Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh trường trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 25 trang )

Sở giáo dục và đào tạo Thanh hóa
Phòng giáo dục và đào tạo Thọ Xuân

Sáng kiến  kinh nghiệm

Một số biện pháp nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức học sinh trường trung học cơ sở

                                                                                          

                            Họ và tên: Vũ Thị Thanh

                                                          Chức vụ: Hiệu trưởng
                                                          Đơn vị: Trường THCS Xuân Yên
                                                          Đề tài: Quản lý

1


Th¸ng 04 n¨m 2011

A ­ ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI NÓI ĐẦU:

Có thể nói, nhìn lại lịch sử phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế 
giới chúng ta đều thấy rằng giáo dục và đào tạo có vai trò hết sức quan trọng  
trong công cuộc xây dựng đất nước, trong chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội  
của mỗi quốc gia.Và những ai đã từng quan tâm đến lịch sử, các cuộc cải cách 
trong lịch sử  thế  giới hẳn không quên cuộc cải cách năm 1868  ở  Nhật Bản, 
Minh Trị Thiên Hoàng đã xem "Giáo dục là chìa khoá" để mở cửa xây dựng đất 
nước và đã thực hiện thành công cuộc cải cách đó. Đối với Việt Nam, từ xa xưa 


ông cha ta đã  rất chú trọng đến giáo dục, chất lượng giáo dục. Vua Lê Thánh 
Tông một trong những người chú trọng đến giáo dục quốc gia đã cho khắc vào 
bia Quốc Tử Giám rằng: "Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí mạnh  
thì thế nước cường, nguyên khí yếu thì thế nước tàn".
Trong tiến trình thực hiện sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển đất 
nước, nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII cũng đã khẳng định: "Giáo dục là  
quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư  cho sự phát triển" , do đó 
không thể  xem nhẹ  vai trò của giáo dục trong sự  phát triển của xã hội, hoàn 
thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong những năm qua, 
đất nước ta đang chuyển mình trong công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện.  
Chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn rất đáng tự hào về tất cả các mặt. 
Song đáng kể hơn hết là đời sống kinh tế và cơ sở hạ tầng của xã hội đã phát  
triển rõ nét. Những thành công của giáo dục trong công cuộc đổi mới là động lực  
quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế – xã hội. 
            Tuy nhiên, trong sự thành công đó, một vấn đề đáng lo ngại hiện nay đó là  
vẫn còn một bộ phận học sinh có hành vi lệch chuẩn về đạo đức như: vi phạm  
về luật giao thông, gây gổ đánh nhau, chây lười trong học tập, bỏ học, bỏ tiết, đi 
học muộn, nói tục, vi phạm nội quy trường, lớp, vi phạm tác phong, nề nếp...  
thích sống hưởng thụ, thích ăn chơi hoang phí, coi nặng giá trị vật chất, lười lao 
động, thiếu ý thức rèn luyện, không dám đấu tranh với cái sai, cái xấu... Chính vì  
vậy, nếu không có biện pháp giáo dục đúng đắn và kịp thời thì số học sinh này  
sẽ gia tăng nhanh, gây ra những hậu quả lớn cho gia đình và xã hội.

2


   
Đạo đức học sinh – Vấn đề cần suy nghĩ?          
         Vì thế, để góp phần tạo ra những công dân có ích cho xã hội, chúng ta phải 
giáo dục học sinh ngay từ  khi các em còn ngồi trên ghế nhà trường. Bởi đặc điểm 

của lứa tuổi từ 11 đến 15 ở bậc THCS là giai đoạn bắt đầu thay đổi cả về thể chất 
lẫn tâm lí. Các em luôn hiếu động, hay bắt chước, muốn tự khẳng định mình... Do  
vậy mà các em không muốn bị gia đình ràng buộc, các em dễ có những nhận thức 
không đúng, lệch lạc dẫn đến vi phạm các nội quy, quy định chung. Mặt khác, ở 
lứa tuổi này nhu cầu giao tiếp của các em rất lớn, đặc biệt là sự giao tiếp với bạn  
bè, từ đó mà hình thành nên những nhóm bạn cùng sở thích. Khi không có sự hướng 
dẫn của người lớn các em dễ bị lôi kéo dẫn đến những nhận thức sai lệch về ý 
thức, hành vi, lời nói và dẫn đến các vi phạm xảy ra... Đây là vấn đề làm đau đầu 
không ít các bậc phụ huynh, các nhà quản lí và những ai quan tâm đến  giáo dục.
          Vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để học sinh định hình  được một lối sống  
phù hợp với chuẩn mực đạo đức, đúng lứa tuổi của các em. Từ đó các em có thể 
phát huy được tính năng động, sáng tạo, có thái độ ứng xử đúng đắn, phù hợp với 
các quy tắc đạo đức, chuẩn mực của xã hội. Tôi nghĩ mỗi chúng ta cần phải có 
những nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của giáo dục đạo đức đối với học 
sinh, coi giáo dục đạo đức cho học sinh là nền tảng, là gốc rễ vững chắc cho các 
mặt giáo dục khác. Qua thực tiễn làm công tác quản lý, bản thân tôi được tiếp xúc 
với nhiều đối tượng học sinh. Nhưng điều làm tôi luôn băn khoăn và trăn trở đó là 
tại sao tình trạng đạo đức học sinh lại ngày càng xuống cấp nghiêm trọng? Nguyên 
nhân nào dẫn đến thực trạng đó?  Những lực lượng nào tham gia ngăn chặn, giúp  
đỡ và uốn nắn cho các em những vi phạm nói trên? Có lẽ, không ai khác đó chính là 
gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Trong đó vai trò, trách nhiệm của các nhà quản 
lý ở các nhà trường đặc biệt quan trọng. Đó là lý do tôi chọn vấn đề  này làm đề tài 
nghiên cứu. Hy vọng sẽ góp tiếng nói cùng các đồng nghiệp trong quá trình công 
tác.
II. THỰC TRẠNG: 

1. Ưu điểm:
 
Những năm gần đây, trong khi xu thế toàn cầu hoá, hội nhập với thế giới đã 
mở ra cho đất nước ta những thời cơ và vận hội mới. Nền kinh tế đã có những 

bước phát triển vượt bậc, đời sống nhân dân được nâng lên. Công tác giáo dục cũng  

3


đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, chăm lo. Đa số các nhà trường đã có những 
nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác giáo dục nói chung, giáo dục 
đạo đức nói riêng. Đối với trường THCS  Xuân Yên, trong nhiều năm qua, được sự 
đồng thuận của nhân dân, sự nỗ lực hết mình của đội ngũ cán bộ giáo viên , đặc 
biệt là sự chỉ đạo kịp thời của ban giám hiệu nhà trường,chất lượng giáo dục toàn 
diện ngày càng được nâng cao, kỷ cương nề nếp trường học được chú trọng, thực 
hiện có hiệu quả.
Học sinh đến trường thực hiện đúng trang phục,đồng phục theo quy định  
của nhà trường, đi học và khi tham gia các hoạt động  khác đảm bảo đúng giờ, kính 
trọng thầy, cô giáo, cán bộ, nhân viên, thương yêu, giúp đỡ bạn bè, có ý thức tổ 
chức kỷ luật cao,giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ tài sản của nhà trường.
Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm ngoài lòng thương yêu học sinh đã có ý thức 
đổi mới phương pháp sinh hoạt lớp, vì đây chính là hoạt động có tác dụng lớn  
nhất, thiết thực nhất đối với công tác giáo dục học sinh. 
Nhà trường đã tổ chức tốt  các hoạt động ngoại khoá, các hoạt động  
thể dục thể thao, văn nghệ các cuộc thi  tìm hiểu về lịch sử quân đội nhân 
dân Việt Nam, thi tìm hiểu kiến thức văn hoá và hiểu biết xã hội nhằm 
rèn luyện cho học sinh ý thức chủ  động, tích cực, kích thích sự  đam mê  
tìm tòi, khám phá. Đồng thời thông qua các bài giảng bộ môn (đặc biệt các 
môn giáo dục công dân và các môn khoa học xã hội) giúp học sinh nâng 
cao ý thức tổ  chức kỷ  luật, bồi dưỡng giá trị  nhân văn, phát triển nhân  
cách tạo cho học sinh có động cơ thái độ học tập tốt.
Tổ  chức tốt các hoạt động "uống nước nhớ nguồn" , các phong trào 
tình nghĩa, tương thân, tương ái  nhằm giáo dục ý thức truyền thống dân 
tộc cho học sinh.

