UBND HUYỆN KRÔNG ANA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Tên đề tài:
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng giao
tiếp
cho trẻ dân tộc thiểu số 5 – 6 tuổi
Lĩnh vực: Phát triển ngôn ngữ
Họ và tên tác giả: Vũ Thị Lợi
Đơn vị: Trường Mầm non Sơn Ca
Dray Sáp, tháng 03 năm 2019
MỤC LỤC
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Như chúng ta đã biết giáo dục mầm non là khâu quan trọng của hệ thống
giáo dục quốc dân, là bậc học chuẩn bị tiền đề cho giáo dục phổ thong theo
mục tiêu giáo dục toàn diện. Ngành học mầm non những năm qua có nhiều
chuyển biến về chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ không
những ở những thành phố lớn, thị xã, thị trấn, mà được nhân dân các vùng
ven, miền núi đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng đang từng
bước được cải thiện.
Ngôn ngữ là phuơng tiện giao tiếp, là hiện thực trực tiếp của tư duy. Sử dụng
ngôn ngữ tốt không thể không tính đến yếu tố mạch lạc. Ngôn ngữ mạch lạc là ngôn
ngữ có nội dung rõ ràng, cụ thể, có trình tự, logic, có thể được sử dụng hỗ trợ bằng
các quan hệ từ, câu chuyển ý... được người nghe lĩnh hội và hiểu đúng. Ngôn ngữ
mạch lạc cũng thể hiện năng lực tư duy và hiểu vấn đề của trẻ. ( Trích Môđun 3
BDTX)
Để thực hiện vấn đề này một cách có hiệu quả nâng cao chất lượng giao tiếp
bằng Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số thì cần phải phát triển ngôn ngữ, bởi vì
Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của trẻ, sự phát triển ngôn ngữ là giúp trẻ tham gia
trực tiếp vào các hoạt động khác là phương tiện để giao lưu tình cảm về mối quan
hệ và cách ứng xử trong xã hội là sự tìm tòi khám phá thế giới tự nhiên, cuộc sống
xung quanh của trẻ.
Trong những năm vừa qua nhà nước đã có rất nhiều chính sách hỗ trợ cho trẻ
em người dân tộc thiểu số như: Quyết định số 2123/2010/QĐTTG của thủ tướng
chính phủ về phê duyệt đề án phát triển giáo dục đối với các dân tộc ít người giai
đoạn 2010 – 2015 “Nhà nước ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị dạy học cho
các cơ sở giáo dục có trẻ dân tộc rất ít người có chế độ, chính sách đặc thù cho trẻ
em, học sinh, sinh viên dân tộc rất ít người; tạo cơ hội cho trẻ em sinh viên dân tộc ít
người được học tập, đảm bảo thực hiện công bằng trong giáo dục”. Nhưng đối với
trẻ dân tộc thiểu số thì đó là vấn đề bất cập, để vận động trẻ đến tuổi ra lớp gặp
rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó việc bất đồng ngôn ngữ giữa cô và trẻ đã gây ra
3
nhiều khó khăn trong việc giao tiếp, mặt khác phụ huynh chưa hiểu hết vấn đề về
học tập. Con cái muốn học hành thế nào cũng được, họ ít quan tâm đến việc học
của con em mình. Đối với trẻ thì không muốn đi học vì đi học thì sẽ bị gò bó trong
khuôn khổ, trẻ thích theo cha mẹ đi lên rẫy để săn bắn chim, chăn trâu, chăn bò.
Mặt khác còn một số hạn chế như: Trẻ nhút nhát, tự ti và lung túng khi đứng trước
đám đông, chưa có kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm, chưa có kỹ năng thích ứng,
kỹ năng giải quyết vấn đề, đặc biệt kiến thức còn nghèo nàn. Chính vì thế giáo viên
phải đến tận nhà của trẻ để vận động phụ huynh cho con đi học. Khi đến lớp các
cháu tỏ ra e ngại, rụt rè, sợ cô không muốn đi học vì trẻ không biết giao tiếp bằng
Tiếng Việt mà chỉ biết nói tiếng bản địa.
Trẻ dân tộc thiểu số có nhiều nhu cầu khác nhau cần được hỗ trợ khi đến
trường mầm non, một trong những nhu cầu quan trọng nh ất đối với trẻ dân tộc
thiểu số là phát triển ngôn ngữ nói chung và tăng cường Tiếng Việt. Điều này chứng
minh trong báo cáo FDI năm 2012 và 2014 ( Bộ giáo dục và đào tạo) về kết quả phát
triển của trẻ em vùng dân tộc thiểu số ở các lĩnh vực khác nhau. Kết quả báo cáo
trên đã gợi ý cho chúng ta cần phải tập trung vào lĩnh vực phát triển ngôn ngữ và
giao tiếp trong quá trình giáo dục trẻ em vùng dân tộc thiểu số. Chính vì vậy chúng
ta cùng nhìn nhận và thực hiện tốt việc giáo dục kỹ năng sống nói chung và kỹ năng
giao tiếp nói riêng cho trẻ. Bên cạnh đó, cần có những biện pháp cụ thể mang tính
đặc thù cho nền giáo dục mầm non nói chung và cho nền giáo dục kỹ năng sống, kỹ
năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số nói riêng đây là yêu cầu cần thiết và khách
quan trong sự phát triển.
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu những giải pháp giáo dục kỹ năng giao
tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số tại lớp lá 5 trường Mầm non Sơn Ca xã Dray Sáp
Huyện Krông Ana mà bản thân đã thực hiện trong quá trình giảng dạy trong những
năm học vừa qua.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu và đề ra những biện pháp giáo dục kỹ năng
giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số tại lớp lá 5 trường Mầm Non Sơn Ca.
Nhiệm vụ của các cô giáo mầm non trong việc giáo dục kỹ năng giao
tiếp cho trẻ mầm non hiện nay đang là vấn đề bức thiết, là việc làm cần thiết
4
có vai trò to lớn trong việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ mầm non, đặc
biệt là trẻ vùng đồng bào dân tộc thiểu số nơi tôi đang công tác. Do đó việc
giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ người dân tộc thiểu số là rất cần thiết.
Xuất phát từ các lý do trên, bản thân tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp giáo
dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số 5 – 6 tuổi tại lớp lá 5”.
II. Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài nhằm góp phần nâng cao khả năng giao tiếp cho trẻ ở
trường mầm non và chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ vào học trường phổ thông và
sự phát triển sau này của trẻ.
Đề tài này xây dựng biện pháp giáo dục kĩ năng giao tiếp cho trẻ người dân tộc thiểu
số tại lớp lá 5 Trường Mầm non Sơn Ca, Huyện Krông Ana.
