Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
1Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
PHẦN I. MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Luận ngữ có câu: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học
không bằng say mà học”. Yếu tố cảm xúc, say mê chính là động lực để con
người hướng đến tình yêu đích thực của mình, nó cũng là một trong những
động lực thúc đẩy và nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng
của mỗi chúng ta.
Với vai trò là người tổ chức hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập
của học sinh, hơn ai hết người giáo viên cần phải nghiên cứu, phải tìm và
phải biết tiếp cận với cái mới trên cơ sở kế thừa cái hay, cái đẹp của cái cũ
để phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, tạo hứng thú, hưng phấn,
khơi gợi niềm đam mê học tập của học sinh. Đặc biệt, đối với môn Ngữ văn
cấp THCS, để làm được điều đó là cả một quá trình.
Hiện nay, một trong những vấn đề nhiều giáo viên băn khoăn, trăn trở là
tình trạng học sinh chán học Văn, quay lưng lại với môn Văn cũng như các bộ
môn khoa học xã hội khác. Với nhiều học sinh, giờ học Văn chỉ quanh quẩn
trong vài hoạt động nhàm chán: đọc nghe, chép bài, học thuộc, trả bài. Cách
dạy Văn, học Văn như thế khiến học sinh cảm thấy giờ Văn nặng nề, nhàm
chán và dễ gây buồn ngủ. Trên thực tế khi đi dự giờ đồng nghiệp tôi đã thấy
không ít trường hợp học sinh ngáp ngắn ngáp dài thậm chí ngủ gật trong giờ
Văn. Vậy nguyên nhân nằm ở đâu? Lỗi ở trò, ở thầy hay chương trình và sách
giáo khoa chưa đủ sức hấp dẫn?
Trên thực tế ta có thể thấy rằng: dạy Văn nhọc nhằn vất vả nhưng
không phải vì thế mà thiếu vắng những thầy cô tâm huyết với nghề, luôn có ý
thức trau dồi, tích lũy kinh nghiệm cho bản thân và truyền lại những kinh
nghiệm ấy cho bạn bè, đồng nghiệp. Một người thầy tâm huyết là người luôn
luôn không ngừng học hỏi và trau dồi kiến thức cho bản thân, để mang lại
những giờ lên lớp hiệu quả. Một trong những điều mà thầy, cô không ngừng
học hỏi đó là làm thế nào để phát huy được tính tích cực, chủ động của học
sinh trong mỗi giờ dạy nói chung và giờ dạy văn nói riêng? Thật vậy, đó
không chỉ là điều mà các thầy cô giáo mong muốn mà còn là mục tiêu chung
của bộ giáo dục đang đề ra và được triển khai rộng khắp cả nước. Vấn đề
2Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
được đặt ra trên đây mặc dù không mới nhưng nó chưa bao giờ là cũ, vì giáo
dục luôn phát triển theo sự phát triển của xã hội đòi hỏi các phương pháp giáo
dục cũng luôn luôn phải có sự thay đổi sao cho phù hợp với nhu cầu phát triển
chung của xã hội. Vì vậy, hằng giờ các thầy cô trên khắp cả nước vẫn không
ngừng tìm tòi, đổi mới và đưa ra những ý tưởng, kinh nghiệm giảng dạy mà
mình đã đúc rút và góp nhặt được sau những giờ lên lớp để hoàn thiện hơn
tiết dạy của bản thân cũng như để đóng góp vào hệ thống giáo dục chung của
nước ta.
Bên cạnh xu thế ngày một đi lên của xã hội hiện nay, kinh tế xã hội
ngày càng phát triển, hội nhập kinh tế ngày càng mở rộng đòi hỏi nền giáo
dục Việt Nam không ngừng cải tiến, đổi mới phù hợp với thế giới và các
quốc gia trong khu vực. Mặt khác, trong bối cảnh đó, nền giáo dục còn có
những bất cập về chất lượng giáo dục, nhiều giáo viên sử dụng phương pháp
dạy học lạc hậu đã gây nên tình trạng thụ động trong học tập của học sinh
dẫn đến hiệu quả dạy học chưa cao. Học sinh ít được lôi cuốn động viên
khích lệ để hứng thú, tự giác học tập, gây nên tình trạng chán học, bỏ học ở
một số bộ phận học lực yếu kém. Đó là cũng là thực trạng đáng buồn của
trường Trung học cơ sở Lê Đình Chinh trong nhiều năm qua.
Là một giáo viên đã đứng trên bục giảng hơn 4 năm, thời gian tuy chưa
lâu nhưng cũng ít nhiều rút ra được vài kinh nghiệm quý báu trong quá trình
giảng dạy. Tuy nhiên bản thân tôi tự nhận thấy giáo dục là vô biên với nhiều
ngành nghề và môn học đa dạng, bản thân không thể nắm bắt hết được đặc
thù của từng môn, mà chỉ có thể đi chuyên sâu về bộ môn Ngữ văn – bộ môn
mà mình đang trực tiếp giảng dạy. Sau nhiều năm nghiên cứu, thực hiện tôi
đã tích lũy được một số giải pháp giúp học sinh lớp 9 phát huy tính tích cực,
chủ động trong giờ học Văn và đạt được những kết quả khả quan, muốn
được chia sẻ với bạn bè, đồng nghiệp. Bởi vậy tôi xin đưa ra: “Một số kinh
nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ
văn 9”.
II. Mục đích nghiên cứu
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay đã và đang
thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Phương pháp dạy học đổi
mới chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
học sinh làm cho học sinh ham thích môn học. Điều 24, luật giáo dục (do
Quốc hội khoá X thông qua) cũng đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phải phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng lớp học,
3Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh”. Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên
trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.
Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát
triển hứng thú học Văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ Văn
là làm sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Vấn
đề học tập của học sinh cũng vậy. Dù có bắt buộc các em ngồi ngay ngắn
học tập nhưng nếu không thích thú, các em không thể học tốt được. Từ thực
tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở THCS trên địa bàn xã nhà trong nhiều năm,
tôi nhận thấy muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc truyền đạt kiến
thức, tôi nghĩ rằng mình cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để
tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động; học sinh tiếp thu kiến thức một cách
tự nhiên, không gượng ép.
Hơn nữa, môn Ngữ văn xét về bản chất là một môn học rất thú vị, mỗi
bài học là một thế giới thu nhỏ về những điều kì diệu xảy ra xung quanh
cuộc sống của chúng ta. Vậy tại sao một môn học mang lại nhiều lợi ích,
nhiều điều thú vị như vậy, nhưng trong các tiết học vẫn còn tình trạng học
sinh không hứng thú, thiếu sự chủ động, tích cực?... Làm thế nào để khắc
phục tình trạng đó? Đây là điều mà bản thân tôi luôn băn khoăn, trăn trở sau
mỗi giờ lên lớp. Thiết nghĩ rằng việc để xảy ra tình trạng như đã nói trên
phần nhiều là do bản thân người giáo viên đứng lớp. Chính vì thế tôi đã
nghiên cứu và thực hành áp dụng kinh nghiệm này vào các lớp mình dạy
nhằm mục đích giúp học sinh học bài, hiểu bài dễ dàng và biến môn Ngữ văn
trở thành một “niềm vui” với các em, giúp các em yêu thích môn học hơn và
hơn hết là để các em không bao giờ phải trải qua những tiết học nhàm chán,
buồn tẻ mà trong đó các em hoàn toàn bị thụ động trong việc tiếp thu và lĩnh
hội tri thức, còn giáo viên cũng tránh được việc lên lớp nhưng nhiều khi chỉ có
mình độc thoại với chính mình.