Nhà trường đã phối hợp với các ban ngành, tổ chức các đợt giáo dục  
pháp luật, an toàn giao thông,... nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật. Đặc biệt  
nhà trường đã xây dựng tiêu chí xếp loại thi đua đối với cán bộ giáo viên,  
nhân viên và học sinh cụ thể, rõ ràng, chi tiết, mã hoá các tiêu chí đó thành 
điểm số. Do vậy, học sinh vi phạm tệ  nạn xã hội như  nghiện hút, sử 
dụng chất kích thích, cờ bạc... không có.
Có thể nói, những hoạt động trên của nhà trường đã tạo cho các em 
động cơ, thái   độ  học tập  đúng  đắn. Chất lượng giáo dục  đạo  đức có 
chuyển biến rõ rệt, thái độ  tu dưỡng, học tập của học sinh ngày càng tốt  
hơn. Số  học sinh giỏi, HSTT, học sinh đạt giải HSG các cấp ngày càng 
tăng cả về số lượng và chất lượng giải. 
2. Tồn tại: Tuy có những  ưu điểm trên, xong công tác giáo dục đạo đức 
cho học sinh  ở  trường chúng tôi vẫn còn những tồn tại, chưa  đáp  ứng 
đựơc yêu cầu của xã hội. Đó là: 
Vẫn còn tình trạng học sinh yếu kém về  đạo đức và có thể  nhận  
thấy một điều rằng: Do chạy theo thành tích nên trên thực tế số học sinh có 

4


khó khăn về đạo đức cần được giúp đỡ  còn cao hơn nhiều so với kết quả.  
Một bộ phận học sinh không xác định được động cơ, thái độ học tập và tu  
dưỡng đúng đắn, thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện  chấp hành không tốt các 
nội quy của trường, lớp: trốn học, bỏ học, đi học muộn, nói chuyện riêng,  
hút thuốc lá, nói tục, chửi bậy, quay cóp trong kiểm tra và thi cử, vi phạm 
pháp luật về  an toàn giao thông, vi phạm các tệ  nạn xã hội như: Uống  
rượu, bia, cờ bạc, trộm cắp, đánh nhau...Một số khác khi vi phạm bị bố mẹ 
nhắc nhở, rầy la lại giận dỗi bỏ nhà ra đi, la cà quán xá... Thậm chí một bộ 
phận học sinh còn cãi lại thầy, cô giáo, cá biệt còn có học sinh lăng mạ, 
doạ  nạt thầy, cô, sẵn sàng hành hung thầy, cô ngay tại lớp. Một số  học  

sinh lại quan tâm đến tình cảm riêng tư  nên buông lỏng việc học tập, rèn 
luyện   gây   ảnh   hưởng   lớn   đến   chất   lượng   giáo   dục   và   uy   tín   của   nhà 
trường.
Có thể  nói: Tình trạng xuống cấp về  đạo đức của thanh thiếu niên hiện 
nay đang là vấn đề  nhức nhối của toàn xã hội. 
Cụ   thể   về   phân   loại   hành   vi   vi   phạm   đạo   đức   của   học   sinh   ở 
trường THCS nơi tôi công tác trong những năm qua như sau:
Số vụ vi phạm
Loại hình vi phạm
2005­2006

­ Trộm cắp
­ Đánh bài
­ Đánh nhau
­ Vô lễ với GV
­ Uống rượu

2
1
1
3
1

2006 ­ 2007

2007 ­ 2008

3
6
0

1
0

1
3
1
0
3

­ Hút thuốc
1
2
3
­ nói tục
50
43
37
­Vi phạm có hệ  thống (quay cóp, 
không học   bài cũ, không làm bài 
46
40
34
tập , bỏ tiết...)
3.Kết quả của thực trạng trên.
3.1. Khảo sát kết quả trước khi áp dụng đề tài.
Từ  thực trạng(  ưu điểm­ tồn tại) về  chất lượng giáo dục đạo đức 
như  đã trình bày  ở  trên. Kết quả  xếp loại hạnh kiểm trong những năm  
trước đây chưa cao. Cụ thể là: 
Năm học
Tổng 

số 
HS

XẾP LOẠI HẠNH KIỂM
Tốt
Khá
TB
SL
%
SL
%
SL
%

Yếu
SL
%

HS 
bị 
kỷ 
luật

HS bị 
đình 
chỉ học 
có thời 

5



hạn
2005 ­ 2006
2006 ­ 2007

341
327

261
252

2007 ­ 2008

219 71,3
85
3
0
307
27,7
1
0
3
(Số liệu: Theo báo cáo tổng kết của các năm học từ 2005 – 2008)

76,5
77,1

74
68


21,7
20,8

4
6

1,2
1,8

2
1

0,6
0,3

6
7

2
1
0

3.2. Nguyên nhân của thực trạng trên. 
* Từ  phía học sinh: Một bộ  phận học sinh chưa làm chủ  được bản thân, 
dễ bị  tác động bởi môi trường xấu, dễ  bị rủ rê, lôi kéo làm những việc vi 
phạm đạo đức học sinh, vi phạm nội quy nhà trường, vi phạm pháp luật.  
Không xác định được động cơ, thái độ đúng đắn và có những hành vi thiếu 
văn hoá.

 


  
Đây là “ trường học thân thiện và học sinh tích cực” sao?

  
 
* Từ phía gia đình: Phần lớn học sinh trường chúng tôi là con em gia đình 
nông dân, đời sống kinh tế khó khăn, trình độ dân trí thấp, bận rộn làm ăn 
nên họ phó mặc con mình cho nhà trường, giáo viên chủ nhiệm, với “trăm 
sự nhờ thầy, cô giúp đỡ”; không quan tâm đến các cuộc họp phụ huynh, các 
thông tin trong sổ liên lạc để cập nhật thông tin về con em mình.                   
Có gia đình do cha mẹ cha mẹ li thân, li hôn, hoặc đi làm ăn xa, bản 
thân các em phải sống với ông bà, cô bác, thậm chí sống một mình, dẫn 

6


đến lập trường không vững vàng nên dễ bị rủ rê, lôi kéo, sa ngã và vi phạm  
pháp luật. 
Một bộ phận phụ huynh nhận thức sai lệch về động cơ, thái độ  học 
tập, cho rằng con em mình đến trường chỉ cần học những kiến thức cơ bản  
để  có tấm bằng tốt nghiệp là được, vì thế, chưa quan tâm đúng mức đến  
việc học tập và rèn luyện của con , gây ra những rào cản tâm lý cho con. 
Từ đó mà làm cho một bộ phận học sinh thiếu ý thức phấn đấu trong học 
tập và rèn luyện tư tưởng đạo đức.
   Một số  gia đình cha mẹ  sống không gương mẫu, mắc phải các tệ 
nạn xã hội như  cờ  bạc, nghiện ngập… không quan tâm giáo dục con em  
phó mặc cho con cái ăn, chơi, học thế  nào là tùy chúng. Thậm chí có phụ 
huynh còn bất lực trước con cái. Một số  phụ huynh khác lại chưa có biện  
pháp giáo dục con theo khoa học đó là: Có lúc dùng sức mạnh của vũ lực 

trừng phạt thô bạo, cấm đoán giao tiếp, quan hệ, có khi lại dùng hình thức 
khen thưởng về vật chất quá mức, cá biệt có những phụ huynh đến trường  
đánh chửi con, xúc phạm đến lòng tự  trọng của con làm cho các em thấy 
xấu hổ, tự ty, mặc cảm, buông xuôi. Do đó gây khó khăn cho quá trình giáo 
dục.
Một số  gia đình công chức, buôn bán có điều kiện kinh tế  lại quan 
tâm, nuông chiều thái quá trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng nhằm thỏa mãn 
mọi nhu cầu của các em nhất là nhu cầu vật chất khiến các em trở  thành  
những đứa trẻ  vô tâm, chỉ  biết mình không biết đến ai.Đặc biệt là không 
kiểm soát được thời gian ngoài giờ  đến trường của con, không biết đồng 
tiền bố mẹ cho sử dụng vào mục đích gì nên  đã đẩy các em vào quán điện 
tử, bi­ da, internet... bỏ  học, đua đòi, lập nhóm, liên kết với kẻ  xấu bên 
ngoài, trộm cắp tài sản, bỏ nhà đi lang thang...
*Từ phía nhà trường: Có lúc, có nơi uy tín người thầy bị sa sút, giá 
trị  truyền thống “tôn sư  trọng đạo” bị  nhìn nhận một cách méo mó, vật  
chất hoá, thực dụng; có những trường hợp người thầy không giữ  được tư 
thế  đáng kính trọng trong quan hệ thầy – trò.Tất cả  những điều đó đã tác 
động xấu đến uy tín của người thầy trong suy nghĩ của học sinh và không ít 
các bậc phụ huynh.
    
       Thiếu chuẩn đoán phát hiện kịp thời những học sinh khó khăn 
trong rèn luyện đạo đức và nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó để  có biện 
pháp ngăn ngừa giáo dục. Phương pháp giáo dục chưa được phân hoá theo 
đối tượng. Do đó hiệu quả giáo dục  chưa cao.
Những biện pháp giáo dục,xử  lý những sai lệch có thể  có kết quả 
với  một số em ở mức mới tập nhiễm thói hư tật xấu, nhưng chưa đủ liều  
lượng, cường độ để làm thay đổi về chất đối với những em mà yếu tố tiêu  
cực phi đạo đức đã hình thành  khá ổn định, trở thành định hướng chủ đạo 
trong hoạt động của các em.