Lựa chon các biện pháp và giải pháp để giúp trẻ phát triển tốt kỹ năng giao
tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số để nâng cao chất lượng giáo dục tại lớp mình phụ
trách. Trong quá trình giảng dạy những năm học vừa qua, những hoạt động ngoài
giờ lên lớp có liên quan đến việc tăng cường kỹ năng giao tiếp Tiếng Việt cho trẻ
dân tộc.
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề:
Giáo dục mầm non là vấn đề có tầm chiến lược lâu dài, ảnh hưởng to lớn đến
sự phát triển nền giáo dục phổ thông, đây là bậc học đầu tiên là nền tảng để trẻ
học lên các lớp trên, chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp 1. Góp phần phổ cập tiểu học
đúng độ tuổi. Đồng thời mục tiêu giáo dục mầm non là giúp trẻ nhận thức phát
triển ngôn ngữ, phát triển tình cảm xã hội.
Song vị trí của phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non tương đối đặc biệt vì từ
sự phát triển ngôn ngữ sẽ tham gia trực tiếp vào sự phát triển của các lĩnh vực khác.
Bởi ngôn ngữ là phương tiện giao lưu tình cảm, phương tiện để trẻ nhận thức
khám phá tự nhiên.
Tiếng Việt là một môn học hết sức quan trọng đối với tất cả các bậc học của
nước ta hiện nay. Với trẻ là người dân tộc thiểu số, việc tăng cường Tiếng việt
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ dân tộc là một trong những vấn đề đang
5
được các cấp các ngành các trường học đặc biệt quan tâm. Nghị quyết 40/2002/NQ
QH của quốc hội khóa IX về đổi mới giáo dục phổ thông đã khẳng định: Tiếng Việt
là ngôn ngữ phổ thông được đưa vào dạy học thống nhất trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Tiếng việt trong nhà trường tồn tại với hai tư cách: Vừa là một môn học
vừa là công cụ giao tiếp, học tập của trẻ. Do đó trình độ Tiếng Việt (vốn từ, kiến
thức về tiếng việt và kỹ năng sử dụng vốn từ trong học tập, giao tiếp) có vai trò và
ảnh hưởng rất quan trọng đối với khả năng giao tiếp và lĩnh hội các kiến thức của
trẻ.
Mục đích của giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số là nhằm
phát triển toàn diện nhân cách nói chung và phát triển năng lực hành động của trẻ
nói riêng trong các mối quan hệ của trẻ ở gia đình, nhà trường và xã hội. Mục đích
của quá trình giáo dục đó phải là hướng tới là hình thành ở trẻ các kỹ năng hành vi,
biết biểu lộ thái độ, quan điểm của mình trong giao tiếp với người khác. Đó là trẻ
có kĩ năng chào hỏi, nói lời cảm ơn, xin lỗi, biết cách lễ phép với người lớn tuổi, có
kỹ năng chia sẽ với người thân, bạn bè, những người xung quanh niềm vui và nỗi
buồn biết tự nhận thức về mình và người khác có kỹ năng nghe và trả lời câu hỏi
của bạn bè và người lớn tuổi, biết cách từ chối yêu cầu đề nghị khi thấy không hợp
lý, có khả năng xử lý tình huống trong quan hệ giao tiếp, có kỹ năng giải quyết một
số vấn đề cơ bản.
Đất nước Việt Nam ta có rất nhiều dân tộc anh em nhưng Tiếng việt là
ngôn ngữ chính để giao tiếp trao đổi với nhau thuận lợi hơn. Tuy nhiên trong
thực tế hiện nay đa số trẻ vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, trước khi
đến trường trẻ chỉ sống trong gia đình, ở các thôn bản nhỏ, trong môi trường
tiếng mẹ đẻ do vậy trẻ chỉ nắm được tiếng mẹ đẻ ở dạng khẩu ngữ. Trẻ
biết rất ít hoặc thậm chí không biết Tiếng việt. Trong khi đó Tiếng việt là
ngôn ngữ được dùng chính thức trong trường học và các cơ sở giáo dục khác.
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phải liên quan mật thiết với việc phát
triển của bán cầu đại não và hệ thần kinh nói chung, bộ máy phát âm nói
riêng. Vì thế cần phải phát triển ngôn ngữ đúng lúc mới đạt kết quả tốt.
6
(Trích phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ em nhà xuất bản Đai học
Huế)
Trẻ càng lớn thì vốn từ càng tăng nhanh, theo các nghiên cứu thì năm lên 4 tuổi vốn
từ của trẻ là 1200 từ, 5 tuổi là 2000 từ và khi được 6 tuổi vốn từ của trẻ lên đến 3000 từ.
Sự linh hoạt và phong phú trong ngôn ngữ của trẻ không chỉ phụ thuộc vào tuổi, mà nó phụ
thuộc rất lớn vào môi trường ngôn ngữ xung quanh trẻ, nó bao gồm cả môi trường lớp
học, môi trường gia đình và môi trường văn hóa xã hội ở địa phương nơi mà trẻ sinh sống.
(Trích môđun 3 tài liệu bồi dưỡng thường xuyên)
Trên thực tế tiếng nói các dân tộc thiểu số, hầu như chưa có vai trò rõ
rệt trong việc hỗ trợ Tiếng Việt trong giáo dục vì vậy, cho đến nay việc dạy
và học Tiếng việt ở các vùng dân tộc thiểu số chỉ đạt kết quả thấp. Đặc biệt
ở lớp chúng tôi đa số các cháu là người dân tộc Êđê việc nghe và nói tiếng
Việt rất kém, mặc dù cô giáo có kèm cặp nhiệt tình thì trẻ vẫn nói bằng hai
thứ tiếng mà chủ yếu là tiếng mẹ đẻ, nhất là khi trẻ ra khỏi lớp học. Sở dĩ
như vậy là do Tiếng việt không phải là một phương tiện sử dụng dễ dàng
đối với học sinh dân tộc thiểu số. Ở lớp trẻ mới dùng Tiếng việt nói với giáo
viên khi cần thiết còn ngoài ra trẻ vẫn thường xuyên sử dụng ngôn ngữ riêng
của dân tộc mình, dẫn đến tình trạng cô và trò không hiểu nhau dẫn đến chất
lượng chăm sóc giáo dục trẻ không thể đạt được kết quả như mong muốn. Vì
vậy việc cung cấp Tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số là hoạt động cần thiết
nhằm giúp học sinh chưa biết hoặc biết ít Tiếng Việt có thể học tập và sử
dụng Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức một cách đơn giản hơn.
II. Thực trạng vấn đề:
Trong những năm gần đây được sự quan tâm của sở giáo dục và đào tạo,
sự chỉ đạo sát sao của bậc học Mầm non. Hoạt động giáo dục kỹ năng giao
tiếp cho trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ dân tộc thiểu số nói riêng đã dần được
đưa vào một chuyên đề quan trọng.