PHẦN HAI. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “Giúp học sinh phát triển toàn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn
bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây
4Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
dựng và bảo vệ tổ quốc”. Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm
theo quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối
tượng học sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương
pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm
học tập cho học sinh”.
Tính tích cực, chủ động là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì
để tồn tại và phát triển con người luôn phải chủ động, tích cực cải biến môi
trường tự nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển tính tích cực,
chủ động là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục.
Tính tích cực, chủ động học tập về thực chất là sự tích cực, chủ động
trong nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị
lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Điều đó liên quan trước hết
với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề
của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích
cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng
tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự
giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. Tính tích cực, chủ động trong học
tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo
viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước
vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề
chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn
đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập,
không nản trước những tình huống khó khăn…
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu thì môn Ngữ văn là một môn quan trọng
hàng đầu trong các môn học ở nhà trường hiện nay. Nó mang lại nhiều lợi ích
to lớn trong việc giáo dục và hình thành nhân cách tương lai con người như:
Trang bị kiến thức cơ bản, hiện đại có tính hệ thống về ngôn ngữ và
văn học – trọng tâm là tiếng Việt và văn học Việt Nam – phù hợp với trình độ
phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời kì công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt,
tiếp nhận văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt
5Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
là phương pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều đã học vào thực tiễn
cuộc sống.
Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu
gia đình, thiên nhiên, đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần nhân văn cao cả, giáo dục cho học sinh trách
nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát
huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Nhưng với phương pháp dạy học truyền thống trước đây là phương
pháp dạy học lấy hoạt động của người thầy là trung tâm. Theo Frire nhà xã
hội học, nhà giáo dục học nổi tiếng người Braxin đã gọi PPDH này là “Hệ
thống ban phát kiến thức”, là quá trình chuyển tải thông tin từ đầu thầy sang
đầu trò. Thực hiện lối dạy này, giáo viên là người thuyết trình, diễn giảng, là
“kho tri thức” sống, học sinh là người nghe, nhớ, ghi chép và suy nghĩ theo.
Với PPDH truyền thống, giáo viên là chủ thể, là tâm điểm, học sinh là khách
thể, là quỹ đạo. Giáo án dạy theo phương pháp này được thiết kế kiểu đường
thẳng theo hướng từ trên xuống. Do đặc điểm hàn lâm của kiến thức nên nội
dung bài dạy theo phương pháp truyền thống có tính hệ thống, tính logic cao.
Song do quá đề cao người dạy nên nhược điểm của PPDH truyền thống là
học sinh thụ động tiếp thu kiến thức, giờ dạy dễ đơn điệu, buồn tẻ, kiến
thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ năng thực hành của người học; do đó kỹ
năng vận dụng vào đời sống thực tế bị hạn chế.
Chính vì thế để thực hiện một giờ học có hiệu quả thì giáo viên là
người giữ vai trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự tìm kiếm,
khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh luận, hội thảo theo nhóm. Người
thầy có vai trò là trọng tài, cố vấn điều khiển tiến trình giờ dạy. Phương pháp
này rất đáng chú ý đến đối tượng học sinh, coi trọng việc nâng cao quyền
năng cho người học. Giáo viên là người nêu tình huống, kích thích hứng thú,
suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của học sinh; từ đó hệ thống hoá các
vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc sâu những tri thức cần nắm vững. Ưu điểm
của phương pháp tích cực rất chú trọng kỹ năng thực hành, vận dụng giải
quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học. Đặc điểm của dạy
học theo phương pháp này là giảm bớt thuyết trình, diễn giải; tăng cường dẫn
dắt, điều khiển, tổ chức, xử lý tình huống song nếu không tập trung cao, học
sinh sẽ không hệ thống và logic. Yêu cầu của PPDH tích cực cần có các
phương tiện dạy học, học sinh chuẩn bị bài kỹ ở nhà trước khi đến lớp và
phải mạnh dạn, tự tin bộc lộ ý kiến, quan điểm. Giáo viên phải chuẩn bị kỹ
bài giảng, thiết kế giờ dạy, lường trước các tình huống để chủ động tổ chức
6Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
giờ dạy có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của thầy và hoạt động của
trò. Qua đó tạo cho các em sự say mê, hứng thú và để lại một vốn văn học
đáng kể hỗ trợ cho các em học tốt các môn học khác. Bồi dưỡng tư tưởng,
tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng, tình yêu cái thiện và thái độ ứng
xử đúng mực trong cuộc sống. Hình thành lòng yêu văn học, khả năng cảm
thụ văn bản văn học, cảm thụ vẻ đẹp của Tiếng Việt và tình yêu Tiếng Việt.
Giờ học Ngữ văn ngoài việc dẫn dắt học sinh và cho học sinh tìm nội dung để
phát triển óc tổng hợp, biết chia đoạn để phát triển óc phân tích, các em còn
được rèn luyện tư duy và phong cách sống. Để có kết quả cao mỗi giáo viên
phải nhận thức rõ trong phương pháp giảng dạy.
Mặc dù vậy nhưng mỗi phương pháp dạy học dù truyền thống hay hiện
đại cũng đều có những đặc điểm, ưu thế và nhược điểm riêng. Không có
phương thuốc nào có thể chữa được bách bệnh, không có PPDH nào là chìa
khoá vạn năng. Việc nghiên cứu kỹ từng bài dạy, từng đặc điểm bộ môn và
đối tượng người học để có sự phối kết hợp đa dạng các PPDH là việc cần
làm ngay của mỗi giáo viên để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Chính
vì lẽ đó, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước trong giai đoạn hiện nay; đồng thời để thay làm mới hình thức cũng như
phương pháp dạy học của chính mình. Qua nhiều năm công tác, đi sâu vào
nghiên cứu và tìm hiểu về phương pháp dạy học mới tôi đã đúc rút một vài
kinh nghiệm cho bản thân trong chuyên môn muốn đươc chia sẻ với bạn bè và
đồng nghiệp với “Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động
của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9”.
2. Thực trạng
Trường THCS Lê Đình Chinh là trường có nhiều giáo viên trẻ nhiệt tình
trong công tác giảng dạy, ham học hỏi luôn luôn tìm tòi để nâng cao kiến thức
chuyên môn. Không những vậy nhà trường cũng thường xuyên tổ chức các
buổi thao giảng dự giờ đóng góp ý kiến cho nhau, để tiết dạy được hoàn
thiện hơn. Mặt khác, Phòng Giáo dục của huyện nhà cũng tổ chức định kì các
cuộc trao đổi chuyên môn theo các cụm. Đây cũng là dịp để các thầy cô giáo
trao đổi kinh nghiệm giảng dạy giữa các trường với nhau để ngày càng nâng
cao chất lượng giảng dạy. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất của nhà trường cũng
ngày càng được cải thiện theo hướng tích cực, để phục vụ nhu cầu dạy và
học của thầy trò trong trường.
Về mặt học sinh, các em học sinh của trường đa phần là con em nông
dân nên tính tình hiền lành, ngoan ngoãn, chăm chỉ mặc dù điều kiện gia đình
7Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
còn khó khăn nhưng các em luôn nỗ lực, cố gắng phấn đấu khắc phục khó
khăn để vươn lên trong học tập.
