Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

SKKN: Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1 – Công nghệ giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.16 KB, 11 trang )

Đề tài“Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh học lớp 1­ Công nghệ giáo  
dục”
Năm 2017­ 2018

PHẦN I: THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI
Năm 2017 – 2018 tôi được phân giảng lớp Một/1 với sĩ số  lớp 31 gồm 17  
nam và 14 nữ  (trong đó có 5 em tiếp thu chậm). Từ  khi nhận lớp tôi đã nghiên 
cứu, tìm hiểu và thấy được một số thực trạng như sau:
­ Nội dung kiến thức chương trình Công nghệ  dài và khó, học sinh đọc 
chưa chuẩn.
­ Chưa có nhiều thời gian cho học sinh rèn kỹ năng đọc.
­ Tuy có được sự  quan tâm của phụ  huynh về  việc học tập của các em  
như: chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập,  thường xuyên nhắc nhở và tạo 
điều kiện tốt cho các em đến lớp học tập, nhưng vẫn còn một số tồn tại sau:
+ Do bản thân các em đọc chậm, đọc sai mà lại chưa kiên trì, tự  giác tập 
luyện để  sửa. Nhìn vào nội dung sách Tiếng Việt 1­ Công nghệ  giáo dục thì số 
lượng kiến thức trong mỗi tiết học rất nhiều, mà yêu cầu học sinh phải đọc 
trơn các chữ sau khi học xong. Thời gian dành đọc trong mỗi tiết còn ít.
+ Phụ huynh chưa nắm rõ cách đọc mới của chương trình Công nghệ giáo 
dục nên còn lúng túng khi hướng dẫn các em học ở nhà.
Chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề  tài “ Một số  biện pháp rèn kỹ  
năng đọc cho học sinh lớp 1 – Công nghệ giáo dục”.
PHẦN II: NỘI DUNG CẦN GIẢI QUYẾT
    
 Để  giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ  năng đọc tốt tôi đã áp dụng  
những biện pháp sau:
1/. Giáo viên đọc mẫu phải chuẩn.
2/. Hướng dẫn học sinh phát âm, học phần âm, vần.
3/. Giúp học sinh nhận xét, điều chỉnh lẫn nhau.
4/. Giúp học sinh kiên trì trong giờ luyện đọc.
5/. Rèn luyện cho học sinh ở mọi nơi, mọi lúc.


6/. Tác động giáo dục.
7/. Tuyên dương, khuyến khích học sinh.
PHẦN III: BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT
1/ Giáo viên đọc mẫu phải chuẩn.
Người Thực hiện: Nguyễn Thị Phương Mai                                                           
1


Đề tài“Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh học lớp 1­ Công nghệ giáo  
dục”
Năm 2017­ 2018

Ở  lứa tuổi học sinh tiểu học, các em luôn xem thầy cô giáo của mình là 
thần tượng, là chuẩn mực. Đặc điểm tâm lí của học sinh  ở  lứa tuổi này là hay 
bắt chước, hay làm theo. Các em thích mình giống như  thầy cô và   người lớn. 
Các em thường “bắt chước” cô từ cách ăn mặc, đi đứng, cho đến lời nói, cử chỉ, 
chữ viết …Học sinh lớp 1 hằng ngày đến lớp chủ yếu được nghe giọng của giáo 
viên. Vì vậy giáo viên cố  gắng cho học sinh nghe đúng, nghe hay thì việc học 
sinh đọc sai, viết sai từng bước được khắc phục. Muốn học sinh phát âm tốt thì  
giáo viên phải phát âm chuẩn xác. 
Tuy vậy, nếu sử dụng phương pháp làm mẫu không khéo léo, sẽ  dẫn đến 
tình trạng “lạm dụng”, tiết học sẽ  trở  nên nhàm chán và không phát huy được 
tính tích cực, chủ  động của học sinh. Vì thế, tôi chỉ  nên sử  dụng phương pháp 
này khi thấy thật cần thiết, đó là khi các em học sinh dù qua hướng dẫn mà 
không thể  tự  mình phát âm đúng. Khi vận dụng phương pháp đọc mẫu cho học 
sinh tôi cần rèn luyện cho các em biết kết hợp cả  kĩ năng nghe và nhìn (nghe 
tiếng phát âm và quan sát môi, miệng, lưỡi của cô). Như thế học sinh sẽ phát âm  
đúng và dễ dàng hơn. Người giáo viên khi đọc mẫu, không đơn giản chỉ là phát ra  
âm tiết mà cần biết phối hợp với thuật “hình môi” nhằm hướng dẫn các em phát 
âm chuẩn xác hơn. Học sinh nếu chỉ nghe mà không nhìn miệng cô đọc thì việc  