7


 Nhà trường do còn bị cuốn hút vào chương trình kế  hoạch giáo dục  
toàn diện chung mà chưa giành thời gian, nguồn lực sư phạm để giải quyết 
một cách triệt để những vấn đề phát sinh, nổi cộm trong giáo dục đạo đức.
Vẫn còn một số ít cán bộ giáo viên chỉ tập trung vào công tác chuyên 
môn và coi đó là nhiệm vụ  trọng tâm nên chưa quan tâm đúng mức đến 
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, thậm chí coi giáo dục đạo đức là 
nhiệm vụ  của gia đình, giáo viên chủ  nhiệm, của Đoàn ­ Đội, Ban giám 
hiệu nhà trường.
Các giáo viên chủ  nhiệm tuổi nghề, tuổi  đời cao có kinh nghiệm 
nhưng chậm, tinh thần cầu tiến không cao nên chưa thực sự quan tâm đến  
học sinh, chưa đi sâu thâm nhập thực tế  để  nắm bắt hoàn cảnh của học 
sinh. Đa số giáo viên chủ nhiệm chưa phát huy được hiệu quả của giờ sinh 
hoạt chính khoá, nội dung sinh hoạt chủ yếu là thu các khoản đóng góp, xử 
lý một số  học sinh vi phạm trong tuần làm  ảnh hưởng đến thành tích của 
lớp. Các vấn đề đưa ra thường là khô cứng, nặng về áp đặt, thiếu quan tâm  
đến nguyện vọng và tâm­sinh­ lí của các em.Số  giáo viên chủ  nhiệm trẻ,  
nhiệt tình,tâm huyết nhưng kinh nghiệm còn ít, chưa thực sự có uy tín, chưa 
có năng lực làm công tác chủ nhiệm. Thậm chí cá biệt có giáo viên còn mặc 
cảm, định kiến, thiếu thiện chí với những học sinh có khó khăn về giáo dục 
đạo đức. Tất cả các yếu tố  đó dẫn đến tính thuyết phục đối với học sinh  
chưa cao.
Việc đánh giá hạnh kiểm học sinh chưa đều tay, cách ghi sổ liên lạc  
chung chung, nhận xét sơ  sài chưa đánh giá cụ thể từng mặt của học sinh, 
dẫn đến hiện tượng buông lỏng, bỏ qua hoặc xử lý không dứt điểm các lỗi 
mà học sinh vi phạm.
Sốgiáo viên giảng dạy các bộ môn có tính giáo dục nhân văn lại chưa  
có kỹ  năng lồng ghép, khai thác phát huy  ưu thế  bộ  môn trong GDĐĐ cho 

các em.
*Từ  phía xã hội: Xã hội đang trong thời kỳ  hội nhập, kinh tế phát 
triển, đời sống khá hơn, với sự  bùng nổ  thông tin của mạng Internet,học 
sinh được tiếp cận với nhiều thông tin mới, nhiều nền văn hoá tiên tiến  
nhưng đồng thời cũng hấp thụ rất nhanh những  ấn phẩm văn hoá độc hại. 
Từ đó, việc giao tiếp,  ứng xử giữa học sinh với thầycô, giữa học sinh với 
học sinh nhiều lúc chưa đúng mực, sai lệch với chuẩn mực đạo đức của xã  
hội. Các quánđiện tử, internet... xuất hiện ngày càng nhiều. Văn hóa đồi  
trụy phát triển đến mức khó kiểm soát, lối sống buông thả  đang lan rộng.  
Những mặt trái của cơ chế thị trường tác động vào các em khiến các em rất  
dễ bị xa ngã.                                                 

8


Phải chăng những “ lớp học” này đang cuốn hút sự tham gia tích cực của các em?

Như  vậy, thời kỳ  hội nhập,bên cạnh những mặt tích cực thì những  
hạn chế, tác động xấu của thời kỳ  “mở  cửa hội nhập”, những “tư  tưởng  
văn  hoá xấu, ngoại lai”; mặt trái của cơ  chế  thị  trường... cũng có cơ  hội 
xâm nhập. Đây đó vẫn còn những hiện tượng suy thoái về  đạo đức, mờ 
nhạt về lí tưởng, thích chạy theo lối sống thực dụng, thậm chí những hành  
động phạm pháp của người lớn đã có những tác động xấu, trực tiếp đến 
học sinh. Các tệ nạn xã hội có nơi, có lúc đã xâm nhập vào học đường; tình 
trạng học sinh lún sâu vào tệ nạn xã hội đang có chiều hướng gia tăng. Số 
này tuy không phổ  biến nhưng với xu hướng gia tăng như  hiện nay nó sẽ 
làm băng hoại các giá trị đạo đức, tha hoá nhân cách, gây ra nỗi đau cho các 
bậc cha mẹ. Không những thế, nó còn tác động xấu tới các giá trị đạo đức 
truyền thống, ảnh hưởng trực tiếp đến công tác giáo dục đạo đức cho học  
sinh trong nhà trường, đến an ninh trật tự ngoài xã hội.

Tóm lại: Sự  xuống cấp về  đạo đức của học sinh hiện nay đang là 
vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Vậy, để giáo dục nhân cách, phẩm chất  
đạo đức, lối sống lành mạnh cho các em, gia đình , nhà trường và xã hội  
cần phải làm gì? 
Từ  thực tế  đó, với vai trò là Hiệu trưởng nhà trường – Người chịu trách 
nhiệm chỉ đạo mọi hoạt động của đơn vị tôi  đã cùng với tập thể cán bộ giáo viên  
trong trường tìm giải pháp  để từng bước nâng cao giáo dục toàn diện  của nhà  
trường ­ Đặc biệt là giáo dục đạo đức. Vì vậy, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số 
biện pháp sau, tuy không mới nhưng đó là kinh nghiệm mà trong quá trình  
làm công tác giáo dục đạo đức cho học sinh  ở  trường tôi mà tôi cho là  đã  
đạt được một số thành công nhất định.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CÁC GIẢI PHÁP CHUNG:

1. Phổ biến các văn bản của chính phủ, của ngành về qui định đối với  học  
sinh.
2. Nâng cao nhận thức, vai trò của Ban giám hiệu, các tổ  chức và các lực 
lượng tham gia giáo dục học sinh.

9


3.Coi trọng công tác kiểm tra đánh giá và xử lý sau kiểm tra đánh giá.
II. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN:

  1.Phổ  biến những nhiệm vụ, quyền hạn, trang ph ục, hành vi 
cấm đối với học sinh vào đầu năm học.  (Trích từ  điều 38,39,40,41,42  
Điều lệ  trường học, ban hành kèm theo QĐ số  07/2007/QD­BGDĐT ngày  
02/4/2007 của BGD&ĐT)
           2. Phổ biến quy chế đánh giá, xếp loại học sinh đến giáo viên và 

học sinh (Trích từ  QĐ40/2006/QĐ­BGDĐT ngày 05/10/2005 của Bộ 
trưởngBGD&ĐT)
           3. Tăng cường sự lãnh đạo của chi bộ Đảng. 
Trong trường học, tôi luôn xác định chi bộ  Đảng là hạt nhân,nền 
tảng của sự đoàn kết, nắm quyền lãnh đạo mọi hoạt động của trường học, 
chính vì thế  mà tôi luôn có ý thức phải xây dựng chi bộ  luôn trong sạch  
vững mạnh, thực hiện phương châm "Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý,  
nhân dân làm chủ".Lãnh đạo Chi bộ cập nhật thông tin chính xác, kịp thời, 
quán triệt đầy đủ  các đường lối,  chủ  trương chính sách của Đảng và của 
các cấp chính quyền để  xây dựng kế  hoạch cụ  thể, tổ  chức chỉ  đạo thực  
hiện giáo dục đạo đức học sinh đạt kết quả  cao.Chỉ  đạo chi bộ  xây dựng 
qui chế hoạt động cụ thể rõ ràng, phân công nhiệm vụ cụ thể cho cấp uỷ,  
đảng viên vào mỗi kỳ đại hội và đầu mỗi năm học. Tăng cường kiểm tra,  
đánh giá đạo đức của học sinh thông qua các phong trào thi đua chào mừng  
các ngày lễ  lớn. Thông qua các hoạt động này, các cá nhân được phân công 
nhiệm vụ  phải có kiểm tra, đánh giá sơ  kết, tổng kết để  từ  đó đề  xuất với 
lãnh đạo  khen thưởng, phê bình, và uốn nắn những lệch lạc kịp thời.
4. Tăng cường vai trò của ban giám hiệu.
Với tư cách là người đứng đầu đơn vị, tôi luôn xác định mình là trung 
tâm thống nhất hoạt động của các thành viên trong hội đồng giáo dục và  
xếp loại  đạo đức học sinh. Vì vậy, bản thân cần phải nắm vững đặc điểm 
tình hình của nhà trường trong từng năm học để  xây dựng kế  hoạch và tổ 
chức thực hiện công tác giáo dục đạo đức phù hợp, sát đúng với từng đối 
tượng học sinh trong từng thời điểm. Đồng thời phải theo dõi, đánh giá, xử 
lý kịp thời những sai lệch xảy ra, tránh hậu quả đáng tiếc.Hơn nữa tôi luôn  
xác định là người quản lý phải gương mẫu trong mọi hoạt động từ  tác  
phong, ăn mặc, thời gian làm việc, bình tĩnh, tự tin, giải quyết hợp lý, khoa 
học các sự việc trong mọi tình huống. Phải xây dựng môi trường sư phạm  
tốt, trong sáng, lành mạnh từ đó có tác dụng tốt trong giáo dục đạo đức học 
sinh. Ban giám hiệu phải hiểu rõ những khó khăn, mong muốn, sở  trường, 

năng lực của từng giáo viên, tạo điều kiện quan tâm, động viên, khuyến 
khích họ  vượt qua mọi khó khăn để  cống hiến hết sức mình cho nghề 
nghiệp.Phải luôn có ý thức phối hợp với cán bộ, giáo viên, các tổ  chức  

10


đoàn thể  để  xây dựng kế  hoạch và nắm bắt được tâm tư  nguyện vọng,  
thông tin hai chiều về học sinh, giáo viên để có điều chỉnh, xử lý kịp thời.
Vào đầu mỗi năm học, trong phiên họp hội đồng đầu tiên, tôi thống  
nhất với giáo viên chủ nhiệm và các thành viên trong hội đồng nhà trường 
về tiêu chí xếp loại thi đua (Vì mỗi năm thường có sự thay đổi về nhân sự). 
Xử  lý kịp thời công bằng, khách quan những hiện tượng vi phạm nội quy 
nhà trường. Tôi luôn tạo sự  thống nhất trong ban giám hiệu, Hội đồng thi  
đua về cách xử  lý học sinh sao cho linh hoạt và có hiệu quả. Đặc biệt, tôi 
luôn xác định một điều rằng: Muốn nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức 
người cán bộ  quản lý cần phải biết bố  trí, sắp xếp đội ngũ giáo viên chủ 
nhiệm tốt, khi bố  trí giáo viên chủ  nhiệm cần sắp xếp lựa chọn giáo viên 
phù hợp với đặc điểm của từng lớp, phù hợp với năng lực của từng người có 
như vậy mới đem lại hiệu quả giáo dục cao.
Để  hỗ  trợ  cho công tác giáo dục đạo đức, tôi nghĩ chỉ  phát huy nội  
lực chưa đủ mà còn phải biết tranh thủ sự đồng tình của các tổ chức có liên 
quan trong đó   công tác xã hội hoá giáo dục là vô cùng quan trọng. Hằng 
năm tôi luôn xây dựng kế  hoạch thu hút sự  hỗ  trợ, đóng góp của các cơ 
quan ban ngành, hội cha mẹ  học sinh để  tăng cường cơ  sở  vật chất tạo  
điều kiện học sinh học tập tốt. Từ đó, tạo nên niềm tin yêu sự gắn bó giữa 
học sinh và nhà trường, giữa học sinh với học sinh.
5. Nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của các lực lượng 
tham gia làm công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.        
­ Đối với giáo viên chủ nhiệm: Tôi luôn xác định họ là linh hồn của 

lớp, thay tôi trực tiếp quản lý học sinh, là người gần gũi, hiểu rõ hoàn 
cảnh, đặc điểm cá tính, tâm tư nguyện vọng của học sinh,vì vậy họ phải là  
người có tinh thần trách nhiệm cao, có năng lực tốt, có uy tín với học sinh. 
Họ  là người có vai trò đặc biệt quan trọng trong giáo dục nhân cách học  
sinh.Họ là cầu nối giữa nhà trường với học sinh, giữa nhà trường với phụ 
huynh để truyền đạt nội dung, kế hoạch của nhà trường đến học sinh một 
cách đầy đủ và chính xác nhất, biến kế hoạch chung của nhà trường thành 
chương   trình   hành   động   của   lớp   của   cá   nhân.   Hơn   nữa,   giáo   viên   chủ 
nhiệm là người bảo vệ quyền lợi của học sinh, vai trò cố  vấn cho tập thể 
học sinh, nhằm kích thích tư  duy độc lập, sáng tạo của học sinh để  từ  đó  
điều chỉnh hành vi, thái độ của các em. Vì vậy, để thực hiện tốt vai trò của  
mình, tôi luôn yêu cầu họ  cần phải thực hiện tốt nhiệm vụ là người giáo 
viên mẫu mực, xứng đáng với vai trò là người thầy, người mẹ  của học  
sinh, được học sinh tin yêu, quí mến.
Thường xuyên bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chủ  nhiệm để  họ  nắm 
được nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình. Trong công tác, tôi luôn  
tạo điều kiện tốt nhất để giáo viên chủ nhiệm làm việc, có kế hoạch nâng 
cao năng lực, nhận thức về  nguyên tắc, phương pháp làm chủ  nhiệm cho  

11


họ,  có   sự   đánh  giá  kịp thời, công  bằng và  phần thưởng  xứng  đáng  để 
khuyến khích động viên giáo viên chủ  nhiệm giỏi. Đồng thời cũng luôn 
chia sẻ  giúp đỡ  những giáo viên chưa làm tròn chức năng giáo viên chủ 
nhiệm để họ không mặc cảm tự ty mà cố gắng học hỏi để làm tốt hơn.
Hàng tuần tôi đều tổ chức  buổi giao ban với giáo viên chủ nhiệm để 
lắng nghe báo cáo của  họ về  tình hình nề  nếp, học tập trong tuần. Đồng 
thời để  họ  trao đổi, học tập kinh nghiệm lẫn nhau, góp phần nâng cao 
nghiệp vụ về công tác chủ nhiệm. Trong buổi giao ban, tôi thường đề nghị 

giáo viên chủ  nhiệm phải đổi mới nội dung và hình thức giờ  sinh hoạt  
chính khóa.Phải nắm vững nội dung sinh hoạt, kế hoạch của hiệu trưởng  
để  truyền đạt đến các em. Phải linh hoạt, xây dựng không khí dân chủ, 
thoải mái tạo điều kiện để các em bộc lộ tâm tư  nguyện vọng của mình, tạo 
cơ  hội để  học sinh thấy được mình, tự  điều chỉnh bản thân và không nhàm 
chán giờ sinh hoạt. Cần chuẩn bị  nội dung chu đáo để   nhận xét về   hoạt 
động của lớp trong tuần học. Thường xuyên thay đổi hình thức, nội dung 
sinh hoạt. Đặc biệt cần tránh sự phê phán, chỉ  trích học sinh mà cần có sự 
chia sẻ, uốn nắn kịp thời những học sinh có thiếu sót.
 Trong quá trình chỉ  đạo, tôi luôn đề  nghị  giáo viên chủ  nhiệm cần  
thực hiện tốt sự  phối hợp với giáo viên bộ  môn, các tổ  chức trong nhà 
trường, giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục học sinh. Phải là 
người   có   tinh   thần   trách   nhiệm,   có   tình   thương,   bao   dung,   độ   lượng, 
nghiêm minh và công bằng. Phải là người có tính chủ  động, sáng tạo nhất 
là trong giáo dục học sinh chậm tiến. Phải có kế  hoạch giáo dục học sinh 
hàng tuần, hàng tháng, phải có nhận xét, đánh giá, xếp loại cụ  thể  từng  
mặt cho từng học sinh, chỉ cho học sinh thấy được những mặt mạnh,  mặt 
yếu và có khen chê kịp thời, không nên có định kiến hẹp hòi với học sinh. 
Bởi, nếu định kiến hẹp hòi dễ làm cho các em mất niềm tin, bi quan, chán 
nản. Bên cạnh đó, giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh phải có mối liên 
hệ  mật thiết với nhau. Thường xuyên thông tin về  tình hình học tập, rèn 
luyện của các em để  bàn biện pháp phối hợp giáo dục. Vì, giáo dục đạo 
đức cho học sinh là công việc đòi hỏi sự kiên trì, lòng tâm huyết với nghề,  
có phương pháp chủ  nhiệm tốt với một kế  hoạch toàn diện, hợp lí. Từ 
việc tìm hiểu, nắm bắt hoàn cảnh gia đình, năng lực từng học sinh đến  
việc xử  lí các tình huống… Tất cả  đòi hỏi cần có sự  nghiêm khắc của 
người thầy, có tấm lòng độ  lượng, vị  tha của người cha; sự  cảm thông,  
chia sẻ  của người mẹ. Giúp giáo viên chủ  nhiệm nhận thấy họ  cần phải  
biết vui với những niềm vui của các em, chia sẻ  với những nỗi buồn của  
các em, biết giúp đỡ các em vượt qua khó khăn, dành thời gian để tâm sự và 

cho các em những lời khuyên bảo chân tình, tạo được niềm tin, động lực 
cho các em phấn đấu hoàn thiện. Hình ảnh người thầy ảnh hưởng rất lớn  
đến học sinh, vì vậy, giáo viên chủ  nhiệm không chỉ  cần năng lực chuyên  

12


môn mà còn phải thật sự là tấm gương sáng về tác phong,đạo đức, lời nói,  
cách ứng xử …như vậy mới có uy tín đối với học sinh.
        ­  Đối với giáo viên bộ môn:  Công việc giảng dạy và giáo dục là hai 
vấn đề  song song tồn tại. Bởi thế, tôi luôn động viên giáo viên cố  gắng 
phấn đấu dạy tốt môn học của mình trong từng tiết học, chú ý đến mọi đối 
tượng học sinh để tận tình giúp đỡ các em tiếp thu tốt nhất kiến thức mình 
truyền đạt.Tích cực đổi mới phương pháp nâng cao chất lượng giờ  dạy, 
chú trọng yêu cầu lồng ghép giáo dục đạo đức cho học sinh trong môn học, 
giờ  học. Trong đó, cần phải đặc biệt  chú trọng tới việc trang bị  cho học 
sinh những hiểu biết cơ bản về phẩm chất đạo đức, về quyền và nghĩa vụ 
của công dân, giúp các em có  những thái độ đúng đắn và thực hiện hành vi 
phù hợp với chuẩn mực đạo đức, để  trở thành những người công dân hữu  
ích cho xã hội.
­ Đối với các tổ  chức đoàn thể  trong nhà trường:  Chỉ  đạo công 
đoàn đẩy mạnh thực hiện phong trào "kỷ  cương ­ tình thươ ng ­ trách  
nhiệm". Quan tâm đến học sinh có hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt là khó 
khăn về đạo đức.
Chỉ  đạo Đoàn ­ Đội sinh hoạt lành mạnh, sôi nổi, trẻ  trung, phải  
thực sự là cánh tay phải đắc lực của chi bộ Đảng. Chi đoàn thanh niên và 
Đội thiếu niên là 2 tổ  chức có tác dụng thiết thực nhất trong vi ệc giáo  
dục đạo đức cho học sinh.Vì thế  tôi luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện  
cho Đoàn và Đội hoạt động.Thông qua các hoạt động thể  dục thể  thao,  
sinh hoạt tập thể, mà giáo dục lý tưở ng cách mạng, hình thành  ước mơ 

cao đẹp cho học sinh.
Hàng năm, tôi luôn chú ý chỉ  đạo việc xây dựng và kiện toàn đội 
ngũ cán bộ  Đoàn, Đội nghiêm túc.Tư  vấn, định hướng bầu những người  
có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn, năng nổ  nhiệt tình 
trong mọi công việc. Phối hợp thường xuyên với Ban chấp hành huyện 
đoàn tổ  chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn cán bộ  nòng cốt. Thành lập  
đội thiếu niên xung kích để  theo dõi, kiểm tra vệ  sinh, n ề  n ếp... Hàng 
tuần, có sơ  kết, kiểm tra, đánh giá chất lượ ng hoạt động để  có sự  động 
viên, khen thưởng và phê bình kịp thời các cá nhân, tập thể, giúp các em  
phát huy hơn nữa các thành tích  và sửa chữa kịp thời những thi ếu sót.
 Xây dựng kế hoạch, phối hợp chặt ch ẽ gi ữa chi đoàn nhà trườ ng, 
giáo viên chủ  nhiệm, giáo viên bộ  môn, đoàn cấp trên, tổ  chức đoàn địa  
phương, hội cha mẹ  học sinh, để  tạo ra các hoạt động bổ  ích như  hoạt  
động  "uống nước nhớ  nguồn" , thăm hỏi các gia đình liệt sĩ nhân ngày 
27/7 phong trào từ  thiện, nhân đạo, lao động cộng sản.... Thông qua các 
hoạt động đó mà  bồi dưỡng tình yêu thươ ng, tính cộng đồng, lòng nhân 
ái, khoan dung, rèn luyện tính cần cù, sáng tạo...cho học sinh.

13


Chỉ  đạo chi đoàn nhà trường, đội thiếu niên hàng năm, sau lễ  tổng 
kết năm học, phải có lễ bàn giao đội viên cho gia đình và  các cơ sở đoàn 
để  đoàn địa phươ ng theo dõi, quản lý và tổ  chức các hoạt động trong hè  
cho các em, từ đó mà đánh giá nhận xét ý thức rèn luyện và hoạt động hè 
của các em.
          ­ Đối với cha mẹ học sinh:   Hằng năm, nhà trường tiến hành các 
cuộc họp  với toàn thể phụ huynh, với ban đại diện Hội cha mẹ học sinh  
(CMHS). Giáo viên chủ  nhiệm thông qua các cuộc họp phụ  huynh, sổ 
liên lạc, những cuộc gặp gỡ, ti ếp xúc riêng với phụ  huynh để  phản ánh 

thông tin hai chi ều k ịp th ời, CMHS có thông tin về con em t ừ nhà trườ ng, 
nhà trườ ng nắm  bắt   đượ c  đặc  điểm tình hình gia  đình, bản thân  học 
sinh, từ   đó mà năng cao hiệu quả  GDĐĐ. Giúp cha mẹ  học sinh phải 
nâng cao nhận thức, th ấy đượ c vai trò trách nhiệm của mình trong việc  
GDĐĐ con em mình, không phó mặc việc giáo dục con em mình cho nhà 
trườ ng. 
­  Đối  với các tổ  chức  đoàn thể  ngoài xã hội : Giáo dục là sự 
nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Hoạt động giáo dục học sinh là nhiệm 
vụ  của toàn xã hội, đặc biệt GDĐĐ học sinh cần thi ết ph ải có sự  phối 
kết hợp của các cơ  quan, ban ngành chức năng, của các tổ  chức đoàn 
thể và các cá nhân trong toàn xã hội. Để  giáo dục nhân cách, phẩm chất  
đạo đức lành mạnh của ngườ i học không chỉ  giáo dục trong nhà trườ ng 
mà   phải   giáo   dục   thườ ng   xuyên,   liên   tục,   mọi   nơi,   mọi   lúc,   mọi  
chỗ,giáo dục suốt đời. Vì vậy,nhà trườ ng luôn nêu cao tinh thần ph ối  
hợp chặt chẽ  với cơ  quan công an, theo dõi chặt chẽ  các hành vi của 
những học sinh đang có biểu hiện sa sút đạo đức có nguy cơ  phạm tội  
để  thông tin kịp thời và ngăn chặn đượ c những hậu quả  đáng tiếc xảy 
ra. Sự phối hợp  này đối với đơn vị  tôi đượ c tiến hành thườ ng xuyên và 
đã phát huy đượ c hiệu quả, tác dụng.
Đặc biệt, nhà trườ ng cùng với Hội CMHS liên kết chặt chẽ  với  
chính quyền địa phươ ng, cung c ấp danh sách học sinh có khó khăn về 
đạo đức, về  kinh t ế  để  địa phươ ng theo dõi, đồ ng thời đề  xuấ t với đị a 
phươ ng giúp đỡ  những gia đình học sinh có khó khăn, ngoài ra còn phối 
hợp với nơi công tác của cha mẹ  học sinh để  cùng thực hiện công tác  
quản lý, GDĐĐ học sinh. 
Đối với các trường hợp  học sinh vi phạm kỷ luật, tôi đã kết hợp với  
Hội CMHS và gia đình học sinh kịp thời giáo dục một cách nghiêm khắc, 
xử  lý kịp thời đúng mức những học sinh vi phạm nghiêm trọng. Sau xử  lý  
kỷ  luật đã phối hợp  giữa nhà trường ­ gia đình ­ xã hội để  có kế  hoạch  
tiếp tục  theo dõi, giúp đỡ học sinh vi phạm tiến bộ.

6. Tổ chức tuyên truyền, nâng cao nhận thức và năng lực cho đội  
ngũ giáo viên trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh.

14


Đây là biện pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi có nhận thức  
đúng mới có hành động đúng và đó chính là cơ  sở  để  hướng đến một kết  
quả  hoàn thiện. Bác Hồ  luôn quan tâm đến sự  nghiệp giáo dục. Sinh thời, 
Bác đã từng nói: "Mỗi thầy cô là một tấm gương sáng cho học sinh noi  
theo", vì thế, vai trò của giáo viên trong nhà trường rất quan trọng, là hình 
mẫu lý tưởng để  học sinh học tập và noi theo. Trước tình trạng giáo dục 
hiện nay, một bộ  phận nhỏ  giáo viên có biểu hiện tha hóa về  đạo đức, 
công tác giáo dục phần nào đó bị biến dạng do sự tác động của mặt trái cơ 
chế  thị   trường,  càng   đòi  hỏi  mỗi  thầy  cô  giáo  phải  lấy  cái  "Tâm",  cái 
"Đức" của nhà giáo làm gốc, lấy cái "Nhân" làm trọng và lấy "chuyên môn" 
làm thước đo giá trị.
 Để thực hiện tốt biện pháp trên, ngay từ đầu năm học, tôi  đã lên kế 
hoạch, tổ chức chỉ đạo thực  hiện, giám sát kiểm tra, xử lí kết quả công tác 
giáo dục học sinh nói chung và giáo dục đạo đức học sinh nói riêng; quán 
triệt những Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, của ngành giáo dục 
về công tác giáo dục đạo đức cho học sinh đến toàn thể  cán bộ, giáo viên  
và nhân viên trong nhà trường( biện pháp 1 và 2 đã nói ở trên). Chỉ đạo các 
thành viên trong hội đồng giáo dục thực hiện tốt cuộc vận động “dân chủ­  
kỷ cương­ tình thương­ trách nhiệm” nhằm nâng cao nhận thức về công tác 
giáo dục đạo đức cho học sinh. Để  mỗi thầy, cô giáo luôn tự  hoàn thiện 
mình,   từ   đó   mà       học   sinh   nhìn   nhận,   đánh   giá   người   thầy   với   thái 
độ:“Trọng thầy vì đạo đức của thầy. Phục thầy vì kiến thức của thầy. Quý 
mến thầy vì lòng độ lượng của thầy”
Để nâng cao nhận thức và năng lực của đội ngũ giáo viên, tôi thường  

cho tổ  chức   các buổi hội thảo về  công tác chủ  nhiệm để  mỗi giáo viên  
đưa ra những sáng kiến, những kinh nghiệm hay trong xử lý tình huống và 
trong   giáo   dục   học   sinh   từ   đó   mà   các   giáo   viên   khác   học   hỏi   rút   kinh  
nghiệm.Ngoài ra, tôi còn cập nhật, cung cấp thông tin và tổ  chức cho giáo  
viên tìm hiểu thực tế  tình hình vi phạm pháp luật  ở  địa phương để  giáo 
viên thấy được thực trạng của công tác giáo dục đạo đức  ở  địa phương, 
những đặc điểm về tình hình dân trí, nhận thức của phụ huynh, biểu hiện  
sai trái về hành vi đạo đức của một số học sinh, từ đó mỗi giáo viên tự xây  
dựng cho mình một kế hoạch hoạt động.
           7. Mỗi thầy, cô giáo là tấm gương  mẫu mực cho học sinh noi  
theo.
              Kết quả  của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh  ở  trường  
THCS phụ thuộc rất lớn vào nhân cách của thầy, cô giáo. Bởi ở  giai đoạn 
này, quá trình phát triển tâm ­ sinh­ lý có  ảnh hưởng rất lớn đến học sinh.  
Các em dễ bị lôi kéo, kích động, dễ bị xúc động khi có một tác động nào đó. 
Tính tình các em không ổn định, nông nổi, nhiều khi muốn khẳng định mình 
nhưng lại chưa đủ  về  kinh nghiệm, tri thức. Khi thành công thì dễ  tự  tin 

15


quá mức, ngược lại khi gặp những thất bại đầu tiên thường rất dễ  dao 
động và lòng tự  tin bị giảm sút....Xuất phát từ  những đặc điểm đó về  tâm 
lý lứa tuổi thì việc định hướng giáo dục cho học sinh là rất cần thiết và 
quan trọng hơn bao giờ  hết. Tuy nhiên, để  làm được điều đó, trước hết 
mỗi thầy, cô giáo phải là tấm gương sáng, mẫu mực cho học sinh noi theo.  
Bởi, lời dạy của thầy, cô dù hay đến đâu, phương pháp sư  phạm dù khéo 
léo đến đâu cũng không thay thế được những ảnh hưởng trực tiếp của nhân 
cách người thầy đối với học sinh.  Đây quả  là một thử  thách lớn đối với 
giáo viên. Bản thân nhiều khi cũng phải tự cố gắng để vượt  qua những trở 

ngại của chính mình, để mẫu mực trước học sinh, tạo dựng niềm tin yêu ở 
các em. Sự mẫu mực không phải chỉ trong chuyên môn nghiệp vụ mà trong  
cả  lời ăn tiếng nói, trong cuộc sống hàng ngày. Chỉ  cần một sơ  xuất  nhỏ 
như thiếu công bằng, thiếu tôn trọng các em... thì sẽ tạo sự nghi ngờ trong  
suy nghĩ, trong sự  tín nhiệm của các em đối với thầy, cô giáo và thế  là  
khoảng cách giữa giáo viên và học sinh sẽ  ngày càng xa hơn. Đặc biệt là 
trong cách xử  lý công việc hàng ngày, giáo viên không nên tuỳ  tiện theo 
kiểu “đánh trống bỏ dùi”, “đầu voi đuôi chuột”, mà phải thấu đáo, đã nói là  
làm, làm đến nơi đến chốn và thật thấu tình đạt lý. Có như thế mới thuyết  
phục được học sinh, mới tập hợp được các em xung quanh mình cùng hoàn  
thành kế hoạch đã  định.
8. Phát huy hoạt động tự quản của tập thể học sinh.
Tập thể học sinh là cầu nối giữa cá nhân học sinh với nhà trường và 
xã hội, là một tổ chức có cùng môi trường học tập, cùng lứa tuổi, là nơi các 
em dễ  bộc lộ  bản thân. Một tập thể  có ý thức tự  quản tốt sẽ  chủ  động 
trong mọi hoạt động, biết chọn lọc, tiếp thu cái tốt, gạt bỏ ảnh hưởng tiêu 
cực làm trong sáng lành mạnh tập thể. Để phát huy hoạt động tự  quản của 
học sinh  tôi đã chỉ đạo cho giáo viên chủ nhiệm cần  đầu tư xây dựng đội ngũ  
cốt cán của lớp. Đội ngũ cốt cán phải có phẩm chất tốt, có năng lực, nhiệt tình,  
đặc biệt có uy tín với tập thể lớp.Cơ cấu tổ chức lớp hợp lý để phát huy sức 
mạnh của từng tổ, nhóm,cá nhân. Qua các đợt thi đua trong năm học, cán sự lớp  
phải có trách nhiệm đánh giá và xếp loại kịp thời để biểu dương, khen thưởng  
các tổ, các cá nhân   tốt, đồng thời nhắc nhở, khiển trách và có hướng khắc 
phục, điều chỉnh các vi phạm của các cá nhân trong lớp.
9.Nâng   cao   ch ất   l ượng   giáo   dục   đạo   đứ c   thông   qua   chất  
lượ ng giảng dạy các bộ môn và hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Nhiệm vụ  giáo dục trong các nhà trường là dạy chữ  đi đôi với dạy 
người. Nghĩa là, bên cạnh việc trang bị  cho các em những kiến thức bộ 
môn, còn cần phải kết hợp với giáo dục đạo đức(GDĐĐ), tư  cách, phẩm 
chất, tác phong của người công dân. Hay nói cách khác chính là giáo dục kỹ 

năng sống cho các em,điều này càng thể  hiện rõ qua nội dung các đợt tập 
huấn chuyên  đề  của năm học 2010­2011. Mỗi một môn học, mỗi hoạt  

16


động trong nhà trường có vai trò, vị  trí đặc thù riêng, song đều góp phần 
vào kho tàng tri thức và hình thành nhân cách học sinh. GDĐĐ và các môn 
học, các hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ và tác động lẫn nhau.  
Những hứng thú, niềm vui, sự đam mê trong các môn học, các hoạt động sẽ 
góp phần giáo dục ý thức đạo đức học sinh, ngược lại làm tốt công tác 
GDĐĐ học sinh sẽ nâng cao ý thức học tập của các em
Thực hiện tốt bi ện pháp này, trướ c hết phải nói đến vai trò củ a 
giáo viên, phải thực hi ện tốt n ề  n ếp k ỷ  c ương gi ờ  lên lớ p, mẫu mực, 
quan tâm, giúp đỡ, động viên chia sẻ  với học sinh, truy ền th ụ ki ến th ức  
chính xác, khoa h ọc và hấp dẫn để  tránh tâm lý chán nản, nói chuyện 
riêng, bỏ gi ờ…
Trong quá trình chỉ  đạo, tôi luôn lồng ghép bồi dưỡ ng giáo viên,  
giúp  họ   ý  thức   đượ c  ý  nghĩa,  tác  dụng  của  mỗi  môn  học  trong  hoạt 
động GDĐĐ học sinh. Môn Văn bồi dưỡ ng tình cảm, tình thươ ng yêu 
con ngườ i, yêu cái đẹp, cái thiện, ghét cái ác,cái xấu; môn Lịch sử  giáo  
dục truyền thống, lòng  tự  hào  dân tộc,  đức  tính hy  sinh,  các  môn tự 
nhiên rèn luyện tính tư  duy logic, ni ềm say mê khám phá thế  giới,  ý 
thức bảo vệ môi trườ ng. Môn GDCD cung cấp cho các em hệ  thống các 
hành vi chu ẩn m ực,pháp luật, trang b ị  cho các em  giá trị  đạo đứ c, văn 
hoá, tư tưở ng, chính trị, lối sống. 
Ngoài các môn học đó, tôi luôn xác định hoạt động giáo dục ngoài 
giờ  lên lớp (GDNGLL) cũng góp phần quan tr ọng trong công tác GDĐĐ 
học sinh. Bởi vì lứa tuổi của các em rất hiếu độ ng, thích hoạt độ ng, 
thích giao ti ếp, giao l ưu. Vì vậy, nếu chúng ta không tổ  chức các hoạt 

động thì các em sẽ  tìm đến những nơi khác để  vui chơi và dễ  bị  các 
phần   tử   xấu   lôi   kéo   vào   con   đườ ng   hư   hỏng,   phạm   tội.Thông   qua 
những hoạt động này, các em lĩnh hội đượ c các kiến thức, chuẩn mực 
về đạo đức, hành vi, lối sống một cách tự  giác hơn, nâng cao nhận thức 
hơn, lớn khôn thêm cả  về  thể  xác lẫn tâm hồn . Tuy nhiên, trong hoạt  
động này cần lưu ý kết hợp hài hoà giữa“Học mà chơi, chơi mà họ c” 
theo đúng định hướ ng của giáo dục. Thông qua các hoạt độ ng chủ  điểm 
đó sẽ  thu hút hầu hết các lực lượ ng trong nhà trườ ng tham gia giáo dục 
các   em   và   cũng   từ   đó,   các   hành   vi   đạo   đức   có   điều   kiện   đượ c   hình 
thành. Xin đượ c trình bày kế hoạch cụ th ể c ủa ho ạt độ ng này như sau :
Thời 
Nội dung hoạt động
gian
Thi đua dạy tốt học tốt
Tháng 
10 Tìm hiểu truyền thống 
người phụ nữ Việt nam
Tháng Thi đua dạy tốt học tốt

Thành 
Thành phần chỉ 
Hình thức tổ chức
phần
đ ạo
tham gia
Giáo viên thao giảng, HS 
BGH, tổ chuyên 
phấn đấu đạt nhiều điểm 
môn, công đoàn, 
GV, HS

9, 10
đoàn, đội
Hái hoa dân chủ
Giáo viên thao giảng, HS  GV, HS BGH, tổ chuyên 

17


11

Thi VN, TDTT

Thi kiến thức
Thi đua "Rèn luyện 
Tháng 
theo tác phong anh bộ 
12
đội cụ Hồ"
Thi tìm hiểu các bài hát 
Tháng 
về Đảng, Bác, mùa 
1,2
xuân
Thi đua dạy tốt học tốt
Tháng 
3
Thi kiến thức
Tìm hiểu về chiến 
Tháng thắng 30­4 và lịch sử 
4,5 ngày QTLĐ 1­5

Thi kiến thức

phấn đấu đạt nhiều điểm 
9, 10 dâng các thầy, cô
Múa hát tập thể, cá nhân. 
TD vòng gậy
Hội vui học tập

môn, đoàn đội
GV nhạc, GV Thể 
dục, TPT đội, GV 
chủ nhiệm
GVCN, GVTD, 
GV, HS Đoàn đội

Thi diễu hành, đội hình 
đội ngũ,thắt, tháo khăn  
quàng nhanh, đúng
Thi hát giữa các khối lớp. 
GV nhạc, Đoàn 
Mỗi khối thành lập 1 đội  GV, HS đội
tuyển
Giáo viên thao giảng, HS 
BGH, tổ chuyên 
phấn đấu đạt nhiều điểm 
môn, công đoàn, 
9,10 dâng bà, mẹ, cô.
GV, HS đoàn đội, GVCN
Thi "Rung chuông vàng"
HS viết bài

Thi giải ô chữ

BGH, tổ chuyên 
môn, công đoàn, 
GV, HS
đoàn đội, GVCN

Hàng năm, kế hoạch trên được nhà trường thực hiện triệt để và luôn 
tìm tòi đổi mới cách thức tổ chức. Vì vậy, các hoạt động đó nhận được sự 
ủng hộ nồng nhiệt của giáo viên và học sinh toàn trường. 
Xin  trích một số hình ảnh về các hoạt động tiêu biểu của nhà trường 
tổ chức trong số rất nhiều các hoạt động mà các em được tham dự như sau:

18


Các hình thức hoạt động mà học sinh được tham gia thật là phong phú, thái độ tham  
gia của các em mới nghiêm túc và tự tin  làm sao?

Ngoài ra,thông qua hoạt động từ  thiện: mua tăm tre  ủng hộ  người  
mù,   ủng   hộ   đồng   bào   bị   bão   lụt,sóng   thần,gia   đình   có   hoàn   cảnh   khó 

19


khăn,hỗ trợ góc học tập cho học sinh nghèo, mồ côi,quyên góp ủng hộ"Tết 
vì người nghèo và nạn nhân chất độc màu da cam" trong các dịp tết Nguyên 
Đán…   Từ   đó,giáo   dục   các   em   lòng   yêu   thương   con   người,   sự   cảm  
thông,chia sẻ  những nỗi  đau, mất mát, giáo dục các em vào con đường 
hướng thiện.

Nâng   cao   chất   lượng   dạy   học   các   bộ   môn,các   hoạt   động  
GDNGLL,làm tốt  công tác từ thiện  là việc làm hết sức thiết thực, có tác  
dụng lớn trong GDĐĐ học sinh, hoàn thiện quá trình GDĐĐ học sinh. Tuy 
nhiên,để làm tốt công tác này người cán bộ quản lý phải chỉ đạo sát sao để 
nâng cao chất lượng dạy học và các hoạt động đó là vấn đề  sống còn, cốt 
yếu của nhà trường. Không có thầy giỏi thì không có trò giỏi, không có 
thầy mẫu mực thì không có trò ngoan, không tổ  chức tốt các sân chơi lành 
mạnh thì không phát hiện, phát huy được năng lực sở trường của  học sinh.
 10. Coi trọng công tác kiểm tra, xử lí và đánh giá hoạt động giáo 
dục đạo đức cho học sinh.  
            Bởi nếu buông lỏng kiểm tra, không cập nhật được tình hình, không  
đánh giá đúng đối tượng thì vô tình lại dung túng cho học sinh vi phạm. Vì 
vậy, để  góp phần nâng cao hiệu quả  của công tác giáo dục đạo đức cho  
học sinh tôi thiết nghĩ cần phải làm tốt các khâu sau:
­ Với qúa trình kiểm tra: Phải được thực hiện thường xuyên, liên 
tục theo định kỳ  hoặc đột xuất qua nhiều kênh thông tin như: Đoàn thanh  
niên, giáo viên chủ  nhiệm, giáo viên bộ  môn... nhằm mục đích đánh giá 
đúng, kịp thời, biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân tiêu biểu 
về  các mặt. Đồng thời cũng khuyến khích, biểu dương những học sinh vi  
phạm có tiến bộ và xét cho ra khỏi danh sách học sinh chậm tiến. Nếu tập  
thể  lớp, các đoàn thể, thầy, cô giáo chủ  nhiệm và phụ  huynh biết động 
viên, khích lệ thì nhiều em chậm tiến sẽ cố gắng vươn lên. Đồng thời ngăn  
chặn,  phê  bình  những  sai  trái,  vi  phạm,  thúc   đẩy  sự   tự  giác   thực  hiện  
nhiệm vụ trong học sinh.Với biện pháp này ở cấp độ  lớp  tôI luôn chỉ đạo 
làm thường xuyên  hàng tuần, hàng tháng để động viên kịp thời các em.
­  Với   quá  trình   đánh  giá:  Đây  là  quá  trình  phải   được  thực  hiện 
nghiêm túc, khoa học. Hãy đánh giá đúng khả năng học tập, rèn luyện của  
học sinh, đừng vì bệnh thành tích, thi đua, tỷ  lệ  yếu kém mà làm qua loa,  
bình quân trong đánh giá, xếp loại học sinh.Đối với những học sinh cá biệt 
cần thường xuyên có sự  quan tâm theo dõi và liên lạc chặt chẽ  với phụ 

huynh học sinh để có biện pháp giáo dục kịp thời. Ngoài ra, cần có những 
biện pháp cứng rắn, kiên quyết nhưng cũng phải hết sức mền dẻo, phải  
gần gũi tìm hiểu hoàn cảnh để  giúp các em tránh những suy nghĩ lệch lạc 
về  bản thân, tạo niềm tin, chỗ  dựa tinh thần cho các em phấn đấu sửa  
chữa, vươn lên thành trở người tốt.

20


­ Với quá trình xử  lí: Cần thực hiện đúng hướng dẫn về việc khen 
thưởng và thi hành kỷ  luật học sinh , đảm bảo những nguyên tắc cơ  bản 
sau:
 Thứ nhất :   Việc xử lí kỷ luật học sinh là việc bất đắc dĩ,trong chúng 
ta không ai muốn   nhưng vì kỷ  cương nghiêm minh của nhà trường nên 
phải thi hành kỷ  luật học sinh. Việc thi hành kỷ  luật cũng là cần thiết để 
vừa xử  lí học sinh vi phạm, vừa răn đe, nhắc nhở  những em khác, vừa 
phòng ngừa các biểu hiện xấu có thể tiếp tục xảy ra.
Thứ  hai:  Việc xử  lý phải tiến hành kịp thời, chính xác, công bằng, 
đúng trình tự quy định, lấy giáo dục làm chính, tránh xu hướng chỉ phát hiện 
xử lý những sai trái và kỷ luật mà không dành thời gian để định hướng, uốn 
nắn, giúp học sinh tự  giác thực hiện. Đồng thời giữ  nghiêm kỷ  luật, phát  
huy ưu điểm, bồi dưỡng những nhân tố tích cực để khắc phụcthiếu sót của  
những nhân tố tiêu cực.
         Th
  ứ ba :    Cần tạo dư luận đúng đắn trong nhà truờng và ngoài xã hội 
để ủng hộ  cái tốt, cái tiến bộ và phê phán cái sai, cái xấu, cái tiêu cực, cái  
lạc hậu.
         Th
  ứ tư :   Trong quá trình xử lý, cần phải kiên quyết bằng những hình 
thức thích hợp: Cảnh cáo trước toàn trường, đình chỉ 3 ngày,1 tháng… hoặc 

cao hơn nữa là buộc thôi học, những điều mà những người làm công tác 
giáo dục không bao giờ muốn. Nhưng đôi lúc cũng cần phải kiên quyết  để 
đảm bảo tính nghiêm khắc, kỷ  cương của nhà trường, của pháp luật  đối  
với những học sinh vi phạm.
       ­ Với quá trình sau xử lý: Sau khi xử lý học sinh vi phạm, nhà trường cần 
phải có kế hoạch theo dõi, phối hợp với phụ huynh học sinh, chính quyền địa 
phương để có biện pháp giáo dục các em, tạo cho các em cơ  hội phấn đấu, 
sửa chữa những khuyết điểm, cố  gắng vươn lên để  tiến bộ, để  trở  thành 
công dân có ích cho xã hội.
          Như  vậy, việc khen thưởng và kỷ  luật đối với học sinh nếu được  
thực hiện đúng đắn sẽ  góp phần tích cực vào việc củng cố  và phát triển  
phong trào thi đua hai tốt và thực hiện có hiệu quả  cuộc vận động hai 
không ở trường THCS.
11. Giáo dục đạo đức thông qua môi trường văn hoá sư  phạm trong nhà 
trường.
Môi trường văn hoá lành mạnh trong nhà trường là nhân tố  vô cùng 
quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách học sinh. Được học tập,  
sinh hoạt trong môi trường xanh ­ sạch ­ đẹp, nếp sống văn hoá mẫu mực,  
học sinh sẽ thấy vinh dự, tự hào từ đó ý thức được vai trò trách nhiệm của  
mình, nâng cao ý thức bảo vệ của công, giữ  gìn vệ sinh môi trường.

21


Để xây dựng môi trường sư phạm thực sự có tác dụng giáo dục học  
sinh, trước hết mỗi một thầy cô giáo, cán bộ, nhân viên của nhà trường  
phải là người  mẫu mực trong cách ứng xử, phong cách đàng hoàng, lịch sự,  
là người thầy thực sự  được học trò tin yêu. Môi trường sư  phạm đó phải 
thực sự là nơi dạy tốt, học tốt, dân chủ, đoàn kết, nhất trí, có ý chí nghị lực 
khắc phục khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ mới có tác dụng thu hút học  

sinh, giúp học sinh yên tâm học hành. Đồng thời, phải nêu được gương tốt  
của mỗi thế  hệ  học trò sau khi ra trường để  xây dựng truyền thống trò 
ngoan, học giỏi cho các thế hệ học sinh  noi gương.
       12.Tổ  chức đánh giá xếp loại hạnh kiểm học sinh theo đúng quy 
trình. 
Học sinh tự  đánh giá ­ tổ  góp ý ­ lớp xếp loại ­ tham khảo ý kiến 
giáo viên bộ môn ­ giáo viên chủ nhiệm xếp loại ­ hiệu trưởng duyệt.
  Tóm lại: sự xuống cấp về đạo đức của học sinh là điều không ai mong 
muốn xong cùng với sự phát triển của xã hội, bên cạnh những mặt tích cực,  
một tỷ lệ không nhỏ  học sinh yếu kém về  đạo đức vẫn còn tồn tại. Vì thế,  
mỗi một cán bộ, giáo viên  trong nhà trường, các tổ chức đoàn thể xã hội hãy tự 
nâng cao hơn nữa về nhận thức, vai trò , trách nhiệm của mình trong việc giáo 
dục đạo đức cho học sinh, để làm giảm tối đa số học sinh vi phạm đạo đức,  
nhằm tạo ra một sản phẩm giáo dục có giá trị về đức – trí – thể – mỹ, để góp 
phần thúc đẩy giáo dục nước nhà lên một tầm cao mới. 

C. KẾT LUẬN
1. Kết quả nghiên cứu:

              Qua 3 năm tiến hành nghiên cứu và cố gắng nổ lực thực hiện việc  
giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các biện pháp trên, tôi nhận thấy :
       Quá trình được uốn nắn, động viên, giáo dục kịp thời,các em đã có ý  
thức tự giác hơn trong học tập,rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của bản thân,  
những hành vi sai phạm của các em ngày một giảm dần, tình trạng gây gỗ 
đánh nhau không còn diễn ra trong nhà trường, những lời nói tục, chửi bậy, 
bỏ  giờ, bỏ  tiết, chơi bi­a, game.... đã giảm hẳn. Các em đã biết xây dựng  
tinh thần, thái độ  học tập đúng đắn, có ý thức bảo vệ của công, xây dựng  
môi trường Xanh – Sạch ­ Đẹp. Kết quả  cụ  thể  về  xếp loại hạnh kiểm  
trong  các năm học từ 2008­2009 đến học kỳ I của năm học 2010 – 2011 so  
với 3 năm học trước như sau:        

XẾP  LOẠI  HẠNH  KIỂM

Năm học

Tổn
g số 
HS

Tốt
SL

%

Khá
SL %

TB
S %
L

Yếu
SL
%

HS  HS bị 
đình 
bị 
kỷ  chỉ học 
có thời 
luật


22


hạn
2008 ­ 
2009

258

204

79,1

52 20,2

2

0,7

0

0

2009 ­ 
2010

228

184


80,7

42 18,4

2

0,9

0

0

HKI­2010 
198
­ 2011

160

80,8

38 19,2

0

0

0

0


1

0

   1

0

0
0
(Số liệu: Theo báo cáo tổng kết của các năm học từ 2008 – 2010)
Như vậy, từ số liệu trên cho thấy, số học sinh có hành vi vi phạm về 
đạo đức đã có chiều hướng giảm; số  học sinh được xếp loại hạnh kiểm  
tốt, khá đã tăng lên rõ rệt. Từ kết quả về giáo dục đạo đức, kết quả  trong 
học tập cũng từng bước được nâng cao. Hằng năm tỷ  lệ  học sinh có kết  
quả  học lực xếp khá, giỏi luôn đạt từ  40% trở  lên, tỷ  lệ  học sinh có học 
lực yếu giảm xuống dưới 5%. Có nhiều học sinh đạt giải HSG cấp huyện, 
cấp tỉnh. Uy tín của nhà trường đối với lãnh đạo các cấp và phụ huynh học  
sinh được nâng lên rõ rệt. Như  vậy, làm tốt công tác giáo dục đạo đức 
trong nhà trường sẽ tạo ra cho nhà trường nhiều con ngoan, trò giỏi, xã hội  
cũng bớt đi những trẻ  em hư  hỏng, cuộc sống sẽ  tốt  đẹp và lành mạnh 
hơn. Điều đó cho thấy, nếu có sự chỉ đạo đúng đắn của ban giám hiệu, sự 
nỗ  lực hết mình của tập thể  giáo viên trong trường cùng với sự  phối hợp 
của các cấp chính quyền, các đoàn thể, hội cha mẹ học sinh tất cả sẽ tạo  
ra được sức mạnh tổng thể.
2. Kiến nghị: 
Trên đây là những công việc mà bản thân tôi trong thời gian làm công  
tác giáo dục đã gặt hái được một số thành công nhất định. Nói đến công tác 
này có lẽ  ai cũng rất băn khoăn, lo lắng. Bởi nó đòi hỏi  ở  người  quản lý  

nói riêng và giáo viên nói chung quá nhiều công sức, vả  lại, giáo dục đạo 
đức cho học sinh thành công hay thất bại còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. 
Chúng ta không nên áp dụng rập khuôn, máy móc bất kỳ phương pháp giáo  
dục tiên tiến nào, bởi lẽ  sản phẩm của chúng ta chính là con Người. Vì 
vậy, trên đây chỉ  là một vài biện pháp nhỏ  trong chuỗi các biện pháp về 
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh mà tôi đã đúc rút được trong qúa  
trình công tác của mình nên chắc chắn rằng sẽ  không tránh khỏi những  
thiếu sót và còn nhiều khía cạnh, nhiều vấn đề chưa đề cập.Nhưng dù sao 
đó cũng là cả  một quá trình cố  gắng, nỗ  lực của bản thân trong thời gian  
qua. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của  Hội đồng khoa học  các 
cấp  để đề tài này được hoàn thiện hơn và có tính ứng dụng cao hơn. Từ đó 
để  tôi vận dụng trong  những năm học tiếp theo có hiệu quả hơn.

23


                    Tôi xin chân thành cảm ơn!
                                             Thọ Xuân, tháng 4 năm 2011
                                                          Người viết

                                                       Vũ Thị Thanh
                                                                         

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

A­ĐẶT VẤN ĐỀ                                                                              
I. LỜI NÓI ĐẦU:   

II. THỰC TRẠNG: 
1. Ưu điểm:                                                                                
2. Tồn tại:                                                                                   
3. Kết quả , hiệu quả của thực trạng trên                                    
3.1. Khảo sát kết quả trước khi áp dụng đề tài  
3.2.Nguyên nhân của thực trạng trên                                         

1
1
2
2
3
3
3
4
7
7
8
8

B­ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. GIẢI PHÁP CHUNG: 
II. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN: 
1.Phổ  biến những nhiệm vụ,quyền hạn,trang phục,hành vi cấm 

24


đối với học sinh vào đầu năm học. 
2. Phổ biến quy chế đánh giá, xếp loại học sinh đến GVvà HS. 

3. Tăng cường sự lãnh đạo của chi bộ Đảng. 
4. Tăng cường vai trò của ban giám hiệu. 
5. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các lực lượng tham gia làm 
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.                                          
6. Tổ chức tuyên truyền,nâng cao nhận thức và năng lực cho đội 
ngũ giáo viên trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh. 
7. Mỗi thầy, cô giáo là tấm gương sáng, mẫu mực cho 
học sinh noi theo. 
8. Phát huy hoạt động tự quản của tập thể học sinh. 
9.Nâng cao chất lượng GDĐĐ thông qua chất lượng giảng dạy 
các bộ môn và hoạt động ngoài giờ lên lớp.                           
10. Coi trọng công tác kiểm tra, xử lí và đánh giá hoạt động giáo  
dục đạo đức cho học sinh.                                                             
11. Giáo dục đạo đức thông qua môi trường văn hoá sư  phạm 
trong nhà trường. 
12. Tổ chức đánh giá xếp loại hạnh kiểm của học sinh theo đúng 
quy trình.                                                                     

8
8
9
9
12
13
14
14
17
18
19


C. KẾT LUẬN

19

1. Kết quả nghiên cứu: 

19

2. Kiến nghị: 

20

25


×