Ngoài những thuận lợi kể trên thì hiện tại trường vẫn gặp nhiều khó
khăn trong công tác giảng dạy. Cơ sở vật chất của trường tuy đã được đầu tư
hơn trước, nhưng so với nhu cầu sử dụng thì vẫn còn nghèo nàn và thiếu thốn
khá nhiều. Các thầy cô giáo vì còn trẻ nên ít nhiều cũng còn thiếu kinh
nghiệm trong việc giảng dạy. Về học sinh các em tuy rất chăm ngoan nhưng
do là học sinh nông thôn nên điều kiện học tập của các em còn thua thiệt
nhiều so với các bạn, không những thế nhiều gia đình học sinh có hoàn cảnh
hết sức khó khăn nên các em cũng không được gia đình quan tâm đến việc học
nhiều. Ngoài ra nhiều bậc phụ huynh và chính các em học sinh còn mang suy
nghĩ, môn Văn không phải là môn học lý tưởng để có thể lựa chọn ngành
nghề trong tương lai cho nên còn có thái độ xem nhẹ môn học này.
Từ tình hình thực tế trên địa bàn xã, người ta thường đổ xô vào các
ngành học mà sau này làm ra tiền. Mà muốn vậy thì phải đầu tư vào các môn
học khác chứ không phải là văn học. Thờ ơ, vô cảm coi thường môn Văn đẫn
đến các em học sinh không có được say mê, hứng thú học văn, đọc văn, như
một nhu cầu tự thân. Đã qua rồi thần tượng của thế hệ trẻ là các nhà văn, nhà
thơ, nhà khoa học, thay vào đó là các ngôi sao ca nhạc, người mẫu thời trang,
minh tinh màn bạc, cầu thủ bóng đá.... Không còn nữa những giờ giảng văn
mà cả thầy và trò đều xúc động trước một câu thơ hay, một áng văn đẹp, một
số phận nhân vật. Không phủ nhận vẫn còn những em say mê văn học, yêu
thích môn văn, rất am hiểu về các tác giả, tác phẩm văn học trong và ngoài
nhà trường, biết làm thơ, viết truyện... nhưng con số ấy đáng là bao?
Một nguyên nhân quan trọng nữa là trường đóng tại địa bàn xã nên tỉ lệ
học sinh gốc Quảng Nam trong trường khá nhiều, các em phát âm mang đậm
đặc thù của tiếng địa phương là điều không thể tránh khỏi. Điều này cũng
ảnh hưởng không nhỏ tới việc cảm thụ một tác phẩm văn chương, đặc biệt
là những tác phẩm văn học cổ.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy rằng trong nhiều
năm qua chất lượng học tập của một số môn học tương đối thấp, trong đó có
môn Ngữ văn. Năm học 2 20172018 được phân công giảng dạy môn Ngữ văn
9, sau khi nhận nhiệm vụ tôi đã tiến hành điều tra, sát hạch về hứng thú học
tập và kết quả học tập môn Ngữ văn của học sinh hai lớp 9A3 và 9A4 bằng
phiếu điều tra với bài kiểm tra 90 phút cùng hình thức trắc nghiệm, tự luận
ngay từ đầu năm học với kết quả thu được như sau:
8Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Về hứng thú học tập:
Tổng số HS
63
Yêu thích
Không yêu thích
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
15
23,8%
48
76,2%
Về kết quả học tập:
Tổng
số HS
63
Giỏi
Khá
Trung
bình
Số
lượng
Tỉ lệ
Số
lượng
Tỉ lệ
Số
lượng
Tỉ lệ
Số
lượng
Tỉ lệ
4
6,3%
10
15,9%
47
74,6%
2
3,2%
Yếu
Đây quả là một kết quả thật đáng buồn nhưng càng buồn hơn là mỗi
khi đến tiết dạy Văn hầu như các em không tập trung chú ý, không khí lớp
chùng xuống khi cả lớp mà số lượng học sinh giơ tay phát biểu chỉ đếm trên
đầu ngón tay và thậm chí có một số em còn ngủ gật trong khi giáo viên thì say
sưa giảng bài. Trước thực trạng đó tôi luôn băn khoăn và tự đặt câu hỏi: Làm
thế nào để các em yêu Văn? Làm thế nào để các em hứng thú với giờ học
Ngữ văn? Với những trăn trở đó, tôi nghĩ rằng cần phải tìm ra các biện pháp
và giải pháp để khắc phục thực trạng trên càng sớm càng tốt.
III. Các giải pháp đã tiến hành
Là giáo viên chúng ta đều biết rằng trí thông minh, khả năng tiếp thu
kiến thức, tình trạng sức khỏe cũng như hoàn cảnh gia đình của mỗi học sinh
là không giống nhau. Tuy nhiên trong thực tế hầu như chúng ta có xu hướng
yêu cầu, đòi hỏi tất cả học sinh mà chúng ta dạy đều phải kết quả cao, đều
phải học giỏi bộ môn của mình. Đó là điều vô lý vì theo thuyết thông minh
của Howard Gardner thì Trí thông minh của con người được chia làm 8 loại đó
là:
Thông minh ngôn ngữ;
Thông minh logictoán học;
Thông minh về âm nhạc;
Thông minh về thể chất;
Thông minh về không gian;
9Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Thông minh về giao tiếp xã hội;
Thông minh nội tâm;
Thông minh về tự nhiên.
Vậy nhiệm vụ của chúng ta cần phải nắm bắt được học sinh của
chúng ta cơ bản có dạng trí thông minh nào để từ đó làm tốt nhiệm vụ giáo
dục tri thức của mình. Là một giáo viên có thời gian giảng bộ môn chưa nhiều
hơn 4 năm, nhưng với kinh nghiệm của bản thân tôi khi còn là học sinh phổ
thông cho đến bây giờ là một giáo viên dạy môn Ngữ văn tại trường THCS
Lê Đình Chinh, tôi cho rằng dạy văn là một công việc khó khăn, đó chính là
dạy làm người. Đó là một công việc vô cùng có ý nghĩa nhưng thực tế cho
thấy, ngày nay nhiều em học sinh không có hứng thú và không yêu thích học
môn Ngữ văn. Nhiều tiết học, thầy cô dạy còn hời hợt, học trò thì học theo
kiểu đối phó nên những tiết học tẻ nhạt cứ diễn ra một cách máy móc, khiên
cưỡng. Vậy nên, tôi thiết nghĩ muốn cho học sinh yêu thích học môn Văn,
trong từng tiết dạy chúng ta luôn phải biết tự làm mới mình bằng nhiều
phương pháp khác nhau. Đặc biệt giáo viên phải biết cách khơi gợi, tạo được
hứng thú, niềm say mê, yêu thích bộ môn cho học sinh.
Nhận thức được điều này cho nên trong các tiết dạy của mình tôi luôn
trăn trở một điều là: Làm thế nào để một tiết học trôi qua mà các em không
cảm thấy bị áp lực, không cảm thấy mệt mỏi, chán chường? Làm thế nào để
trước mỗi giờ học các em có được cảm giác chờ đợi và háo hức đến tiết học
Ngữ văn? Làm thế nào để các em cảm nhận được mình là một thành viên
quan trọng của lớp và làm thế nào để các em có được những kiến thức cơ
bản nhất của tiết học đó? Vì vậy với nội dung này, tôi mong muốn chia sẻ,
trao đổi một vài kinh nghiệm nhỏ bé của mình để có thể giải quyết được một
phần nào đó những câu hỏi mà bản thân đã nêu ra ở trên, từ đó góp phần nâng
cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn 9.
Ngoài ra tôi cũng mong rằng cha mẹ học sinh cần quan tâm đầu tư cho
con em mình khi học các môn mang tính xã hội. Trong khi đó môn Ngữ văn
không phải là môn học dễ, nó kết hợp kiến thức của nhiều môn học khoa học
xã hội, như Địa lý, Sinh học, Lịch sử, GDCD, Âm nhạc và thậm chí có cả
Toán… Học tốt môn Ngữ văn sẽ trang bị cho các em nhiều kiến thức về đời
sống, về giao tiếp ứng xử và các kĩ năng cần có đối với cuộc sống.
