Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (824 KB, 30 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------HOÀNG THU HẰNG

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 62 38 50
Hà Nội – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------HOÀNG THU HẰNG

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 62 38 50 01
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS,.TS Đinh Dũng Sỹ
2. PGS,.TS Lê Thị Thu Thủy
Hà Nội – 2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ĐỀ TÀI .................................................................... 7


1.1. Tình hình nghiên cứu ............................................................................ 7
1.2. Những điểm mới của Luận án .............................................................. 15
CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ PHÁP LUẬT VỀ
HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI ..................................................... 18

2.1. Những vấn đề lí luận cơ bản về hoạt động bảo hiểm tiền gửi ............. 18
2.2. Những vấn đề lí luận cơ bản của pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi 52
2.3. Những yếu tố tác động đến sự ra đời và phát triển của pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi

83

2.4. Sự ra đời và phát triển của pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi 87
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÍ ĐẶT RA ....................................................... 95

3.1. Về chủ thể thực hiện hoạt động bảo hiểm tiền gửi và mô hình hoạt động bảo hiểm tiền gửi

95

3.2. Về nội dung hoạt động bảo hiểm tiền gửi ............................................ 101
3.3. Về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo hiểm tiền gửi .... 133
CHƯƠNG 4. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM

4.1. Yêu cầu, định hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
4.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam

138

138


142

4.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 175
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

171


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thực tiễn đã chứng minh, hoạt động ngân hàng giữ vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động của các
TCTD, NHTM luôn tiềm ẩn những rủi ro. Để phòng ngừa, khắc phục các rủi ro trong kinh doanh, các TCTD, NH đã và đang áp dụng
khá nhiều biện pháp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dù đã áp dụng đồng thời các biện pháp phòng ngừa rủi ro, nhưng rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của TCTD, NHTM vẫn không bị loại trừ triệt để. Nhất là các rủi ro xảy ra ngoài phạm vi kiểm soát của TCTD,
NHTM. Hoạt động BHTG ra đời do nhu cầu khách quan của xã hội là bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền tại các tổ chức tham
gia BHTG trong trường hợp tổ chức gặp rủi ro trong kinh doanh tới mức bị phá sản. Thông qua đó giúp củng cố niềm tin của người gửi
tiền tại các tổ chức thuộc hệ thống NH quốc gia. Đồng thời góp phần bảo đảm sự an toàn, lành mạnh của hệ thống NH.
Trong những năm qua, pháp luật về hoạt động BHTG đã tạo cơ sở pháp lí quan trọng cho hoạt động của tổ chức thực hiện hoạt
động BHTG ở Việt nam. Người dân đã quen với sự có mặt của tổ chức BHTG Việt Nam trong hoạt động NH. Tổ chức tham gia BHTG
đã có trách nhiệm hơn đối với hoạt động kinh doanh của mình cũng như đối với việc bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền. Có thể
khẳng định rằng, bước đầu, pháp luật về hoạt động BHTG đã giúp cho hoạt động NH trở nên ổn định, an toàn và lành mạnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực mà pháp luật về hoạt động BHTG mang lại cho xã hội, pháp luật về hoạt động BHTG cũng đã
bộc lộ những bất cập, hạn chế đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn.
2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận án.
* Về mục đích nghiên cứu, với Đề tài nghiên cứu là “Pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam”, Luận án nghiên cứu tổng

thể các qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ BHTG. Luận án xác định rõ mục đích nghiên cứu là làm sáng tỏ cơ sở lí luận và cơ sở
thực tiễn của sự điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ BHTG. Trên cơ sở đó, Luận án đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về
BHTG ở Việt Nam.
* Về nhiệm vụ nghiên cứu:Nghiên cứu những yếu tố tác động đến sự ra đời và phát triển của hoạt động BHTG và pháp luật về hoạt
động BHTG; Nghiên cứu và làm sáng tỏ nhu cầu điều chỉnh của pháp luật đối với quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động
BHTG ở Việt Nam; Làm sáng tỏ những vấn đề lí luận của pháp luật về hoạt động BHTG; Nghiên cứu ở góc độ pháp lí các mô hình
hoạt động BHTG trên thế giới và khả năng áp dụng ở Việt Nam; Phân tích và làm sáng tỏ thực trạng pháp luật về hoạt động BHTG ở
Việt Nam. Trong đó, đánh giá những mặt tích cực và những hạn chế của hệ thống pháp luật về hoạt động BHTG hiện hành của Việt
Nam; Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam.
5


* Về đối tượng nghiên cứu, Luận án tập trung nghiên cứu các vấn đề chủ yếu sau: Những vấn đề lí luận cơ bản về hoạt động BHTG
và pháp luật về hoạt động BHTG; những yếu tố tác động quá trình hình thành và phát triển của hoạt động BHTG và pháp luật về hoạt
động BHTG; Thực trạng pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam và tham chiếu qui định pháp luật về hoạt động BHTG của một số
quốc gia trên các nội dung như: Địa vị pháp lí của các chủ thể trong quan hệ pháp luật BHTG. Trong đó, tập trung nghiên cứu về địa vị
pháp lí của chủ thể thực hiện hoạt động BHTG ở Việt Nam - tổ chức BHTGVN; Mô hình hoạt động BHTG; Công cụ thực hiện hoạt
động BHTG; Nội dung hoạt động BHTG; Những định hướng, yêu cầu và đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG ở
Việt Nam.
*Về phạm vi nghiên cứu:
- Hệ thống văn bản pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam: Luận án tập trung nghiên cứu các văn bản pháp luật về hoạt động
BHTG của Việt Nam được ban hành từ năm 1994 trở lại đây. Cụ thể, từ khi Nhà nước ta ban hành Quyết định số 101/TC-QĐ-BH ngày
01/01/1994 của Bộ tài chính về Qui tắc bảo hiểm trách nhiệm của Quĩ tín dụng nhân dân đối với khoản tiền gửi có kì hạn. Đó là văn
bản pháp luật đầu tiên của Việt Nam về hoạt động BHTG.
- Hệ thống văn bản pháp luật về hoạt động BHTG của các quốc gia trên thế giới: Luận án lựa chọn nghiên cứu các văn bản pháp
luật về hoạt động BHTG của một số quốc gia trên thế giới. Cụ thể, pháp luật về hoạt động BHTG của Mĩ, trong đó chú ý đến Luật
BHTG được ban hành từ năm 1829. Bởi vì, đây là quốc gia triển khai áp dụng hoạt động BHTG đầu tiên trên thế giới và mô hình hoạt
động BHTG hiện nay được đánh giá là hiện đại nhất. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, Luận án cũng dành sự quan tâm đáng kể
đến việc nghiên cứu pháp luật về hoạt động BHTG của một số quốc gia ở khu vực Châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Sinhgapo và khu
vực Châu Âu như Đức, Canada.

- Các công trình khoa học: khi nghiên cứu về hoạt động BHTG và pháp luật về hoạt động BHTG, Luận án còn tham khảo các công
trình khoa học trong và ngoài nước dưới giác độ kinh tế - tài chính và pháp lí.
3. Phương pháp nghiên cứu. Luận án nghiên cứu “Pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam” dựa trên cơ sở phương pháp luận
nghiên cứu là Chủ nghĩa Mác - Lên nin. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài này, Luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khác như: Phương pháp duy vật biện chứng; Phương pháp duy vật lịch sử; Các phương pháp tổng hợp, phân tích, hệ thống;
Phương pháp so sánh...
4. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của Luận án. Những kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần làm sáng tỏ về phương diện lí luận
trong khoa học pháp lí của hoạt động BHTG như khái niệm về hoạt động BHTG và pháp luật về hoạt động BHTG, bản chất kinh tế,
bản chất pháp lí của hoạt động BHTG, khía cạnh pháp lí của các mô hình hoạt động BHTG. Trên cơ sở đó, Luận án đánh giá thực tiễn
6


áp dụng pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam hiện hành, chỉ ra những bất cập và phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt
động BHTG ở Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho hoạt động hoàn thiện pháp luật về hoạt
động BHTG của các nhà hoạch định chính sách. Đồng thời, đó cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho các hoạt động nghiên cứu, học
tập về pháp luật tài chính, NH và BHTG ở Việt Nam.
5. Kết cấu của Luận án. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án kết cấu gồm 4 Chương.