Đượ c sự chỉ đạo sát sao của cán bộ chuyên môn phòng Giáo dục và
Đào tạo sự quan tâm của chính quyền địa phươ ng, các ban ngành đoàn thể
7
sự ủng hộ nhiệt tình của quý phụ huynh và Ban Giám Hiệu nhà trườ ng
thườ ng xuyên quan tâm, hỗ trợ kinh phí, đồ dùng học tập chuyên môn nhà
trườ ng thường xuyên phân công dạy mẫu, thao giảng để bản thân cũng như
các đồng nghiệp học hỏi đúc rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng giảng
dạy cũng như năng lực chuyên môn.
Phần lớn trẻ dân tộc thiểu số trước khi tới trường đều sống hoàn toàn
trong môi trường tiếng mẹ đẻ, không có vốn Tiếng việt ban đầu nên việc
giáo dục kỹ năng giao tiếp Tiếng việt còn khó khăn, do điều kiện kinh tế khó
khăn đa số phụ huynh ở đây không biết chữ, phần lớn gia đình đều làm nông
nhận thức của bố mẹ còn hạn chế vì thế con em của họ không có điều kiện
thuận lợi như những đứa trẻ ở thành thị.
Đối với trẻ dân tộc thiểu số môi trường học tập ở trường học còn mới
mẻ. Đa số trẻ chưa biết nói Tiếng việt mà trẻ chỉ giao tiếp với nhau bằng
tiếng địa phương. Cộng với sự bất đồng ngôn ngữ giữa cô và trẻ. Chính vì
thế giáo dục kỹ năng giao tiếp ở trẻ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cần có sự
kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội để trẻ có được nền tảng và nhân
cách tốt cho sau này.
Giáo dục mầm non có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành nhân cách
gốc cho trẻ mầm non, đặt cơ sở nền tảng đẻ trẻ phát triển bền vững sau này.
Mục tiêu của giáo dục mầm non hướng vào việc trang bị cho trẻ những kỹ
năng giao tiếp chiếm vị trí, vai trò quan trọng nó ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng và hiệu quả của giáo dục mầm non. Bởi mọi hoạt động trong
trường, lớp đều được thực hiện thông qua giao tiếp. Giao tiếp ở trường mầm
non được tiến hành trong mối quan hệ giữa cô – trẻ; giữa trẻ trẻ; trẻ với
những người xung quanh. Để giao tiếp thành công, hiệu quả đòi hỏi giáo viên
phải hiểu được ngôn ngữ của trẻ. Việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ
chưa đạt kết quả cao là do những nguyên nhân các yếu tố như:
8
Giáo viên chủ nhiệm không phải là người đồng bào tại chổ nên việc
xử lý các tình huống, cách trao đổi, giao tiếp với trẻ có lúc còn gặp khó
khăn và hạn chế.
Một mặt chịu sự tác động của các bậc phụ huynh. Một số phụ huynh
chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học. Đặc biệt họ có lối sống
biệt lập giữa dân tộc này với dân tộc khác nên ít có điều kiện giao tiếp bằng
Tiếng Việt, họ không muốn cho con em đi học với mục đích ở nhà đỡ tốn
tiền đi học.
Đối với trẻ thì không muốn đi học vì nếu đi học đến lớp sẽ bị gò bó
trong khuôn khổ, trẻ thích theo bố mẹ lên rẫy chăn bò, bắn chim....Trẻ còn
ngại ngùng còn nhút nhát trong giao tiếp, ngại tiếp xúc với người lạ. Thêm
vào đó sự bất đồng ngôn ngữ giữa cô và trẻ đã không ít gây nhiều khó khăn
trong việc tiếp thu kiến thức kỹ năng, khiến trẻ không thích đi học.
Được phân công giảng dạy tại lớp lá 5, nơi có 100% trẻ là người dân tộc
thiểu số, đa số trẻ có bản tính là nhút nhát môi trường sống chỉ bó hẹp trong
phạm vi gia đình và chòm xóm, thiếu môi trường giao tiếp dẫn đến thiếu kỹ
năng, trong các giờ học giáo viên lại thiếu quan tâm đến việc rèn luyện kỹ
năng giao tiếp cho trẻ sẽ dẫn đến thực trạng. Do đó bản thân đã nghĩ mình
phải làm sao? Làm như thế nào để cho trẻ không nhút nhát, tự ti. Bản thân đã
mạnh dạn tăng cường những nội dung giáo dục kỹ năng giao tiếp chưa được
tiến hành thường xuyên nhằm giúp trẻ tự tin, tự chủ bộc lộ thái độ và hành
vi, kỹ năng trong các hoạt động.
Việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ hiện nay chưa mang lại kết quả
như mong muốn, những biện pháp đã sử dụng trước đây như tạo môi trường,
tích hợp lồng ghép, thông qua hoạt động vui chơi chưa đạt hiệu quả cao cụ
thể như: Vào đầu năm học, tôi đã chủ động kiểm tra, khảo sát trẻ 35 trẻ lớp
lá 5 trường Mầm non Sơn Ca để thấy được thực trạng sử dụng những kỹ
năng giao tiếp hằng ngày của trẻ đạt kết quả như sau:
9
Những kỹ năng giao tiếp hằng
Trước khi chưa
ngày của trẻ
có biện pháp thực
hiện
Trẻ lắng nghe thấu hiểu
15/35
Nói lời yêu cầu đề nghị
12/35
Xử lý tình huống
10/35
Giải quyết vấn đề
11/35
Nói lời cảm ơn, xin lỗi
13/35
Chào hỏi
15/35
Tự chủ trong giao tiếp
12/35
Nói lời từ chối yêu cầu, đề nghị
10/35
Tỷ lệ
42%
34%
28%
31%
37%
42%
34%
28%
Bảng 1: Những kỹ năng giao tiếp hằng ngày của trẻ trong quá trình khảo
sát.
Kết quả khảo sát cho thấy các kỹ năng giao tiếp cơ bản của trẻ còn
nhiều hạn chế, đây là những kỹ năng được sử dụng hằng ngày, thường xuyên
và rất quan trọng đối với trẻ dân tộc thiểu số khi tham gia vào các hoạt động
ở trường. Từ những điều kiện đặt nêu trên bản thân đã tìm ra những giải
pháp, biện pháp để thực hiện trong thời gian vừa qua và thời gian tiếp theo tại
lớp đạt hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc – giáo dục.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
Nhằm đánh giá đúng thực trạng và tình hình trên tôi đã mạnh dạn đưa ra
các biện pháp và mục tiêu chính của giải pháp để giải quyết vấn đề về giáo
dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ em người dân tộc thiểu số. Giúp trẻ phát triển
toàn diện các lĩnh vực như: Phát triển về thể chất, tình cảm, nhận thức,
ngôn ngữ, thẩm mỹ. Hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách,
chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1, hình thành ở trẻ em những chức năng tâm sinh
10
lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần
thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng
tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở cấp h ọc ti ếp theo và cho việc học
suốt đời. Giúp giáo viên làm tốt công tác giáo dục kĩ năng giao tiếp cho trẻ
để đạt đượ c hiệu quả cao hơn. Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và
kỹ năng tư vấn tuyên truyền kiến thức nuôi dạy con theo khoa học với các
bậc cha mẹ cho toàn thể đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý của trường.
Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho
giáo viên về giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ.
Bản thân tôi nhận thấy việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong nhà
trường là việc làm thường xuyên, liên tục theo kế hoạch hàng tháng, hàng
tuần của Ban giám hiệu nhà trường. Đặc biệt là vấn đề dạy kỹ năng giao
tiếp cho trẻ trong trường mầm non còn mới mẻ và rất nhiều giáo viên còn
chưa hiểu rõ được tầm quan trọng của vấn đề hoặc thiếu kỹ năng giảng dạy
để có thể truyền đạt cho trẻ hiểu và hình thành cho trẻ những kỹ năng giao
tiếp cần thiết cho trẻ. Vì vậy ngay từ đầu năm học nhà trường đã tiến hành
họp chuyên môn và nêu nhiệm vụ trọng tâm của trong năm học, trong đó nhấn
mạnh đến việc đưa các kỹ năng dạy trẻ tập làm một số công việc tự phục
vụ, chú ý yếu tố cá nhân của trẻ.
Muốn nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh,
trước tiên giáo viên phải có nhận thức về những nội dung dạy trẻ. Để giúp
giáo viên có vốn kinh nghiệm nhận thức sâu sắc về việc dạy kỹ năng sống
cho trẻ thì cần xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên bao gồm những
nội dung cụ thể sau:
Cung cấp tài liệu cho giáo viên tham khảo về những hoạt động dạy trẻ
kỹ năng sống. Cho giáo viên tham khảo một số giáo án hay, những kinh
nghiệm dạy trẻ có nội dung về giáo dục kỹ năng giao tiếp của các giáo viên
giỏi và trên các tạp chí.
11
Tập trung bồi dưỡng cho giáo viên về lý thuyết những nội dung mà trẻ
còn yếu để giáo viên có kiến thức dạy trẻ. Bồi dưỡng cho giáo viên hiểu rõ
thế nào là dạy kỹ năng giao tiếp. Dạy kỹ năng giao tiếp là dạy cho trẻ những
kỹ năng gì. Dạy kỹ năng giao tiếp cho trẻ vào thời điểm nào là hiệu quả nhất.
Đặc biệt nhấn mạnh đến những kỹ năng: Hợp tác, chia sẻ; lễ giáo; khám phá,
học hỏi; mạnh dạn tự tin.
Trẻ cần biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người
khác hiểu. Trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới
xung quanh. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ, nó có
vị trí khá chính yếu so với tất cả các kỹ năng khác như: Đọc, viết...Nếu trẻ
cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay một chính kiến nào đó, trẻ sẽ
dễ dàng học và sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố
cần thiết để giúp trẻ sẵn sàng học mọi thứ.
+ Ky năng s
̃
ống tự tin: Ngay từ khi đến lớp giáo viên nên khuyến khích
động viên trẻ giới thiệu tên của mình với các bạn trong lớp. Nghĩa là giúp trẻ
cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với
những người khác. Kỹ năng này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình
huống ở mọi nơi, mọi lúc. Thể hiện khả năng, năng khiếu của bản thân trước
tập thể như: Biết tự giới thiệu về bản thân, tham gia các chương trình văn
nghệ, biểu diễn thời trang… Ví dụ: Trẻ tự tin đứng trước mọi người giới
thiệu tên của mình và hát 1 bài hát yêu thích.
+ Kỹ năng lao động tự phục vụ: Trẻ ở lứa tuổi MN còn rất vụng về, khi
để trẻ tự xúc ăn có thể bố, mẹ hoặc cô giáo thấy trẻ lúng túng thì lại đút cho
trẻ ăn để tránh rơi vãi, hoặc là khi đến lớp bố mẹ không để cho con cất giầy
dép, cởi bớt áo khoác, cất ba lô mà lại làm giúp cho con. Nhưng giáo viên phải
xác định rằng đó là cách trẻ học làm người lớn, để cho trẻ tự cần thìa xúc
cơm ăn, lúc đầu có thể chưa quen nhưng sau đó dần dần trẻ sẽ thành thục
trong việc tự phục vụ cho mình trong ăn uống. VD: Tự đi giày dép, uống
12
nước, tự lấy nệm, lấy gối cho mình (trẻ lớp mầm)…tự mặc quần áo, cùng
với cô và các bạn kê dọn bàn ăn, tự đánh răng sau khi ăn, tự rửa mặt …
+ Ky năng sông h
̃
́ ợp tác: Khi dạy trẻ kỹ năng hợp tác cần giúp trẻ hiểu
có những công việc một mình sẽ không thể làm được. VD Trong giờ hoạt
động góc trẻ hợp tác cùng bạn xây dựng ngôi nhà, khu vui chơi… Chính vì
vậy phải có sự hợp tác của các thành viên trong nhóm.
+ Ky năng ham hoc hoi, kh
̃
̣
̉
ả năng thấu hiểu: Đây la m
̀ ột trong những
kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này. Giáo viên cần sử
dụng nhiều tư liệu và ý tưở ng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên
của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt
động và tư liệu mang tính chất khác lạ thườ ng khêu gợi trí não nhiều hơn
là những thứ có thể đoán trướ c đượ c. VD: Trong giờ Khám phá khoa học “
Một số con vật nuôi trong gia đình” trẻ được quan sát các con vật, từ đó
tìm hiểu xem con v ật đó lông của nó như thế nào hay vì sao con gà lại dùng
chân bới xuống đất để làm gì….
+ Dạy trẻ biết nói lời cảm ơn, xin lỗi: Ngay từ khi còn bé, nếu trẻ hiểu
được nên dùng những lời cảm ơn và xin lỗi trong hoàn cảnh phù hợp thì sẽ
rất có lợi cho việc hình thành nhân cách của trẻ sau này. Cho nên giáo viên
cần phải biết dạy trẻ sử dụng các lời nói đó vào những hoàn cảnh cụ thể. Ví
dụ khi có người lớn cho quà trẻ phải biết nhận bằng hai tay và nói lời “cảm
ơn”, hoặc khi không may lỡ làm bạn ngã thì phải biết dùng lời “xin lỗi” đối
với bạn.