Mặt khác học tốt môn Ngữ văn còn giúp cho các em được tự mình khám
phá, được thấy các mối quan hệ về các phân môn trong môn Ngữ văn (văn
bản, tiếng Việt, Tập làm văn) một cách rất tường minh, các kiến thức cơ bản
10Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
sẽ trở nên dễ hiểu, đơn giản hơn, lúc đó các em không còn tâm lý ngại học
nữa. Ngoài ra còn rèn cho các em thói quen quan sát, suy luận tư duy logic, rèn
khả năng nhanh nhạy của đôi tay, trí óc. Việc ghi chép sẽ đơn giản, dễ hiểu,
tránh được cách học vẹt, học thuộc lòng một cách máy móc, tạo tâm lý thoải
mái khi học tập, kích thích được lòng ham học hỏi, khả năng tư duy sáng tạo,
khả năng cảm thụ văn chương của mỗi cá nhân học sinh cũng vì thế mà tốt
hơn.
Từ những nguyên nhân trên cùng với kết quả không như mong đợi của
học sinh, tôi đã tìm ra cho mình một hướng đi mới, một phương pháp mới,
khả thi hơn, hiệu quả hơn. Đó là vừa đổi mới phương pháp vừa tạo hứng thú
cho học sinh bằng những tiết học sinh động.
Trước hết tôi khẳng định rằng: Dù áp dụng phương pháp mới, phương
pháp tích cực đến mấy thì cũng phải và luôn kế thừa những phương pháp
truyền thống. Phải biết xen kẽ bổ sung cho nhau để phù hợp với tình hình
thực tế và từng đối tượng học sinh.
Dưới đây là một số giải pháp mà bản thân tôi đã thực hiện:
Giải pháp 1. Chủ động ngay từ khâu thiết kế bài giảng
Một giáo viên giàu kinh nghiệm ắt sẽ biết việc thâm nhập kỹ bài dạy
trước khi lên lớp chiếm tỷ lệ thành công tới 50% của tiết học. Điều này lý
giải vì sao có những giáo viên bộ môn dạy lâu năm và chuyên dạy một khối
lớp không thông thạo lắm về công nghệ thông tin nhưng vẫn được học sinh
ngưỡng mộ vì giảng dạy thuần thục và dễ hiểu.
Việc chủ động trong thiết kế bài giảng của giáo viên có thể tiến hành
như sau: Căn cứ theo phân phối chương trình đã được xây dựng và thống nhất
từ đầu năm học, giáo viên chủ động xem xét dung lượng kiến thức vừa đủ
trong một tiết dạy (tránh sự quá tải); Chuẩn bị hệ thống câu hỏi đảm bảo tính
tối ưu (có tính chất phân hóa đối tượng); Những kỹ năng học sinh cần đạt
được. Cuối cùng là sự chuẩn bị những tình huống gọi là “gia vị” nhằm tránh
sự căng thẳng, nhàm chán, để “giữ lửa” trong suốt tiết học.
Có làm tốt được khâu soạn bài thì khi lên lớp chúng ta sẽ luôn tự tin và
chủ động trong tiết dạy của mình. Điều này sẽ giúp cho các em hào hứng, tích
cực vì mình là một thành viên của tập thể, được giáo viên và bạn bè ghi
nhận, tôn trọng.
Ví dụ: Trong một lần, do thời khóa biểu của nhà trường thay đổi vào
cuối tuần, mà hôm đó tôi lại không có tiết nên không kịp cập nhật thời khóa
11Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
biểu mới. Vì vậy hôm sau khi lên lớp dạy vào bài “Đấu tranh cho một thế
giới hòa bình”, ở chương trình Ngữ văn 9, tôi chưa kịp chuẩn bị kĩ bài dạy
hôm đó. Vì vậy khi lên lớp mặc dù kiến thức của bài hôm đó tôi nắm khá
chắc, nhưng mọi lời tôi nói và truyền đạt với học sinh lúc đó còn mang tính
trừu tượng, các em khó có thể hình dung hết được sự hủy diệt to lớn của vũ
khí hạt nhân. Nếu tôi có sự chuẩn bị trước máy chiếu, các đoạn video, hình
ảnh… về chiến tranh hạt nhân, thì tiết học sẽ thành công hơn, ấn tượng hơn
và giá trị giáo dục cũng như kĩ năng sống sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
Đây là bước vô cùng quan trọng của một giáo viên trước khi đến lớp.
Bởi hoạt động xây dựng kế hoạch dạy học cho một bài học cụ thể, thể hiện
mối quan hệ tương tác giữa GV với HS, giữa HS với HS nhằm đạt được
những mục tiêu của bài học. Căn cứ trên giáo án, có thể vừa đánh giá được
trình độ chuyên môn và tay nghề sư phạm của GV vừa thấy rõ quan niệm,
nhận thức của họ về các vấn đề giáo dục như: mục tiêu giáo dục, nội dung
giáo dục, cách sử dụng PPDH, thiết bị DH, hình thức tổ chức dạy học và cách
đánh giá kết quả học tập của HS trong mối quan hệ với các yếu tố có tính
chất tương đối ổn định như: kế hoạch, thời gian, cơ sở vật chất và đối tượng
HS. Chính vì thế, hoạt động chuẩn bị cho một giờ học có vai trò và ý nghĩa rất
quan trọng, quyết định nhiều tới chất lượng và hiệu quả giờ dạy học.
Giải pháp 2. Chuẩn bị tốt tâm thế cho tiết dạy
Tâm thế của người dạy Văn rất quan trọng, nó là yếu tố quan trọng
hàng đầu để tạo sự thu hút, chú ý của các em học sinh trong tiết học. Tâm thế
của người dạy Văn có nhiều yếu tố nhưng theo tôi có ba yếu tố cơ bản quan
trọng nhất đó là: Kiến thức của người dạy, tâm trạng của người dạy và thái
độ của người học.
Nếu kiến thức bài dạy đã được giáo viên chuẩn bị một cách kĩ lưỡng
đầy đủ, giáo viên đã làm việc cùng với tác phẩm một cách thấu đáo, sẵn sàng
buồn, vui cùng nhân vật cùng nhà văn, sẵn sàng chia sẻ điều mình biết về tác
phẩm cùng học sinh, thì đó là một tâm thế tuyệt vời, cần có của người dạy
về điều kiện kiến thức và sự chuẩn bị cho bài dạy.
Người dạy Văn vốn nhạy cảm, dễ vui, dễ buồn, dễ bị chi phối tâm
trạng cảm xúc. Điều này ảnh hưởng không tốt đến quá trình dạy Văn. Nếu
trước khi lên lớp mà thầy cô giáo đang phiền lòng vì chuyện gia đình, đang
bực mình vì ngổn ngang bao nhiêu chuyện riêng chưa biết sắp xếp, tính toán,
xoay sở thế nào thì thật khó để có được một giờ dạy văn đúng nghĩa.
12Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Ví dụ: Có một lần vô tình lang thang trên mạng đọc một số tài liệu liên
quan tới môn Văn tôi có đọc được tâm sự của một thầy giáo, thầy có kể
chuyện như sau: “Hôm ấy, gần hết năm học, thầy ra một đề Văn kiểm tra để
lấy điểm chuẩn bị tổng kết cho kì học. Đề bài là: Em hãy viết về điều mà em
muốn viết nhất. Đây là kiểu bài nghị luận cho nên học sinh rất hứng thú. Thôi
thì muốn viết gì thì viết, thoải mái. Tập bài thầy thu về hôm ấy thật bất ngờ,
thú vị và xúc động với nhiều cảm xúc, tình cảm đáng quý của học trò. Trong
số bài ấy có một lá thư viết cho thầy. Cô học trò nói nhiều về sự quý trọng
với người thầy chủ nhiệm, người thầy dạy Văn là thầy nhưng đoạn cuối lá
thư có viết: “Thầy ơi, em luôn chờ đợi những giờ dạy Văn của thầy và
thường thì sự chờ đợi của em đều xứng đáng. Nhưng gần đây, em không còn
có cảm giác ấy nữa. Hình như, thầy bước vào lớp mà quên không để lại
những ưu tư ngoài cửa. Lúc nào trông thầy cũng buồn bã. Thầy cố gắng lên
nhé. Em rất mong có lại được cảm giác đợi chờ thầy đến lớp”. Đọc xong lời
tâm sự của thầy tôi thật sự xúc động vì tình cảm mà thầy có được của các
học trò của mình. Tôi tự nhìn lại mình và thấy rằng: Đúng là cũng có lúc vì
nhiều chuyện buồn, vì bao nhiêu nhọc nhằn, vất vả những năm mới ra
trường, đã có lúc mình không dành trọn cảm xúc, tâm tư cho những giờ dạy
Văn. Học trò của mình sao lại phải chịu trách nhiệm về chuyện buồn của
mình chứ? Thú thực là tôi thấy chán tôi lúc ấy khủng khiếp. Trong lòng tôi
thầm cảm ơn cô học trò ấy, cảm ơn người thầy giáo nọ và xốc lại tinh thần,
quyết lấy lại niềm tin yêu của học trò. Tôi đã làm theo gợi ý của cô học trò
ấy. Trước khi vào lớp, hãy hình dung có một cái giá treo vô hình ngoài cửa và
hãy treo tất cả những chuyện buồn ở đó để bước vào lớp với tâm trạng thoải
mái, thân thiện, toàn tâm toàn ý với bài dạy, với học trò của mình. Hãy thay
lời trách móc, mắng mỏ thành lời trách hài hước, dí dỏm. Hãy để nụ cười trên
môi khi chúng ta khi bước vào lớp. Đành rằng, cũng có lúc phải mắng học
sinh nhưng những lúc ấy lời mắng của người thầy cũng phải thể hiện sự
thiện chí và sự bao dung với học trò để giây phút căng thẳng dễ dàng trôi đi và
hãy chỉ để lại trên lớp một giờ dạy Văn sôi nổi và đầy hứng thú.
Giải pháp 3. Chủ động tích hợp liên môn kiến thức
Môn Ngữ văn là một môn học quan trọng, khá hấp dẫn nhưng đòi hỏi
năng khiếu và khả năng cảm thụ tốt, vì vậy với nhiều em không có năng
khiếu văn chương, mà chỉ thích các môn học khoa học tự nhiên thì mỗi giờ
học trôi qua đôi khi là một cực hình. Vì vậy trong giờ dạy, giáo viên thay vì cứ
rập khuôn cứng nhắc theo nội dung của bài giảng thì có thể sáng tạo bằng
13Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
cách tích hợp liên môn kiến thức, chủ động liên hệ vận dụng vào thực tiễn để
tiết học trở lên hấp dẫn sinh động hấp dẫn hơn.
Ví dụ: Ở chương trình Ngữ văn lớp 9, có bài “Mùa xuân nho nhỏ” của
Thanh Hải. Nội dung bài thơ có ba mùa xuân đó là mùa xuân của thiên nhiên,
mùa xuân của đất nước, và mùa xuân của con người. Cuối tiết dạy giáo viên
có thể cho học sinh chọn một trong ba chủ đề đó để phác họa bức tranh ra
giấy và nộp cho giáo viên vào hôm sau.
Ví dụ: Cũng ở chương trình Ngữ văn 9,trong quá trình giảng bài “Những
ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê về cuộc sống và công việc của những cô
gái thanh niên xung phong, thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nếu giáo
viên chỉ giảng suông bằng lời, thì học sinh khó có thể hình dung hết được
những khó khăn gian khổ của thế hệ cha anh đi trước từng trải qua.Vì vậy
giáo viên có thể cho các em xem một đoạn phim tư liệu lịch sử về Ngã 3
Đồng Lập, về công việc của những cô gái thanh niên xung phong mở đường
cứu nước để các em dễ dàng hình dung bài học hơn. Hay đến với bài thơ
“Mây và sóng” của Tagor, tôi đã tích hợp phân môn Địa lý để đưa các em đến
với đất nước, con người và nền văn hóa Ấn Độ nơi mà tác giả đã từng sinh
ra và lớn lên. Cũng như đến với bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, khi thực
hiện xong phần đọc văn bản tôi đã yêu cầu học sinh phổ nhạc bài thơ ấy theo
cách của mình. Đa số các em rất hào hứng và tranh nhau thể hiện năng khiếu
của bản thân. Chính điều ấy đã làm cho tiết học trở nên sôi nổi và vô cùng thú
vị.
Việc tích hợp liên môn trong tiết học, không chỉ giúp tiết học trở lên
sinh động hơn, mà còn giúp tư duy của các em nhanh nhạy, tích cực và sáng
tạo hơn. Mặt khác chúng ta đều thấy môn Ngữ văn rất kén người học, số em
yêu thích Văn trong một lớp không nhiều. Tuy nhiên nếu giáo viên nhận thức
được rằng học sinh của chúng ta ai cũng có điểm mạnh điểm yếu khác nhau,
có những trí thông minh khác nhau, có em không học tốt môn Ngữ văn nhưng
lại có năng khiếu về âm nhạc hay hội họa thì việc cho các em lên hát, cũng
như cho các em phác họa lại bài thơ hay câu chuyện bằng tranh là một cách
dạy gián tiếp. Cách này sẽ giúp các em được hòa mình vào tiết học, tính tích
cực chủ động của mỗi cá nhân sẽ được phát huy tối đa và bài học đó cũng sẽ
trở lên ấn tượng hơn và các em cũng nhớ lâu hơn.
cực
Giải pháp 4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy tích
14Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Một món ăn dù ngon đến mấy, nhưng bữa nào cũng ăn, ngày nào cũng ăn
thì chắc chắn người thưởng thức sẽ không còn thấy nó ngon nữa, thậm chí
chán ngán. Trong tiết học Văn cũng vậy, dù phương pháp dạy đó có tốt đến
mấy được đánh giá cao đến mấy, nhưng tiết học nào người thầy cũng rập
khuôn như vậy thì học sinh cũng không thể nào thấy hay mãi được. Có thể
trong 45 phút đó chúng ta say mê giảng, nhưng chưa chắc học trò của chúng ta
sẽ say mê nghe. Nếu duy trì cách dạy như vậy thì chúng ta hãy quan sát lớp
học của mình xem, bắt đầu vào buổi học, có thể các em rất vui vẻ, nhưng sau
10 phút một số em đã lơ đãng, sau 20 phút có em đã ngáp, sau 30 phút có em sẽ
trả lời chắc chắn điều đó là đúng dù không biết câu hỏi đó là gì. Vì vậy,
chúng ta phải thường xuyên thay đổi, linh hoạt trong việc lựa chọn phương
pháp giảng dạy.
