiếp cận dịch vụ TCNH cho người sử dụng tại Việt Nam. [7]
Đặc biệt, là gần đây nhất tại dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư
39/2014/TTNHNN của NHNN hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán,
NHNN đã bổ sung nhiều quy định mới theo hướng kiểm soát việc mở tài khoản
ví, quy định hạn mức giao dịch...
Tuy nhiên, đến nay tại Việt nam vẫn chưa có một khung pháp lí nào rõ ràng,
cụ thể NHNN nên sớm có những khung pháp lí dành cho các hoạt động của
fintech. Hiện nếu vẫn chưa có khung pháp lí chính thức cho fintech NHNN có thể
xem xét và ban hành khung pháp lý thử nghiệm (regulatory sandbox). Ngoài ra,
NHNN cũng như các cơ quan có liên quan nên sớm đưa ra những khung pháp lí
đồng bộ, phù hợp với đặc thù riêng về các dịch vụ, sản phẩm cho ngành TCNH
tạo thuận lợi hơn cho việc phát triển cũng như hợp tác cung ứng các sản phẩm,
dịch vụ phù hợp, an toàn, sản phẩm đa dạng, có chất lượng, tiết kiệm chi phí
hoạt động.
Phần lớn các hoạt động của các công ty fintech cũng như việc hợp tác giữa
fintech và các NH đều tập trung vào lĩnh vực thanh toán nên NHNN cũng nên sớm
có khung pháp lí cụ thể hơn cho hoạt động thanh toán như:
Sửa đổi quy định về phòng chống rửa tiền liên quan để cho phép mở tài
khoản không bắt buộc phải gặp mặt trực tiếp nhưng vẫn đảm bảo về nhận biết,
xác thực chính xác KH (eKYC);
Nghiên cứu xây dựng khuôn khổ pháp lý thử nghiệm (regulatory sandbox)
cho các công ty fintech, các TCTD...
Trang 13/12
Tập trung phát triển các hạ tầng thanh toán nền tảng như Trung tâm thanh
toán bù trừ tự động ACH
NHNN sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và ban hành văn bản liên quan
đến nghiệp vụ cũng như dịch vụ NH đại lý (agent banking).
7. Kết luận
Fintech sẽ còn phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai, chính những sự phát
triển này sẽ tác động mạnh mẽ đến các hoạt động của các ngành nhưng đặc biệt
hơn hết chính là TCNH trên toàn thế giới. Hiện nay, không chỉ các NH trên toàn
thế giới mà ngay tại Việt Nam thì việc cùng hợp tác và phát triển với các công ty
fintech là một trong những hướng đi phù hợp giúp cho đôi bên cùng có lợi và có
thể phát huy được hết thế mạnh của chính mình trong thời gian chờ các NH
nghiên cứu để xây dựng một hệ thống riêng cho mình mà không phải lo việc sẽ
bị giành mất thị phần bởi các công ty fintech.
NHNN đã đang và sẽ hỗ trợ cho sự hợp tác, phát triển giữa các công ty fintech
và NH, nhanh chóng nghiên cứu hoàn thiện các khung pháp lí và hệ sinh thái của
fintech giúp cho ngành TCNH của Việt Nam sớm bắt kịp theo thị trường thế giới
hòa nhập vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ IV.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Áp dụng AI trong ngành công nghệ Tài chính – Ngân hàng
/>[2] 67 công ty fintech Việt Nam cạnh tranh trong thị trường 4,4 tỷ USD
/>44tyusd20180504224217598
[3] FINTECH: Hệ sinh thái ở các nước và vận dụng tại Việt Nam (số 1)
/> [4] Dân số Việt Nam, tháng 6/2019
/>[5] Hợp tác Fintech Xu hướng phát triển tất yếu của ngân hàng hiện đại
/>[6] Hơn 60% dân số Việt Nam dùng internet, truy cập trung bình 7 tiếng/ngày
/>truycaptrungbinh7tiengngayc55a1010906.html
[7] 4,24 triệu ví điện tử có liên kết với tài khoản ngân hàng
/>hang86396.html