Bồi dưỡng về thực hành cho giáo viên:
Muốn giáo viên dạy được trẻ các kỹ năng giao tiếp thì đòi hỏi thao tác
của giáo viên phải chuẩn mực và có sự thống nhất, những kỹ năng này phải
được các cô giáo hướng dẫn giống nhau không có sự lệch lạc mỗi lớp hướng
dẫn một kiểu thì sẽ rất khó cho việc kế thừa từ lớp nhỏ đến lớp lớn. Hướng
dẫn cho giáo viên cách xây dựng các tiết học theo chủ đề, cách lồng ghép nội
13
dung giáo dục kỹ năng sống trong các hoạt động chung, nhất là cách tạo ra
các tình huống để trẻ giải quyết.
Hàng tháng tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn nhằm trao đổi về
chuyên môn, về cách lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ.
Từ đó tìm ra những mặt tích cực và khắc phục những mặt còn tồn tại.
Ban giám hiệu thường xuyên dự giờ dạy và các hoạt động của giáo viên
có lồng ghép nội dung này, từ đó đánh giá được đúng mức trình độ của từng
giáo viên để có kế hoạch bồi dưỡng, góp ý. Với những giáo viên khá, giỏi
cần hướng cho giáo viên cách tổ chức các tiết dạy và các hoạt động có lồng
ghép nội dung giáo dục kỹ năng giao tiếp với nhiều hình thức sáng tạo, hấp
dẫn. Cách làm đồ dùng, đồ chơi, sáng tác thơ ca, truyện kể có nội dung về
giáo dục kỹ năng giao tiếp. Với những giáo viên mới và có chuyên môn trung
bình, Ban giám hiệu đã tập trung bồi dưỡng về chuyên môn, tác phong sư
phạm khi lên lớp, cách tổ chức các giờ dạy theo chủ đề, cách lồng ghép nội
dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ sao cho phù hợp và có hiệu quả. Với việc
tổ chức các hoạt động mẫu và dự giờ giáo viên thường xuyên, bổ sung góp ý
cho giáo viên theo đúng khả năng, chất lượng của giáo viên trong trường đã
được nâng lên một cách rõ rệt. Việc lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng
giao tiếp cho trẻ cũng được thực hiện thường xuyên hơn ở trong tất cả các
hoạt động.
Biện pháp 2: Tổ chức hoạt động tăng cường Tiếng Việt trong việc giáo
dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ .
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người trong
xã hội. Ngôn ngữ chính là quá trình con người sử dụng tiếng nói để giao tiếp
với nhau. Trong quá trình giao tiếp, con người biểu hiện ý nghĩ và cảm xúc
nhờ tiếng nói, do đó để hiểu nhau cùng tiến hành các hoạt động. Thế nhưng
đối với trẻ dân tộc thiểu số ở đây mà nói môi trường giao lưu hạn chế, trẻ
thường sử dụng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp với nhau, trẻ học Tiếng việt với tư
14
cách là ngôn ngữ thứ hai trẻ thường phát âm không chuẩn và có thói quen sử
dụng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp và vui chơi kể cả khi ở trong lớp. Bên cạnh
đó hiểu biết về cuộc sống và kỹ năng tiếng mẹ đẻ của trẻ kém ảnh hưởng
đến việc tiếp nhận Tiếng Việt của trẻ.Một trong những nhu cầu quan trọng
nhất đối với nhóm trẻ ở đây là phát triển ngôn ngữ nói chung và tăng cường
tiếng việt. Điều này đã được chứng minh trong báo cáo EDI nă 2012 và 2014
(Bộ giáo dục và đào tạo ) và kết quả phát triển của trẻ em vùng dân tộc thiểu
số ở các lĩnh vực khác nhau. Kết quả báo cáo trên cho chúng ta thấy cần tập
trung vào lĩnh vực phát triển ngôn ngữ và giao tiếp trong quá trình giáo dục trẻ
dân tộc thiểu số.
Nắm rõ được tầm quan trọng của việc tăng cường tiếng việt đối với trẻ
dân tộc thiểu số dựa vào kế hoạch của năm học, bản thân đã đưa hoạt động
“Tăng cường tiếng việt” vào xây dựng kế hoạch của mình theo từng tháng,
tuần và ngày phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ và được chuyên môn
xét duyệt. Qua đó bản thân được trang bị đầy đủ về nội dung, phương pháp
và cách thức tổ chức tại lớp về tăng cường tiếng việt cho trẻ em dân tộc
thiểu số.
Bản thân nhận thấy rằng khi bắt đầu học tiếng việt mục tiêu đầu tiên là
hiểu được nghĩa: Tạo giao tiếp tốt với trẻ bằng ánh mắt, mỉm cười thể hiện
niềm vui khi nói chuyện với trẻ tránh chất vấn trẻ và trò chuyện một cách tự
nhiên với trẻ cần cho trẻ thời gian để phản ứng sử dụng đồ vật và tranh ảnh
khi dạy từ mới cho trẻ cung cấp từ khi trẻ cần và mở rộng câu nói phù hợp
với trẻ.Trong đó trẻ được lắng nghe, được khuyến khích trò chuyện một cách
tự nhiên, giáo viên là người tạo cơ hội cho trẻ giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
Kể chuyện là phương pháp hỗ trợ tiếng việt cho trẻ. Trong hoạt động
kể chuyện bản thân đã chỉnh sửa câu chuyện cho phù hợp với trẻ dân tộc
thiểu số và kết hợp tăng cường tiếng việt cho trẻ
15
Khi kể chuyện giới thiệu câu chuyện và các nhân vật trước khi đọc
chuyện.
Kể lại câu chuyện và sử dụng các đạo cụ minh họa.
giới thiệu các từ chính thong qua hành động và tiếng địa phương.
Kể lại câu chuyện thông qua hoạt động đóng kịch
Khuyến khích trẻ kể lại câu chuyện
mời trẻ có khả năng Tiếng Việt tốt lên kể lại câu chuyện, cho trẻ kể
từng đoạn hoặc nhắc lại lời thoại.
Ví dụ: Trong câu chuyện “ Chú dê đen”
+ Bản thân đã sử dụng con rối để giới thiệu từng nhân vật (dáng đi,
tiếng kêu)tính đặc điểm bề ngoài của nhân vật.
+ Cho trẻ xem tranh và giới thiệu các từ và cho trẻ phát âm nhiều lần.
+ Khuyến khích trẻ các cụm từ chính vào hoạt động kể chuyện.
+ Đặt câu hỏi trước, trong và sau khi kể chuyện? Đây là con gì? Nó là
con vật sống ở đâu?
Thường xuyên cho trẻ hát những bài hát, đồng giao thể hiện nền văn hóa
của địa phương.
