Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

SKKN: Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 33 trang )

Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9

1Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9

PHẦN I. MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Luận ngữ có câu: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học  
không bằng say mà học”. Yếu tố  cảm xúc, say mê chính là động lực để  con 
người hướng đến tình yêu đích thực của mình, nó cũng là một trong những  
động lực thúc đẩy và nuôi dưỡng sự  cố  gắng, nỗ  lực học tập không ngừng 
của mỗi chúng ta. 
Với vai trò là người tổ chức hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập 
của học sinh, hơn ai hết người giáo viên cần phải nghiên cứu, phải tìm và  
phải biết tiếp cận với cái mới trên cơ  sở  kế  thừa cái hay, cái đẹp của cái cũ 
để phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, tạo hứng thú, hưng phấn, 
khơi gợi niềm đam mê học tập của học sinh. Đặc biệt, đối với môn Ngữ văn 
cấp THCS, để làm được điều đó là cả một quá trình.
Hiện nay, một trong những vấn đề nhiều giáo viên băn khoăn, trăn trở là 
tình trạng học sinh chán học Văn, quay lưng lại với môn Văn cũng như các bộ 
môn khoa học xã hội khác. Với nhiều học sinh, giờ  học Văn chỉ  quanh quẩn  
trong vài hoạt động nhàm chán: đọc ­ nghe, chép bài, học thuộc, trả bài. Cách 
dạy Văn, học Văn như thế khiến học sinh cảm thấy giờ Văn nặng nề, nhàm 
chán và dễ gây buồn ngủ. Trên thực tế khi đi dự giờ đồng nghiệp tôi đã thấy 
không ít trường hợp học sinh ngáp ngắn ngáp dài thậm chí ngủ gật trong giờ 
Văn. Vậy nguyên nhân nằm ở đâu? Lỗi ở trò, ở thầy hay chương trình và sách  
giáo khoa chưa đủ sức hấp dẫn?


Trên thực tế  ta có thể  thấy rằng:   dạy Văn nhọc nhằn vất vả  nhưng  
không phải vì thế mà thiếu vắng những thầy cô tâm huyết với nghề, luôn có ý 
thức trau dồi, tích lũy kinh nghiệm cho bản thân và truyền lại những kinh 
nghiệm ấy cho bạn bè, đồng nghiệp. Một người thầy tâm huyết là người luôn 
luôn không ngừng học hỏi và trau dồi kiến thức cho bản thân, để  mang lại 
những giờ lên lớp hiệu quả. Một trong những điều mà thầy, cô không ngừng 
học hỏi đó là làm thế nào để  phát huy được tính tích cực, chủ  động của học  
sinh trong mỗi giờ  dạy nói chung và giờ  dạy văn nói riêng? Thật vậy, đó  
không chỉ  là điều mà các thầy cô giáo mong muốn mà còn là mục tiêu chung 
của bộ  giáo dục đang đề  ra và được triển khai rộng khắp cả  nước. Vấn đề 
2Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
được đặt ra trên đây mặc dù không mới nhưng nó chưa bao giờ là cũ, vì giáo  
dục luôn phát triển theo sự phát triển của xã hội đòi hỏi các phương pháp giáo 
dục cũng luôn luôn phải có sự thay đổi sao cho phù hợp với nhu cầu phát triển  
chung của xã hội. Vì vậy, hằng giờ các thầy cô trên khắp cả nước vẫn không 
ngừng tìm tòi, đổi mới và đưa ra những ý tưởng, kinh nghiệm giảng dạy mà  
mình đã đúc rút và góp nhặt được sau những giờ  lên lớp để  hoàn thiện hơn  
tiết dạy của bản thân cũng như để đóng góp vào hệ thống giáo dục chung của 
nước ta. 
Bên cạnh xu thế ngày một đi lên của xã hội hiện nay, kinh tế ­ xã hội 
ngày càng phát triển, hội nhập kinh tế  ngày càng mở  rộng đòi hỏi nền giáo 
dục Việt Nam không ngừng cải tiến, đổi mới phù hợp với thế  giới và các  
quốc gia trong khu vực. Mặt khác, trong bối cảnh đó, nền giáo dục còn có  
những bất cập về chất lượng giáo dục, nhiều giáo viên sử dụng phương pháp 
dạy học lạc hậu đã gây nên tình trạng thụ  động trong học tập của học sinh  
dẫn đến hiệu quả  dạy học chưa cao. Học sinh ít được lôi cuốn động viên 

khích lệ để hứng thú, tự giác học tập, gây nên tình trạng chán học, bỏ  học ở 
một số  bộ  phận học lực yếu kém. Đó là cũng là thực trạng đáng buồn của  
trường Trung học cơ sở Lê Đình Chinh trong nhiều năm qua.
Là một giáo viên đã đứng trên bục giảng hơn 4 năm, thời gian tuy chưa 
lâu nhưng cũng ít nhiều rút ra được vài kinh nghiệm quý báu trong quá trình  
giảng dạy. Tuy nhiên bản thân tôi tự nhận thấy giáo dục là vô biên với nhiều  
ngành nghề và môn học đa dạng, bản thân không thể  nắm bắt hết được đặc 
thù của từng môn, mà chỉ có thể đi chuyên sâu về bộ môn Ngữ văn – bộ môn  
mà mình đang trực tiếp giảng dạy. Sau nhiều năm nghiên cứu, thực hiện tôi 
đã tích lũy được một số giải pháp giúp học sinh lớp  9 phát huy tính tích cực, 
chủ  động trong giờ  học Văn và  đạt được những kết quả  khả  quan, muốn  
được chia sẻ với bạn bè, đồng nghiệp. Bởi vậy tôi xin đưa ra: “Một số kinh  
nghiệm phát huy tính tích cực, chủ  động của học sinh trong giờ dạy Ngữ  
văn 9”. 
II. Mục đích nghiên cứu
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ  văn hiện nay đã và đang 
thực sự  là yếu tố  quyết định hiệu quả  giờ  dạy. Phương pháp dạy học đổi 
mới chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của 
học sinh làm cho học sinh ham thích môn học. Điều 24, luật giáo dục (do  
Quốc hội khoá X thông qua) cũng đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phải phát  
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng lớp học, 
3Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
môn học, bồi dưỡng phương pháp tự  học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến 
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học  
tập cho học sinh”. Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên  
trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.

Từ  nhiều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát  
triển hứng thú học Văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ Văn 
là làm sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Vấn  
đề  học tập của học sinh cũng vậy. Dù có bắt buộc các em ngồi ngay ngắn  
học tập nhưng nếu không thích thú, các em không thể học tốt được. Từ thực  
tế  giảng dạy bộ  môn Ngữ  văn  ở  THCS trên địa bàn xã nhà trong nhiều năm,  
tôi nhận thấy muốn giờ  dạy đạt hiệu quả  cao, ngoài việc truyền đạt kiến 
thức, tôi nghĩ rằng mình cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để 
tiết học thực sự  nhẹ nhàng, sinh động; học sinh tiếp thu kiến thức một cách 
tự nhiên, không gượng ép. 
Hơn nữa, môn Ngữ văn xét về bản chất là một môn học rất thú vị, mỗi 
bài học là một thế  giới thu nhỏ  về  những điều kì diệu xảy ra xung quanh  
cuộc sống của chúng ta. Vậy tại sao một môn học mang lại nhiều lợi ích,  
nhiều điều thú vị  như  vậy, nhưng trong các tiết học vẫn còn tình trạng học 
sinh không hứng thú, thiếu sự  chủ  động, tích cực?... Làm thế  nào để  khắc  
phục tình trạng đó? Đây là điều mà bản thân tôi luôn băn khoăn, trăn trở  sau  
mỗi giờ  lên lớp. Thiết nghĩ rằng việc để  xảy ra tình trạng như  đã nói trên 
phần nhiều là do bản thân người giáo viên đứng lớp. Chính vì thế  tôi đã 
nghiên cứu và thực hành áp dụng kinh nghiệm này vào các lớp mình dạy 
nhằm mục đích giúp học sinh học bài, hiểu bài dễ dàng và biến môn Ngữ văn 
trở  thành một “niềm vui” với các em, giúp các em yêu thích môn học hơn và 
hơn hết là để các em không bao giờ phải trải qua những tiết học nhàm chán,  
buồn tẻ mà trong đó các em hoàn toàn bị thụ động trong việc tiếp thu và lĩnh  
hội tri thức, còn giáo viên cũng tránh được việc lên lớp nhưng nhiều khi chỉ có 
mình độc thoại với chính mình. 
PHẦN HAI. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “Giúp học sinh phát triển toàn diện  
về  đạo đức, trí tuệ, thể  chất, thẩm mỹ  và các kỹ  năng cơ  bản, phát triển  
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người  

Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn  
bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây  
4Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
dựng và bảo vệ  tổ  quốc”. Chương trình giáo dục phổ  thông ban hành kèm 
theo quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ 
Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự  giác, chủ  
động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối  
tượng học sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương  
pháp tự  học, khả  năng hợp tác, rèn luyện kỹ  năng vận dụng kiến thức vào  
thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm  
học tập cho học sinh”.
Tính tích cực, chủ động là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì  
để tồn tại và phát triển con người luôn phải chủ động, tích cực cải biến môi  
trường tự nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển tính tích cực,  
chủ động là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục.
Tính tích cực, chủ động học tập về  thực chất là sự  tích cực, chủ  động 
trong nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị 
lực   cao   trong   quá   trình   chiếm   lĩnh   tri   thức.   Điều   đó   liên   quan   trước   hết 
với động cơ học tập.  Động cơ  đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền  đề 
của tự  giác. Hứng thú và tự  giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích  
cực sản sinh nếp tư  duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng  
tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự 
giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. Tính tích cực, chủ động trong học 
tập biểu hiện  ở  những dấu hiệu như: hăng hái trả  lời các câu hỏi của giáo 
viên, bổ sung các câu trả  lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước 
vấn đề  nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ  những vấn đề 

chưa đủ  rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn  
đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập, 
không nản trước những tình huống khó khăn…
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu thì môn Ngữ văn là một môn quan trọng  
hàng đầu trong các môn học ở nhà trường hiện nay. Nó mang lại nhiều lợi ích 
to lớn trong việc giáo dục và hình thành nhân cách tương lai con người như:
­ Trang bị kiến thức cơ bản, hiện đại có tính hệ  thống về ngôn ngữ  và  
văn học – trọng tâm là tiếng Việt và văn học Việt Nam – phù hợp với trình độ 
phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời kì công nghiệp  
hóa, hiện đại hóa đất nước. 
­ Hình thành và phát triển  ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, 
tiếp nhận văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt 

5Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
là phương pháp tự  học, năng lực  ứng dụng những điều đã học vào thực tiễn 
cuộc sống.
­ Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu 
gia đình, thiên nhiên, đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, lý  
tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần nhân văn cao cả, giáo dục cho học sinh trách 
nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát 
huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Nhưng với phương pháp dạy học truyền thống trước đây là phương 
pháp dạy học lấy hoạt động của người thầy là trung tâm. Theo Frire ­ nhà xã 
hội học, nhà giáo dục học nổi tiếng người Braxin đã gọi PPDH này là “Hệ 
thống ban phát kiến thức”, là quá trình chuyển tải thông tin từ đầu thầy sang  
đầu trò. Thực hiện lối dạy này, giáo viên là người thuyết trình, diễn giảng, là 

“kho tri thức” sống, học sinh là người nghe, nhớ, ghi chép và suy nghĩ theo. 
Với PPDH truyền thống, giáo viên là chủ thể, là tâm điểm, học sinh là khách 
thể, là quỹ đạo. Giáo án dạy theo phương pháp này được thiết kế kiểu đường  
thẳng theo hướng từ trên xuống. Do đặc điểm hàn lâm của kiến thức nên nội  
dung bài dạy theo phương pháp truyền thống có tính hệ thống, tính logic cao. 
Song do quá đề  cao người dạy nên nhược điểm của PPDH truyền thống là 
học sinh thụ  động tiếp thu kiến thức, giờ  dạy dễ  đơn điệu, buồn tẻ, kiến 
thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ năng thực hành của người học; do đó kỹ 
năng vận dụng vào đời sống thực tế bị hạn chế.
Chính vì thế  để  thực hiện một giờ  học có hiệu quả  thì giáo viên là 
người giữ vai trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự tìm kiếm,  
khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh luận, hội thảo theo nhóm. Người 
thầy có vai trò là trọng tài, cố vấn điều khiển tiến trình giờ dạy.  Phương pháp 
này rất đáng chú ý đến đối tượng học sinh, coi trọng việc nâng cao quyền 
năng cho người học. Giáo viên là người nêu tình huống, kích thích hứng thú, 
suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của học sinh; từ đó hệ  thống hoá các 
vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc sâu những tri thức cần nắm vững.  Ưu điểm 
của phương pháp tích cực rất chú trọng kỹ  năng thực hành, vận dụng giải  
quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học. Đặc điểm của dạy  
học theo phương pháp này là giảm bớt thuyết trình, diễn giải; tăng cường dẫn 
dắt, điều khiển, tổ chức, xử lý tình huống song nếu không tập trung cao, học 
sinh sẽ  không hệ  thống và logic. Yêu cầu của PPDH tích cực cần có các 
phương tiện dạy học, học sinh chuẩn bị  bài kỹ   ở  nhà trước khi đến lớp và 
phải mạnh dạn, tự tin bộc lộ ý kiến, quan điểm. Giáo viên phải chuẩn bị  kỹ 
bài giảng, thiết kế giờ dạy, lường trước các tình huống để chủ động tổ chức 
6Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9

giờ dạy có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của thầy và hoạt động của 
trò. Qua đó tạo cho các em sự  say mê, hứng thú và để  lại một vốn văn học 
đáng kể  hỗ  trợ  cho các em học tốt các môn học khác. Bồi dưỡng tư  tưởng, 
tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng, tình yêu cái thiện và thái độ  ứng 
xử  đúng mực trong cuộc sống. Hình thành lòng yêu văn học, khả  năng cảm 
thụ văn bản văn học, cảm thụ vẻ đẹp của Tiếng Việt và tình yêu Tiếng Việt.  
Giờ học Ngữ văn ngoài việc dẫn dắt học sinh và cho học sinh tìm nội dung để 
phát triển óc tổng hợp, biết chia đoạn để  phát triển óc phân tích, các em còn 
được rèn luyện tư duy và phong cách sống. Để có kết quả cao mỗi giáo viên 
phải nhận thức rõ trong phương pháp giảng dạy. 
Mặc dù vậy nhưng mỗi phương pháp dạy học dù truyền thống hay hiện 
đại cũng đều có những đặc điểm,  ưu thế  và nhược điểm riêng. Không có 
phương thuốc nào có thể  chữa được bách bệnh, không có PPDH nào là chìa 
khoá vạn năng. Việc nghiên cứu kỹ từng bài dạy, từng đặc điểm bộ  môn và 
đối tượng người học để  có sự  phối kết hợp đa dạng các PPDH là việc cần 
làm ngay của mỗi giáo viên để  nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Chính  
vì lẽ  đó, đáp  ứng yêu cầu của sự  nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất 
nước trong giai đoạn hiện nay; đồng thời để thay làm mới hình thức cũng như 
phương pháp dạy học của chính mình. Qua nhiều năm công tác, đi sâu vào 
nghiên cứu và tìm hiểu về  phương pháp dạy học mới tôi đã đúc rút một vài  
kinh nghiệm cho bản thân trong chuyên môn muốn đươc chia sẻ với bạn bè và 
đồng nghiệp với  “Một số  kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ  động  
của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9”. 
2. Thực trạng
Trường THCS Lê Đình Chinh là trường có nhiều giáo viên trẻ nhiệt tình 
trong công tác giảng dạy, ham học hỏi luôn luôn tìm tòi để nâng cao kiến thức 
chuyên môn. Không những vậy nhà trường cũng thường xuyên tổ  chức các  
buổi thao giảng dự  giờ  đóng góp ý kiến cho nhau, để  tiết dạy được hoàn  
thiện hơn. Mặt khác, Phòng Giáo dục của huyện nhà cũng tổ chức định kì các  
cuộc trao đổi chuyên môn theo các cụm. Đây cũng là dịp để  các thầy cô giáo  