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN ĐỀ TÀI
1.1.TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1.Tình hình nghiên cứu trên thế giới. Hoạt động BHTG được ra đời với mục tiêu là “bảo vệ người gửi tiền” từ thế kỉ 19 tại Mĩ.
Những thành công của hoạt động BHTG tại quốc gia này đã góp phần quan trọng làm cho loại hình BH đặc thù này “mở rộng” phạm vi
hoạt động sang các quốc gia châu Âu vào những năm 1960 và tiếp đó là các quốc gia châu Á. Một điểm khác biệt so với Việt Nam là
tại các quốc gia, Luật về BHTG được ban hành trước khi thiết lập và triển khai các hoạt động BHTG. Do đó, song song với hoạt động
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG của các nhà nước, hoạt động nghiên cứu về BHTG và pháp luật về BHTG cũng
trở nên sôi động. Do phạm vi nghiên cứu của Luận án, chỉ đề cập đến một số nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu sau
đây: 1)Cuốn Deposit Insurance around the world - A date base, các nhà nghiên cứu đã phân tích một số vấn đề lí luận về BHTG; thực
tiễn áp dụng pháp luật về BHTG tại các quốc gia trên thế giới (68); đánh giá những thành công, hạn chế của pháp luật các quốc gia trên
các mặt như thiết kế hệ thống BHTG, mô hình hoạt động BHTG, một số nội dung hoạt động BHTG. Những nghiên cứu của các tác giả

có ý nghĩa rất lớn để các nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách ở mỗi quốc gia tham khảo. 2)Cuốn Deposit insurance and the
appropriate institutions được nhà nghiên cứu Gillian G. H. Garcia hoàn thành vào năm 2002 đã phân tích sâu sắc về sự cần thiết của
hoạt động BHTG, vai trò của BHTG đối với hoạt động của hệ thống tài chính, NH ở các quốc gia. Đặc biệt, đưa ra kinh nghiệm thiết
lập hệ thống BHTG phù hợp với các điều kiện về kinh tế, xã hội ở các quốc gia. 3)cuốn Structuring a deposit insurance system from the
Asian perspective của Nhà nghiên cứu Choi J. B. đã phân tích các vấn đề lí luận về BHTG, cơ sở của việc thiết kế các qui định pháp
luật về BHTG và thực tiễn hoạt động BHTG tại các quốc gia châu Á. Mô hình hoạt động BHTG và nội dung hoạt động BHTG không
được thiết kế để áp dụng chung đối với tất cả các quốc gia khác nhau. Tại các quốc gia châu Á, do các yếu tố về điều kiện kinh tế, xã
hội, tập quán, lịch sử, văn hóa, cơ cấu một hệ thống BHTG phải được thiết kế phù hợp.
1.1.2.Tình hình nghiên cứu trong nước
7


Tình hình nghiên cứu dưới giác độ kinh tế - tài chính. Ở giác độ kinh tế - tài chính, đã có khối lượng lớn các công trình nghiên
cứu về BHTG. Các công trình nghiên cứu đó có thể chia làm các nhóm như nhóm Luận văn, Luận án nghiên cứu về BHTG; nhóm bài
báo về BHTG.
Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu thuộc Luận văn, Luận án, Đề tài khoa học nghiên cứu về BHTG. Trong nhóm này, phải kể
đến các “đại diện” sau:
- Luận án Tiến sĩ kinh tế của Lê Thị Kim Oanh, 2004, về “Giải pháp phát triển hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam”, bảo vệ
thành công tại Học viện Ngân hàng, Hà Nội; Luận án đã nghiên cứu công phu những điều kiện về kinh tế, xã hội, tài chính, NH tác
động đến sự hình thành và phát triển của BHTG ở các nước và ở Việt Nam; đánh giá thực trạng hoạt động BHTG ở Việt Nam; phân
tích những phương hướng nâng cao hoạt động BHTG ở Việt Nam.
- Luận án Tiến sĩ của Đào Văn Tuấn năm 2005, với Đề tài: “Giải pháp hoàn thiện chính sách bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Học viện Ngân Hàng, Hà Nội đã phân tích thực trạng hoạt động BHTG ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
sâu và rộng vào nền kinh tế quốc tế. Luận án đã phân tích những giải pháp mang tính chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
BHTG ở Việt Nam trong bối cảnh các NH thực sự tham gia vào cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực NH.
- Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Bùi Thu Hương về “Hoàn thiện hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong thời kì hội
nhập” được bảo vệ thành công tại Học viện Ngân hàng năm 2010 đã đề cập đến một số nội dung về hoạt động nghiệp vụ BHTG tại Việt
Nam, thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động nghiệp vụ BHTG tại Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc tế sâu và
rộng như hiện nay.
- Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Hiển về “Hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ”

bảo vệ thành công tại Học viện Ngân hàng năm 2008 cũng nghiên cứu một số nội dung trong hoạt động BHTG ở Việt Nam, vai trò,
chức năng của tổ chức BHTGVN trong việc thực hiện các hoạt động BHTG, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
BHTGVN nhằm thực hiện các mục tiêu đặt ra.
- Công trình nghiên cứu khoa học cấp Học viện của Học viện Ngân hàng được thực hiện và bảo vệ thành công năm 2009 với tên gọi
“Bảo hiểm tiền gửi trong việc bảo đảm an toàn tài chính quốc gia tại Việt Nam - thực trạng và giải pháp” có đưa ra một số vấn đề lí
luận về BHTG, vai trò của BHTG trong việc bảo đảm an toàn tài chính quốc gia, chỉ ra những mặt tích cực của BHTG và những mặt
tiêu cực của BHTG trong việc bảo đảm vai trò đó và nguyên nhân của những mặt tiêu cực nói trên, đề ra một số giải pháp nâng cao chất
lượng của BHTG trong việc bảo đảm an toàn tài chính ở Việt Nam…

8


Thứ hai, nhóm bài báo nghiên cứu về BHTG. Từ năm 2000, khi hoạt động BHTG bắt đầu triển khai thực hiện tại Việt Nam, đã có
rất nhiều bài báo, bài tham luận của các chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế, nhà quản lí trong lĩnh vực tài chính, NH (như
PGS.TS Lê Hoàng Nga - Học viện Ngân hàng; TS Lê Thị Kim Oanh; Ths Thúy Sen…) được đăng tải trên các tạp chí như Tạp chí
Ngân hàng, Tạp chí tài chính tiền tệ, các tờ báo điện tử, các website của BHTG Việt Nam, NHNN Việt Nam…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu dưới giác độ kinh tế - tài chính về BHTG đã xây dựng được một số vấn đề thuộc hệ thống lí
luận về BHTG, đánh giá thực trạng hoạt động nghiệp vụ của BHTG Việt Nam, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các hoạt động
nghiệp vụ của tổ chức BHTG Việt Nam, bảo đảm quyền và lợi ích của người gửi tiền, góp phần bảo đảm an toàn cho cả hệ thống NH Việt
Nam trong thời kì hội nhập. Đó là hệ thống tri thức có giá trị rất lớn trong lĩnh vực kinh tế.
Tình hình nghiên cứu dưới giác độ pháp lí. Bên cạnh các công trình nghiên cứu khoa học về BHTG dưới giác độ kinh tế - tài
chính, cho đến nay cũng đã có một số công trình nghiên cứu ở giác độ pháp lí với những qui mô khác nhau về pháp luật điều chỉnh
quan hệ BHTG. Trong phạm vi liên quan đến Đề tài nghiên cứu của Luận án, có thể kể đến các công trình nghiên cứu đáng chú ý như
sau:
- Cuốn Chuyên khảo “Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam” của TS. Lê Thị Thu Thuỷ được ra đời năm 2008 (Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội). Đây là công trình nghiên cứu có qui mô lớn nhất cho đến thời điểm này về pháp luật điều chỉnh quan hệ
BHTG ở Việt Nam.
Chuyên khảo đã đề cập khái quát về sự hình thành của BHTG trên thế giới, ở Việt Nam; một số vấn đề lí luận cơ bản về BHTG như
khái niệm BHTG, đặc trưng của BHTG, hạn chế của BHTG; nội dung pháp luật về BHTG của Việt Nam; khảo sát thực trạng pháp luật
về BHTG ở Việt Nam và đề xuất một số phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về BHTG ở Việt Nam.

Tuy nhiên, Chuyên khảo còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề cần nghiên cứu như chưa xây dựng hệ thống lí luận pháp luật về hoạt động
BHTG; chưa có những đánh giá về bản chất pháp lí của hoạt động BHTG; chưa làm rõ sự tương đồng, khác biệt giữa hoạt động BHTG
và hoạt động BHTM; chưa có những phân tích về khía cạnh pháp lí của các mô hình hoạt động BHTG; chưa khảo sát toàn diện thực
trạng pháp luật về hoạt động BHTG Việt Nam… Tuy vậy, mặc dù nội dung nghiên cứu còn ở mức khái quát nhưng Chuyên khảo đã trở
thành tiền đề để các nhà khoa học, nhà quản lí tiếp tục nghiên cứu về giác độ pháp lí của hoạt động BHTG - một loại hình hoạt động
BH đặc thù trong nền kinh tế.
- Bài viết: “Mô hình bảo hiểm tiền gửi hiện nay và những vấn đề quan tâm khi xây dựng Luật bảo hiểm tiền gửi” của TS. Đinh Dũng
Sỹ. Trong đó, TS Đinh Dũng Sỹ đã phân tích khía cạnh pháp lí của các mô hình BHTG như mô hình BHTG chuyên chi trả, mô hình
BHTG chi trả với quyền hạn mở rộng và mô hình BHTG giảm thiểu rủi ro.
9