Hỗ trợ chăm sóc vệ sinh, hỗ trợ dinh dưỡng hằng ngày cho trẻ như: Cho
trẻ gọi tên món ăn, những loại thực phẩm mà trẻ được ăn hằng ngày.
Phương pháp đưa hoạt động “Tăng cường Tiếng Việt” cho trẻ mọi lúc
mọi nơi bản thân nhận thấy ngôn ngữ của trẻ phát triển đáng kể. Trẻ tự tin
mạnh dạn hơn, không rụt rè, nhút nhát. Trẻ có thể sử dụng thành thạo Tiếng
Việt mà ít nói tiếng mẹ đẻ hơn.Từ đó trẻ mạnh dạn giao tiếp với cô giáo với
bạn bè hơn.
16
Hình 3: Tạo môi trường tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số
mọi lúc mọi nơi.
Biện pháp 3: Tăng cường giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc
thiểu số thông qua các góc hoạt động.
Lớp học, trường học là môi trường thuận lợi trong việc phát triển tri
thức tư duy và ngôn ngữ giao tiếp; lớp học và trường học như một xã hội thu
nhỏ, ở đó các em được học tập, vui chơi khám phá và tìm tòi. Trẻ sẽ được
hòa mình vào những mối quan hệ giao tiếp rộng hơn.
Đối với trẻ mầm non chơi mà học, học bằng chơi, hoạt động vui chơi
chiếm vai trò chủ đạo trong hoạt động của trẻ lúc ở trường. thông qua giờ
chơi trẻ đóng vai khác nhau trong xã hội, đóng vai và tái hiện lại những gì trẻ
đã thấy trong giao tiếp hằng ngày. Tất cả những kiến thức và kinh nghiệm
cuộc sống mà trẻ có sẽ được thể hiện qua hoạt động vui chơi. Chính vì vậy
tôi rất chú trọng đến việc tạo tình huống khi trẻ đóng vai để trẻ tìm cách giải
quyết, cũng như quan sát những điều trẻ thể hiện được những kiến thức mà
trẻ có.
Hằng ngày khi đến lớp được tham gia vào góc hoạt động qua đó kỹ năng
giao tiếp càng được cải thiện như:
17
Đối với góc sách thư viện trẻ được lắng nghe cô và bạn, trẻ bắt chước
những từ hoặc câu nói trong chuyện, trẻ tự kể, trả lời câu hởi và những từ
mới.
Ví dụ: Trong câu chuyện “Chú dê đen” trẻ có thể xem tranh câu chuyện
qua đó trẻ có thể kể lại câu chuyện và bắt chước giọng nói hung tợn của
nhân vật Dê đen “Dê kia, mày đi đâu?) bắt chước trạng thái và giọng nói run
sợ của Dê Trắng “ Tôi đi tìm lá non để ăn và nước mát để uống”
Khi tham gia chơi ở góc phân vai: trẻ có thể chơi giả bộ, đóng vai trẻ
biết điều chỉnh giọng nói, ngữ điệu của mình cho phù hợp với vai chơi. Hầu
hết các trẻ đều thích chơi ở góc phân vai vì ở đây trẻ tìm được sự lien kết
giữa gia đình và lớp học. Chúng được tự do suy nghĩ và tưởng tượng khi đóng
các vai như: Giáo viên, bác sĩ, bố mẹ, em bé, ông bà…Trẻ khám phá, tìm hiểu
các vai mà chúng đóng. Bản thân cũng đã xây dựng và thiết kế khu chơi đóng
vai thể hiện nét văn hóa cộng đồng và gia đình của trẻ.
Ví dụ: Ở trò chơi khám bệnh, trẻ xưng hô: Tôi – Bác, Tôi – bạn…
Bệnh nhân: Á tôi đau bụng quá bác sĩ ơi
Bác sĩ: Để tôi khám cho bác nhé, tôi sẽ lấy thuốc cho bác bác hãy mau
uống thuốc đi…
Bệnh nhân: Cảm ơn bác sĩ
Những câu nói trên của trẻ đã thể hiện sắc thái trang trọng phù hợp với
nghề nghiệp. Trẻ đã biết sử dụng các đại từ nhân xưng thích hợp, có sắc thái
thể hiện với vai mình đóng. Qua vai chơi trẻ biết điều chỉnh cách nói chuyện
thân thiện và xa lạ. Qua đó trẻ học được kỹ năng đó là: Nói chuyện trong khi
chơi với bạn, lắng nghe bạn nói, bắt chước bạn học được những từ mới, nói
về cảm xúc của bản thân; trẻ được trao đổi, thỏa thuận, chào hỏi….
Khi tham gia ở góc tạo hình:
18
+ Tạo hình là hoạt động nghệ thuật luôn được trẻ ưa thích, tạo cơ hội
cho trẻ được thử nghiệm, sáng tạo, khám phá mới, thích thú và trẻ được tiếp
nhận cảm xúc.
Qua hoạt động này trẻ được trò chuyện trao đổi với nhau khi vẽ; được
miêu tả , kể mình vẽ cái gì?
Đối với góc xây dựng, lắp ghép: Trẻ đượ c cung cấp nhiều cơ hội để
phát triển óc tưởng tượng, sang t ạo, giúp phát triển kỹ năng giao tiếp, ở
đây trẻ đượ c lắng nghe, trao đổi thảo luận với bạn, lắng nghe ý kiến của
bạn, đề nghị bạn giúp đỡ, chia sẽ đồ chơi, hợp tác giúp đỡ bạn, đượ c miêu
tả những gì mình đã xây dựng.
Đối với góc âm nhạc: Trẻ được lắng nghe giai điệu, nhịp điệu âm
thanh nhận ra những âm thanh từ những nhạc cụ khác nhau.
Trong mỗi giờ lên lớp, trong mỗi hoạt động bản thân đều khuyến khích
trẻ chủ động trong giờ học không những tăng cường mối quan hệ giữa cô và
trẻ mà còn giúp trẻ có cơ hội được thể hiện ;được trải nghiệm thực tế và kỹ
năng của mình khắc phục tính nhút nhát và thiếu tự tin trong giao tiếp. Chính
vì thế trẻ cảm thấy lúc ở bên cô sẽ được an toàn, trẻ chủ động mạnh dạn khi
giao tiếp với bạn bè và cô giáo. Trẻ hạn chế nói trống rỗng, nói tục mà biết
sử dụng những ngôn ngữ giao tiếp đơn giản, biết thể hiện sắc thái phù hợp
hơn nâng cao chất lượng giáo dục hơn so với đầu năm học.
Biện pháp 4: Sử dụng phương pháp nêu gương trong các hoạt động hằng
ngày.