trao đổi kinh nghiệm giảng dạy giữa các trường với nhau để  ngày càng nâng 
cao chất lượng giảng dạy. Bên cạnh đó, cơ sở  vật chất của nhà trường cũng  
ngày càng được cải thiện theo hướng tích cực, để  phục vụ  nhu cầu dạy và 
học của thầy trò trong trường.
Về  mặt học sinh, các em học sinh của trường đa phần là con em nông  
dân nên tính tình hiền lành, ngoan ngoãn, chăm chỉ mặc dù điều kiện gia đình 
7Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
còn khó khăn nhưng các em luôn nỗ  lực, cố  gắng phấn đấu khắc phục khó 
khăn để vươn lên trong học tập.
Ngoài những thuận lợi kể  trên thì hiện tại trường vẫn gặp nhiều khó 
khăn trong công tác giảng dạy. Cơ sở vật chất của trường tuy đã được đầu tư 
hơn trước, nhưng so với nhu cầu sử dụng thì vẫn còn nghèo nàn và thiếu thốn 
khá   nhiều.   Các   thầy   cô   giáo   vì   còn   trẻ   nên   ít   nhiều   cũng   còn   thiếu   kinh 
nghiệm trong việc giảng dạy. Về học sinh các em tuy rất chăm ngoan nhưng  
do là học sinh nông thôn nên điều kiện học tập của các em còn thua thiệt  
nhiều so với các bạn, không những thế nhiều gia đình học sinh có hoàn cảnh 
hết sức khó khăn nên các em cũng không được gia đình quan tâm đến việc học 
nhiều. Ngoài ra nhiều bậc phụ huynh và chính các em học sinh còn mang suy  
nghĩ, môn Văn không phải là môn học lý tưởng để  có thể  lựa chọn ngành  
nghề trong tương lai cho nên còn có thái độ xem nhẹ môn học này. 
Từ  tình hình thực tế  trên địa bàn xã, người ta thường đổ  xô vào các  
ngành học mà sau này làm ra tiền. Mà muốn vậy thì phải đầu tư vào các môn  
học khác chứ không phải là văn học. Thờ ơ, vô cảm coi thường môn Văn đẫn 
đến các em học sinh không có được say mê, hứng thú học văn, đọc văn, như 
một nhu cầu tự thân. Đã qua rồi thần tượng của thế hệ trẻ là các nhà văn, nhà 
thơ, nhà khoa học, thay vào đó là các ngôi sao ca nhạc, người mẫu thời trang,  

minh tinh màn bạc, cầu thủ  bóng đá.... Không còn nữa những giờ  giảng văn 
mà cả thầy và trò đều xúc động trước một câu thơ hay, một áng văn đẹp, một  
số  phận nhân vật. Không phủ  nhận vẫn còn những em say mê văn học, yêu  
thích môn văn, rất am hiểu về  các tác giả, tác phẩm văn học trong và ngoài 
nhà trường, biết làm thơ, viết truyện... nhưng con số ấy đáng là bao?
 Một nguyên nhân quan trọng nữa là trường đóng tại địa bàn xã nên tỉ lệ 
học sinh gốc Quảng Nam trong trường khá nhiều, các em phát âm mang đậm  
đặc thù của tiếng địa phương là điều không thể  tránh khỏi. Điều này cũng 
ảnh hưởng không nhỏ  tới việc cảm thụ một tác phẩm văn chương, đặc biệt 
là những tác phẩm văn học cổ.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy rằng trong nhiều 
năm qua chất lượng học tập của một số môn học tương đối thấp, trong đó có 
môn Ngữ văn. Năm học 2 2017­2018 được phân công giảng dạy môn Ngữ văn 
9, sau khi nhận nhiệm vụ tôi đã tiến hành điều tra, sát hạch về hứng thú học 
tập và kết quả học tập môn Ngữ  văn của học sinh hai lớp 9A3 và 9A4 bằng 
phiếu điều tra với bài kiểm tra 90 phút cùng hình thức trắc nghiệm, tự  luận 
ngay từ đầu năm học với kết quả thu được như sau:
8Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
­ Về hứng thú học tập:
Tổng số HS
63

Yêu thích

Không yêu thích


Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

15

23,8%

48

76,2%

­ Về kết quả học tập:
Tổng 
số HS
63

Giỏi

Khá

Trung 
bình

Số 
lượng


Tỉ lệ

Số 
lượng

Tỉ lệ

Số 
lượng

Tỉ lệ

Số 
lượng

Tỉ lệ

4

6,3%

10

15,9%

47

74,6%


2

3,2%

Yếu

Đây quả  là một kết quả  thật đáng buồn nhưng càng buồn hơn là mỗi 
khi đến tiết dạy Văn hầu như  các em không tập trung chú ý, không khí lớp 
chùng xuống khi cả lớp mà số lượng học sinh giơ tay phát biểu chỉ  đếm trên 
đầu ngón tay và thậm chí có một số em còn ngủ gật trong khi giáo viên thì say 
sưa giảng bài. Trước thực trạng đó tôi luôn băn khoăn và tự đặt câu hỏi: Làm  
thế  nào để  các em yêu Văn? Làm thế  nào để  các em hứng thú với giờ  học 
Ngữ văn? Với những trăn trở  đó, tôi nghĩ rằng cần phải tìm ra các biện pháp 
và giải pháp để khắc phục thực trạng trên càng sớm càng tốt.
III. Các giải pháp đã tiến hành
Là giáo viên chúng ta đều biết rằng trí thông minh, khả  năng tiếp thu 
kiến thức, tình trạng sức khỏe cũng như hoàn cảnh gia đình của mỗi học sinh  
là không giống nhau. Tuy nhiên trong thực tế hầu như chúng ta có xu hướng  
yêu cầu, đòi hỏi tất cả học sinh mà chúng ta dạy đều phải kết quả  cao, đều  
phải học giỏi bộ  môn của mình. Đó là điều vô lý vì theo thuyết thông minh  
của Howard Gardner thì Trí thông minh của con người được chia làm 8 loại đó 
là:
Thông minh ngôn ngữ; 
Thông minh logic­toán học;
Thông minh về âm nhạc; 
Thông minh về thể chất;
Thông minh về không gian;   
9Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk



Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Thông minh về giao tiếp xã hội;
Thông minh nội tâm;
Thông minh về tự nhiên.
Vậy  nhiệm  vụ  của  chúng  ta cần  phải nắm bắt  được  học  sinh  của 
chúng ta cơ  bản có dạng trí thông minh nào để  từ  đó làm tốt nhiệm vụ  giáo  
dục tri thức của mình. Là một giáo viên có thời gian giảng bộ môn chưa nhiều 
­ hơn 4 năm, nhưng với kinh nghiệm của bản thân tôi khi còn là học sinh phổ 
thông cho đến bây giờ  ­ là một giáo viên dạy môn Ngữ  văn tại trường THCS 
Lê Đình Chinh, tôi cho rằng dạy văn là một công việc khó khăn, đó chính là 
dạy làm người. Đó là một công việc vô cùng có ý nghĩa nhưng thực tế  cho  
thấy, ngày nay nhiều em học sinh không có hứng thú và không yêu thích học 
môn Ngữ  văn. Nhiều tiết học, thầy cô dạy còn hời hợt, học trò thì học theo  
kiểu đối phó nên những tiết học tẻ nhạt cứ diễn ra một cách máy móc, khiên 
cưỡng. Vậy nên, tôi thiết nghĩ  muốn cho học sinh yêu thích học môn Văn, 
trong từng tiết  dạy chúng ta luôn phải biết tự  làm mới mình bằng nhiều  
phương pháp khác nhau. Đặc biệt giáo viên phải biết cách khơi gợi, tạo được  
hứng thú, niềm say mê, yêu thích bộ môn cho học sinh.
Nhận thức được điều này cho nên trong các tiết dạy của mình tôi luôn 
trăn trở  một điều là: Làm thế  nào để  một tiết học trôi qua mà các em không 
cảm thấy bị áp lực, không cảm thấy mệt mỏi, chán chường? Làm thế nào để 
trước mỗi giờ học các em có được cảm giác chờ đợi và háo hức đến tiết học  
Ngữ  văn? Làm thế  nào để  các em cảm nhận được mình là một thành viên 
quan trọng của lớp và làm thế  nào để  các em có được những kiến thức cơ 
bản nhất của tiết học đó? Vì vậy với nội dung  này, tôi mong muốn chia sẻ,  
trao đổi một vài kinh nghiệm nhỏ bé của mình để có thể giải quyết được một 
phần nào đó những câu hỏi mà bản thân đã nêu ra ở trên, từ đó góp phần nâng 
cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn 9.
Ngoài ra tôi cũng mong rằng cha mẹ học sinh cần quan tâm đầu tư  cho 