phát âm sẽ không đạt hiệu quả cao, vì trong môn Tiếng Việt 1 – Công nghệ giáo  
dục việc quan sát môi cô khi phát âm âm mới là rất quan trọng.
Ngoài việc đọc chuẩn tôi còn phải quy  ước các kí hiệu giữa giáo viên và 
học sinh. Rèn luyện các kí hiệu giữa giáo viên và học sinh một cách thành thạo, 
nhịp nhàng là góp phần giúp tiết học nhẹ nhàng đạt hiệu quả cao.
Ví dụ: Kí hiệu: B (bảng con)
    S (sách giáo khoa)
                        V (vở em tập viết)
                        v (vở chính tả) 
                         ....
Giáo viên chỉ cần chỉ vào các kí hiệu thì học sinh sẽ làm theo, làm đúng và  
giờ học nhẹ nhàng không mất thời gian.
2/ Hướng dẫn học sinh phát âm, học phần âm, vần. 
Hướng dẫn cách phát âm là phương pháp quan trọng hàng đầu, đòi hỏi 
người giáo viên phải có những hiểu biết, kinh nghiệm và cả kỹ năng hướng dẫn 
tốt. Khi hướng dẫn học sinh phát âm, cần dùng lời nói mạch lạc, đơn giản để 
Người Thực hiện: Nguyễn Thị Phương Mai                                                           
2


Đề tài“Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh học lớp 1­ Công nghệ giáo  
dục”
Năm 2017­ 2018

học sinh dễ hiểu và có thể tự mình phát âm đúng. Đối với những âm, vần, tiếng  
dễ  nhầm lẫn, giáo viên cần phải so sánh, phân tích cụ  thể  cách phát âm (môi –  
răng – lưỡi, đường dẫn hơi, điểm thoát hơi…)
Ví dụ: Khi học sinh sai lẫn âm /l/, /n/ giáo viên cần hướng dẫn:
+ Âm /l/: lưỡi uốn cong, bật đầu lưỡi cho hơi thoát ra mạnh, dứt khoát.
+ Âm /n/: Lưỡi ép sát lợi trên, cho hơi thoát ra đường mũi, sau đó mở 

miệng cho hơi thoát ra trên mặt lưỡi, luồng hơi có thể  kéo dài. Với những học 
sinh vẫn chưa phát âm được, giáo viên có thể yêu cầu các em dùng hai ngón tay, 
bóp mũi lại để  đọc âm /l/  (đối với âm /n/, khi bóp mũi lại sẽ  không thể  đọc 
được).
Ví   dụ:  Học   sinh   sai   lẫn   ở   những   âm   đầu   vần   và   cuối   vần  /ac/  đọc 
thành /at/, giáo viên cần hướng dẫn:
+ /ac/: mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong chân lưỡi.
+ /at/: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi.
Ví dụ: Học sinh sai lẫn dấu thanh (gặp  ở những học sinh có hệ thống bộ 
máy phát âm chưa hoàn chỉnh) giáo viên cần hướng dẫn:  
­ Những tiếng có thanh hỏi / thanh nặng: (nghỉ ­ nhọ, cử ­ tạ , củ ­ sạ…)
+ Tiếng có thanh hỏi: giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh phát âm trầm, 
hơi luyến giọng, lên cao, kéo dài hơi. Có thể  kèm theo động tác ngửa cổ  hướng 
mắt lên trên. 
+ Tiếng có thanh nặng: phát âm thấp giọng và nặng, dứt khoát (không  kéo 
dài). Khi phát âm có thể làm động tác gật đầu. 
­ Những tiếng có thanh sắc – thanh ngã (những – chá, mỡ ­ má, ghế  gỗ ­ 
ngô ngố…)
+ Những tiếng có thanh ngã đọc nhấn mạnh, hơi kéo dài, luyến giọng, lên  
cao giọng.
+ Những tiếng có thanh sắc: đọc nhẹ  nhàng hơn tiếng có thanh ngã, hơi 
ngắn, đọc nhanh, không kéo dài. Bằng cách hướng dẫn (như  một vài ví dụ  nêu  
trên) học sinh có thể dễ dàng phát âm và đạt hiệu quả cao.
Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Học sinh có nắm chắc từng chữ cái thì 
mới có thể  ghép được các chữ  cái với nhau để  tạo thành vần, thành tiếng, ghép 
các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu.
Do vậy ở giai đoạn học sinh học phần âm, tôi giúp học sinh nắm chắc 23  
phụ âm và 14 nguyên âm của Tiếng Việt 1 – Công nghệ giáo dục. Biết phân biệt  
Người Thực hiện: Nguyễn Thị Phương Mai                                                           
3