Bên cạnh những phương pháp dạy học theo đặc trưng của bộ môn Ngữ
văn, việc phát huy các phương pháp dạy học tích cực cũng góp phần vào việc
đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiệu quả, đồng thời khơi dậy niềm
hứng thú, yêu thích môn học… Có nhiều phương pháp dạy học tích cực mà
giáo viên có thể sử dụng như: Thảo luận nhóm, Đóng vai, Nghiên cứu tình
huống, Dự án, Động não, Đặt và giải quyết vấn đề…. Trong khuôn khổ bài
viết nhỏ này, bên cạnh những phương pháp truyền thống, tôi chỉ trình bày vài
phương pháp mà bản thân đã áp dụng và đem lại hiệu quả giáo dục trong quá
trình giảng dạy.
Kể chuyện hoặc giai thoại liên quan
Ví dụ: Trong tác phẩm “Cố hương” của Lỗ Tấn ở chương trình Ngữ
văn 9, khi tìm hiểu về tác giả, học sinh đọc trong sách giáo khoa chỉ có thể
biết được Lỗ Tấn đã học rất nhiều trường, nhưng sau đó ông chuyển từ
ngành y sang học văn vì ông nghĩ rằng, văn học là vũ khí lợi hại để “biến đổi
tinh thần” của nhân dân Trung Quốc đang ở tình trạng “ngu muội”, “hèn
nhát”. Nếu nói vậy các em sẽ chưa hiểu được căn nguyên của lí do. Lúc đó,
giáo viên có thể kể thêm một giai thoại gắn liền với quyết định này của ông
đó là: “Trong một lần đi xem phim, ông thấy cảnh rất nhiều người dân Trung
Quốc khỏe mạnh đi xem cảnh người Nhật chém đầu một người Trung Quốc,
đồng bào mình bị giặc mang ra chặt đầu mà họ lại rất hăm hở, hào hứng. Ông
giật mình nhận ra chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh
thần, nên ông đã quyết định chuyển sang nghề văn”.
Lồng ghép trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn
15Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Trò chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo
dục: giáo dục bằng trò chơi một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục
tiên tiến trên thế giới vận dụng. Lồng ghép trò chơi trong dạy và học môn
Ngữ văn, kết hợp với những phương pháp dạy học khác sẽ có ý nghĩa tích
cực đối với yêu cầu đổi mới hiện nay đồng thời tạo được hứng thú trong học
tập cho học sinh.
Qua phân tích ý nghĩa, mối quan hệ của việc học mà chơi, để giới thiệu
một cách có hệ thống về các hình thức lồng ghép trò chơi, minh hoạ một số
trò chơi và những khả năng lồng ghép trò chơi đối với cả ba phân môn: Đọc
văn, Tiếng Việt và Tập làm văn. Nhằm hướng đến mục đích cuối cùng là cải
tiến phương pháp dạy học, tạo thêm hứng thú cho người học, giúp học sinh
tích cực, chủ động tiếp nhận tri thức và hình thành kĩ năng, phát triển nhân
cách.
Nguyên tắc: Giáo viên cần chú ý đến đặc thù của từng phân môn; lưu ý
mối quan hệ giữa trò chơi với hệ thống câu hỏi; vận dụng linh hoạt, hợp lí,
đúng mức và đúng lúc để không xáo trộn nhiều không gian lớp học, nhanh
chóng ổn định lớp học khi trò chơi kết thúc; trò chơi phải phù hợp với nội
dung, mục tiêu cần đạt, không vận dụng cho tất cả các tiết học, đôi khi gây
phản cảm, phản tác dụng; trò chơi bao giờ cũng kết thúc bằng thưởng cho
người (đội) thắng hoặc xử phạt nhẹ nhàng cho vui (dí dỏm, tế nhị).
Một số hình thức lồng ghép trò chơi: Xem trò chơi là một hình thức tổ
chức cho một đơn vị kiến thức nhỏ trong giờ học để triển khai ở các bước
khác nhau của bài giảng (phần tìm hiểu chung, tìm hiểu ngữ liệu, phần đọc
hiểu văn bản, phần luyện tập, củng cố bài…). Tổ chức tiết học thành một trò
chơi lớn đối với một số tiết ôn tập hoặc khái quát.
Một số trò chơi có thể vận dụng lồng ghép trong dạy học Ngữ văn:
giáo viên có thể tự sáng tạo ra những trò chơi phù hợp với tiết học (trò chơi
phát động, trò chơi hoạt động, trò chơi luyện trí, trò chơi chú ý và quan sát, trò
chơi huy động kiến thức, trò chơi vận dụng kiến thức…), tự đặt tên trò chơi
(theo nguyên tắc vừa phù hợp, vừa kích thích sự tò mò của các em. Ví dụ: Ô
chữ, Nhanh trínhanh tay, Bình thơ văn, Tiếp sức, Hùng biện…
Có nhiều trò chơi có thể lồng ghép vào giờ học Ngữ văn nhằm tạo
không khí lớp học sôi nổi, tạo hứng thú học tập cho các em. Tôi sẽ trình bày
một số trò chơi dễ áp dụng đem lại hiệu quả học tập cao:
Trong chương trình ngữ văn lớp 9 có bài ôn tập thơ và truyện hiện đại.
Giáo viên nên chia lớp ra thành các đội chơi để các em thi với nhau. Giáo viên
16Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
cũng chia tiết học thành các phần chơi khác nhau cũng như có số điểm luật
chơi tương ứng mỗi phần.
Phần 1. Khởi động
Phần này giáo viên có thể giúp các em nhớ lại kiến thức về tác giả,
hoàn cảnh ra đời bằng các câu hỏi nhỏ, mỗi đội sẽ giành quyền trả lời bằng
cách bấm chuông (nếu có) hoặc giơ cờ.
nào?
Ví dụ: Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt được ra đời trong hoàn cảnh
Trong những bài thơ “Đồng chí”, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”,
“Bếp lửa”, “Đoàn thuyền đánh cá” bài thơ nào được sáng tác trong thời kì
kháng chiến chống Mĩ?
Phần 2. Vượt chướng ngại vật
Phần này giáo viên sẽ tổng kết kiến thức về nội dung và nghệ thuật
cho các em bằng cách sau:
ST
T
Tên tác phẩm
Nội dung
1
Ca ngợi sự giàu đẹp của biển, sự giàu đẹp
trong tâm hồn người lao động. Bộc lộ niềm
vui niềm tự hào của nhà thơ trước cuộc sống.
2
Tình yêu làng, tinh thần yêu nước của người
nông dân trong thời kì kháng chiến.
3
....
....
Mỗi đội chơi sẽ cử thành viên trong tổ lên điền vào phần tên tác phẩm,
tương ứng với nội dung và nghệ thuật thì đội chơi sẽ có hai lượt chơi. Mỗi
lượt điền 2 tác phẩm theo sự chỉ định của giáo viên.
Phần 3. Tăng tốc
Phần này giáo viên có thể cho học sinh làm bài tập ô chữ. Mỗi ô chữ
tương ứng với tên một tác giả hoặc nội dung nhỏ nào đó trong tác phẩm từ đó
tìm ra từ khóa.
17Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
1.
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Có 8 chữ cái: Tác giả của bài thơ Bếp lửa?
2.
Có 8 chữ cái: Một sáng tác của Nguyễn Duy?
3.
Có 4 chữ cái: Một sáng tác của Kim Lân?
4.
Có 3 chữ cái: Con gái ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà có tên là gì?
5.
Có 5 chữ cái: Nhân vật đi cùng cô gái vào nhà anh thanh niên trong
truyện Lặng lẽ SaPa làm nghề gì?
6.
Có 6 chữ cái: Tác giả của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá?
7.
Có 8 chữ cái: Tác giả của bài thơ Đồng chí?
8.
Có 4 chữ cái: Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ nói về
người mẹ dân tộc nào?
….