con em mình khi học các môn mang tính xã hội. Trong khi đó môn Ngữ  văn  
không phải là môn học dễ, nó kết hợp kiến thức của nhiều môn học khoa học  
xã hội, như  Địa lý, Sinh học, Lịch sử, GDCD, Âm nhạc và thậm chí có cả 
Toán… Học tốt môn Ngữ văn sẽ trang bị cho các em nhiều kiến thức về đời  
sống, về giao tiếp ứng xử và các kĩ năng cần có đối với cuộc sống.
Mặt khác học tốt môn Ngữ văn còn giúp cho các em được tự mình khám 
phá, được thấy các mối quan hệ  về  các phân môn trong môn Ngữ  văn (văn  
bản, tiếng Việt, Tập làm văn) một cách rất tường minh, các kiến thức cơ bản  
10Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
sẽ  trở  nên dễ  hiểu, đơn giản hơn, lúc đó các em không còn tâm lý ngại học 
nữa. Ngoài ra còn rèn cho các em thói quen quan sát, suy luận tư duy logic, rèn 
khả năng nhanh nhạy của đôi tay, trí óc. Việc ghi chép sẽ đơn giản, dễ hiểu, 
tránh được cách học vẹt, học thuộc lòng một cách máy móc, tạo tâm lý thoải  
mái khi học tập, kích thích được lòng ham học hỏi, khả năng tư duy sáng tạo,  
khả  năng cảm thụ  văn chương của mỗi cá nhân học sinh cũng vì thế  mà tốt 
hơn. 
Từ  những nguyên nhân trên cùng với kết quả không như  mong đợi của 
học sinh, tôi đã tìm ra cho mình một hướng đi mới, một phương pháp mới,  
khả thi hơn, hiệu quả hơn. Đó là vừa đổi mới phương pháp vừa tạo hứng thú 
cho học sinh bằng những tiết học sinh động.
Trước hết tôi khẳng định rằng: Dù áp dụng phương pháp mới, phương 
pháp tích cực đến mấy thì cũng phải và luôn kế  thừa những phương pháp  
truyền thống. Phải biết xen kẽ  bổ  sung cho nhau để  phù hợp với tình hình 
thực tế và từng đối tượng học sinh.
Dưới đây là một số giải pháp mà bản thân tôi đã thực hiện:
Giải pháp 1. Chủ động ngay từ khâu thiết kế bài giảng

Một giáo viên giàu kinh nghiệm  ắt sẽ  biết việc thâm nhập kỹ  bài dạy 
trước khi lên lớp chiếm tỷ  lệ  thành công tới 50% của tiết học. Điều này lý 
giải vì sao có những giáo viên bộ  môn dạy lâu năm và chuyên dạy một khối 
lớp không thông thạo lắm về công nghệ  thông tin nhưng vẫn được học sinh 
ngưỡng mộ vì giảng dạy thuần thục và dễ hiểu. 
        Việc chủ động trong thiết kế bài giảng của giáo viên có thể  tiến hành 
như sau: Căn cứ theo phân phối chương trình đã được xây dựng và thống nhất  
từ  đầu năm học, giáo viên chủ  động xem xét dung lượng kiến thức vừa đủ 
trong một tiết dạy (tránh sự quá tải); Chuẩn bị hệ thống câu hỏi đảm bảo tính 
tối  ưu (có tính chất phân hóa đối tượng); Những kỹ  năng học sinh cần đạt 
được. Cuối cùng là sự  chuẩn bị những tình huống gọi là “gia vị” nhằm tránh  
sự  căng thẳng, nhàm chán, để “giữ lửa” trong suốt tiết học. 
        Có làm tốt được khâu soạn bài thì khi lên lớp chúng ta sẽ luôn tự tin và  
chủ động trong tiết dạy của mình. Điều này sẽ giúp cho các em hào hứng, tích  
cực vì   mình là một thành viên của tập thể, được giáo viên và bạn bè ghi 
nhận, tôn trọng.
Ví dụ: Trong một lần, do thời khóa biểu của nhà trường thay đổi vào  
cuối tuần, mà hôm đó tôi lại không có tiết nên không kịp cập nhật thời khóa 
11Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
biểu mới. Vì vậy hôm sau khi lên lớp dạy vào bài  “Đấu tranh cho một thế 
giới hòa bình”,  ở  chương trình Ngữ  văn 9, tôi chưa kịp chuẩn bị  kĩ bài dạy 
hôm đó. Vì vậy khi lên lớp mặc dù kiến thức của bài hôm đó tôi nắm khá 
chắc, nhưng mọi lời tôi nói và truyền đạt với học sinh lúc đó còn mang tính 
trừu tượng, các em khó có thể hình dung hết được sự  hủy diệt to lớn của vũ 
khí hạt nhân. Nếu tôi có sự  chuẩn bị  trước máy chiếu, các đoạn video, hình 
ảnh… về chiến tranh hạt nhân, thì tiết học sẽ thành công hơn, ấn tượng hơn  

và giá trị giáo dục cũng như kĩ năng sống sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
Đây là bước vô cùng quan trọng của một giáo viên trước khi đến lớp. 
Bởi hoạt động xây dựng kế hoạch dạy học cho một bài học cụ thể, thể hiện  
mối quan hệ  tương tác giữa GV với HS, giữa HS với HS nhằm  đạt được 
những mục tiêu của bài học. Căn cứ  trên giáo án, có thể  vừa đánh giá được 
trình độ  chuyên môn và tay nghề  sư  phạm của GV vừa thấy rõ quan niệm, 
nhận thức của họ  về các vấn đề  giáo dục như: mục tiêu giáo dục, nội dung  
giáo dục, cách sử dụng PPDH, thiết bị DH, hình thức tổ chức dạy học và cách  
đánh giá kết quả  học tập của HS trong mối quan hệ với các yếu tố  có tính 
chất tương đối ổn định như: kế hoạch, thời gian, cơ sở vật chất và đối tượng  
HS. Chính vì thế, hoạt động chuẩn bị cho một giờ học có vai trò và ý nghĩa rất 
quan trọng, quyết định nhiều tới chất lượng và hiệu quả giờ dạy học.
Giải pháp 2. Chuẩn bị tốt tâm thế cho tiết dạy
Tâm thế  của người dạy Văn rất quan trọng, nó là yếu tố  quan trọng 
hàng đầu để tạo sự thu hút, chú ý của các em học sinh trong tiết học. Tâm thế 
của người dạy Văn có nhiều yếu tố nhưng theo tôi có ba yếu tố cơ bản quan  
trọng nhất đó là: Kiến thức của người dạy, tâm trạng của người dạy và thái  
độ của người học.
Nếu kiến thức bài dạy đã được giáo viên chuẩn bị  một cách kĩ lưỡng 
đầy đủ, giáo viên đã làm việc cùng với tác phẩm một cách thấu đáo, sẵn sàng 
buồn, vui cùng nhân vật cùng nhà văn, sẵn sàng chia sẻ điều mình biết về tác  
phẩm cùng học sinh, thì đó là một tâm thế  tuyệt vời, cần có của người dạy  
về điều kiện kiến thức và sự chuẩn bị cho bài dạy.
Người dạy Văn vốn nhạy cảm, dễ  vui, dễ  buồn, dễ  bị  chi phối tâm 
trạng cảm xúc. Điều này  ảnh hưởng không tốt đến quá trình dạy Văn. Nếu 
trước khi lên lớp mà thầy cô giáo đang phiền lòng vì chuyện gia đình, đang  
bực mình vì ngổn ngang bao nhiêu chuyện riêng chưa biết sắp xếp, tính toán, 
xoay sở thế nào thì thật khó để có được một giờ dạy văn đúng nghĩa. 

12Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk



Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Ví dụ: Có một lần vô tình lang thang trên mạng đọc một số tài liệu liên 
quan tới môn Văn tôi có đọc được tâm sự  của một thầy giáo, thầy có kể 
chuyện như sau: “Hôm ấy, gần hết năm học, thầy ra một đề Văn kiểm tra để 
lấy điểm chuẩn bị tổng kết cho kì học. Đề bài là: Em hãy viết về điều mà em  
muốn viết nhất. Đây là kiểu bài nghị luận cho nên học sinh rất hứng thú. Thôi 
thì muốn viết gì thì viết, thoải mái. Tập bài thầy thu về hôm ấy thật bất ngờ, 
thú vị và xúc động với nhiều cảm xúc, tình cảm đáng quý của học trò. Trong 
số  bài  ấy có một lá thư  viết cho thầy. Cô học trò nói nhiều về  sự  quý trọng  
với người thầy chủ  nhiệm, người thầy dạy Văn là thầy nhưng đoạn cuối lá 
thư   có   viết:   “Thầy   ơi,  em   luôn  chờ   đợi   những  giờ   dạy   Văn   của  thầy  và  
thường thì sự  chờ đợi của em đều xứng đáng. Nhưng gần đây, em không còn  
có cảm giác  ấy nữa. Hình như, thầy bước vào lớp mà quên không để  lại  
những  ưu tư  ngoài cửa. Lúc nào trông thầy cũng buồn bã. Thầy cố  gắng lên  
nhé. Em rất mong có lại được cảm giác đợi chờ thầy đến lớp”. Đọc xong lời 
tâm sự  của thầy tôi thật sự  xúc động vì tình cảm mà thầy có được của các 
học trò của mình. Tôi tự  nhìn lại mình và thấy rằng: Đúng là cũng có lúc vì 
nhiều   chuyện   buồn,   vì   bao   nhiêu   nhọc   nhằn,   vất   vả   những   năm   mới   ra  
trường, đã có lúc mình không dành trọn cảm xúc, tâm tư  cho những giờ  dạy  
Văn. Học trò của mình sao lại phải chịu trách nhiệm về  chuyện buồn của  
mình chứ? Thú thực là tôi thấy chán tôi lúc  ấy khủng khiếp. Trong lòng tôi 
thầm cảm ơn cô học trò ấy, cảm ơn người thầy giáo nọ và xốc lại tinh thần, 
quyết lấy lại niềm tin yêu của học trò. Tôi đã làm theo gợi ý của cô học trò  
ấy. Trước khi vào lớp, hãy hình dung có một cái giá treo vô hình ngoài cửa và 
hãy treo tất cả những chuyện buồn  ở đó để bước vào lớp với tâm trạng thoải 
mái, thân thiện, toàn tâm toàn ý với bài dạy, với học trò của mình. Hãy thay 
lời trách móc, mắng mỏ thành lời trách hài hước, dí dỏm. Hãy để nụ cười trên 

môi khi chúng ta khi bước vào lớp. Đành rằng, cũng có lúc phải mắng học  
sinh nhưng những lúc  ấy lời mắng của người thầy cũng phải thể  hiện sự 
thiện chí và sự bao dung với học trò để giây phút căng thẳng dễ dàng trôi đi và  
hãy chỉ để lại trên lớp một giờ dạy Văn sôi nổi và đầy hứng thú.
Giải pháp 3. Chủ động tích hợp liên môn kiến thức
Môn Ngữ  văn là một môn học quan trọng, khá hấp dẫn nhưng đòi hỏi  
năng khiếu và khả  năng cảm thụ  tốt, vì vậy với nhiều em không có năng 
khiếu văn chương, mà chỉ  thích các môn học khoa học tự  nhiên thì mỗi giờ 
học trôi qua đôi khi là một cực hình. Vì vậy trong giờ dạy, giáo viên thay vì cứ 
rập khuôn cứng nhắc theo nội dung của bài giảng thì có thể  sáng tạo bằng  

13Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
cách tích hợp liên môn kiến thức, chủ động liên hệ vận dụng vào thực tiễn để 
tiết học trở lên hấp dẫn sinh động hấp dẫn hơn.
Ví dụ:  Ở chương trình Ngữ  văn lớp 9, có bài “Mùa xuân nho nhỏ” của  
Thanh Hải. Nội dung bài thơ có ba mùa xuân đó là mùa xuân của thiên nhiên, 
mùa xuân của đất nước, và mùa xuân của con người. Cuối tiết dạy giáo viên 
có thể  cho học sinh chọn một trong ba chủ  đề  đó để  phác họa bức tranh ra 
giấy và nộp cho giáo viên vào hôm sau.
Ví dụ: Cũng ở chương trình Ngữ văn 9,trong quá trình giảng bài “Những  
ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê về cuộc sống và công việc của những cô  
gái thanh niên xung phong, thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nếu giáo 
viên chỉ  giảng suông bằng lời, thì học sinh khó có thể  hình dung hết được 
những khó khăn gian khổ  của thế  hệ  cha anh đi trước từng trải qua.Vì vậy  
giáo viên có thể  cho các em xem một đoạn phim tư  liệu lịch sử  về  Ngã 3 
Đồng Lập, về  công việc của những cô gái thanh niên xung phong mở  đường 

cứu nước để  các em dễ  dàng hình dung bài học hơn. Hay đến với bài thơ 
“Mây và sóng” của Tagor, tôi đã tích hợp phân môn Địa lý để đưa các em đến  
với đất nước, con người và nền văn hóa Ấn Độ  ­ nơi mà tác giả đã từng sinh 
ra và lớn lên. Cũng như đến với bài thơ  “Đồng chí” của Chính Hữu, khi thực 
hiện xong phần đọc văn bản tôi đã yêu cầu học sinh phổ nhạc bài thơ ấy theo 
cách của mình. Đa số các em rất hào hứng và tranh nhau thể hiện năng khiếu  
của bản thân. Chính điều ấy đã làm cho tiết học trở nên sôi nổi và vô cùng thú  
vị.
Việc tích hợp liên môn trong tiết học, không chỉ  giúp tiết học trở  lên 
sinh động hơn, mà còn giúp tư  duy của các em nhanh nhạy, tích cực và sáng 
tạo hơn. Mặt khác chúng ta đều thấy môn Ngữ văn rất kén người học, số em 
yêu thích Văn trong một lớp không nhiều. Tuy nhiên nếu giáo viên nhận thức  
được rằng học sinh của chúng ta ai cũng có điểm mạnh điểm yếu khác nhau,  
có những trí thông minh khác nhau, có em không học tốt môn Ngữ văn nhưng  
lại có năng khiếu về  âm nhạc hay hội họa thì việc cho các em lên hát, cũng  
như  cho các em phác họa lại bài thơ  hay câu chuyện bằng tranh là một cách 
dạy gián tiếp. Cách này sẽ  giúp các em được hòa mình vào tiết học, tính tích 
cực chủ động của mỗi cá nhân sẽ được phát huy tối đa và bài học đó cũng sẽ 
trở lên ấn tượng hơn và các em cũng nhớ lâu hơn.
cực