Đề tài“Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh học lớp 1­ Công nghệ giáo  
dục”
Năm 2017­ 2018

nguyên âm, phụ  âm qua phát âm dựa vào luồng hơi bị  cản (phụ  âm) hay luồng  
hơi đi ra tự do (nguyên âm). Biết ghép phụ âm đầu với nguyên âm tao thanh tiêng
̣
̀
́  
co thanh ngang, ghép ti
́
ếng co thanh ngang v
́
ới các dấu thanh tạo thành tiếng khác 
nhau và đọc luôn được các tiếng đó. Ngoài ra tôi cũng hướng dẫn cho các em  
nắm vững các nguyên âm đôi như: /iê/, /yê/, /ia/, /ya/, /uô/, /ua/, /ươ/, /ưa/. Biết  
phân tích tiếng thanh ngang thành 2 phần: phần đầu và phần vần, phân tích tiếng 
có dấu thanh thành tiếng thanh ngang và dấu thanh (cơ chê tach đôi). Yêu c
́ ́
ầu của 
phần này là học sinh đọc trơn, rõ ràng đoạn văn có độ  dài 20 tiếng. Tốc độ  đọc 
tối thiểu là 10 tiếng / phút. Với mỗi bài học sinh đọc trôi chảy từ mô hình tiếng,  
tiếng từ, câu trong bài.
Để đọc trên bảng tôi linh động chọn âm, tiếng đọc tùy vào đối tượng trong 
lớp mình. Yêu cầu học sinh đọc từ dễ đến khó, từ tiếng có thanh ngang đến các 
tiếng có dấu thanh (đe, đè, đé, đẻ, đẽ, đẹ), rồi đến (bè, dẻ, chè). Trong các tiết  
dạy tôi đã sử dụng nhiều hình thức đọc (nhóm, cá nhân, cả lớp), các mức độ đọc  
(to­ nhỏ­ nhẩm­ thầm). Kết hợp đọc vỗ tay (nhóm, cá nhân, cả lớp).

Khi giới thiệu chữ cái vừa học, tôi mô phỏng nét cho học sinh, tôi chỉ  vào 
chữ in thường, chữ viết thường cho học sinh đọc để các em nhận và nhớ rõ mặt 
chữ (đọc cá nhân, nhóm, tổ, lớp).
* Ví dụ: Khi dạy âm /h/
Việc 1:
­ Giáo viên phát âm tiếng /ha/ ­ Học sinh phát âm lại theo 4 mức độ  (to­ 
nhỏ­ nhẩm­  thầm).
­ Phân tích tiếng /ha/:  /ha/ ­ /hờ/ ­ /a/ ­ /ha/ , kết hợp đọc vỗ  tay (đọc cá 
nhân, nhóm, tổ, lớp).
­ Nhận xét /h/ là nguyên âm hay phụ âm, cho học sinh nhắc lại nhiều lần.
­ Khi học sinh đưa được tiếng /ha/ vào mô hình. Tôi yêu cầu học sinh chỉ 
vào mô hình đọc.
+ Học sinh chỉ tay vào mô hình và đọc: /ha/­ /hờ/ ­ /a/ ­ /ha/, phần đầu /hờ/,  
phần vần /a/.
         Cách đọc như thế giúp học sinh khắc sâu âm vừa học, vị trí mỗi âm trong  
mô hình tiếng tách thành hai phần.
    
  Việc 2:  Tôi khắc sâu cho học sinh âm /h/ bằng cách: Tôi đưa chữ /h/ in 
thường ra gắn lên bảng và nói: Đây là chữ /h/ in thường. Gồm một nét thẳng và  
một nét móc xuôi. Chỉ  vào chữ /h/, học sinh đọc (cá nhân, nhóm, tổ, lớp…). Sau  
Người Thực hiện: Nguyễn Thị Phương Mai                                                           
4


Đề tài“Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh học lớp 1­ Công nghệ giáo  
dục”
Năm 2017­ 2018

đó đưa chữ  /h/ viết thường cũng phân tích nét (gồm một nét khuyết trên và một 
nét móc hai đầu), cho học sinh đọc (cá nhân, nhóm, tổ, lớp…). Tôi còn cho học  

sinh so sánh âm mới học với âm đã học để học sinh phân biệt, từ đó nhớ lâu hơn. 
Đến phần tìm tiếng mới tôi nêu: “Thay âm đầu bằng các phụ âm đã học để 
có tiếng mới.” Học sinh nối tiếp đọc các tiếng các em thay, tôi viết lên bảng  ở 
việc 1. Học sinh nối tiếp nêu, tôi ghi lên bảng (ba, ca, cha, da, đa,…). Chỉ cho học  
sinh đọc các tiếng vừa ghi lên bảng (cá nhân, nhóm, lớp).
 
­ Trước khi thêm thanh để  có tiếng mới, trên bảng con học sinh có các  
tiếng không giống nhau. Em thì tiếng /ba/, em thì /ca/, em thì /da/,…Mục đích của  
tôi   muốn học sinh cùng đưa chung một tiếng thanh ngang, tôi phải nêu thêm: 
“Đưa trở  lại tiếng /ha/ vào mô hình”. Nêu tiếp: “Thêm thanh để  có tiếng mới”. 
Các em đọc nối tiếp tiếng các em có, tôi  viết lên bảng ở việc 1 (ha, hà, há, hả, 
hã, hạ). Chỉ vào các tiếng vừa viết cho học sinh đọc trơn, đọc kết hợp vỗ tay (cá  
nhân, nhóm, lớp). Tôi có thể  nêu: “Thay nguyên âm /a/ bằng các nguyên âm đã 
học để  có tiếng mới.” Học sinh nối tiếp đọc các tiếng các em thay, tôi viết lên 
bảng ở việc 1.
Việc 3: Tôi yêu cầu học sinh đọc trơn bài  ở  việc 1 theo thứ  tự  và không  
theo thứ tự. Đọc sách Tiếng việt 1­ Công nghệ giáo dục tôi thực hiện các thao tác 
sau:
Thao tác 1: Trò tự đọc: đọc nhỏ, đọc bằng mắt.
Thao tác 2: Đọc theo mẫu của thầy­ đọc trơn.
Thao tác 3: Đọc cá nhân để kiểm tra.
Thao tác 4: Đọc theo tổ để củng cố.
Khi chỉ vào các tiếng mới cho học sinh đọc ở bảng việc 1 (kể cả đọc tiếng  
khó  ở  việc 3) tuyệt đối giáo viên không đọc mẫu. Những tiếng nào học sinh  
không đọc được thì che dấu thanh để học sinh đọc tiếng thanh ngang. Nếu tiếng  
thanh ngang đó học sinh không đọc được, giúp học sinh nhận ra âm đầu, vần của 
tiếng đó để  đọc được tiếng có thanh ngang rồi sau đó đọc tiếng có dấu thanh.  
Trong từng tiết học, từng bài ôn tôi luôn tìm đủ  cách để  kiểm tra phát hiện sự 
tiến bộ của các em thông qua các bài đọc ở  các môn... từ  đó củng cố  thêm kiến 
thức cho học sinh. Khi học sinh đã nắm chắc tất cả các âm đã học và ghi nhớ các  

chữ  in thường thì việc đọc bài của học sinh  ở sách giáo khoa dễ  dàng. Tôi luôn  
hiểu rõ là dạy cho học sinh âm nào chắc âm đó. Sự vững chắc đạt được nhờ hai  
yếu tố: giải quyết dứt điểm (từng đơn vị  học) và nhắc lại thường xuyên, nhắc 
Người Thực hiện: Nguyễn Thị Phương Mai                                                           
5


Đề tài“Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh học lớp 1­ Công nghệ giáo  
dục”
Năm 2017­ 2018

lại khi có cơ  hội. Với quan điểm dạy ngữ  âm nên chương trình không đặt nặng 
về nghĩa mà tập trung vào cấu tạo ngữ âm của tiếng. Nói như thế không có nghĩa 
là bỏ  qua nghĩa, chương trình trước hết giúp học sinh nắm được Tiếng Việt 
trong mối quan hệ ngữ âm của nó. Tiếng là vật thật, chữ chỉ là vật thay thế. Cái  
mà học sinh lớp Một muốn nắm và cần phải nắm trước hết là “vật thật”. Khi 
nắm được “vật thật” một cách chắc chắn rồi thì các em mới có thể  sử  dụng nó  
trong học tập và giao tiếp. Khi đó nghĩa sẽ  được các em nắm bằng nhiều con  
đường mà không cần giáo viên phải tốn nhiều thời gian và công sức. Chính vì 
tuân thủ  quan điểm này mà chương trình đảm bảo dạy học sinh lớp Một nắm  
chắc về  nguyên âm, phụ  âm, biết chắc chắn một vần, một tiếng cụ thể có thể 
ghép với bao nhiêu thanh.
Khi dạy âm, xong phần giới thiệu chữ in thường tôi dùng chữ in thường đó 
gắn ngay một góc bảng. Mỗi ngày, trên tấm bìa được gắn thêm một chữ ghi âm  
mới. Cứ  như vậy, vào 15 phút đầu giờ, bạn lớp trưởng sẽ  cho cả  lớp ôn luyện  
đọc các âm đã gắn lên bảng. Với cách đó giúp học sinh ghi nhớ mặt chữ và đọc  
tốt hơn.  Ở  phần học âm, bài nào cũng vậy tôi đều luyện tập rất kỹ  bước  tìm 
tiếng mới (thay âm và thêm thanh để  tìm tiếng mới). Mục  đích của bước tìm 
tiếng mới là học sinh có thêm vốn tiếng có chứa âm vừa học. Qua đó giúp học  
sinh đọc tốt hơn  ở  việc 3. Đối với bài dạy là phụ  âm, bước tìm tiếng mới là 

thay âm  chính bằng  các nguyên  âm đã  học   để  có   tiếng   mới.   Đối  với  bài  dạy 
là nguyên âm, bước tìm tiếng mới là thay âm đầu bằng các phụ âm đã học để có 
tiếng mới.
Việc 4: Tôi đọc chữ nào học sinh phân tích rồi mới viết, viết xong chữ nào 
đọc trơn chữ đó, đọc chữ mình viết ra sẽ giúp học sinh một lần nữa khắc sâu và  
đọc rất tốt.
Học sinh nào chậm hay còn quên, tôi hướng dẫn đọc các tiếng theo cơ chế 
tách đôi:
        * Tạm thời “bỏ” thanh ra (che đi) đọc trơn tiếng thanh ngang.
        * Trả lại thanh – đọc tiếng có thanh (nhìn chữ thanh ngang rồi “lắp” thanh  
vào)
Đọc cả 4 mức độ: To – nhỏ ­ nhẩm ­ thầm (đọc thầm, đọc bằng mắt) vì đọc cả 
4 mức độ  là giúp học sinh dễ dàng ghi nhớ  nên tôi cần huấn luyện ngay từ đầu 
và làm quyết liệt. Mỗi khi học sinh đọc phân tích tôi quan sát việc học của học  
sinh, giúp học sinh nhận biết từng phần của tiếng có thanh ngang và tiếng có 
Người Thực hiện: Nguyễn Thị Phương Mai                                                           
6


Đề tài“Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh học lớp 1­ Công nghệ giáo  
dục”
Năm 2017­ 2018

thêm thanh. Sang giai đoạn học vần học sinh đã nắm vững các âm, các em còn  
được làm quen với các kiểu chữ hoa như chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho  
học sinh nhận biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng. Để 
giúp học sinh học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen: nhận diện, phân 
tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em đọc vững.
    
* Ví dụ: Học vần /ay/, /ây/:

Việc 1:
 
­ Cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần /ay/: vần /ay/ gồm 2 âm: âm /a/ 
và âm /y/. Vị trí âm trong vần: âm /a/ đứng trước, âm /y/ đứng sau.
­ Đánh vần vần /ay/ : 
­  Hướng dẫn học sinh: âm /a/ đứng trước, ta đọc /a/ trước, âm /y/ đứng sau 
ta đọc /y/ sau : /ay/ ­ /a/ ­ /y/ ­ /ay/ (đọc có vỗ tay).
­  Đọc trơn vần: /ay/
­ Tương tự với vần /ây/.
Với cách dạy phân tích, nhận diện như  thế, nếu được áp dụng thường 
xuyên cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo cho các em kỹ  năng phân tích, nhận  
diện dẫn đến đánh vần, đọc trơn vần một cách dễ  dàng và thành thạo giúp các  
em học phần vần đạt hiệu quả  tốt. Hàng ngày tôi luôn đưa ra cho học sinh  so 
sánh vần đã học với vần hôm nay học để học sinh so sánh. Dạy vần /ay/ cho học  
sinh so sánh với vần /ai/, từ đây học sinh tìm ra giống nhau âm nào, khác nhau âm  
nào? Rồi so sánh cả  hai vần trong bài học: /ay/, /ây/. Từ  đây giúp các em có kỹ 
năng so sánh đối chiếu và khắc sâu các vần.
Việc 3: 
Tôi chọn viết những từ khó, hay nhầm lẫn lên bảng lớp để  học sinh đọc.  
Tôi đọc mẫu, học sinh đọc theo cả  4 mức độ  (to, nhỏ, nhẩm, thầm). Đọc cá  
nhân, tổ, đồng thanh. Nếu cá nhân nào đọc không được tôi hướng dẫn đọc theo  
cơ chế tách đôi.
Đọc bài trong sách giáo khoa tôi thực hiện theo quy trình sau:
+ Học sinh đọc thầm cả trang một lượt.
+ Giáo viên đọc mẫu cả trang một lượt (phát âm thật chuẩn, to, rõ ràng) từ 
trên xuống dưới, từ trái sang phải.
+ Gọi học sinh đọc cá nhân, nhóm, đồng thanh (khi đọc cá nhân các học 
sinh khác chỉ tay theo dõi bài bạn đọc. Giáo viên có thể gọi bất kì học sinh khác 
đọc nối tiếp để kiểm soát sự chú ý của học sinh.)
Người Thực hiện: Nguyễn Thị Phương Mai                                                           

7


Đề tài“Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh học lớp 1­ Công nghệ giáo  
dục”
Năm 2017­ 2018

+ Giáo viên nghe, uốn nắn, sửa chữa học sinh kịp thời.
Trong các bài dạy vần, sách giáo khoa Tiếng Việt 1­ Công nghệ  giáo dục 
có kèm theo các từ khóa, từ   ứng dụng và các câu thơ, câu văn ngắn để  học sinh  
luyện đọc. Muốn cho học sinh đọc được các từ  và câu  ứng dụng trong bài giáo 
viên cho học sinh nắm chắc các vần, sau đó cho các em ghép chữ cái đầu với vần  
vừa học để  đọc tiếng, đọc từ  của bài. Và áp dụng xuyên suốt quy trình đọc và 
cách hướng dẫn học sinh đọc tôi nghĩ học sinh sẽ đọc rất tốt.
Việc 4: Tôi áp dụng như ở phần dạy âm.
3/ Giúp học sinh nhận xét, điều chỉnh lẫn nhau.
Trong môn Tiếng Việt 1 – Công nghệ giáo dục trọng tâm là “thầy thiết kế 
­ trò thi công”. Trong quá trình rèn kỹ năng đọc cho học sinh, giáo viên luôn đặc 
biệt quan tâm đến mối quan hệ tương tác giữa học sinh với học sinh. Giáo viên  
cần chú trọng việc rèn cho các em có kỹ năng nghe – nhận xét – sửa sai giúp bạn  
và tự sửa sai cho mình. Các em sử dụng các kỹ năng ấy thường xuyên trong các  
tiết học trở  thành một thói quen, tạo nề nếp học tập tốt. Qua quá trình nghe để 
nhận xét, sửa sai giúp bạn, sẽ  giúp học sinh tự  điều chỉnh, sửa sai cho mình. 
Đồng thời còn rèn luyện cho các em tác phong mạnh dạn, tự tin trong góp ý, trao 
đổi, trình bày ý kiến, góp phần hình thành nhân cách.
Ví dụ: Em có nhận xét gì về cách đọc của bạn?
­ Bạn đọc to, rõ nhưng chưa ngừng nghỉ đúng chỗ.
­ Bạn đọc trôi chảy nhưng bạn đọc chưa phân biệt rõ âm /ch/, /tr/...
4/ Giúp học sinh kiên trì trong giờ luyện đọc.
Trong giờ  luyện đọc cho học sinh, khi các em đọc chưa đúng, phải điều 

chỉnh nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu cầu, các em sẽ  dễ  chán nản, không muốn  
luyện tập. Khi  ấy, giáo viên cần kiên trì hướng dẫn, làm mẫu, yêu cầu học sinh  
đọc nhiều lần, thường xuyên động viên khích lệ  học sinh bằng những lời khen  
“Em đã đọc tốt hơn rồi, em cố gắng thêm tí nữa nhé!”, “Em đã đọc được rồi đấy, 
em cố gắng lên nhé!”…được động viên như  vậy, học sinh sẽ không nản lòng vì 
nghĩ rằng mình sẽ làm được, sắp làm được, bạn làm được thì mình cũng sẽ  làm 
được…từ đó học sinh sẽ quyết tâm hơn. Trong số những học sinh phát âm sai, có 
một phần nhỏ  học sinh do lười biếng, không muốn rèn luyện mình nên chỉ  phát 
âm một cách nhanh chóng, đại khái cho xong, dần dần thành quen nên phát âm  
không chuẩn xác. Với những đối tượng này, giáo viên phải thật nghiêm khắc, 
Người Thực hiện: Nguyễn Thị Phương Mai                                                           
8


Đề tài“Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh học lớp 1­ Công nghệ giáo  
dục”
Năm 2017­ 2018

khen – động viên đúng mực để  các em thấy rằng mình có khả  năng học tập rất 
tốt, mình cần  phải thể hiện hết khả năng của mình.
5/ Rèn luyện đọc cho học sinh ở mọi nơi, mọi lúc
Để  giúp học sinh đọc tốt, tôi không chỉ  hướng dẫn, sửa sai cho các em  
trong giờ học môn Tiếng Việt mà còn luôn theo dõi, uốn nắn cho các em cả trong  
các tiết học khác, trong giờ chơi, trong hoạt động tập thể… Bởi vì những lúc vui 
chơi là lúc các em sử  dụng lời nói một cách tự  nhiên nhất. Người giáo viên cần  
chú ý quan sát để  phát hiện những lỗi khi nói của các em và kịp thời sửa chữa, 
đồng thời tạo cho học sinh thói quen đọc tốt dù ở bất cứ nơi đâu.
6/ Tác động giáo dục.
Để  đáp  ứng mục tiêu và phù hợp với yêu cầu học Tiếng Việt 1 – Công  
nghệ   giáo  dục.  Từ   đầu năm,  trong  cuộc  họp phụ   huynh học sinh,  tôi  đã đề 

nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ  sách vở, đồ  dùng cần thiết phục vụ 
cho môn học. Hướng dẫn với phụ  huynh thống nhất đọc một số  âm mới như 
/c/, /k/, /q/ đọc là “cờ”, cách đọc nguyên âm đôi /ia/, /ua/, /ưa/, cách đánh vần mới  
để tạo điều kiện cho phụ huynh rèn luyện đọc cho các em khi ở nhà.
7/ Tuyên dương, khuyến khích học sinh.
Khi các em có tiến bộ, dù nhỏ nhất tôi cũng dùng những lời động viện để 
khuyến khích các em (Ví dụ: “Em đã đọc tốt hơn hôm qua rồi, cố lên em nhé!”, 
“Em đã có tiến bộ nhiều hơn rồi, cô khen em!”...). Không chỉ khen những em đã 
đọc tốt hơn mà tôi còn khen cả những em đã giúp bạn đọc đúng, để từ đó các em  
có động lực giúp bạn hơn, hứng thú với công việc đó hơn.
PHẦN IV: KẾT QUẢ
Sau một thời gian tìm hiểu nguyên nhân và áp dụng những biện pháp về 
việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh học Tiếng Việt 1 – Công nghệ giáo dục ở lớp  
đang dạy. Kết quả bước đầu từ thực nghiệm thực tế đến nay được kết quả như 
sau:
Giai 
đoạn
GHKI
HKI

TSHS

Đọc trôi chảy to, rõ

Đọc chậm, không sai lỗi

Đọc chậm , còn sai lỗi

31


SL
10

TL%
32,3%

SL
15

TL%
48,4%

SL
6

TL%
19,3%

31

15

48,4%

13

41,9%

3


9,7%

Người Thực hiện: Nguyễn Thị Phương Mai                                                           
9


Đề tài“Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh học lớp 1­ Công nghệ giáo  
dục”
Năm 2017­ 2018

GHKII

31

20

64,5%

10

32,3%

1

3,2%

100% các em đã đọc được hết bài. Tuy nhiên vẫn có em đọc nhỏ, đọc 
chậm và có em còn sai lỗi, nhưng nhiều em đã có sự tiến bộ trong cách đọc cũng 
như số lượng mắc lỗi trong bài đọc của các em đã giảm.
Từ  kết quả  đạt được, tôi thấy khả  năng đọc của các em được nâng lên, 

học sinh hứng thú học tập, tạo không khí thoải mái khi học, học mà chơi, chơi 
mà học. 
Bằng sự  nhiệt tình trong công tác nghiên cứu giảng dạy, tôi đã vận dụng 
sáng tạo những phương pháp đã học để hướng dẫn kèm cặp đối tượng học sinh 
lớp Một để giúp các em đọc tốt, đọc chuẩn, đọc không sai lỗi. 
Tuy rằng các em đọc còn sai lỗi nhưng những biện pháp mà tôi đưa ra đã  
giúp em đọc tốt hơn phần nào, nhìn nhận ra lỗi đọc của mình để  có biện pháp 
sửa chữa hợp lý.
PHẦN V. KẾT LUẬN
1/ Tóm lược giải pháp:
­ Để  giúp học sinh đọc bài một cách chắc chắn, giáo viên cần dành thời  
gian để luyện đọc củng cố và nâng cao. 
­ Trong phần học sinh luyện đọc cá nhân – giáo viên cần chú ý tới các em  
đọc chậm để giúp đỡ các em đó đọc – giáo viên cần động viên khích lệ kịp thời. 
­ Trong quá trình học sinh đọc giáo viên quan tâm theo dõi, uốn nắn, sửa sai 
kịp thời cho các em. 
­ Giáo viên cần có sự chuẩn bị chu đáo, phải đưa ra các tình huống có thể 
xảy ra khi hướng dẫn học sinh đọc cho đúng, cho hay. Muốn vậy giáo viên phải 
nắm thật chắc thiết kế, phải thật sự quan tâm đến tất cả học sinh trong mỗi giờ 
lên lớp và dạy rất kĩ  ở việc 1. Vì đó là cơ  sở  cho việc rèn đọc cho học sinh tốt 
hơn ở việc 3. Trong giờ học, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, tổ  chức để  học 
sinh nắm thật chắc kiến thức ngữ âm.
­  Giáo viên chú trọng rèn kỹ năng phát âm đúng, đọc đúng, viết đúng ngay  
từ  đầu.  Đó chính là điều cốt lõi làm nên sự  thành công của việc dạy và học 
Tiếng Việt 1 – Công nghệ giáo dục.
­ Giáo viên phải thực sự tâm huyết với nghề, đầu tư nhiều thời gian nghiên 
cứu cho mỗi bài giảng, có kế  hoạch và phương pháp giảng dạy theo từng đối  
Người Thực hiện: Nguyễn Thị Phương Mai                                                           
10



Đề tài“Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh học lớp 1­ Công nghệ giáo  
dục”
Năm 2017­ 2018

tượng học sinh. Sử dụng phương pháp dạy học thích hợp, tạo ra những giờ dạy  
gây hứng thú học tập cho học sinh và đạt kết quả học tập cao.
­ Giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo trong giảng dạy.
­ Mở  đầu tiết học cần giới thiệu bài một cách tự  nhiên để  gây hứng thú  
học tập cho học sinh nhằm lôi cuốn các em vào nội dung bài.
­ Khi đọc mẫu giáo viên cần phát âm chuẩn vì ở lứa tuổi các em bắt chước 
rất tốt tránh để tiếng địa phương làm ảnh hưởng đến các em.
2/ Phạm vi áp dụng:
Tôi đã thường xuyên áp dụng phương pháp trên khi giảng dạy Tiếng Việt 
1­   Công nghệ  giáo dục cho học sinh lớp mình năm học 2017 ­ 2018, đặc biệt  
quan tâm nhiều đến các em đọc chậm, ngại đọc để  giúp các em có niềm tin, từ 
đó đọc thông thạo, trôi chảy. Những biện pháp tôi đã thực hiện ở  trên có thể  áp 
dụng rộng rãi trong việc dạy học Tiếng Việt 1­   Công nghệ  giáo dục cho các 
giáo viên của trường Tiểu học Huỳnh Văn Đảnh và các trường trong huyện. 

Người Thực hiện: Nguyễn Thị Phương Mai                                                           
11



×