Phương pháp nêu gương là giáo viên dùng những tấm gương sáng của cá
nhân hoặc của tập thể về thực hành kỹ năng giao tiếp để kích thích trẻ học
tập và làm theo, bên cạnh đó giáo viên cũng có thể sử dụng những hành vi
không tốt, phản diện để giúp đỡ trẻ phân tích, đánh giá và tránh những hành vi
tương tự.
19
Phươ ng pháp nêu gương có vai trò rất quan trọng trong công tác giáo
dục kỹ năng giao tiếp, giúp trẻ phát triển được năng lực phê phán và năng
lực đánh giá hành vi của mình, hành vi của người khác từ đó rút ra những
kết luận thiết thực đối với bản thân trong quá trình học tập cũng như rèn
luyện kỹ năng giao tiếp.
Như vậy, thông qua phương pháp nêu gương, giáo viên giúp trẻ học và
làm theo những tấm gương tốt, tránh những gương xấu. Đồng thời giúp trẻ
hình thành được niềm tin về các chuẩn mực xã hội nói chung, chuẩn mực đạo
đức nói riêng và những kỹ năng giao tiếp phù hợp.
Biện pháp 5: Thường xuyên phối hợp với gia đình, nhà trường và xã hội
trong việc thực hiện giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ.
Tổ chức các lực lượng hổ trợ tương tác với nhau trong hoạt động giáo
dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số nhằm hướng tới xây dựng môi
trường giáo dục kỹ năng giao tiếp rộng, thống nhất, có sự phối hợp giữa các
lực lượng trong nhà trường, ở gia đình và xã hội. Từ đó phát huy được sức
mạnh tổng hợp của các lực lượng trong quá trình giáo dục kỹ năng giao tiếp
cho trẻ và nâng cao được hiệu quả của hoạt động giáo dục.
Hiệu quả của công tác giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu
số phụ thuộc vào nhiều cơ chế phối hợp hỗ trợ giữa gia đình nhà trường và
xã hội, tuy lực lượng giáo dục khác nhau nhưng đều có chung một mục đích
hướng tới giáo dục hoàn thiện nhân cách cho con người. Để tổ chức các lực
lượng hỗ trợ, tương tác với nhau trong việc thực hiện giáo dục kỹ năng giao
tiếp, các lực lượng này phải có sự thống nhất về nội dung và phương pháp
giáo dục. Trong đó cần quy định rõ trách nhiệm của các lực lượng giáo dục và
cơ chế trong tổ chức hoạt động giao tiếp.
Giáo viên đã cố gắng học hỏi, tìm cơ hội để giao tiếp với phụ huynh, tìm
hiểu về phong tục tập quán và lối sống của họ dần dần bản thân đã tự học
20
được một số tiếng địa phương của trẻ, sự bất đồng ngôn ngữ giữa cô và trẻ
dần dần được cải thiện.
Kết hợp tổ chức các buổi nói chuyện thảo luận với phụ huynh như: Tổ
chức các cuộc họp phụ huynh đầu năm, giữa kì và cuối kỳ, tổ chức lễ khai
giảng, tổng kết năm học. Qua đó kết hợp lồng ghép tích cực các chuẩn mực
đạo đức phù hợp đối với trẻ. Trao đổi với phụ huynh để họ quan tâm sát sao
hơn nữa, quan tâm đến những hành vi của trẻ, kịp thời thông báo đến cô và
nhà trường những hành vi không đúng của trẻ khi ở nhà. Nói cho phụ huynh
biết giáo dục chính là yếu tố quyết định về nhân cách con người sau này.
Chính vì thế phụ huynh cần hình thành cho trẻ kỹ năng giao tiếp ngay từ đầu
như: Trẻ biết chào hỏi, biết nói lời cảm ơn, biết thành thật nói lời xin lỗi
người lớn hay bạn bè khi làm sai, biết lắng nghe người khác nói, biết giải
quyết những vấn đề đơn giản …dần dần sẽ tạo thành thói quen.
Hình 1: Khai giảng năm học
IV. Tính mới của giải pháp:
Với những biện pháp cũ, phương pháp dạy học không thay đổi, cô giáo
áp đặt các hình thức hoạt động, trẻ chỉ thụ động, nhàm chán, làm cho trẻ càng
ngày càng ít hứng thú, không tích cực tham gia vào hoạt động.
21
Còn với những biện pháp mới, giáo viên tìm hiểu, nắm rõ tâm tư nguyện
vọng của từng trẻ, cho trẻ hoạt động một cách tích cực, chú trọng thay đổi
hình thức để tăng tính kích thích, sáng tạo, hứng thú cho trẻ với nhiều hình
thức, thông qua các hoạt động hằng ngày của trẻ. Ban đầu mức độ sử dụng
các kỹ năng giao tiếp của trẻ chưa được cao, có thành thạo nhưng chiếm tỷ
lệ tương đối thấp. Các kỹ năng đơn giản như kỹ năng chào hỏi, kỹ năng nói
lời cảm ơn, xin lỗi có bước phát triển tốt. Bản thân đã tự tin, sáng tạo hơn
trong việc dạy kỹ năng giao tiếp cho trẻ. Cùng kết hợp với phụ huynh, tạo
niềm tin với phụ huynh, với trẻ. Bản thân dám nghĩ, dám làm, khắc phục mọi
khó khăn để giúp trẻ có được những kỹ năng giao tiếp ngay từ khi còn nhỏ.
Mang lại hiệu quả thiết thực, giúp trẻ hứng thú với hoạt động, trẻ được phát
huy tính tích cực, chủ động của bản thân và mang lại kết quả trên trẻ cao
hơn. Phụ huynh thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy
trẻ các kỹ năng giao tiếp trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông
qua bảng tin dành cho phụ huynh, bảng đánh giá trẻ ở lớp. Giao tiếp giữa cha
mẹ và con cái đã gần gũi thường xuyên chia sẽ với con hơn, ít la mắng trẻ
hướng dẫn trẻ nói những câu nói phù hợp, cha mẹ cũng quan tâm đến con cái
nhiều hơn như: Phản ánh cho cô những câu nói chưa phù hợp khi trẻ nói ở
nhà.
Trẻ đã tham gia tích cực vào các hoạt động trong tiết dạy, trò chơi hoạt
động mọi lúc mọi nơi. Giáo viên đã tận dụng môi trường trong và ngoài lớp
học để trẻ có thể hình thành được thói quen giao tiếp đơn giản hằng ngày
như: Khi đến lớp trẻ biết chào cô vào lớp và chào lúc ra về, trẻ biết xin cô đi
vệ sinh, biết xin lỗi cô và các bạn khi trẻ làm sai, biết chào hỏi người lạ khi
vào lớp, thể hiện cảm xúc vui vẻ, mạnh dạn khi bên cạnh cô và các bạn, thái
độ rụt rè nhút nhát khi có người lạ hỏi…
Trẻ đã mạnh dạn linh hoạt sáng tạo hơn khi giao tiếp Tiếng Việt với
nhau. Trẻ chủ động hơn trong các tình huống giao tiếp hằng ngày, mà ít nói
22
tiếng mẹ đẻ, trẻ đã nói rõ Tiếng Việt để trao đổi với cô nói lên mong muốn,
đề nghị và yêu cầu phù hợp với bản thân trẻ.
Vốn kinh nghiệm vốn có của bản thân và những kiến thức được trang bị
trong quá trình công tác, bản thân đã áp dụng các biện pháp trên vào giáo dục
kỹ năng giao tiếp cho trẻ.
V. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm:
Như đã trình bày ở mặt hạn chế, do giới hạn của phạm vi nghiên cứu,
những giải pháp đề tài mới chỉ được áp dụng tại lớp Lá 5 trường mầm non
Sơn Ca, chưa có điều kiện khảo nghiệm, áp dụng rộng rãi ở nhiều đối
tượng. Chính vì vậy để mang lại hiệu quả cao nhất trong việc giúp trẻ 5 tuổi
thực hiện tốt việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ, góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác chăm sóc giáo dục cho trẻ mầm non. Cần phải
triển khai đồng bộ, thường xuyên tất cả các giải pháp nêu trên.
Qua một thời gian tôi sử dụng các biện pháp trên áp dụng cho các cháu ở
lớp lá 5, tôi thấy có sự chuyển biến một cách rõ rệt và kết quả có sự chênh lệch
giữa tỉ lệ trước khi thực hiện đề tài và sau khi thực hiện đề tài như sau:
Những kỹ năng giao
tiếp hằng ngày của trẻ
Trước khi
chưa thực
hiện biện
pháp
Tháng 9/2016
Trẻ lắng nghe thấu
hiểu
Nói lời yêu cầu đề
nghị
Xử lý tình huống
Giải quyết vấn đề
Nói lời cảm ơn, xin lỗi
Chào hỏi
15/35
Tỷ lệ Sau khi thực Tỷ lệ Tỷ lệ
hiện giải pháp
% tăng
Tháng 9/2018
so với
trước
khi áp
dụng
BP
42%
33/35
94%
52%
12/35
34%
32/35
91%
57%
10/35
11/35
13/35
15/35
28%
31%
37%
42%
30/35
31/35
32/35
32/35
85%
88%
91%
91%
57%
57%
54%
49%
23
Tự chủ trong giao tiếp
Nói lời từ chối yêu
cầu, đề nghị
12/35
10/35
34%
28%
30/35
31/35
85%
88%
51%
60%
Bảng 2: Kết quả khảo sát kỹ năng giao tiếp của 35 trẻ sau khi thực hiện
giải pháp
Phần thứ ba: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Trong hoạt động giảng dạy và tổ chức các hoạt động hằng ngày cho trẻ
giao tiếp có vai trò đặc biệt quan trọng. Hai hoạt động này được diễn ra và
được trao đổi trong mối quan hệ giao tiếp giữa cô và trẻ. Thông qua mối quan
hệ giao tiếp này trẻ được chiếm lĩnh tri thức, làm cơ sở cho sự phát triển
nhân cách của trẻ sau này. Gia tiếp của trẻ mầm non là quá trình tiếp xúc của
trẻ với gia đình, nhà trường và xã hội nhằm trao đổi thông tin về học tập, tư
tưởng, tình cảm và các vấn đề sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày.
Trẻ mầm non có thể thực hiện kỹ năng giao tiếp trong nhà trường, gia
đình và xã hội nhằm thực hiện các mục đích học tập, vui chơi, rèn luyện để
phát triển nhân cách.
Giao tiếp của trẻ có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau,
khả năng giao tiếp của trẻ phụ thuộc và vốn sống vốn kinh nghiệm và tính tự
chủ của trẻ trong quá trình giao tiếp phụ thuộc vào quá trình luyện tập, rèn
luyện do hoạt động dạy học và giáo dục trong và ngoài nhà trường mạng
lại.Đối với trẻ giao tiếp còn góp phần tạo nên những nét nhân cách gốc ở trẻ
em, giúp các em có điểm tựa vững chắc để trưởng thành và phát triển. Kỹ
năng giao tiếp trẻ bao gồm kỹ năng lắng nghe, kỹ năng chào hỏi, nói lời cảm
ơn, nói lời yêu cầu đề nghị, kỹ năng xử lý tình huống...
Quá trình nghiên cứu thực trạng giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân
tộc thiểu số cho thấy đa số giáo viên nhận thức được tầm quan trọng trong
24
việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ. Bước đầu trẻ dân tộc thiểu số đã
được tiếp nhận và hình thành một số kỹ năng cơ bản qua một số hoạt động.
Với những biện pháp nêu trên đã giúp bản thân xác định được rõ mục
tiêu và tầm quan trọng, giúp bản thân có phương pháp tốt hơn, sáng tạo hơn,
tích cực hơn, hứng thú hơn khi tham gia học tập, rèn luyện. Cũng từ đó kỹ
năng giao tiếp của các cháu được phát triển một cách toàn diện.
2. Kiến nghị:
Qua những năm thực hiện đề tài tôi xin đóng góp một số ý kiến như sau:
Để thực hiện tốt công tác chăm sóc giáo dục trẻ, tôi mong được sự giúp
đỡ của các cấp lãnh đạo, các đồng nghiệp giúp đỡ tôi về chuyên môn cũng
như tạo điều kiện để tôi được học hỏi kinh nghiệm của trường bạn.
Cần nâng cao nhận thức vai trò của giao tiếp, kỹ năng giao tiếp cho cán
bộ quản lý, giáo viên, trẻ, gia đình và các lực lượng xã hội từ đó có những
biện pháp tổ chức, chỉ đạo và quản lý hoạt động giáo dục nói chung, giáo dục
giao tiếp, kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số một cách hiệu quả.
Xây dựng tổ chức thực hiện các biện pháp tổ chức hoạt động đa dạng,
phong phú để phát triển năng lực nhận thức tăng cường giao tiếp dưới các
hình thức hoạt động ngoại khóa, văn nghệ có sân chơi phát triển kỹ năng giao
tiếp ...phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và tâm lý trẻ đặc biệt là đối với dân tộc
thiểu số.
Cần phải xây dựng môi trường giáo dục thống nhất, đồng bộ giữa nhà
trường, gia đình và xã hội nhằm tăng hiệu quả của việc giáo dục kỹ năng
sống nói chung, giáo dục rèn luyện giao tiếp, kỹ năng giao tiếp cho trẻ nói
riêng.
Các cấp, các nghành, chính quyền địa phương đặc biệt là ngành giáo dục
cần tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện,
điều kiện cho hoạt động dạy học và giáo dục cho trường.
25