Giải pháp 4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy tích  

14Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
       Một món ăn dù ngon đến mấy, nhưng bữa nào cũng ăn, ngày nào cũng ăn 
thì chắc chắn người thưởng thức sẽ  không còn thấy nó ngon nữa, thậm chí  

chán ngán. Trong tiết học Văn cũng vậy, dù phương pháp dạy đó có tốt đến 
mấy được đánh giá cao đến mấy, nhưng tiết học nào người thầy cũng rập  
khuôn như  vậy thì học sinh cũng không thể  nào thấy hay mãi được. Có thể 
trong 45 phút đó chúng ta say mê giảng, nhưng chưa chắc học trò của chúng ta  
sẽ  say mê nghe. Nếu duy trì cách dạy như  vậy thì chúng ta hãy quan sát lớp  
học của mình xem, bắt đầu vào buổi học, có thể các em rất vui vẻ, nhưng sau 
10 phút một số em đã lơ đãng, sau 20 phút có em đã ngáp, sau 30 phút có em sẽ 
trả  lời chắc chắn điều đó là đúng dù không biết câu hỏi đó là gì.   Vì vậy, 
chúng ta phải thường xuyên thay đổi, linh hoạt trong việc lựa chọn phương  
pháp giảng dạy.
Bên cạnh những phương pháp dạy học theo đặc trưng của bộ môn Ngữ 
văn, việc phát huy các phương pháp dạy học tích cực cũng góp phần vào việc  
đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiệu quả,  đồng thời  khơi dậy niềm 
hứng thú, yêu thích môn học… Có nhiều phương pháp dạy học tích cực mà 
giáo viên có thể  sử  dụng như: Thảo luận nhóm, Đóng vai, Nghiên cứu tình 
huống, Dự  án, Động não, Đặt và giải quyết vấn đề…. Trong khuôn khổ  bài 
viết nhỏ này, bên cạnh những phương pháp truyền thống, tôi chỉ trình bày vài 
phương pháp mà bản thân đã áp dụng và đem lại hiệu quả giáo dục trong quá  
trình giảng dạy.
­ Kể chuyện hoặc giai thoại liên quan
Ví dụ: Trong tác phẩm “Cố  hương” của Lỗ  Tấn  ở chương trình Ngữ 
văn 9, khi tìm hiểu về  tác giả, học sinh đọc trong sách giáo khoa chỉ  có thể 
biết được Lỗ  Tấn đã học rất nhiều trường, nhưng sau  đó ông chuyển từ 
ngành y sang học văn vì ông nghĩ rằng, văn học là vũ khí lợi hại để “biến đổi 
tinh  thần”  của  nhân dân  Trung  Quốc  đang  ở   tình trạng  “ngu  muội”,  “hèn 
nhát”. Nếu nói vậy các em sẽ  chưa hiểu được căn nguyên của lí do. Lúc đó,  
giáo viên có thể kể thêm một giai thoại gắn liền với quyết định này của ông 
đó là: “Trong một lần đi xem phim, ông thấy cảnh rất nhiều người dân Trung 
Quốc khỏe mạnh đi xem cảnh người Nhật chém đầu một người Trung Quốc,  
đồng bào mình bị giặc mang ra chặt đầu mà họ lại rất hăm hở, hào hứng. Ông 

giật mình nhận ra chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh 
thần, nên ông đã quyết định chuyển sang nghề văn”. 
­ Lồng ghép trò chơi trong dạy ­ học môn Ngữ văn

15Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Trò chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo 
dục: giáo dục bằng trò chơi ­ một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục 
tiên tiến trên thế  giới vận dụng. Lồng ghép trò chơi trong dạy và học môn 
Ngữ  văn, kết hợp với những phương pháp dạy học khác sẽ  có ý nghĩa tích 
cực đối với yêu cầu đổi mới hiện nay đồng thời tạo được hứng thú trong học  
tập cho học sinh.
Qua phân tích ý nghĩa, mối quan hệ của việc học mà chơi, để giới thiệu 
một cách có hệ  thống về  các hình thức lồng ghép trò chơi, minh hoạ  một số 
trò chơi và những khả  năng lồng ghép trò chơi đối với cả  ba phân môn: Đọc 
văn, Tiếng Việt và Tập làm văn. Nhằm hướng đến mục đích cuối cùng là cải 
tiến phương pháp dạy học, tạo thêm hứng thú cho người học, giúp học sinh 
tích cực, chủ  động tiếp nhận tri thức và hình thành kĩ năng, phát triển nhân  
cách.
Nguyên tắc: Giáo viên cần chú ý đến đặc thù của từng phân môn; lưu ý 
mối quan hệ  giữa trò chơi với hệ  thống câu hỏi; vận dụng linh hoạt, hợp lí,  
đúng mức và đúng lúc để  không xáo trộn nhiều không gian lớp học, nhanh 
chóng  ổn định lớp học khi trò chơi kết thúc; trò chơi phải phù hợp với nội 
dung, mục tiêu cần đạt, không vận dụng cho tất cả  các tiết học, đôi khi gây 
phản cảm, phản tác dụng; trò chơi bao giờ  cũng kết thúc bằng thưởng cho 
người (đội) thắng hoặc xử phạt nhẹ nhàng cho vui (dí dỏm, tế nhị).
Một số  hình thức lồng ghép trò chơi: Xem trò chơi là một hình thức tổ 

chức cho một đơn vị  kiến thức nhỏ  trong giờ  học để  triển khai  ở  các bước 
khác nhau của bài giảng (phần tìm hiểu chung, tìm hiểu ngữ liệu, phần đọc ­ 
hiểu văn bản, phần luyện tập, củng cố bài…). Tổ chức tiết học thành một trò 
chơi lớn đối với một số tiết ôn tập hoặc khái quát.
Một số  trò chơi có thể  vận dụng lồng ghép trong dạy học Ngữ  văn:  
giáo viên có thể  tự  sáng tạo ra những trò chơi phù hợp với tiết học (trò chơi 
phát động, trò chơi hoạt động, trò chơi luyện trí, trò chơi chú ý và quan sát, trò 
chơi huy động kiến thức, trò chơi vận dụng kiến thức…), tự đặt tên trò chơi 
(theo nguyên tắc vừa phù hợp, vừa kích thích sự  tò mò của các em. Ví dụ:  Ô 
chữ, Nhanh trí­nhanh tay, Bình thơ văn, Tiếp sức, Hùng biện…
Có nhiều trò chơi có thể  lồng ghép vào giờ  học Ngữ  văn nhằm tạo  
không khí lớp học sôi nổi, tạo hứng thú học tập cho các em. Tôi sẽ  trình bày  
một số trò chơi dễ áp dụng đem lại hiệu quả học tập cao:
    
Trong chương trình ngữ văn lớp 9 có bài ôn tập thơ và truyện hiện đại. 
Giáo viên nên chia lớp ra thành các đội chơi để các em thi với nhau. Giáo viên 
16Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
cũng chia tiết học thành các phần chơi khác nhau cũng như  có số  điểm luật 
chơi tương ứng mỗi phần.
Phần 1. Khởi động
Phần này giáo viên có thể  giúp các em nhớ  lại kiến thức về  tác giả,  
hoàn cảnh ra đời bằng các câu hỏi nhỏ, mỗi đội sẽ  giành quyền trả  lời bằng 
cách bấm chuông (nếu có) hoặc giơ cờ.
nào?

 Ví dụ: Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt được ra đời trong hoàn cảnh  


Trong những bài thơ  “Đồng chí”, “Bài thơ  về  tiểu đội xe không kính”, 
“Bếp lửa”, “Đoàn thuyền đánh cá” bài thơ  nào được sáng tác trong thời kì 
kháng chiến chống Mĩ?
Phần 2. Vượt chướng ngại vật
Phần này giáo viên sẽ  tổng kết kiến thức về  nội dung và nghệ  thuật 
cho các em bằng cách sau:
ST
T

Tên tác phẩm

 Nội dung

1

Ca ngợi sự  giàu đẹp của biển, sự  giàu đẹp 
trong tâm hồn người lao động. Bộc lộ  niềm 
vui niềm tự hào của nhà thơ trước cuộc sống.

2

Tình yêu làng, tinh thần yêu nước của người 
nông dân trong thời kì kháng chiến.

3

....

....


Mỗi đội chơi sẽ cử thành viên trong tổ lên điền vào phần tên tác phẩm, 
tương  ứng với nội dung và nghệ  thuật thì đội chơi sẽ  có hai lượt chơi. Mỗi  
lượt điền 2 tác phẩm theo sự chỉ định của giáo viên.
Phần 3. Tăng tốc
Phần này giáo viên có thể  cho học sinh làm bài tập ô chữ. Mỗi ô chữ 
tương ứng với tên một tác giả hoặc nội dung nhỏ nào đó trong tác phẩm từ đó 
tìm ra từ khóa.

17Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


1.

Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Có 8 chữ cái: Tác giả của bài thơ Bếp lửa?

2.

Có 8 chữ cái: Một sáng tác của Nguyễn Duy?

3.

Có 4 chữ cái: Một sáng tác của Kim Lân?

4.

Có 3 chữ cái: Con gái ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà có tên là gì?


5.

Có  5 chữ  cái:  Nhân vật  đi cùng cô  gái vào nhà anh thanh niên trong 
truyện Lặng lẽ SaPa làm nghề gì?

6.

 Có 6 chữ cái: Tác giả của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá?

7.

Có 8 chữ cái: Tác giả của bài thơ Đồng chí?

8.

Có 4 chữ cái: Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ nói về 
người mẹ dân tộc nào?

….

B



N

G

V


I



T

Á

N

H

T

R

Ă

N

G

I

N

H

H




U

L

À

N

G

T

H

U

H



A

S

Ĩ

H


U

Y

C



N

C

N

H
T

À

Ô

I

T

R

U

Y




N

I



M

T

I

N


Đ
B

À

N

G

O




K

I

M

L

Â

N

N

G

N

G



C

I

18Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk

N


H

Í


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Phần 4. Về đích
Ở  phần thi này giáo viên sẽ  cho các đội chơi một đoạn thơ  và các đội 
sẽ  chứng tỏ  năng khiếu của mình bằng việc ngâm hoặc đọc diễn cảm đoạn 
thơ đó.
Sau khi tổ chức xong các phần thi giáo viên cộng điểm lại  ở  các phần  
và công bố  nhóm được điểm cao nhất. Tuyên dương các nhóm có thành tích 
tốt khuyến khích các nhóm còn lại.
­ Sân khấu hóa tác phẩm văn học
           Để   tăng   cảm   hứng   học   tập   môn   Ngữ   văn   cho   các   em   học   sinh   và 
khuyến khích tinh thần đọc sách, cũng như  sự  cảm thụ tác phẩm văn học và 
đồng sáng tạo cùng nhà văn, giáo viên có thể  cho học sinh học theo cách sân 
khấu hóa tác phẩm văn học. Nghĩa là học văn bằng diễn kịch.  Nghĩa là học 
sinh sẽ chuyển thể tác phẩm văn học thành vở  diễn, sau đó thảo luận những 
vấn đề trọng tâm. Từ đó rút ra những bài học cần thiết của tác phẩm.
Giáo viên có thể chọn tác phẩm phù hợp để áp dụng cách này. Mỗi lớp  
sẽ được chia nhóm khác nhau. Trong nhóm có các bạn khác nhau như viết kịch 
bản, phụ trách diễn xuất, media, hậu cần, nhóm tổ  chức hội thảo... học sinh  
dàn dựng từ chính tác phẩm văn học các em đang học trong trường để chuyển  
thành vở  diễn. Các em tự  xây dựng kịch bản, giáo viên chỉ  duyệt nội dung.  
Việc chuẩn bị phục trang, dựng cảnh, phân vai diễn xuất, rồi chọn nhạc, làm 
tiếng động... để tạo nên một vở diễn ngắn ấn tượng đều là sáng tạo của học 
sinh.

Học chính là thảo luận. Khác với việc chỉ  dừng lại  ở dựng tiểu phẩm  
tham dự các hội thi, sân khấu hóa tác phẩm văn học được thực hiện tại từng  
lớp học và trở  thành một phần của bài học. Sau phần diễn kịch học sinh các  
nhóm sẽ  cùng thảo luận về một số  vấn đề  trọng tâm của bài học. Với cách  
thức này, tất cả học sinh đều phải đọc tác phẩm để nắm nội dung, tìm những 
chi tiết đắt giá góp ý cho kịch bản.
Việc dựng lại những câu chuyện trong bối cảnh thực tại của hàng chục  
năm trước trong cái nhìn mới mẻ của chính các em học sinh đã thổi luồng gió 
mới vào tác phẩm văn học, khiến tác phẩm văn học không xa rời thực tế cuộc 
sống hiện tại, không nhàm chán, đơn điệu mà có sức hấp dẫn mới. Từ đó rút 
ra ý nghĩa của tác phẩm hay trích đoạn tác phẩm để tất cả học sinh cùng nắm  
bắt và thấu hiểu.

19Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Bên cạnh đó, tôi còn kết hợp vận dụng phương pháp đóng vai vào mỗi 
kịch bản. Bởi đóng vai là phương pháp tổ  chức cho học sinh thực hành, thử 
nghiệm một số  cách  ứng xử  nào đó trong một tình huống giả  định. Đây là  
phương pháp nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề  bằng cách  
tập trung vào một sự  việc cụ  thể  mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát 
được. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này mà điều 
quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy.
Có thể cho học sinh tiến hành đóng vai theo các bước sau: Giáo viên nêu 
chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Trong  
đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm.  Các 
nhóm thảo luận chuẩn bị  đóng vai. Các nhóm lên đóng vai. Lớp thảo luận, 
nhận xét về  cách  ứng xử  và cảm xúc của các vai diễn; về  ý nghĩa của các 

cách ứng xử. Giáo viên kết luận, định hướng cho học sinh về cách ứng xử tích 
cực trong tình huống đã cho.
Chúng ta cần lưu ý khi cho học sinh đóng vai: 
+ Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ  đề  bài học, phù hợp với 
lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học. Tình huống không  
nên quá dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho phép.
+ Tình huống phải có nhiều cách giải quyết. Tình huống cần để mở để 
học sinh tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù hợp; không cho trước “kịch 
bản”, lời thoại.
+ Mỗi tình huống có thể  phân công một hoặc nhiều nhóm cùng đóng 
vai. Phải dành thời gian phù hợp cho học sinh thảo luận xây dựng kịch bản và 
chuẩn bị  đóng vai cần quy định rõ thời gian thảo luận và đóng vai của các  
nhóm. Trong khi học sinh thảo luận và chuẩn bị đóng vai, giáo viên nên đi đến 
từng nhóm lắng nghe và gợi ý, giúp đỡ  học sinh khi cần thiết. Các vai diễn  
nên để học sinh xung phong hoặc tự phân công nhau đảm nhận. Nên khích lệ 
cả những học sinh nhút nhát cùng tham gia.

20Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9

Ảnh: Học sinh diễn đoạn “cảnh chia tay của cha con ông Sáu” trong  
tác phẩm “Chiếc lược ngà”
Với phương pháp này trong những năm gần đây một số  trường THCS 
trên địa bàn huyện cũng đã áp dụng và khá thành công. Cụ  thể  nhất là vào  
tháng 11/2018, được sự phân công và giao nhiệm vụ của Cụm chuyên môn số 
1, trường tôi cũng đã thực hiện chuyên đề hoạt động trải nghiệm sáng tạo với 
chủ đề “Người thắp lên ngọn lửa tâm hồn” do cô Nguyễn Thị Y Vân, Nguyễn  

Thị Hương và học sinh khối 7 thực hiện. Chuyên đề đã nhận được rất nhiều 
lời khen ngợi từ các thầy cô trong cụm tổ bộ môn và được đánh giá khá cao.

21Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9

Ảnh: Chuyên đề TNST chủ đề “Người thắp lên ngọn lửa tâm hồn”
­   Vận   dụng   linh   hoạt,   hiệu   quả   phương   pháp   thảo   luận   cặp   ­ 
nhóm.
Giáo viên chia học sinh trong lớp thành các nhóm nhỏ, hoặc có thể  tổ 
chức cho các em bốc thăm chọn cặp­nhóm, không nên phân sẵn cũng như  cố 
định thành viên của nhóm mà cần thường xuyên thay đổi, tránh tình trạng 
nhàm chán, không tích cực hoạt động của trong khoảng thời gian giới hạn,  
mỗi nhóm tự  lực hoàn thành các nhiệm vụ  học tập trên cơ  sở  phân công và 
hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh 
giá trước toàn lớp.
    
Dạy học nhóm nếu giáo viên tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực,  
tính trách nhiệm; phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp 
của học sinh. Đồng thời tránh được sự nhàm chán, khơi dậy sự hứng thú cho 
học sinh. Để tổ chức một hoạt động dạy học theo hình thức thảo luận nhóm, 
giáo viên cần tiến hành theo các bước:  
Bước chuẩn bị (giao nhiệm vụ): chuẩn bị đề tài, nội dung, phương tiện  
hỗ trợ...
Thực hiện nhiệm vụ: Chia nhóm theo yêu cầu, cử nhóm trưởng, người 
báo cáo, thông qua định hướng, yêu cầu... giáo viên quan sát, đôn đốc, nhắc  
nhở... Yêu cầu thực hiện: Mỗi thành viên trong nhóm đều được tham gia bàn 

luận, được lắng nghe, tránh căng thẳng hoặc người được nói quá nhiều, làm  
việc quá nhiều. Mọi thành viên đều tích cực làm việc.
22Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Trình bày kết quả: Đại diện nhóm trình bày kết quả các thành viên bổ 
sung thêm. Các nhóm khác nhận xét, bổ sung, trao đổi. 
Kết thúc: Giáo viên đúc kết, bổ sung, nhấn mạnh, kết luận vấn đề.
    
Thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục đã có nhiều giáo viên sử 
dụng phương pháp này. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy rằng đôi lúc còn mang  
tính hình thức, đối phó nên chưa đem lại hiệu quả  cao. Có tình trạng thảo 
luận nhóm  nhưng chỉ  có một, hai người trong mỗi nhóm là làm việc còn 
những thành viên khác ngồi chơi hoặc không tích cực hoạt động. Khi nhận xét 
kết quả có tình trạng qua loa, quá nhanh khiến học sinh trong lớp không nắm  
bắt được đâu là nội dung đúng, sai, trọng tâm cần nắm... Chính vì vậy để 
phương pháp này đem lại hiệu quả, góp phần khơi dậy sự hào hứng trong học 
tập,  theo tôi giáo viên cần chủ  động tổ  chức thảo luận nhóm một cách linh 
hoạt. Tùy từng đơn vị kiến thức, quỹ thời gian trong bài học mà chọn phương 
pháp thảo luận nhóm cho phù hợp, tránh lạm dụng.
Qua quá trình giảng dạy, tôi thấy rằng khi dạy các bài Tiếng Việt, Tập 
làm văn mà có phần thực hành hay chữa bài tập thì việc sử dụng phương pháp 
này rất hiệu quả, tạo được sự  hứng thú cho học sinh, tránh nhàm chán, lớp 
trầm lắng.  Đặc biệt tránh tình trạng dạy những bài này theo cách truyền  
thống, bài thực hành, luyện tập nhưng chỉ là giáo viên thực hành, luyện tập là 
chính, còn các em thì lại xem thực hành, xem luyện tập.

Ảnh: Học sinh tích cực hoạt động nhóm


23Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Giải pháp 5. Lập phiếu phản hồi
Tôi nhận thấy sau mỗi tiết học giáo viên chúng ta thường đặt ra các câu 
hỏi như: “Các bạn có hiểu bài không? “Có bạn nào chưa hiểu bài thì giơ  tay  
lên?” “Các bạn có cần thầy (cô) giảng lại phần nào không?”. Nếu chúng ta chỉ 
đặt ra những câu hỏi đơn thuần như  vậy thì đa số  các em sẽ  không trả  lời  
thật, có thể vì sợ bị mắng, cũng có thể vì các em không học nữa, mà chỉ muốn  
ra chơi… Cho nên thay vì hỏi những câu hỏi như vậy, chúng ta có thể cho các  
em trình bày suy nghĩ của mình vào phiếu phản hồi, vì có như vậy các em mới 
dám nói thật suy nghĩ của mình. Qua phiếu phản hồi, chúng ta sẽ  có hướng  
điều chỉnh sao cho phù hợp để rút kinh nghiệm ở những tiết tiếp theo.
Ảnh: Mẫu phiếu  
phản  

hồi của học sinh
Giải   pháp   6. 

Giao nhiệm vụ

Học bài và soạn bài trước 

khi 
đến   lớp   là   nhiệm   vụ   của   mỗi   học 
sinh.Tuy nhiên với nhiều em có biểu hiện chán học thì việc học bài và làm bài 
ở  nhà chỉ  là làm đối phó, chiếu lệ  cho có mà thôi. Tuy nhiên các em có thể 

lười soạn bài, nhưng lại hứng thú khi tìm hiểu đời sống xung quanh, hoặc làm 
một số việc liên quan đến năng khiếu của mình. Vì vậy để các em thấy được  
vai trò của mình trong tiết học thì chúng ta nên giao nhiệm vụ cụ thể cho các 
em.
Ví dụ: Sau khi học xong các tác phẩm truyện hiện đại. Nắm được năng 
khiếu của các em theo từng nhóm, tôi chủ  động giao cho các em bài tập về 
nhà như  sau: Nhóm 1 vẽ  tranh và hùng biện về  đề  tài người lính; Nhóm 2: 
đóng phim tư liệu về chiến tranh; Nhóm 3: Sáng tác nhạc, thơ  về  đề  tài tình 
phụ tử trong chiến tranh; Nhóm 4: Phân vai và đóng kịch theo trích đoạn… Sau 
đó dành những tác phẩm  ấy để  các em thực hiện trong tiết hoạt động Trải  
nghiệm sáng tạo với đề tài “Người lính trong mắt em”.
24Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
  Nếu chúng ta chịu khó dành thời gian một chút cho các em thì tôi tin 
rằng, trong một tiết học các em sẽ luôn cảm thấy mình là người quan trọng,  
sự  góp mặt của mình trong lớp là một phần không thể  thiếu. Có như vậy thì  
chúng ta sẽ ít khi gặp những cái ngáp vặt, những ánh mắt vô hồn nhìn ra cửa  
sổ, hay những cái đầu gục dưới bàn vì buồn ngủ...
Giải pháp 7. Luôn yêu thương học trò bằng cả trái tim
Học trò của chúng ta đến lớp được chúng ta chỉ dạy cho từng con chữ,  
từng lời ăn tiếng nói, cách ứng xử với bạn bè, thầy cô, cha mẹ, mọi người… 
Thậm chí có thể nói thời gian trong ngày các em ở bên chúng ta còn nhiều hơn 
là bên cha mẹ. Cho nên người giáo viên, không chỉ  làm công việc của người 
làm nghề sư phạm mà còn là người cha, người mẹ, người bạn  luôn quan tâm,  
để ý đến tâm tư tình cảm của các em để kịp thời chia sẻ, giúp đỡ các em vượt 
qua những giây phút khó khăn. Đặc biệt là những giáo viên dạy Ngữ  văn, thì 
dường như trách nhiệm đó còn nhiều hơn.Tình cảm phải đi từ trái tim đến trái 

tim. Mỗi học sinh đều có cá tính riêng, muốn thay đổi chúng phải thực sự yêu 
thương và coi chúng như  những đứa em trong gia đình mình. Khi học sinh  
nhận thấy được sự  yêu thương xuất phát từ  trái tim mình, chúng sẽ  yêu quý 
và bảo nhau học tập tốt hơn. Tôi đã từng làm như sau:
­ Không chê bai hay quát mắng:  Ở  lớp tôi  phần lớn học sinh nam rất 
lười học, quậy nghịch, mất căn bản về kiến thức. Thêm nữa, do nhiều em có  
hoàn cảnh gia đình éo le nên sinh ra chán nản. Khi bị thầy cô nhắc nhở, các em 
giận  dữ   chửi  tục, chửi   thề  ngay  trước  lớp.  Ban  đầu tôi rất giận  và sốc. 
Nhưng tôi đã kiềm chế cơn giận của mình, tự suy nghĩ, lý giải vì đâu các em 
trở nên như vậy. Tôi thấy mình cần bao dung, độ lượng và cho các em cơ hội. 
Bởi nếu không làm vậy, các em càng chênh vênh không biết bấu víu vào đâu.
­ Cảm hóa bằng tình yêu thương: Đối với những học sinh chưa ngoan, 
tôi luôn dùng phương pháp vừa cứng rắn, vừa mềm dẻo, nghĩa là vừa dùng 
tình cảm, sự  thương yêu lẫn chế  tài. Những em quậy thường có hoàn cảnh  
gia đình không được hạnh phúc, hoặc là nghèo khó, cha mẹ  không quan tâm. 
Chúng tôi luôn tìm hiểu cụ  thể các em đang gặp phải vấn đề  gì. Nếu không 
có tiền đóng học phí thì trường tìm nhà tài trợ hỗ trợ. Em nào có ba mẹ ly hôn  
thì thầy cô lại thay ba mẹ  quan tâm, chia sẻ, động viên… Chỉ  có lòng yêu 
thương, bao dung, vị tha của người thầy cô, cùng với sự  răn đe phù hợp, mới 
giúp học trò chưa ngoan trở nên tốt hơn được.
IV. Tính mới của giải pháp

25Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


×