B
Ằ
N
G
V
I
Ệ
T
Á
N
H
T
R
Ă
N
G
I
N
H
H
Ữ
U
L
À
N
G
T
H
U
H
Ọ
A
S
Ĩ
H
U
Y
C
Ậ
N
C
N
H
T
À
Ô
I
T
R
U
Y
Ệ
N
I
Ề
M
T
I
N
Ồ
Đ
B
À
N
G
O
Ạ
K
I
M
L
Â
N
N
G
N
G
Ắ
C
I
18Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
N
H
Í
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Phần 4. Về đích
Ở phần thi này giáo viên sẽ cho các đội chơi một đoạn thơ và các đội
sẽ chứng tỏ năng khiếu của mình bằng việc ngâm hoặc đọc diễn cảm đoạn
thơ đó.
Sau khi tổ chức xong các phần thi giáo viên cộng điểm lại ở các phần
và công bố nhóm được điểm cao nhất. Tuyên dương các nhóm có thành tích
tốt khuyến khích các nhóm còn lại.
Sân khấu hóa tác phẩm văn học
Để tăng cảm hứng học tập môn Ngữ văn cho các em học sinh và
khuyến khích tinh thần đọc sách, cũng như sự cảm thụ tác phẩm văn học và
đồng sáng tạo cùng nhà văn, giáo viên có thể cho học sinh học theo cách sân
khấu hóa tác phẩm văn học. Nghĩa là học văn bằng diễn kịch. Nghĩa là học
sinh sẽ chuyển thể tác phẩm văn học thành vở diễn, sau đó thảo luận những
vấn đề trọng tâm. Từ đó rút ra những bài học cần thiết của tác phẩm.
Giáo viên có thể chọn tác phẩm phù hợp để áp dụng cách này. Mỗi lớp
sẽ được chia nhóm khác nhau. Trong nhóm có các bạn khác nhau như viết kịch
bản, phụ trách diễn xuất, media, hậu cần, nhóm tổ chức hội thảo... học sinh
dàn dựng từ chính tác phẩm văn học các em đang học trong trường để chuyển
thành vở diễn. Các em tự xây dựng kịch bản, giáo viên chỉ duyệt nội dung.
Việc chuẩn bị phục trang, dựng cảnh, phân vai diễn xuất, rồi chọn nhạc, làm
tiếng động... để tạo nên một vở diễn ngắn ấn tượng đều là sáng tạo của học
sinh.
Học chính là thảo luận. Khác với việc chỉ dừng lại ở dựng tiểu phẩm
tham dự các hội thi, sân khấu hóa tác phẩm văn học được thực hiện tại từng
lớp học và trở thành một phần của bài học. Sau phần diễn kịch học sinh các
nhóm sẽ cùng thảo luận về một số vấn đề trọng tâm của bài học. Với cách
thức này, tất cả học sinh đều phải đọc tác phẩm để nắm nội dung, tìm những
chi tiết đắt giá góp ý cho kịch bản.
Việc dựng lại những câu chuyện trong bối cảnh thực tại của hàng chục
năm trước trong cái nhìn mới mẻ của chính các em học sinh đã thổi luồng gió
mới vào tác phẩm văn học, khiến tác phẩm văn học không xa rời thực tế cuộc
sống hiện tại, không nhàm chán, đơn điệu mà có sức hấp dẫn mới. Từ đó rút
ra ý nghĩa của tác phẩm hay trích đoạn tác phẩm để tất cả học sinh cùng nắm
bắt và thấu hiểu.
19Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Bên cạnh đó, tôi còn kết hợp vận dụng phương pháp đóng vai vào mỗi
kịch bản. Bởi đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành, thử
nghiệm một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là
phương pháp nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách
tập trung vào một sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát
được. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này mà điều
quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy.
Có thể cho học sinh tiến hành đóng vai theo các bước sau: Giáo viên nêu
chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Trong
đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm. Các
nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai. Các nhóm lên đóng vai. Lớp thảo luận,
nhận xét về cách ứng xử và cảm xúc của các vai diễn; về ý nghĩa của các
cách ứng xử. Giáo viên kết luận, định hướng cho học sinh về cách ứng xử tích
cực trong tình huống đã cho.
Chúng ta cần lưu ý khi cho học sinh đóng vai:
+ Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với
lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học. Tình huống không
nên quá dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho phép.
+ Tình huống phải có nhiều cách giải quyết. Tình huống cần để mở để
học sinh tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù hợp; không cho trước “kịch
bản”, lời thoại.
+ Mỗi tình huống có thể phân công một hoặc nhiều nhóm cùng đóng
vai. Phải dành thời gian phù hợp cho học sinh thảo luận xây dựng kịch bản và
chuẩn bị đóng vai cần quy định rõ thời gian thảo luận và đóng vai của các
nhóm. Trong khi học sinh thảo luận và chuẩn bị đóng vai, giáo viên nên đi đến
từng nhóm lắng nghe và gợi ý, giúp đỡ học sinh khi cần thiết. Các vai diễn
nên để học sinh xung phong hoặc tự phân công nhau đảm nhận. Nên khích lệ
cả những học sinh nhút nhát cùng tham gia.
20Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Ảnh: Học sinh diễn đoạn “cảnh chia tay của cha con ông Sáu” trong
tác phẩm “Chiếc lược ngà”
Với phương pháp này trong những năm gần đây một số trường THCS
trên địa bàn huyện cũng đã áp dụng và khá thành công. Cụ thể nhất là vào
tháng 11/2018, được sự phân công và giao nhiệm vụ của Cụm chuyên môn số
1, trường tôi cũng đã thực hiện chuyên đề hoạt động trải nghiệm sáng tạo với
chủ đề “Người thắp lên ngọn lửa tâm hồn” do cô Nguyễn Thị Y Vân, Nguyễn
Thị Hương và học sinh khối 7 thực hiện. Chuyên đề đã nhận được rất nhiều
lời khen ngợi từ các thầy cô trong cụm tổ bộ môn và được đánh giá khá cao.
21Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Ảnh: Chuyên đề TNST chủ đề “Người thắp lên ngọn lửa tâm hồn”
Vận dụng linh hoạt, hiệu quả phương pháp thảo luận cặp
nhóm.
Giáo viên chia học sinh trong lớp thành các nhóm nhỏ, hoặc có thể tổ
chức cho các em bốc thăm chọn cặpnhóm, không nên phân sẵn cũng như cố
định thành viên của nhóm mà cần thường xuyên thay đổi, tránh tình trạng
nhàm chán, không tích cực hoạt động của trong khoảng thời gian giới hạn,
mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và
hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh
giá trước toàn lớp.
Dạy học nhóm nếu giáo viên tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực,
tính trách nhiệm; phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp
của học sinh. Đồng thời tránh được sự nhàm chán, khơi dậy sự hứng thú cho
học sinh. Để tổ chức một hoạt động dạy học theo hình thức thảo luận nhóm,
giáo viên cần tiến hành theo các bước:
Bước chuẩn bị (giao nhiệm vụ): chuẩn bị đề tài, nội dung, phương tiện
hỗ trợ...
Thực hiện nhiệm vụ: Chia nhóm theo yêu cầu, cử nhóm trưởng, người
báo cáo, thông qua định hướng, yêu cầu... giáo viên quan sát, đôn đốc, nhắc
nhở... Yêu cầu thực hiện: Mỗi thành viên trong nhóm đều được tham gia bàn
luận, được lắng nghe, tránh căng thẳng hoặc người được nói quá nhiều, làm
việc quá nhiều. Mọi thành viên đều tích cực làm việc.
22Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Trình bày kết quả: Đại diện nhóm trình bày kết quả các thành viên bổ
sung thêm. Các nhóm khác nhận xét, bổ sung, trao đổi.