- Bài viết: “Bàn về mô hình bảo hiểm tiền gửi trong thời kì hội nhập quốc tế” của TS. Lê Thị Thu Thuỷ cũng đã phân tích khía cạnh
pháp lí của các mô hình BHTG trên thế giới; đưa ra một số kiến nghị về việc thiết lập mô hình BHTG ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập quốc tế.
- Bài viết: “Địa vị pháp lí của tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam” của TS. Đinh Dũng Sỹ. Trong đó, Tác giả bài báo đã có những
nghiên cứu về vị trí pháp lí của tổ chức BHTG Việt Nam hiện nay, xu hướng xác định vị trí pháp lí có tính “độc lập tương đối”của tổ chức
BHTG, nhằm bảo đảm hiệu quả các hoạt động BHTG.
- Bài viết: “Bảo hiểm tiền gửi và vấn đề an toàn tín dụng” của TS. Đinh Dũng Sỹ. Trong đó, Tác giả bài báo phân tích sâu sắc bản
chất của hoạt động tín dụng, NH; tính rủi ro của hoạt động đó; vai trò của BHTG trong bảo đảm an toàn đối với hoạt động tín dụng,
NH; đưa ra các yêu cầu trong việc thiết lập các qui định pháp luật về BHTG nhằm bảo đảm sự an toàn đối với hoạt động tín dụng, NH.
- Bài viết: “Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền theo pháp luật về bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam thực trạng và phương hướng hoàn
thiện”, được đăng trên Thông tin BHTGVN, số 3, năm 2007 của GS.TSKH Đào Trí Úc. Bài viết đã đề cập đến các qui định của pháp
luật về BHTG của Việt Nam trong vấn đề bảo vệ người gửi tiền; đánh giá những yếu tố kinh tế, xã hội tác động đến việc hoàn thiện các
qui định pháp luật Việt Nam về bảo vệ người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG.
- Chuyên đề nghiên cứu mang tên: “Vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong việc bảo vệ người gửi tiền và bảo đảm an
sinh xã hội” đã phân tích bản chất của BHTG, phân tích các mô hình BHTG trên thế giới, vai trò của BHTG đối với việc bảo vệ người
gửi tiền, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và phương hướng xây dựng pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền tại tổ
chức tham gia BHTG.
- Ngoài ra, nhiều bài báo được các chuyên gia pháp lí, chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế - tài chính đăng tải trên các tạp chí chuyên

ngành pháp lí như Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí dân chủ và pháp luật,… hoặc ý kiến các Đại biểu Quốc hội và ý kiến các chuyên
gia trao đổi tại các Hội thảo chuyên ngành về xây dựng Luật BHTG ở Việt Nam; Toàn bộ hồ sơ Dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi được xây
dựng từ tháng 9 năm 2011 đến trước ngày 18/6/2012, Luật Bảo hiểm tiền gửi được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 18/6/2012 cũng
được Tác giả của Luận án quan tâm nghiên cứu khi thực hiện Đề tài nghiên cứu này.
- Luận án tiến sĩ của Bùi Hữu Toàn về “Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế” mới được bảo vệ
thành công tại Học viện Khoa học xã hội vào tháng 8 năm 2012 cũng đã phân tích khái quát một số vấn đề lí luận về BHTG, ảnh hưởng của hội
nhập quốc tế đến pháp luật về BHTG, đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về BHTG ở Việt Nam.
1.1.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu
10


Đánh giá khái quát: có thể nhận thấy, các công trình đã nghiên cứu với các mức độ khác nhau đến những vấn đề thuộc hai nhóm
sau đây:
Một là, nhóm những nghiên cứu các qui định pháp luật về BHTG như: Các chủ thể trong quan hệ BHTG, bao gồm chủ thể thực hiện
hoạt động BHTG, chủ thể tham gia BHTG, người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG, chủ thể quản lí nhà nước về BHTG, chủ thể
giám sát tài chính trong mạng an toàn tài chính quốc gia; Mô hình BHTG và các vấn đề liên quan đến thiết kế một mô hình BHTG; Các
nội dung hoạt động BHTG như hoạt động cấp Giấy chứng nhận BHTG, giao kết hợp đồng BHTG; thu nộp phí BHTG; kiểm tra, giám
sát tổ chức tham gia BHTG; hỗ trợ tài chính đối với tổ chức tham gia BHTG; chi trả BHTG; thanh lí tổ chức tham gia BHTG; Quĩ
BHTG như cơ chế tạo lập quĩ BHTG, quản lí quĩ BHTG, sử dụng quĩ BHTG…
Hai là, nhóm những nghiên cứu về thực hiện các qui định pháp luật về BHTG; đánh giá việc thực thi pháp luật về BHTG.
Về kết quả nghiên cứu: Một là, đã khái quát được ở một mức độ nhất định những nội dung cơ bản của hoạt động BHTG, các qui
định của pháp luật về hoạt động BHTG và thực tiễn áp dụng. Hai là, đã có đánh giá trên một số khía cạnh về thực trạng của pháp luật
về hoạt động BHTG và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam. Ba là, đã đặt tiền đề cho các hoạt động nghiên cứu về quan hệ BHTG, hoạt
động BHTG và hoàn thiện pháp luật về BHTG nói chung và hoạt động BHTG nói riêng.
Các vấn đề được đặt ra: Một là, các nghiên cứu liên quan đến BHTG và pháp luật về BHTG được thực hiện trong thời kì Việt Nam
chưa có Luật BHTG. Hệ thống qui định pháp luật về BHTG chỉ được thể hiện trong các văn bản dưới luật và mang tính tản mạn, không
đồng bộ. Hai là, các công trình nghiên cứu cũng đã đề cập đến một số quan diểm lí luận về BHTG, quan hệ BHTG, nhưng chưa phân
tích một cách sâu sắc tính đặc thù của quan hệ BHTG, hoạt động BHTG, những yếu tố tác động đến việc xây dựng luật BHTG, cơ sở
để xây dựng một mô hình hoạt động BHTG phù hợp điều kiện thực tế ở Việt Nam. Ba là, các kiến nghị, đề xuất mang tính đơn lẻ chỉ đề
cập đến việc sửa đổi, bổ sung các qui định về các vấn đề khác nhau liên quan đến BHTG trong các văn bản pháp luật hiện hành, mặc dù

các nghiên cứu có hướng đến việc góp ý xây dựng Luật BHTG, chưa có những phân tích sâu sắc, đầy đủ về cơ sở kinh tế, xã hội của
những đề xuất đó.
Trong bối cảnh tình hình nghiên cứu như trên, việc chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam” là nhằm
giải quyết các vấn đề sau đây: Thứ nhất, làm rõ cơ sở lí luận của pháp luật về hoạt động BHTG. Vấn đề này được dựa trên hai yếu tố
cơ bản: i) làm rõ bản chất, đặc điểm của hoạt động BHTG; phân biệt hoạt động BHTG và hoạt động BHTM, phân tích rủi ro trong hoạt
động BHTG, các loại hình hoạt động BHTG; ii) trên cơ sở những đặc thù của hoạt động BHTG, xác định những yêu cầu, nguyên tắc
điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động BHTG và nội dung pháp luật về hoạt động BHTG. Thứ hai, đánh giá toàn diện về thực
trạng pháp luật về hoạt động BHTG tại Việt Nam, bao gồm các qui định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về chủ thể trực tiếp
11


thực hiện các hoạt động nghiệp vụ BHTG, mô hình hoạt động BHTG, nội dung hoạt động BHTG, xử lí vi pháp luật và giải quyết tranh
chấp phát sinh trong lĩnh vực hoạt động BHTG. Những nghiên cứu đó sẽ là những luận cứ khoa học cho việc đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam. Thứ ba, các đề xuất về phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về
hoạt động BHTG ở Việt Nam phải nhằm hướng đến việc xây dựng một mô hình hoạt động BHTG phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội
và thực trạng hệ thống tài chính, NH ở Việt Nam, vừa giải quyết được những vấn đề thực tiễn trước mắt và vừa bảo đảm tính ổn định,
lâu dài.
1.2. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN ÁN
Trên cơ sở các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, Luận án có những đóng góp mới nhất định về mặt khoa học cũng như trong nghiên
cứu hoàn thiện, áp dụng pháp luật về BHTG. Cụ thể: Một là, Luận án tiếp tục phát triển và hoàn thiện thêm một bước cơ sở lí luận của
pháp luật về BHTG. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trước đây về BHTG, Luận án tiếp tục làm rõ bản chất
kinh tế, bản chất pháp lí của hoạt động BHTG, so sánh giữa hoạt động BHTG và hoạt động BHTM,… trên cơ sở đó, khái quát những
đặc thù của hoạt động BHTG và pháp luật về hoạt động BHTG. Hai là, Luận án đánh giá một cách tổng thể, toàn diện về thực trạng của
hệ thống pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam. Trong nhiều công trình nghiên cứu trước đây, cũng đã có một số đánh giá về
thực trạng pháp luật về BHTG nói chung, về một số nội dung hoạt động BHTG nói riêng. Tuy nhiên, những đánh giá đó mới chỉ được
thực hiện đơn lẻ và từ các góc độ nghiên cứu khác nhau. Trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu
đó, Luận án đánh giá một cách tổng thể, toàn diện thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động BHTG của Việt
Nam, chỉ ra những bất cập của pháp luật hiện hành về hoạt động BHTG của Việt Nam, những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật về
hoạt động BHTG. Đồng thời, Luận án nghiên cứu và tham chiếu những qui định pháp luật về hoạt động BHTG của một số nước, đưa ra
những kinh nghiệm nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG nói chung. Ba là, Luận án mạnh dạn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn

thiện pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam. Những đề xuất của Luận án được đưa ra trên cơ sở đánh giá mặt tích cực, hạn chế của hệ
thống pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam hiện nay, nghiên cứu tình hình kinh tế vĩ mô và tình hình hoạt động NH ở Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc pháp luật về hoạt động BHTG của một số nước trên thế giới.
Nội dung cốt lõi của các đề xuất đó là xác định địa vị pháp lí của tổ chức trực tiếp thực hiện hoạt động BHTG ở Việt Nam, mô hình hoạt
động BHTG, qui định về các nội dung hoạt động BHTG. Trên cơ sở đó, pháp luật về hoạt động BHTG sẽ trở thành công cụ pháp lí quan
trọng bảo đảm các mục tiêu chính sách công của nhà nước trong lĩnh vực tài chính, NH.
CHƯƠNG 2
12


NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO
HIỂM TIỀN GỬI
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI
2.1.1. Khái niệm, nội dung, vai trò của hoạt động bảo hiểm tiền gửi
Khái niệm về hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Mặc dù hoạt động BHTG được ra đời và tồn tại ở nhiều quốc gia, nhưng hầu như pháp
luật của các nước không đưa ra định nghĩa về BHTG. Pháp luật các nước thường qui định mục tiêu, nhiệm vụ của BHTG cũng như liệt
kê các quyền và nghĩa vụ pháp lí của tổ chức tham gia thực hiện hoạt động BHTG. Một số quốc gia đưa ra định nghĩa về BHTG trong
Luật BHTG nhưng không định nghĩa về hoạt động BHTG. Tại một trong những công trình nghiên cứu khoa học pháp lí về BHTG đưa
ra định nghĩa về BHTG.
Trên cơ sở các quan niệm về BHTG, tác giả của Luận án đưa ra khái niệm về hoạt động BHTG là một loại hình hoạt động BH,
theo đó tổ chức thực hiện hoạt động BHTG bảo đảm chi trả một phần hoặc toàn bộ tiền gốc và tiền lãi của các khoản tiền gửi cho
người gửi tiền được BH tại tổ chức tham gia BHTG khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định tổ chức tham gia
BHTG bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền nhằm thực hiện các mục tiêu chính sách công của
nhà nước.
*Nội dung của hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Hoạt động BHTG được nhiều chủ thể tham gia thực hiện. Cụ thể: tổ chức thực hiện
các hoạt động nghiệp vụ BHTG, tổ chức tham gia BHTG, người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG được BH, các cơ quan quản lí về
tài chính, NH (như ngân hàng trung ương, Bộ Tài chính), các tổ chức giám sát tài chính trong mạng an toàn tài chính quốc gia. Trong
đó, mỗi chủ thể có vị trí, vai trò và mục đích, thẩm quyền khác nhau.
Trong phạm vi nghiên cứu của Luận án, chỉ giới hạn nghiên cứu về nội dung hoạt động BHTG của tổ chức thực hiện hoạt động BHTG
(gọi chung là tổ chức BHTG) và trong mối liên hệ với tổ chức tham gia BHTG và người thụ hưởng từ hoạt động BHTG. Bởi vì, đây là

chủ thể có vị trí “đặc biệt” trong quan hệ BHTG, trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ BHTG, qua đó nhằm thực hiện mục tiêu chính sách
công của nhà nước trong lĩnh vực tài chính, NH. Với giới hạn đó và ở góc độ khái quát nhất, hoạt động BHTG bao gồm các nhóm nội
dung sau đây:
Một là, nhóm các hoạt động nhằm xác lập quan hệ BHTG. Đây là một trong những chuỗi hoạt động BHTG, theo đó, tổ chức BHTG
tiến hành các thủ tục để cấp giấy chứng nhận BHTG hoặc giao kết hợp đồng BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG tùy theo việc tham
gia BHTG được qui định là bắt buộc hay tự nguyện. Hai là, nhóm các hoạt động tạo lập, sử dụng quĩ BHTG. Ba là, nhóm các hoạt
động kiểm tra, giám sát chủ thể tham gia BHTG, cảnh báo rủi ro sớm đối với chủ thể tham gia BHTG. Đây là một trong các hoạt động
BHTG được tổ chức BHTG tiến hành trên cơ sở pháp luật nhằm phát hiện những rủi ro trong hoạt động của tổ chức tham gia BHTG.
13


Bốn là, nhóm các hoạt động hỗ trợ tài chính đối với chủ thể tham gia BHTG. Năm là, nhóm các hoạt động liên quan đến việc tổ chức
BHTG tham gia vào quá trình xử lí tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động. Sáu là, nhóm các hoạt động chấm dứt BHTG. Trên
thực tế, khi xuất hiện sự kiện BHTG, phù hợp qui định của pháp luật, quan hệ BHTG bị chấm dứt giữa các bên.
Vai trò của hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Hoạt động BHTG hướng đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền tại các tổ
chức tham gia BHTG; Hoạt động BHTG góp phần duy trì và nâng cao niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống NH; Hoạt động BHTG
giảm thiểu rủi ro trong hoạt động NH, góp phần duy trì sự an toàn, ổn định của hệ thống tài chính quốc gia; Hoạt động BHTG thúc đẩy
cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức nhận tiền gửi, tạo điều kiện phát triển trong lĩnh vực tài chính; hoạt động BHTG góp phần tái
cấu trúc NH.
2.1.2. Bản chất pháp lí của hoạt động BHTG. Chủ thể thực hiện hoạt động BHTG là tổ chức tài chính đặc thù có tên gọi là (Tổng)
Công ty BHTG hoặc cơ quan BHTG; Đối tượng được BH của hoạt động BHTG là nghĩa vụ trả các khoản tiền gửi của chủ thể nhận tiền
gửi đối với người gửi tiền; Chủ thể thụ hưởng (được tổ chức thực hiện hoạt động BHTG chi trả tiền BH) từ hoạt động BHTG không
phải là chủ thể tham gia BHTG - chủ thể đã nộp phí BHTG mà là người gửi tiền; Mục đích của hoạt động BHTG là nhằm thực hiện các
chính sách công của nhà nước.
Phân biệt hoạt động BHTG và hoạt động BHTM. BHTG và BHTM là hai loại hình BH ra đời và tồn tại trong điều kiện nền KTTT
và đều chịu sự tác động của nền KTTT. Nhưng, hai loại hình hoạt động BH này có những điểm khác biệt về: 1)mục tiêu hoạt động;
2)chủ thể thực hiện các nghiệp vụ BHTG; 3)chủ thể tham gia BHTG; 4) phí và phương thức nộp phí BH; 5)Chủ thể thụ hưởng từ hoạt
động BH.
2.1.3. Các loại hình hoạt động BHTG
Căn cứ vào qui định của pháp luật về phạm vi thẩm quyền của tổ chức BHTG và mục tiêu chủ yếu của hoạt động BHTG: Loại hình hoạt

động BHTG chuyên chi trả, loại hình hoạt động BHTG chi trả với quyền hạn mở rộng; loại hình hoạt động BHTG giảm thiểu rủi ro.
Căn cứ vào qui định của pháp luật về hình thức sở hữu của chủ thể BHTG: Loại hình hoạt động BHTG do Nhà nước hoặc tư nhân
thực hiện và hỗn hợp.
Căn cứ vào qui định của pháp luật về cách thức tham gia BHTG của tổ chức nhận tiền gửi: Loại hình hoạt động BHTG tự nguyện và
bắt buộc.
Căn cứ vào cách thức thực hiện hoạt động BHTG: Loại hình hoạt động BHTG được thực hiện công khai và không công khai.
2.1.4. Những rủi ro trong hoạt động BHTG
14


Rủi ro đạo đức là những rủi ro xuất phát từ những hành vi vượt quá những rào cản đạo đức của chủ thể trong quan hệ BHTG. Đó là
loại rủi ro đặc thù trong lĩnh vực BH hình thành do những nguyên nhân khác nhau và có những biểu hiện khác nhau. Trọng tâm của rủi
ro đạo đức là những tác động khác nhau của hoạt động BHTG đến các chủ thể trong quan hệ BHTG.
Rủi ro lựa chọn nhầm lẫn chủ thể tham gia BHTG là hiện tượng tổ chức BHTG chấp nhận tổ chức tham gia BHTG tham gia
BHTG có mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh cao hoặc không tương thích với mức phí BHTG.
Rủi ro phân biệt đối xử giữa các tổ chức tham gia BHTG có thể xảy ra do sự ưu đãi của Nhà nước đối với các tổ chức tham gia BHTG
nhất định, tạo sự bất bình đẳng giữa các tổ chức tham gia BHTG đó với các tổ chức khác trong hệ thống BHTG.
2.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI
2.2.1. Khái niệm pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Pháp luật về hoạt động BHTG là hệ thống các qui phạm pháp luật
của nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động BHTG. Pháp luật về hoạt động BHTG là một bộ phận
trong hệ thống pháp luật của quốc gia; có mối liên hệ mật thiết với bộ phận pháp luật về NH; Pháp luật về hoạt động BHTG là phương
tiện pháp lí ghi nhận và bảo đảm thực thi các mục tiêu chính sách công của nhà nước trong lĩnh vực tài chính - NH.
Pháp luật về hoạt động BHTG bao gồm các bộ phận sau: 1), bộ phận pháp luật về chủ thể thực hiện các hoạt động BHTG. 2) bộ phận
pháp luật về công cụ thực hiện hoạt động BHTG. 3) bộ phận pháp luật về nội dung hoạt động BHTG. 4) bộ phận pháp luật về giải
quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động BHTG.
2.2.2. Các nội dung cơ bản của pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi
2.2.3.1. Nhóm các qui định pháp luật về chủ thể thực hiện hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Trên cơ sở khảo sát các hệ thống pháp
luật về hoạt động BHTG của Việt Nam và các quốc gia, Luận án cho rằng, tổ chức BHTG là một định chế tài chính đặc thù, có tư cách
pháp nhân, được thành lập và hoạt động trên cơ sở pháp luật, thực hiện các hoạt động BHTG nhằm bảo đảm các mục tiêu chính sách
công của nhà nước.

Tổ chức BHTG mang những đặc trưng pháp lí cơ bản sau: 1) về vị trí pháp lí. Mặc dù được thành lập bởi Quốc hội hay Chính phủ,
tổ chức BHTG có vị trí pháp lí độc lập tương đối với các cơ quan nhà nước khác. 2) về tư cách pháp lí. Tổ chức BHTG được pháp luật
qui định có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ pháp lí trong quan hệ pháp luật BHTG. 3) về mục tiêu hoạt động. Mục tiêu
hoạt động của tổ chức BHTG liên quan chặt chẽ đến mục tiêu chính sách công của nhà nước. 4) về trình tự thành lập, tổ chức BHTG
được thành lập theo các trình tự được pháp luật qui định.
2.2.3.2. Nhóm các qui định pháp luật về nội dung hoạt động bảo hiểm tiền gửi.
Thứ nhất, các qui định pháp luật về xác lập quan hệ bảo hiểm tiền gửi.
15


* Về xác lập quan hệ bảo hiểm tiền gửi thông qua hoạt động giao kết hợp đồng bảo hiểm tiền gửi. Hợp đồng BHTG là một loại hợp
đồng BH, ghi nhận cam kết giữa tổ chức BHTG và tổ chức tham gia BHTG trên cơ sở qui định của pháp luật về hoạt động BHTG,
trong đó, tổ chức tham gia BHTG có nghĩa vụ đóng phí BHG, tổ chức BHTG có nghĩa vụ chi trả tiền BHTG cho người thụ hưởng khi
xảy ra sự kiện BHTG.
Hợp đồng BHTG có những điểm đặc thù: 1)Chủ thể của hợp đồng BHTG gồm tổ chức BHTG và tổ chức tham gia BHTG. 2)Hợp
đồng BHTG là sự thỏa thuận giữa tổ chức BHTG và tổ chức tham gia BHTG nhằm xác lập một quan hệ hợp đồng BHTG dựa trên
những qui định của pháp luật về hoạt động BHTG. 3)Chủ thể của quan hệ nghĩa vụ BHTG, đó là các chủ thể có những quyền và nghĩa
vụ trong quan hệ nghĩa vụ BHTG. Cụ thể, tổ chức BHTG có nghĩa vụ chi trả tiền BHTG cho người thụ hưởng từ hoạt động BHTG khi
xảy ra sự kiện BHTG.
*Về xác lập quan hệ bảo hiểm tiền gửi thông qua hoạt động cấp giấy Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi. Giấy Chứng nhận tham
gia BHTG là hình thức pháp lí của loại hình BHTG mà tổ chức tham gia BHTG theo cách thức bắt buộc. Pháp luật qui định rõ loại tổ
chức nhận tiền gửi nào phải tham gia BHTG; thủ tục tham gia BHTG; điều kiện cấp, thu hồi giấy Chứng nhận tham gia BHTG; chủ thể có
thẩm quyền cấp, thu hồi giấy Chứng nhận tham gia BHTG… Tổ chức tài chính nhận tiền gửi phải thực hiện các thủ tục pháp lí để được
cấp giấy Chứng nhận tham gia BHTG nhằm bảo đảm và thúc đẩy sự ổn định, an toàn trong hoạt động NH của quốc gia.
Thứ hai, các qui định pháp luật về tạo lập, sử dụng quĩ bảo hiểm tiền gửi.
Một là, về tạo lập quĩ bảo hiểm tiền gửi và qui mô quĩ bảo hiểm tiền gửi.
Qui định các nguồn và cơ chế tạo lập quĩ BHTG, cơ chế sử dụng quĩ BHTG trong trạng thái bình thường và trong trường hợp xử lý
đổ vỡ NH, qui mô quĩ BHTG nhằm bảo đảm tính hiệu quả cho hoạt động BHTG. Các phương pháp tạo lập quĩ bảo hiểm tiền gửi: tạo
lập quĩ BHTG trước và sau khi tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ, theo phương pháp tổng hợp, nghĩa là, quĩ BHTG được tạo lập từ
trước và sau khi tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ.

Hai là, sử dụng quĩ bảo hiểm tiền gửi. Quĩ BHTG được sử dụng chủ yếu vào mục đích chi trả tiền BH cho người gửi tiền. Chi trả
BHTG là việc tổ chức BHTG thực hiện trả tiền cho người gửi tiền khi xảy ra sự kiện BHTG. Mức chi trả BHTG do pháp luật về hoạt
động BHTG qui định hoặc do các bên trong hợp đồng BHTG thỏa thuận là căn cứ để tổ chức BHTG tiến hành chi trả cho người gửi tiền.
Thứ ba, các qui định pháp luật về kiểm tra, giám sát chủ thể tham gia bảo hiểm tiền gửi, cảnh báo rủi ro sớm đối với chủ thể
tham gia bảo hiểm tiền gửi. Tổ chức BHTG còn có thẩm quyền thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát tổ chức tham gia BHTG thông
qua hai hình thức là giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ; đưa ra những cảnh báo sớm về nguy cơ rủi ro (nếu có) đối với tổ chức đó. Thực
chất, đây là hoạt động quản lí rủi ro đối với các tổ chức tham gia BHTG.
16


Thứ tư, các qui định pháp luật về hỗ trợ tài chính đối với chủ thể tham gia bảo hiểm tiền gửi. Pháp luật qui định về hỗ trợ tài
chính với tư cách là một trong những biện pháp cần thiết được áp dụng trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG có nguy cơ mất khả
năng chi trả. Mục đích cơ bản của việc qui định và áp dụng các biện pháp hỗ trợ tài chính nhằm giúp cho việc cơ cấu lại tổ chức tham
gia BHTG có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Các biện pháp hỗ trợ tài chính được tổ chức BHTG áp dụng đối với tổ chức tham gia
BHTG khá đa dạng, bao gồm: cho vay, bảo lãnh, mua lại nợ, có thể cấp trực tiếp hoặc gián tiếp các khoản hỗ trợ cho các tổ chức tham
gia BHTG được nhận hỗ trợ...
Thứ năm, các qui định pháp luật về chấm dứt bảo hiểm tiền gửi và thủ tục chi trả tiền bảo hiểm tiền gửi cho người thụ hưởng.
*Về chấm dứt bảo hiểm tiền gửi. Cũng như những quan hệ pháp luật khác, quan hệ pháp luật BHTG sẽ chấm dứt khi gặp các sự kiện
pháp lí tương ứng. Đối với loại hình BHTG tự nguyện được thể hiện bằng hình thức pháp lí là hợp đồng BHTG, các bên thoả thuận về
các điều khoản nhằm chấm dứt hợp đồng BHTG giữa tổ chức BHTG và tổ chức tham gia BHTG. Đối với loại hình BHTG bắt buộc, tổ
chức tham gia BHTG bị thu hồi giấy Chứng nhận tham gia BHTG là một sự kiện làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lí trong quan
hệ BHTG giữa tổ chức tham gia BHTG và tổ chức BHTG.
2.2.3.3. Nhóm các qui định pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo hiểm tiền gửi
Khái niệm, phân loại tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo hiểm tiền gửi.
- Tranh chấp từ hoạt động BHTG là những mâu thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể trong quan hệ BHTG về việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ pháp lí của họ. Hoạt động BHTG có tính đặc thù trong nền kinh tế, có liên quan đến quyền, lợi ích của nhiều chủ thể khác
nhau như tổ chức tham gia BHTG, người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG. Chủ thể trong quan hệ tranh chấp phát sinh từ hoạt động
BHTG bao gồm tổ chức BHTG, tổ chức tham gia BHTG, người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG.
- Xuất phát từ đặc điểm, tính chất của quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động BHTG là vừa mang tính bình đẳng, vừa
mang tính bất bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Do đó, tính chất quan hệ tranh chấp phát sinh từ hoạt động BHTG giữa các

bên chủ thể khá đa dạng: có thể mang tính hành chính hoặc dân sự.
Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động BHTG. Các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động BHTG phải bảo
đảm các yêu cầu nhất định. Với những nét đặc thù của tranh chấp phát sinh từ hoạt động BHTG, các phương thức giải quyết tranh chấp
cũng khá đa dạng: Đối với các tranh chấp mang tính hành chính, bên bị vi phạm có thể áp dụng phương thức khiếu nại, khiếu kiện hành
chính hoặc có thể áp dụng cơ chế tài phán hành chính (Tòa án hành chính); Đối với các tranh chấp mang tính chất dân sự, phương thức
giải quyết có thể là thương lượng, hoà giải, hoặc giải quyết bằng tổ chức tài phán nhà nước như Toà án.
17


2.2.3. Nguyên tắc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Thứ nhất, pháp luật về hoạt động BHTG
phải thể chế hóa các mục tiêu chính sách công của nhà nước trong lĩnh vực TC, NH. Thứ hai, pháp luật về hoạt động BHTG phải bảo
đảm vị trí pháp lí độc lập “tương đối” của tổ chức BHTG. Thứ ba, pháp luật về hoạt động BHTG phải bảo đảm gây dựng, duy trì được
sự tin tưởng, tâm lí yên tâm của người gửi tiền đối với hệ thống NH và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.
2.3. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ RA ĐỜI, PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN
GỬI
Luận án phân tích các yếu tố tác động đến sự ra đời và quá trình phát triển của pháp luật về hoạt động BHTG, bao gồm: Ðiều kiện kinh
tế, xã hội; Yêu cầu đối với sự ổn định, phát triển bền vững trong hoạt động của hệ thống ngân hàng và bảo đảm an sinh xã hội; Khuôn khổ
pháp lí phát triển hoàn chỉnh; Hệ thống kế toán và công bố thông tin lành mạnh.
2.4. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI
2.4.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi trên thế giới. Năm 1829, New York thực hiện
chương trình Bảo hiểm trách nhiệm ngân hàng. Đến nay, có khoảng 100 quốc gia và vùng lãnh thổ triển khai các hình thức khác nhau
của hoạt động BHTG. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của hoạt động BHTG đối với hệ thống NH cũng như nền kinh tế, Hiệp hội
BHTG quốc tế (IADI) đã được thành lập ngày 05/6/2002 tại Thuỵ sĩ theo sáng kiến của Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, Cộng
đồng tài chính quốc tế. Mục tiêu hoạt động của IADI là góp phần bảo đảm sự ổn định của hệ thống tài chính quốc tế, đẩy mạnh hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực BHTG, khuyến khích giao lưu quốc tế giữa các tổ chức thực hiện hoạt động BHTG và các tổ chức liên quan,
tăng cường phối hợp khi xảy ra khủng hoảng tài chính trên toàn cầu.
2.4.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam. Năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực
hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế. Hệ thống NH cũng thực hiện nhiều cải cách quan trọng từ năm 1988. Nhà nước ta ban hành Qui tắc
BH trách nhiệm của Quĩ tín dụng nhân dân đối với khoản tiền gửi có kì hạn kèm theo Quyết định số 101/TC-QĐ-BH ngày 01/01/1994.
Ngày 12/12/1997, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng. Khoản 1 Điều 17

Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 qui định "Tổ chức tín dụng có trách nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi; mức
bảo toàn hoặc bảo hiểm do Chính phủ qui định". Qui định này là tiền đề pháp lí để Chính phủ ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP
về BHTG và Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg về thành lập tổ chức BHTG Việt Nam. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật các
Tổ chức tín dụng (được sửa đổi năm 2010) tiếp tục khẳng định trách nhiệm tham gia BHTG của các TCTD được thành lập và hoạt
động theo pháp luật Việt Nam. Luật BHTG được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 18/6/2012 là văn bản Luật đầu
tiền của Việt Nam qui định về BHTG. Tuy nhiên, nhiều qui định của luật còn mang tính chất khung, chưa cụ thể, đòi hỏi phải được
18


hướng dẫn bằng các qui định tại văn bản dưới luật trong thời gian tới. Đó là những tiền đề pháp lí quan trọng để Nhà nước ta tiếp tục
nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường và nền kinh tế hội nhập, các chủ thể kinh doanh phải tham gia vào những cuộc
cạnh tranh gay gắt để tồn tại và phát triển. Trong lĩnh vực tài chính, các tổ chức nhận tiền gửi ngày càng gia tăng về số lượng, phát triển về
qui mô vốn và đa dạng về sản phẩm dịch vụ. Các TCTD đang cố gắng đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu khắt khe của nền kinh tế.
Thực tế đó đã đặt các TCTD vào cuộc cạnh tranh khốc liệt. Một trong những nhân tố bảo đảm sự tồn tại và phát triển bền vững của các
TCTD là sự tin tưởng, yên tâm của các cá nhân, tổ chức trong xã hội thông qua hành vi lựa chọn các TCTD nhất định để gửi các khoản tiền
của mình. Mặt khác, trong hoạt động kinh doanh, các TCTD phải đối mặt với những rủi ro khác nhau, có thể ảnh hưởng đến cả hệ thống tài
chính. Vì vậy, cần thiết phải có những biện pháp hữu hiệu mang tính chiến lược nhằm bảo vệ quyền lợi về tài sản của cá nhân, tổ chức gửi
tiền tại các tổ chức nhận tiền gửi cũng như bảo đảm sự an toàn, giảm thiểu rủi ro cho chính các tổ chức này. Do đó, hoạt động BHTG đã ra
đời. Đồng thời, sự xuất hiện của hoạt động BHTG mang tính khách quan và là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của pháp luật về hoạt
động BHTG tại các nước trên thế giới cũng như tại Việt Nam.
Pháp luật về hoạt động BHTG là công cụ pháp lí quan trọng bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản của cá nhân, tổ chức gửi tiền được
thể hiện dưới hình thái giá trị trong mối quan hệ tín dụng với các tổ chức nhận tiền gửi mà phần lớn là các TCTD. Đồng thời, bảo đảm cho
hoạt động của các TCTD an toàn thông qua các qui định pháp luật về nghiệp vụ BHTG. Từ đó, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh
vực tài chính, ngân hàng, góp phần duy trì an ninh tài chính quốc gia, trật tự và an toàn xã hội.
Hoạt động BHTG có những đặc thù so với các hoạt động BH khác. Pháp luật qui định chủ thể thực hiện các hoạt động BHTG là tổ
chức tài chính “đặc biệt”: (tổng), công ty BHTG hoặc cơ quan BHTG do nhà nước thành lập. Các DN BH không thực hiện các hoạt động
BHTG. Các nội dung hoạt động BHTG không chỉ nhằm thực hiện các hoạt động BHTG thuần túy, mà còn nhằm phòng ngừa hiện tượng “đổ
vỡ” các TCTD gặp rủi ro, bảo đảm ổn định đối với hoạt động tài chính, NH của các nước.

Các loại hình hoạt động BHTG có thể được qui định khác nhau tại các quốc gia nhưng đã khẳng định được vai trò quan trọng trong
việc bảo đảm hoạt động an toàn cho các TCTD, giúp đối phó những nguy cơ rủi ro cao trong hoạt động NH nói riêng và trong hệ thống tài
chính nói chung.
Kết quả nghiên cứu những vấn đề lí luận cơ bản về BHTG và pháp luật về hoạt động BHTG là tiền đề để nghiên cứu nội dung điều
chỉnh của pháp luật về hoạt động BHTG của các nước cũng như Việt Nam. Trên cơ sở đó, đánh giá thực tiễn pháp lí về hoạt động BHTG ở
Việt Nam; đưa ra những đề xuất nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam.
19


CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
PHÁP LÍ ĐẶT RA
3.1. VỀ CHỦ THỂ THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI.
Chủ thể giữ vị trí, có vai trò đặc biệt trong hoạt động BHTG là tổ chức BHTG. Vì vậy, Luận án tập trung nghiên cứu về tổ chức BHTGVN chủ thể thực hiện hoạt động BHTG theo pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam trên các mặt: địa vị pháp lí, cơ cấu, tổ chức, thẩm
quyền.
3.2. VỀ NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI
3.2.1. Về hoạt động cấp Giấy Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Đối tượng phải tham gia BHTG theo qui định hiện nay bao gồm các TCTD và các tổ chức không phải là TCTD nhưng được thực
hiện một hoặc nhiều hoạt động NH, phải hoàn thành thủ tục tham gia BHTG để được cấp giấy Chứng nhận tham gia BHTG trước khi
tiến hành hoạt động. Hồ sơ đăng kí tham gia BHTG được gửi đến BHTGVN. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ,
BHTGVN phải cấp giấy Chứng nhận tham gia BHTG cho tổ chức tham gia BHTG.
3.2.2. Về hoạt động tạo lập, sử dụng quĩ bảo hiểm tiền gửi.
Về hoạt động tạo lập quĩ bảo hiểm tiền gửi và qui mô quĩ bảo hiểm tiền gửi. Quĩ BHTG của BHTGVN được hình thành từ NSNN, phí
BHTG và nguồn khác như các nguồn thu từ hoạt động đầu tư vốn tạm thời nhàn rỗi của BHTGVN, từ nguồn vốn vay hoặc tiếp nhận vốn hỗ
trợ của Chính phủ, vay có bảo lãnh của Chính phủ, phát hành trái phiếu...
Về hoạt động sử dụng quĩ bảo hiểm tiền gửi. Quĩ BHTG được sử dụng để thực hiện các hoạt động BHTG như chi trả tiền BH cho
người gửi tiền tại TCTD khi xảy ra sự kiện BHTG, hỗ trợ tài chính đối với TCTD gặp khó khăn trong kinh doanh, mua trái phiếu Chính
phủ, trái phiếu, tín phiếu NHNN hoặc TCTD nhà nước.
3.2.3.Về hoạt động kiểm tra, giám sát, cảnh báo rủi ro đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Ngoài trách nhiệm chi trả
tiền BHTG cho người thụ hưởng, BHTGVN còn có thẩm quyền kiểm tra, giám sát TCTD, đưa ra những cảnh báo sớm về nguy cơ rủi

ro (nếu có) đối với tổ chức đó.
3.2.4. Về hoạt động hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi Pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam qui định
TCTD chỉ được BHTGVN hỗ trợ tài chính khi có hai điều kiện là: 1)rơi vào tình trạng có nguy cơ mất khả năng chi trả; 2)TCTD chưa
bị đặt dưới sự kiểm soát đặc biệt của NHNN Việt Nam.
20


3.2.5. Về chấm dứt hoạt động bảo hiểm tiền gửi. BHTGVN có quyền thu hồi giấy Chứng nhận tham gia BHTG của các tổ chức
tham gia BHTG trong những trường hợp nhất định: không nộp đủ phí BHTG quá thời hạn ba tháng kể từ ngày phải nộp, NHNN có văn
bản chấm dứt hoạt động nhận tiền gửi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản yêu cầu tổ chức tham gia BHTG chấm dứt các giao
dịch để thanh lí tài sản hoặc Toà án thông báo quyết định mở thủ tục thanh lí tài sản. Căn cứ pháp lí chấm dứt hoạt động BHTG: TCTD
không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu chấm dứt các giao
dịch để thanh lí tài sản hoặc Tòa án thông báo quyết định mở thủ tục thanh lí tài sản theo qui định của pháp luật về phá sản.
3.3. VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI
Các tranh chấp phát sinh từ hoạt động BHTG được coi là có nguy cơ tiềm tàng. Song, thực tế, các tranh chấp phát sinh trong lĩnh
vực BHTG chưa được qui định tại các văn bản qui phạm pháp luật BHTG.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
1. Pháp luật về hoạt động BHTG của nước ta chưa xác định rõ vị trí pháp lí của BHTGVN. Hiện nay, BHTGVN được qui định là tổ
chức tài chính nhà nước thực hiện các hoạt động BHTG. Qui định này chỉ là một nội dung của sự phân loại theo tiêu chí chủ sở hữu
của tổ chức, hoàn toàn không phải là hình thức pháp lí của BHTGVN. Qui định hình thức pháp lí của BHTGVN không rõ ràng có ảnh
hưởng nhất định đối với việc xác định vị thế “độc lập” của BHTGVN trong tổ chức, cơ cấu cũng như thực hiện các hoạt động BHTG.
Như vậy, BHTGVN dường như là một tổ chức “lưỡng tính”. Cách thức tổ chức, thành lập các bộ phận chức năng của BHTGVN có
nhiều điểm tương tự như doanh nghiệp nhà nước. Có những quan hệ pháp luật mà BHTGVN tham gia như là quan hệ hành chính, như
trong trường hợp BHTG thực hiện quyền cấp, cấp đổi, thu hồi giấy Chứng nhận BHTG; quyết định chấm dứt BHTG đối với tổ chức
tham gia BHTG. Vì vậy, BHTGVN vừa mang dáng dấp của cơ quan quản lí hành chính vừa có đặc điểm của tổ chức kinh tế.
Về vị trí pháp lí của BHTGVN, theo qui định hiện hành, BHTGVN là một tổ chức do Thủ tướng Chính phủ thành lập và chịu sự
quản lí của các cơ quan quản lí nhà nước trong lĩnh vực tài chính, NH như Bộ Tài chính, NHNN Việt Nam. Do đó, BHTGVN khó có
thể chủ động, linh hoạt thực hiện kịp thời các hoạt động BHTG.
Mặt khác, nhiều qui định về quyền hạn, trách nhiệm của BHTGVN không phù hợp điều kiện thực tế ở nước ta cũng như không
tương thích với năng lực của BHTGVN. Hoặc, có những quyền hạn, trách nhiệm của BHTGVN được qui định trong pháp luật về

BHTG có sự trùng lặp, chồng chéo với các qui định pháp luật trong lĩnh vực NH đã gây phức tạp cho các bên chủ thể liên quan.
2. Những bất cập về tạo lập quĩ BHTG trong pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam khiến cho năng lực tài chính của
BHTGVN bị hạn chế đáng kể: Vốn điều lệ do NSNN cấp vốn đã thấp nhưng không được chuyển đủ ngay cho BHTGVN; Nguồn thu từ
phí thấp do áp dụng thu phí BHTG đồng hạng. Mặt khác, thực tiễn hoạt động NH tại Việt Nam cho thấy việc thực hiện thu phí đồng
21


hạng không tạo được sự bình đẳng giữa các TCTD hoạt động có hiệu quả và các tổ chức yếu, kém. Bởi vì, việc qui định và áp dụng
mức phí bảo hiểm đồng hạng không phản ánh được mức độ rủi ro của mỗi TCTD có thể gây ra đối với cả hệ thống BHTG. Pháp luật
hiện hành không qui định về qui mô quĩ BHTG cũng như tiêu chí xác định qui mô quĩ BHTG, qui định mức trần tỉ lệ dự trữ của quĩ
BHTG.
3. Qui định về quản lí quĩ BHTG có điểm chưa hợp lí: pháp luật cho phép BHTGVN mua trái phiếu, tín phiếu của TCTD nhà nước hoặc
gửi tiền tại TCTD nhà nước. Qui định này có thể sẽ dẫn đến việc BHTGVN trở thành người gửi tiền không được BH đối với những khoản
tiền gửi của mình tại TCTD nhà nước. Điều này có thể gây nên những tác động rất xấu đến hoạt động BHTG, quĩ BHTG bị hao tổn và liên
quan đến các rủi ro đạo đức.
4. Qui định về sử dụng quĩ BHTG trong việc chi trả cho người gửi tiền có điểm chưa phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay. Đó
là về chủ thể được bảo vệ, loại tiền gửi được BH và không được BH, hạn mức chi trả BHTG thấp (50 triệu đồng) có thể làm giảm sự tin
tưởng của người gửi tiền và ảnh hưởng đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng.
5. Qui định về hoạt động hỗ trợ tài chính của BHTGVN chưa được đầy đủ như căn cứ pháp lí để BHTGVN thực hiện hoạt động hỗ trợ
tài chính đối với TCTD là sự xác nhận của NHNN về việc một TCTD đủ điều kiện nhận hỗ trợ tài chính; về nghĩa vụ của TCTD nhận hỗ trợ
tài chính đối với BHTGVN; về mức hỗ trợ tài chính, pháp luật hiện hành chưa có qui định về mức hỗ trợ tài chính cho TCTD trong cơ cấu
quĩ BHTG.
6. Hoạt động kiểm tra, giám sát đối với TCTD của BHTGVN đã bộc lộ những điểm hạn chế nhất định.
Về căn cứ pháp lí của hoạt động kiểm tra, giám sát, Theo qui định tại Quyết định số 75/2000/QĐ-TTg, TCTD phải thực hiện chế độ
thông tin, báo cáo về tình hình hoạt động kinh doanh theo qui định của BHTGVN. Đồng thời, BHTGVN được quyền qui định về chế
độ thông tin, báo cáo, tài liệu về hoạt động kinh doanh của TCTD như qui trình, hình thức, chế tài... Tuy nhiên, ngày 16/3/2000, NHNN
Việt Nam đã ban hành Thông tư số 03/2000/TT-NHNN5 qui định về các loại báo cáo mà TCTD - tổ chức tham gia BHTG phải nộp cho
BHTGVN. Sự chống chéo này đã gây khó khăn cho hoạt động tuân thủ pháp luật của TCTD.
Về nội dung hoạt động kiểm tra, giám sát, thẩm quyền của BHTGVN là kiểm tra các TCTD trong việc chấp hành các qui định pháp
luật về an toàn trong hoạt động NH đã thể hiện sự trùng lắp, chồng chéo với hoạt động thanh tra của Thanh tra NHNN Việt Nam. Mặc dù,

về lí luận cũng như về thực tiễn, hoạt động thanh tra của Thanh tra NHNN có những điểm khác biệt với hoạt động kiểm tra, giám sát của
BHTGVN về các mặt như chủ thể thực hiện, tính chất, mục đích, đối tượng và hệ quả pháp lí.

22


Về qui trình giám sát, hoạt động giám sát từ xa được qui định thực hiện theo từng quí. Theo đó, thông thường ngày 20 tháng đầu quí
mới hoàn thành kết quả giám sát của quí trước. Do đó, chưa bảo đảm cảnh báo kịp thời đối với các tổ chức tham gia BHTG có “vấn đề”,
tác dụng cảnh báo sớm còn thấp.
Về năng lực và kinh nghiệm giám sát an toàn hoạt động NH của BHTGVN còn yếu. Điều này đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn
hơn 10 năm hoạt động. Nội dung các cuộc kiểm tra trên của BHTGVN vẫn chỉ dừng lại ở các nội dung kiểm tra việc tính và nộp phí
BHTG, việc niêm yết chứng nhận BHTG, quản lí, hạch toán tiền gửi thuộc đối tượng BHTG, chấp hành qui định về thông tin, báo cáo
đối với tổ chức TCTD.
Về chế tài, pháp luật về hoạt động BHTG hiện hành chưa đề cập đến các biện pháp chế tài pháp lí mà BHTGVN có thể áp dụng đối
với TCTD vi phạm các qui định về an toàn trong hoạt động NH. Trong quá trình thực hiện các chức năng của mình, nếu phát hiện
TCTD vi phạm các qui định về an toàn đối với hoạt động NH, BHTGVN chỉ có thể yêu cầu TCTD thực hiện các biện pháp chấn chỉnh
kịp thời, báo cáo bằng văn bản lên NHNN.
Về giá trị pháp lí văn bản pháp luật qui định về hoạt động kiểm tra, giám sát. Mặc dù hệ thống pháp luật về hoạt động BHTG được
xây dựng và thực hiện trong khoảng mười năm, song những qui định pháp luật về hoạt động kiểm tra, giám sát của BHTGVN chỉ được
thể hiện dưới hình thức văn bản dưới luật. Trong đó, văn bản có giá trị pháp lí cao nhất là Nghị định do Chính phủ ban hành. Trong khi
đó, những qui định pháp luật về các vấn đề có liên quan đến hoạt động tài chính, ngân hàng đều đã có luật điều chỉnh. Thực tế đó làm
hạn chế đáng kể hiệu quả hoạt động kiểm tra, giám sát của BHTGVN.
7. Qui định về sự kiện BHTG trong pháp luật BHTG chưa rõ ràng, chưa có sự tách bạch giữa trường hợp thu hồi giấy Chứng nhận
tham gia BHTG và chấm dứt BHTG, qui định về sự kiện BHTG chưa tương thích với các qui định về giải thể, phá sản các TCTD. Mặt
khác, chưa có qui định bảo đảm quyền nhận tiền chi trả của người gửi tiền trong trường hợp TCTD không thực hiện nghĩa vụ chi trả
cho người gửi tiền; chưa dự liệu các tranh chấp có thể phát sinh và phương thức giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực hoạt
động BHTG.
CHƯƠNG 4
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
4.1. YÊU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM

4.1.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam. Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về hoạt động
BHTG phải thể chế hóa được quan điểm chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước, thể hiện được tính đặc thù của hệ thống NH
23


Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị của Việt Nam; Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG phải phù hợp với điều kiện
kinh tế, xã hội ở nước ta; Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG phải kế thừa những nội dung phù hợp đã được trải nghiệm
qua thực tiễn hơn mười năm thực hiện pháp luật về hoạt động BHTG, bảo đảm tính kế thừa những qui định phù hợp, đồng thời khắc
phục được những thiếu sót, bất cập của pháp luật về hoạt động BHTG hiện hành; Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG phải
trên cơ sở tham khảo, học tập kinh nghiệm xây dựng, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG của các nước; Thứ năm, hoàn thiện
pháp luật về hoạt động BHTG phải tạo thành một chỉnh thể thống nhất, đồng bộ với các hệ thống pháp luật về tài chính; Thứ sáu, hoàn
thiện pháp luật về hoạt động BHTG phải bảo đảm tính kĩ thuật lập pháp.
4.1.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam. Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về hoạt
động BHTG phải bảo đảm phù hợp với Chiến lược phát triển ngành NH, với các mục tiêu cơ bản về phát triển các TCTD đến năm 2010
và định hướng chiến lược đến năm 2020; Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG phải gắn liền với Chiến lược phát triển
dịch vụ NH, NHNN Việt nam đã đặt ra các chỉ tiêu phát triển dịch vụ ngân hàng và có tác động đến định hướng hoàn thiện pháp luật về
BHTG trong thời gian tới; Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG phải gắn liền với định hướng phát triển hoạt động huy
động vốn; Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG phải bảo đảm phù hợp với định hướng phát triển dịch vụ ngoại hối của Nhà
nước ta.
4.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
4.2.1. Xác định mô hình hoạt động bảo hiểm tiền gửi phù hợp điều kiện ở Việt Nam. Cần qui định mô hình hoạt động BHTG
theo mô hình hiện nay. Bởi vì, sẽ kế thừa được bộ máy tổ chức và nhân sự hiện có về kiểm tra, giám sát của tổ chức BHTGVN. Đồng
thời, mang lại hiệu quả tốt nhất cho hoạt động kiểm tra tại chỗ, giám sát từ xa đối với sự an toàn hoạt động NH, bảo đảm hệ thống NH
hoạt động ổn định. Đồng thời, cần qui định về lộ trình chuyển từ mô hình hoạt động BHTG chi trả với quyền hạn mở rộng như hiện nay
sang mô hình hoạt động BHTG giảm thiểu rủi ro. Trong trường hợp hệ thống qui định về xếp hạng các TCTD đã trở nên hoàn thiện và
việc đánh giá các TCTD đã đi vào nền nếp thì có thể chính thức triển khai áp dụng theo mô hình hoạt động BHTG giảm thiểu rủi ro.
4.2.2. Hoàn thiện các qui định về vị trí pháp lí của chủ thể thực hiện hoạt động bảo hiểm tiền gửi.
Thứ nhất, về vị trí pháp lí của tổ chức BHTG, cần kế thừa qui định về vị trí pháp lí của tổ chức BHTG Việt Nam là trực thuộc Chính
phủ. Bên cạnh đó, cần xác định rõ mối quan hệ giữa tổ chức BHTG với các chủ thể thuộc hệ thống giám sát tài chính của quốc gia.
Thứ hai, về mục tiêu hoạt động, chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của tổ chức BHTG ở Việt Nam. Căn cứ vào mục tiêu chính sách

công và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, mục tiêu hoạt động BHTG cần được xác định rõ ràng.
4.2.3. Hoàn thiện các qui định pháp luật về nội dung hoạt động bảo hiểm tiền gửi.
24


4.2.3.1. Về hoạt động xác lập quan hệ bảo hiểm tiền gửi.
*Cần hoàn thiện các qui định pháp luật về cấp giấy Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi. Cần bổ sung quyền hạn của BHTGVN
trong việc phối hợp với cơ quan quản lí nhà nước trong lĩnh vực tài chính, NH về thẩm định điều kiện của các TCTD đó trước khi tiến
hành hoạt động; Cần bổ sung các biện pháp chế tài pháp lí theo hướng nghiêm khắc đối với TCTD vi phạm nghĩa vụ tham gia BHTG
như vi phạm qui định về thực hiện cấp, cấp đổi, niêm yết giấy Chứng nhận tham gia BHTG. Các mức chế tài pháp lí như mức phạt tiền
phải bảo đảm mang tính răn đe đối với TCTD.
* Bổ sung các qui định pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tiền gửi. Cần bổ sung các qui định tạo cơ sở pháp lí cho các tổ chức tài
chính khác có thể tham gia BHTG theo hình thức tự nguyện. Trong trường hợp này, cần qui định về các điều kiện mà một tổ chức tài
chính phải bảo đảm để có thể tự nguyện tham gia BHTG; về thẩm quyền của các chủ thể quản lí trong lĩnh vực tài chính, NH cũng với
BHTGVN thẩm định các điều kiện của tổ chức tài chính tự nguyện tham gia BHTG; về hợp đồng BHTG; chế tài pháp lí có liên quan.
4.2.3.2. Hoàn thiện các qui định pháp luật về hoạt động tạo lập, sử dụng quĩ bảo hiểm tiền gửi.
*Cần qui định về việc xác định qui mô quĩ bảo hiểm tiền gửi. Qui mô quĩ BHTG phải đạt tỷ lệ 1,5% - 5% tổng giá trị tiền gửi được
BH.
*Sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật về tạo lập quĩ bảo hiểm tiền gửi.
Về phí BHTG - nguồn chủ yếu của quĩ BHTG, cần thiết phải thay đổi phương pháp thu phí BHTG theo mức độ rủi ro; bổ sung quĩ
BHTG từ lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của BHTGVN.
* Hoàn thiện qui định về sử dụng quĩ bảo hiểm tiền gửi trong việc chi trả bảo hiểm cho người thụ hưởng: về chủ thể được bảo hiểm;
về đối tượng được BHTG; qui định hạn mức chi trả BHTG phù hợp.
4.2.3.3. Sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật về hoạt động kiểm tra, giám sát, cảnh báo rủi ro đối với tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi. Cần hoàn thiện qui định pháp luật về kiểm tra, giám sát của các chủ thể trong hoạt động BHTG: mở rộng đối tượng kiểm
tra, giám sát vì hiện nay pháp luật mới chỉ qui định đối tượng kiểm tra, giám sát là QTDND cơ sở; qui định chế tài pháp lí nghiêm khắc
đối với TCTD về chế độ thông tin, báo cáo phục vụ công tác kiểm tra, giám sát; qui định chế độ giám sát đối với tổ chức BHTG trong
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; qui định thống nhất về thẩm quyền của các chủ thể có chức năng kiểm tra, giám sát về tài
chính, NH tránh chồng chéo hoặc thiếu sót về trách nhiệm, quyền hạn…
4.2.3.4. Cần bổ sung qui định về hoạt động hỗ trợ tài chính đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Phải qui định rõ căn cứ

pháp lí để BHTGVN thực hiện hoạt động hỗ trợ tài chính đối với TCTD; qui định cơ chế để BHTGVN được tham gia thẩm định điều
kiện áp dụng hoạt động hỗ trợ tài chính đối với tổ chức tham gia BHTG; qui định về nghĩa vụ của TCTD được nhận hỗ trợ tài chính đối
25


×