Kết thúc: Giáo viên đúc kết, bổ sung, nhấn mạnh, kết luận vấn đề.
Thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục đã có nhiều giáo viên sử
dụng phương pháp này. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy rằng đôi lúc còn mang
tính hình thức, đối phó nên chưa đem lại hiệu quả cao. Có tình trạng thảo
luận nhóm nhưng chỉ có một, hai người trong mỗi nhóm là làm việc còn
những thành viên khác ngồi chơi hoặc không tích cực hoạt động. Khi nhận xét
kết quả có tình trạng qua loa, quá nhanh khiến học sinh trong lớp không nắm
bắt được đâu là nội dung đúng, sai, trọng tâm cần nắm... Chính vì vậy để
phương pháp này đem lại hiệu quả, góp phần khơi dậy sự hào hứng trong học
tập, theo tôi giáo viên cần chủ động tổ chức thảo luận nhóm một cách linh
hoạt. Tùy từng đơn vị kiến thức, quỹ thời gian trong bài học mà chọn phương
pháp thảo luận nhóm cho phù hợp, tránh lạm dụng.
Qua quá trình giảng dạy, tôi thấy rằng khi dạy các bài Tiếng Việt, Tập
làm văn mà có phần thực hành hay chữa bài tập thì việc sử dụng phương pháp
này rất hiệu quả, tạo được sự hứng thú cho học sinh, tránh nhàm chán, lớp
trầm lắng. Đặc biệt tránh tình trạng dạy những bài này theo cách truyền
thống, bài thực hành, luyện tập nhưng chỉ là giáo viên thực hành, luyện tập là
chính, còn các em thì lại xem thực hành, xem luyện tập.
Ảnh: Học sinh tích cực hoạt động nhóm
23Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Giải pháp 5. Lập phiếu phản hồi
Tôi nhận thấy sau mỗi tiết học giáo viên chúng ta thường đặt ra các câu
hỏi như: “Các bạn có hiểu bài không? “Có bạn nào chưa hiểu bài thì giơ tay
lên?” “Các bạn có cần thầy (cô) giảng lại phần nào không?”. Nếu chúng ta chỉ
đặt ra những câu hỏi đơn thuần như vậy thì đa số các em sẽ không trả lời
thật, có thể vì sợ bị mắng, cũng có thể vì các em không học nữa, mà chỉ muốn
ra chơi… Cho nên thay vì hỏi những câu hỏi như vậy, chúng ta có thể cho các
em trình bày suy nghĩ của mình vào phiếu phản hồi, vì có như vậy các em mới
dám nói thật suy nghĩ của mình. Qua phiếu phản hồi, chúng ta sẽ có hướng
điều chỉnh sao cho phù hợp để rút kinh nghiệm ở những tiết tiếp theo.
Ảnh: Mẫu phiếu
phản
hồi của học sinh
Giải pháp 6.
Giao nhiệm vụ
Học bài và soạn bài trước
khi
đến lớp là nhiệm vụ của mỗi học
sinh.Tuy nhiên với nhiều em có biểu hiện chán học thì việc học bài và làm bài
ở nhà chỉ là làm đối phó, chiếu lệ cho có mà thôi. Tuy nhiên các em có thể
lười soạn bài, nhưng lại hứng thú khi tìm hiểu đời sống xung quanh, hoặc làm
một số việc liên quan đến năng khiếu của mình. Vì vậy để các em thấy được
vai trò của mình trong tiết học thì chúng ta nên giao nhiệm vụ cụ thể cho các
em.
Ví dụ: Sau khi học xong các tác phẩm truyện hiện đại. Nắm được năng
khiếu của các em theo từng nhóm, tôi chủ động giao cho các em bài tập về
nhà như sau: Nhóm 1 vẽ tranh và hùng biện về đề tài người lính; Nhóm 2:
đóng phim tư liệu về chiến tranh; Nhóm 3: Sáng tác nhạc, thơ về đề tài tình
phụ tử trong chiến tranh; Nhóm 4: Phân vai và đóng kịch theo trích đoạn… Sau
đó dành những tác phẩm ấy để các em thực hiện trong tiết hoạt động Trải
nghiệm sáng tạo với đề tài “Người lính trong mắt em”.
24Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Nếu chúng ta chịu khó dành thời gian một chút cho các em thì tôi tin
rằng, trong một tiết học các em sẽ luôn cảm thấy mình là người quan trọng,
sự góp mặt của mình trong lớp là một phần không thể thiếu. Có như vậy thì
chúng ta sẽ ít khi gặp những cái ngáp vặt, những ánh mắt vô hồn nhìn ra cửa
sổ, hay những cái đầu gục dưới bàn vì buồn ngủ...
Giải pháp 7. Luôn yêu thương học trò bằng cả trái tim
Học trò của chúng ta đến lớp được chúng ta chỉ dạy cho từng con chữ,
từng lời ăn tiếng nói, cách ứng xử với bạn bè, thầy cô, cha mẹ, mọi người…
Thậm chí có thể nói thời gian trong ngày các em ở bên chúng ta còn nhiều hơn
là bên cha mẹ. Cho nên người giáo viên, không chỉ làm công việc của người
làm nghề sư phạm mà còn là người cha, người mẹ, người bạn luôn quan tâm,
để ý đến tâm tư tình cảm của các em để kịp thời chia sẻ, giúp đỡ các em vượt
qua những giây phút khó khăn. Đặc biệt là những giáo viên dạy Ngữ văn, thì
dường như trách nhiệm đó còn nhiều hơn.Tình cảm phải đi từ trái tim đến trái
tim. Mỗi học sinh đều có cá tính riêng, muốn thay đổi chúng phải thực sự yêu
thương và coi chúng như những đứa em trong gia đình mình. Khi học sinh
nhận thấy được sự yêu thương xuất phát từ trái tim mình, chúng sẽ yêu quý
và bảo nhau học tập tốt hơn. Tôi đã từng làm như sau:
Không chê bai hay quát mắng: Ở lớp tôi phần lớn học sinh nam rất
lười học, quậy nghịch, mất căn bản về kiến thức. Thêm nữa, do nhiều em có
hoàn cảnh gia đình éo le nên sinh ra chán nản. Khi bị thầy cô nhắc nhở, các em
giận dữ chửi tục, chửi thề ngay trước lớp. Ban đầu tôi rất giận và sốc.
Nhưng tôi đã kiềm chế cơn giận của mình, tự suy nghĩ, lý giải vì đâu các em
trở nên như vậy. Tôi thấy mình cần bao dung, độ lượng và cho các em cơ hội.
Bởi nếu không làm vậy, các em càng chênh vênh không biết bấu víu vào đâu.
Cảm hóa bằng tình yêu thương: Đối với những học sinh chưa ngoan,
tôi luôn dùng phương pháp vừa cứng rắn, vừa mềm dẻo, nghĩa là vừa dùng
tình cảm, sự thương yêu lẫn chế tài. Những em quậy thường có hoàn cảnh
gia đình không được hạnh phúc, hoặc là nghèo khó, cha mẹ không quan tâm.
Chúng tôi luôn tìm hiểu cụ thể các em đang gặp phải vấn đề gì. Nếu không
có tiền đóng học phí thì trường tìm nhà tài trợ hỗ trợ. Em nào có ba mẹ ly hôn
thì thầy cô lại thay ba mẹ quan tâm, chia sẻ, động viên… Chỉ có lòng yêu
thương, bao dung, vị tha của người thầy cô, cùng với sự răn đe phù hợp, mới
giúp học trò chưa ngoan trở nên tốt hơn được.
IV. Tính mới của giải pháp
25Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk