Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp phân biệt được từ đơn, từ ghép, từ láy và danh từ, động từ, tính từ cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.13 KB, 19 trang )

 A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lời mở đầu
    Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở  ban đầu  
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất, thẩm 
mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên bậc học Trung học 
cơ sở.
   Trong chương trình giáo dục phổ thông­ Cấp tiểu học, mỗi môn học đều 
xác định rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.  
Do  vậy,  mỗi  giáo  viên  cần  có   sự   phối  hợp  nhịp  nhàng  giữa  nội  dung,  
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học để đạt hiệu quả cao. Là một giáo 
viên qua 2 năm giảng dạy tôi thực sự trăn trở với mỗi bài giảng của mình.  
Làm thế  nào để  học sinh hiểu được nội dung bài học, biết vận dụng vào  
thực tế cuộc sống. Hiểu rõ được tầm quan trọng của từng môn học tôi luôn 
học hỏi, tìm tòi, đúc rút kinh nghiệm qua các bài học vận dụng linh hoạt  
các PPDH, HTTC phù hợp với trình độ của học sinh.
    Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy sự phức tạp về việc “giúp học  
sinh hiểu nghĩa từ”. Làm thế nào để  các em hiểu được nghĩa của từ, phân 
loại đúng theo yêu cầu, dùng từ  chính xác để  đặt câu, để  viết văn và giao  
tiếp trong cuộc sống. Mặt khác, học sinh muốn viết câu đúng ngữ pháp, câu  
có hình ảnh, có cảm xúc học sinh phải hiểu rõ cấu tạo của từ. Trên cơ  sở 
đó, học sinh biết vận dụng vào thực tế. Do vậy, tôi đã mạnh dạn đưa ra 
một số giải pháp, biện pháp là kinh nghiệm nhỏ của mình giúp học sinh lớp 
4 phân biệt được từ đơn, từ ghép, từ láy và danh từ, động từ, tính từ.
II.Thực trạng của vấn đề
   1. Tình hình nhà trường
    Trường Tiểu học Thành Vinh là một trường nắm cách trung tâm huyện 
khoảng 17 km, có 17 lớp với 25 cán bộ  giáo viên. 100% cán bộ  giáo viên 
đạt trình độ  chuẩn và trên chuẩn, có lòng yêu nghề  mến trẻ  tận tuỵ  với 
công việc của mình. Luôn trau dồi , học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ  nhau cùng 
tiến bộ. 
   2.Địa phương. Là một xã miền núi, đời sống của nhân dân trong vùng đa 


phần còn gặp nhiều khó khăn. Nghề nghiệp chính là trồng trọt, chăn nuôi, 
thu nhập thấp. Một số hộ gia đình do điều kiện kinh tế eo hẹp phải đi làm  
ăn xa phó mặc con cái ở nhà cho ông bà, chú bác…Dẫn đến việc quan tâm  
đến việc học tập của con em họ là hạn chế. Học sinh đến trường không có 
đủ  đồ  dùng học tập, không làm bài và chuẩn bị  bài trước khi đến lớp dẫn  
đến chất lượng học tập không cao.
    Mặt khác, do đặc điểm vùng miền khả  năng dùng từ  đặt câu vận dụng  
vào giao tiếp của học sinh còn hạn chế. Phụ huynh học sinh chưa quan tâm  
1


nhiều, chưa hiểu hết tầm quan trọng của việc học nói chung và phân môn  
Luyện từ và câu nói riêng.
3. Tình hình lớp
   Sau 2 năm thực dạy lớp 4 tôi nhận thấy học sinh thường hay nhầm lẫn  
rất nhiều.
* Nguyên nhân chủ yếu :
+ Về phía học sinh
­ Do học sinh không hiểu rõ nghĩa của từ  ( trường hợp mà nghĩa của từ 
hoặc dấu hiệu hình thức không rõ ràng) nên khi xác định từ  loại còn khó 
khăn.
­ Do thời gian học trên lớp hạn chế nên chưa mở  rộng hết được nội dung 
kiến thức có liên quan.
­ Học sinh chưa hiểu được về khả năng kết hợp của từ.
­ Bên cạnh đó, sự tập trung của các em chưa bền vững, khả năng tập trung  
chưa cao, nóng vội trong các tình huống cộng với trình độ ngôn ngữ thấp so 
với yêu cầu đặt ra.
­ Điều kiện kinh tế gia đình còn khó khăn, thời gian dành cho việc học tập  
ở nhà còn ít, một số em ở nhà đi chăn trâu, bế em giúp mẹ. Măt khác, việc  
mua sắm tài liệu tham khảo còn hạn chế dẫn đến chất lượng không cao.

­ Không chịu học bài, rèn luyện, ghi nhớ các bài học.
­ Không tự  rèn luyện, học hỏi, tự  trao đổi  ở  nhà, vận dụng vào thực tế 
cuộc sống.
+ Về phía giáo viên
­ Quá trình bồi dưỡng, tích luỹ  kinh nghiệm về  vốn từ  của học sinh còn 
hạn chế.
­ Chưa hệ thống được một số dạng bài tập.
  Từ  việc tìm hiểu nguyên nhân trên tôi đã tiến hành tìm hiểu, điều tra tại 
lớp mà mình thực dạy. Kết quả thu được như sau:
           Lỗi  
       HS sai
Không phân 
Không xác định 
Không   xác   định   đúng 
định được ranh  đúng từ ghép, từ  danh  từ,   động  từ,  tính 
giới từ.
láy.
từ .
TS HS
23
6
7
5
   Từ những nguyên nhân trên, tôi xin trình bày một số kinh nghiệm nhỏ để 
hướng dẫn học sinh  khắc phục các lỗi trên.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Các giải pháp thực hiện
2



   Từ việc tìm hiểu nguyên nhân, tôi đã tiến hành tìm hiểu lỗi sai, nội dung  
bài dạy, phạm vi kiến thức trong và ngoài bài học, lựa chọn nội dung kiến  
thức, PPDH phù hợp với bài dạy, với từng đối tượng học sinh.
1. Hướng dẫn học sinh phân định ranh giới từ.
1.1. Giúp học sinh hiểu rõ khái niệm.
a) Tiếng là đơn vị  cấu tạo nên từ. Mỗi tiếng thường có ba bộ  phận : Âm  
đầu, vần và thanh. Tiếng nào cũng có vần và thanh. Có tiếng không có âm 
đầu.
Ví dụ:
Tiếng
Âm đầu
Vần
Thanh
Người
ng
ươi
Huyền
Giá
gi
a
S ắc

b) Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa dùng để:
­ Biểu thị sự vật, hoạt động, đặc điểm,..( biểu thị ý nghĩa) và cấu tạo câu.
­ Tiếng cấu tạo nên từ. Từ  chỉ  gồm một tiếng gọi là từ  đơn. Từ  gồm hai  
hay nhiều tiếng gọi là từ phức.
­ Từ nào cũng có nghĩa và dùng để tạo câu.
­ Mỗi tiếng trong từ phức có nghĩa rõ ràng hoặc không rõ ràng. Dựa vào đó  
người ta phân biệt từ phức thành hai loại là từ ghép và từ láy.
* Cấu tạo từ

Từ
Từ đơn
Từ phức
Từ ghép
Từ láy
TG   tổng  TG   phân  Láy   âm  Láy 
Láy  âm và  Láy 
hợp
loại
đầu
vần
vần
tiếng
1.2. Cách phân định ranh giới từ.
    Để tách câu thành từng từ, ta phải chia câu thành từng phần nhỏ có nghĩa  
sao cho được nhiều phần nhất ( chia cho đến phần nhỏ nhất). Vì nếu chia  
câu thành từng phần có nghĩa nhưng chưa phải là nhỏ  nhất thì phần đó có  
thể là một cụm từ chứ không phải là một từ.
     Dựa vào tính hoàn chỉnh về  cấu tạo và về  nghĩa của từ, ta có thể  xác 
định được 1 tổ hợp nào đó là một từ ( từ phức) hay 2 từ đơn bằng cách xem  
xét tổ hợp ấy về 2 mặt: kết cấu và nghĩa.
Ví dụ. Bài 1 ( Phần nhận xét). Tiếng việt 4­ Tập 1­ Từ đơn và từ phức.
* Hướng dẫn học sinh xác định từ đơn, từ phức.
Cách 1. Dùng thao tác chêm, xen.

3


    Nếu quan hệ giữa các tiếng trong tổ hợp mà lỏng lẻo, dễ tách rời, có thể 
chêm xen một tiếng khác từ  bên ngoài vào mà nghĩa của tổ  hợp  ấy về  cơ 

bản vẫn không thay đổi thì tổ hợp ấy là hai từ đơn.
Ví dụ: nhờ bạn      ­      nhờ vài bạn (2 từ đơn)
    Hai tổ hợp trên đã chêm, xen thêm tiếng ‘vài’ nhưng nghĩa của từ này về 
cơ bản không thay đổi. Do đó nhờ bạn là sự kết hợp của hai từ đơn.
       Ngược lại, nếu trong tổ  hợp mà mối quan hệ  giữa các tiếng mà chặt  
chẽ, khó có thể tách rời và đã tạo thành một khối vững chắc, mang tính cố 
định ( không thể chêm, xen) thì tổ hợp ấy là một từ phức.
VD: học hành          Không thêm được từ vào giữa 2 kết hợp (từ ghép)
Cách 2.
     Xét về  nghĩa của các từ  ( xét xem trong kết hợp có yếu tố  nào chuyển  
nghĩa hay mờ nghĩa.
Ví   dụ:   truyện   cổ   (tên   một   loại  truyện);   nhận  mặt  (xác   định  đúng   một 
người nào đó) đều là các kết hợp của 1 từ đơn và các yếu tố  “cổ”, “mặt”  
đã mờ nghĩa, chỉ còn là tên gọi của một loại truyện, xác định đúng một sự 
vật nào đó, chúng kết hợp chặt chẽ với các tiếng trước nó để tạo thành từ.
Cách 3.
    Xét xem trong tổ hợp ấy có nằm trong thế đối lập không, nếu có thì đó là 
kết hợp của hai từ đơn.
Ví dụ: có  truyện cổ  chứ  không có  cổ  truyện. Vậy  truyện cổ  là 1 từ 
phức.
Ngược với chạy đi là chạy lại. Vậy chạy đi là những kết hợp của hai từ 
đơn
Lưu ý: 
+ Khả năng dùng một yếu tố  thay cho cả  tổ hợp cũng là cách để  chúng ta 
xác định ranh giới từ.
2. Hướng dẫn học sinh phân biệt từ ghép và từ láy.
2.1. Giúp học sinh hiểu rõ khái niệm .
* Có hai cách chính để tạo từ phức.
­ Ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau. Đó là từ ghép.
­ Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần ( hoặc cả âm đầu và vần) giống  

nhau. Đó là từ láy.
a) Từ ghép. Là từ do 2 hoặc nhiều tiếng ghép lại tạo thành nghĩa chung.
Từ ghép được chia thành 2 kiểu:
­ Từ  ghép có nghĩa tổng hợp ( Từ  ghép hợp nghĩa, từ  ghép đẳng lập, từ 
ghép song song): Là từ ghép mà nghĩa của nó biểu thị những loại rộng hơn,  
lớn hơn, khái quát hơn so với nghĩa các tiếng trong từ.
­ Từ  ghép có nghĩa phân loại (từ  ghép phân loại, từ  ghép chính phụ): chỉ 
một loại nhỏ thuộc phạm vi nghĩa của tiếng thứ nhất.
4


* Lưu ý:
­ Các tiếng trong từ ghép có nghĩa tổng hợp thường cùng một kiểu từ loại (  
cùng danh từ hoặc cùng động từ,..).
­ Các từ  như: chèo bẻo, bồ  kết,  ễnh  ương, bồ  hóng,.., axít, cà phê, ôtô, 
môtô,..có thể  cho là từ  ghép ( theo định nghĩa) hoặc là từ  đơn ( tuy là hai 
tiếng nhưng gộp lại mới có nghĩa, còn tách rời thì không có nghĩa. Những 
trường hợp này gọi là từ đơn đa âm).
b) Từ  láy: Là từ  phối hợp những tiếng có âm đầu hoặc vần ( hay cả  âm 
đầu và vần) giống nhau. Căn cứ vào bộ phận được lặp lại, người ta chia từ 
láy theo 4 kiểu: Láy tiếng, láy vần, láy âm, láy cả âm và vần. Căn cứ vào số 
lượng tiếng được lặp lại, người ta chia thành 3 dạng từ láy: láy đôi, láy ba, 
láy tư.
Theo truyền thống có thể chia từ láy làm 3 loại lớn:
* Từ  tượng thanh ( bắt chước âm thanh): Là từ  láy mô phỏng, gợi tả  âm  
thanh trong thực tế: Ví dụ: rì rào, ào ào, lóc cóc, ùng oàng,…
* Từ  tượng hình ( bắt chước hình dáng): Là từ  láy gợi tả  hình  ảnh, hình  
dáng của người, vật; gợi tả màu sắc, mùi vị.
Ví dụ: Gợi tả dáng dấp: lênh khênh, lè tè, lom khom, khẳng khiu,..
Gợi tả màu sắc: chon chót, sặc sỡ, lấp lánh,…

Gợi tả mùi vi: thoang thoảng, nồng nàn, ngào ngạt,..
* Từ láy biểu thái ( biểu thị trạng thái sự vật hoặc tâm lí).VD: bồn chồn, lo 
lắng. Lưu ý: 
­ Một số từ vừa có nghĩa tượng hình, vừa có nghĩa tượng thanh, tuỳ vào văn 
cảnh mà ta xếp vào nhóm nào.
 Ví dụ: làm ào ào ( ào ào là từ  tượng hình), thổi ào ào ( ào ào là từ  tượng 
thanh).
    Thực tế vẫn tồn tại những từ tượng hình và từ tượng thanh không phải 
là từ láy.
* Nghĩa của từ  láy: Rất phong phú, cũng như  từ  ghép, chúng có cả  nghĩa  
khái quát, nghĩa tổng hợp và nghĩa phân loại.
Ví dụ: chim chóc, làm lụng,..( nghĩa tổng hợp); nhỏ  nhen, nhỏ  nhắn, xấu 
xa,..( nghĩa phân loại). Tuy nhiên, ở Tiểu học đề cập đến một số dạng sau:
­ Diễn tả sự giảm nhẹ của tính chất: đo đỏ < đỏ
­ Diễn tả sự lặp đi lặp lại các động tác, khiến cho từ láy có giá trị gợi hình 
cụ thể.
Ví dụ: gật gật, rung rung,…
­ Diễn tả sự tăng mạnh lên của tính chất. Ví dụ: cỏn con > con
­ Diễn tả sự đứt đoạn, không liên tục nhưng tuần hoàn.VD: lập loè, lấp ló,
….
­ Diễn tả tính chất đạt đến một mức độ chuẩn mực, không chê được.
Ví dụ: nhỏ nhắn, xinh xắn, ngay ngắn, tròn trịa,…
5


2.2. Cách phân biệt từ ghép và từ láy.
* Hướng dẫn học sinh qua bài Từ ghép và từ láy­ Tiếng việt 4­ Tập 1.
+ Từ ghép
­ Giữa các tiếng trong từ  ghép có quan hệ  về  nghĩa ( Các từ  khi tách ra 
thành từ  đơn đều có nghĩa (từ  ghép tổng hợp) hoặc liên kết với nhau rất  

chặt chẽ không thể tách rời nhau được.Ví dụ: truyện cổ, ông cha, ghi nhớ, 
đền thờ, ….( truyện + cổ, ông + cha)
­ Nếu các từ chỉ còn một tiếng có nghĩa, còn một tiếng đã mất nghĩa nhưng 
hai tiếng không có quan hệ về âm thì ta cũng xếp vào nhóm từ ghép.
Ví dụ: tưởng nhớ, ngay đơ,…
+ Từ láy
­ Giữa các tiếng trong từ láy có quan hệ về âm ( Các từ khi tách ra có một  
tiếng có nghĩa (nghĩa gốc), một tiếng không có nghĩa (mờ nghĩa)).
Ví dụ: nô nức, mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp,..
­ Các từ có một tiếng có nghĩa còn một tiếng không có nghĩa rõ ràng nhưng  
các tiếng trong từ  được biểu hiện trên chữ  viết không có phụ  âm đầu thì 
cũng xếp vào nhóm từ láy ( láy vắng khuyết phụ âm đầu).VD: ồn ào, ầm ĩ, 
ấm áp, ….
­ Các từ có một tiếng có nghĩa còn một tiếng không có nghĩa rõ ràng nhưng  
các tiếng có phụ  âm đầu được ghi bằng các con chữ  khác nhau nhưng có 
cùng cách đọc ( c/ k/ q; ng/ ngh; g/ gh) cũng được xếp vào nhóm từ láy.
Ví dụ: cuống quýt, cũ kĩ, ngốc nghếch, gồ ghề,…
* Lưu ý: Trong thực tế, có nhiều từ  ghép ( gốc Hán) có hình thức ngữ  âm  
giống từ láy, nhưng thực tế các tiếng đều có nghĩa nhưng học sinh rất khó 
phân biệt. Do vậy , ta nên liệt kê cho học sinh ghi nhớ.
Ví dụ: bình minh, cần mẫn, căn cơ, hoan hỉ, chuyên chính, chân chất, hảo 
hạng,..
­ Ngoài ra, có những từ có cả quan hệ về âm và về nghĩa ( từ Thuần Việt) 
như: tắc kè, bồ  hóng, bồ  kết, bù nhìn,  ễnh  ương,…hay các từ  vay mượn  
như: mì chính, cà phê, xà phòng. 
  Trong quá trình dạy, tôi thường lấy một số  từ  đặc biệt để  học sinh xác 
định.
Ví dụ: bạn bè­ Có học sinh cho rằng đó là từ ghép nhưng cũng có học sinh 
cho rằng đó là từ láy.
Học sinh giải thích:

Bạn bè­ từ ghép vì bè có nghĩa như bè phái, bè cánh.
Bạn bè­ từ láy vì bè không có nghĩa nó chỉ láy lại âm đầu.
   Với hai cách lập luận này, giáo viên công nhận đều đúng vì học sinh đã 
biết dựa vào khái niệm đã học.
   Bên cạnh đó, việc hệ thống các dạng bài tập giúp học sinh hiểu rõ hơn là  
điều không thể thiếu. Tuỳ vào từng đối tượng học sinh.
6


Ví dụ: Dựa vào từ gốc, hãy tạo ra các từ ghép và từ láy từ từ   ngay, thẳng, 
thật ( Bài tập 2­ Tiếng việt 4­ T1­ Trang 40).
Từ ghép
Từ láy
ngay thẳng, ngay thật, ngay lưng,… ngay ngắn.
Ngay
thẳng băng, thẳng cánh, thẳng đứng,  thẳng   thắn,   thẳng 
Thẳng
thẳng đuột, thẳng tắp, thẳng góc,… thớm,..
chân thật, thành thật, thật lòng,…
thật thà
Thật
3. Hướng dẫn học sinh phân biệt danh từ, động từ, tính từ .
3.1. Giúp học sinh hiểu rõ khái niệm 
   Trong Tiếng Việt, xét về mặt ngữ pháp, có thể phân chi thành những lớp  
đồng nhất về  mặt ý nghĩa ( khái quát), về  hình thức ngữ  pháp và về  chức 
năng cú pháp, sắp xếp thành hệ thống các từ loại: Thực từ và hư từ
+ Thực từ: Gồm những từ có nghĩa chân thực như danh từ, động từ, tính từ,  
đại từ, số từ.
+ Hư  từ: Dùng để  biểu thị  các quan hệ  ngữ  nghĩa­ cú pháp giữa các thực  
từ .Đó là: phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ,…

     Hư  từ  không có khả  năng một mình tạo thành câu hay làm thành phần 
câu như  thực từ  nhưng rất cần thiết trong việc xây dựng câu. Chức năng 
của hư từ là làm công cụ ngữ pháp.
­ Mục đích của việc phân chia từ loại là chỉ ra các đặc điểm về ý nghĩa ngữ 
pháp và về  hoạt động cú pháp của từ dùng để  đặt câu. Nó được chia theo 
các tiêu chuẩn sau:
+ Ý nghĩa khái quát của từ.  Khả năng kết hợp của từ. Chức năng cú pháp  
của từ.
   Với phạm vi sáng kiến này chỉ đề cập đến danh từ, động từ, tính từ 
a) Danh từ: Là những từ  chỉ  sự  vật ( Người, vật, hiện tượng, khái niệm, 
đơn vị).
Ví dụ; Tìm các từ chỉ sự vật và xếp vào nhóm thích hợp (Tiếng việt 4­ Tập  
1).
                                                     Mang theo truyện cổ tôi đi
                                             Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa
                                                    Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
                                             Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi
                                                    Đời cha ông với đồi tôi
                                             Như con sông với chân trời đã xa
                                                    Chỉ còn truyện cổ thiết tha
                                             Cho tôi nhận mặt ông cha của mình.
                                                                                     Lâm Thị Mỹ Dạ
­ Từ chỉ người: ông cha, cha ông.
­ Từ chỉ vật: sông, dừa, chân trời.
7


­ Từ chỉ hiện tượng: mưa, nắng.
­ Từ chỉ khái niệm: cuộc sống, truyện cổ, tiếng, xưa, đời. ( biểu thị những  
cái chỉ  có trong nhận thức của con người, không có hình thù, không chạm 

tay vào ngửi, nếm, …được).
­ Từ chỉ đơn vị: cơn, con, rặng ( biểu thị những đơn vị  được dùng để  tính 
đếm sự vật)
Khi phân loại danh từ Tiếng việt, người ta phân chia thành 2 loại: Danh từ 
chung và danh từ riêng.
* Danh từ riêng: Là tên riêng của một loại sự vật.
­ Tên người Việt Nam là danh từ riêng có cấu tạo như sau:
+ Chỉ gồm một tên riêng: Việt, Hiền, Thuỷ Tiên,…
+ Gồm từ  chỉ  họ  và tên riêng: Nguyễn Việt, Trương Hiền, Nguyễn Thuỷ 
Tiên,…
+ Gồm từ  chỉ  họ, từ  đệm, từ  tên riêng: Nguyễn Văn Việt, Trương Văn  
Hiền, …
+ Gồm từ  chỉ  họ  cha, mẹ, từ  đệm và từ  tên riêng: Hoàng Nguyễn Thuỷ 
Tiên,…
­ Tên địa điểm
+ Địa danh theo khu vực hành chính hoặc địa lí: Thanh Hoá, Thạch Thành,

+ Tên núi, tên sông, tên đất: Ba Vì, Sông Mã,….
* Danh từ chung.
Là tên một loại sự vật ( dùng để  gọi chung cho một loại sự vật). Danh từ 
chung có thể chia thành 2 loại:
+ Danh từ cụ thể: Là danh từ chỉ sự vật mà ta có thể cảm nhận được bằng 
các giác quan ( sách, vở, gió,…).
+ Danh từ  trừu tượng: Là danh từ  chỉ  sự  vật mà ta không thể  cảm nhận  
được bằng các giác quan ( cách mạng, tinh thần, ý nghĩa,…).
­ Danh từ  hiện tượng: Hiện tượng là cái xảy ra trong không gian và thời 
gian mà con người có thể  nhận thấy, nhận biết được. Có hiện tượng tự 
nhiên như: mưa, nắng, sấm, chớp,…và hiện tượng xã hội như: chiến tranh,  
đói nghèo,…Danh từ  chỉ  hiện tượng là danh từ  biểu thị  các hiện tượng tự 
nhiên: tia chớp, ánh sáng,…

­ Danh từ chỉ khái niệm: 
Là danh từ  có ý nghĩa trừu tượng. Là loại danh từ  không chỉ  vật thể, các 
chất liệu hay các đơn vị  sự  vật cụ  thể  mà biểu thị  các khái niệm trừu 
tượng như: tư  tưởng, đạo đức, phương châm, chủ  trương, tình yêu,…Các 
khái niệm này chỉ  tồn tại trong nhận thức, trong ý thức con người, không 
vật chất hoá hay cụ thể hoá được. Nói cách khác, các khái niệm này không  
có hình thù, không cảm nhận trực tiếp được bằng các giác quan. Đây là loại 

8


danh từ học sinh khó xác định nhất. Nên giáo viên cần dựa vào văn cảnh cụ 
thể đển giải thích cho học sinh.
­ Danh từ chỉ đơn vị: Hiểu theo nghĩa rộng, danh từ chỉ đơn vị là những từ 
chỉ đơn vị các sự vật. Căn cứ vào đặc trưng ngữ nghĩa, vào phạm vi sử dụg  
có thể chia thành các loại nhỏ sau:
+ Danh từ  chỉ  đơn vị  tự  nhiên: Các danh từ  này chỉ  rõ các loại sự  vật nên 
còn được gọi là danh từ chỉ loại. Ví dụ: cục, mẩu, miếng, tờ, quyển,…
+ Danh từ chỉ đơn vị đo lường: Các danh từ này dùng để tính đếm, đo đếm 
các sự vật, vật liệu, chất liệu.Ví dụ: lạng, cân, yến, sải, gang,…
+ Danh từ  chỉ  đơn vị  tập thể: Dùng để  tính đếm các sự  vật tồn tại dưới 
dạng tập thể, tổ hợp. Ví dụ: đôi, cặp, dãy, bó,…
+ Danh từ chỉ đơn vị thời gian: giây, phút, giờ,…
+ Danh từ chỉ đơn vị hành chính, tổ chức: xóm, thôn, xã, tiểu đội,…
b) Đ
  ộng từ ( ĐT 
 
 ): 
­ Khái niệm: ĐT là những từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật.
­ Phân loại: Căn cứ vào ý nghĩa khái quát và khả năng sử dụng độc lập hay  

không độc lập người ta phân động từ làm hai loại: Những động từ độc lập  
và những động từ không độc lập.
* Những động từ độc lập: 
­ Là những động từ tự mình làm thành phần câu, không đòi hỏi có động từ 
khác bổ nghĩa: ăn học, nói năng,...
ĐT độc lập có thể có các tiểu loại động từ sau:
­ ĐT tác động: cắt, gặt, cuốc, chặt, ăn, bắt, gánh, xách, giết, đọc, đóng....
­ ĐT mang ý nghĩa trao nhận: tặng, cho, biếu, cấp, phát, trả, nộp, vay,  
mượn, đòi, 
­ ĐT gây khiến: sai bảo, đề nghị, yêu cầu, cho phép, khiến, khuyên, cấm....
­ ĐT cảm nghĩ nói năng (động từ  chỉ  trạng thái, tâm lý): hiểu, biết, nghe,  
thấy, ...
­ ĐT chỉ vận động di chuyển: ra, vào, đi, chạy, lên, xuống, về, đến......
   ĐT vận động di chuyển có đặc điểm riêng biệt là sau động từ  bắt buộc  
phải có thành tố phụ chỉ nơi chốn (bổ ngữ chỉ địa điểm).
­  ĐT tồn tại; có, còn, nảy sinh nở, mọc, lặn, nổi, sống, chết, tàn, tắt, tan 
tác
Những động từ không độc lập: cần kết hợp với động từ khác để biểu thị 
nội dung của hành động, trạng thái: nên ăn, cần học, phải đi làm,...Động từ 
không độc lập chỉ dùng một mình khi hoàn cảnh giao tiếp cho phép, nghĩa 
là, người nói­ người nghe chấp nhận và không hiểu được nội dung liên 
quan mà động từ không mở rộng, đòi hỏi, mặc dù không nói ra trực tiếp
Căn cứ vào ý nghĩa khái quát của động từ biểu thị các dạng thức vận động  
và đặc trưng ngữ pháp, chia thành động từ chỉ hành động, chỉ trạng thái, chỉ 
tính chất, chỉ quan hệ.
9


* Những động từ  không độc lập  (động từ  tình thái): được chia làm hai 
tiểu loại:

  1a. ĐT chỉ quan hệ: 
­ ĐT chỉ quan hệ đồng nhất
­ ĐT chỉ quan hệ quá trình biến hoá: trở nên, trở thành.
­ ĐT chỉ quan hệ đối chiếu, so sánh: như, giống, khác, tựa...
  2b. ĐT chỉ tình thái: 
­ ĐT tình thái chỉ  sự  cần thiết và khả  năng: nếu, cần, phải, cần phải, có 
thể, …
­ ĐT tình thái chỉ ý chí, ý muốn: định, toan, nỡ, mong......
­ ĐT tình thái chỉ sự chịu đựng, chỉ sự tiếp thu: bị, phải, được....
* Một số lưu ý về động từ chỉ trạng thái.
   Đặc điểm ngữ pháp nổi bật nhất của động từ  chỉ  trạng thái là: nếu như 
động từ chỉ hoạt động, hành động, có kể kết hợp với từ song ở phía sau. Ví 
dụ: ăn xong, đọc xong,… thì động từ  trạng thái không kết hợp với xong  ở 
phía sau ( không nói: còn xog, hết xong,…). 
­ Một số  nội động từ  sau đây cũng được coi là động từ  trạng thái: nằm, 
ngồi, nghỉ, thức,…
­ Một số  từ  vừa được coi là động từ  chỉ  hành động lại vừa được coi là 
động từ chỉ trạng thái.
­  Một  số   động từ  chuyển  nghĩa  thì   được coi  là động  từ   chỉ  trạng thái 
( trạng thái tồn tại).
Ví dụ: Bác đã đi rồi sao Bác ơi! ( Tố Hữu). Anh ấy đứng tuổi rồi.
­ Một số  từ  mang đặc điểm ngữ  pháp của tính từ  ( kết hợp được với các 
tính từ chỉ mức độ).
+ Các ngoại động từ sau đây cũng được coi là động từ chỉ trạng thái ( trạng  
thái tâm lí): yêu, ghét, kính trọng, thèm,….các từ  này mang đặc điểm ngữ 
pháp của tính từ, có tính chất trung gian giữa động từ và tính từ.
+ Có một số  động từ  chỉ  hành động được sử  dụng như  một động từ  chỉ 
trạng thái.
Ví dụ: Trên đường treo một bức tranh. Dưới gốc cây có buộc một con  
ngựa.

+ Động từ  trang thái mang một số  đặc điểm về  ngữ  pháp và ngữ  nghĩa 
giống như tíh từ. Vì vậy, chúng có thể làm vị ngữ trong câu kể: Ai thế nào?
c) Tính từ:  Là những từ  miêu tả  đặc điểm hoặc tính chất của vật, hoạt  
động, trạng thái,…
Có 2 các loại tính từ là:
­ Tính từ chỉ tính chất chung không có mức độ ( xanh, tím, sâu,…).
­ Tính từ  chỉ  tính chất có xác định mức độ. Ví dụ: xanh lè, tím ngắt, sâu  
hoắm,…
* Phân biệt từ chỉ đặc điểm, từ chỉ tính chất, từ chỉ trạng thái.
10


a) Từ chỉ đặc điểm:
   Đặc điểm là nét riêng biệt, là vẻ riêng của một sự vật nào đó (có thể  là 
người, con vật, đồ  vật, cây cối,..). Đặc điểm của sự  vật chủ  yếu là đặc 
điểm bên goài ( ngoại hình) mà ta có thể nhận biết trực tiếp qua mắt nhìn, 
tai nghe, mũi sờ, mũi ngửi,…Đó là các nét riêng, vẻ riêng về màu sắc, hình  
khối, hình dáng, âm thanh,…của sự vật. Đặc điểm của một vật cũng có thể 
là đặc điểm bên trong mà qua quan sát, suy luận, khái quát ta mới có thể 
nhận biết được. Đó là các đặc điểm về tính tình, tâm lí, tính cách của một  
người, độ bền, giá trị một đồ vật…
Từ chỉ đặc điểm là từ biểu thị các đặc điểm của sự vật, hiện tượng.
­ Từ chỉ đặc điểm bên ngoài: cao, thấp, rộng, hẹp,…
­ Từ chỉ đặc điểm bên trong: tốt, ngoan, chăm chỉ,…
b) Từ chỉ tính chất
    Tính chất cũng là đặc điểm riêng của sự  vật, hiện tượng ( bao gồm cả 
những hiện tượng xã hội, hiện tượng cuộc sống,…), nhưng thiên về  đặc 
điểm bên trong, ta không quan sát trực tiếp được mà phải qua quá trình  
quan sát, suy luận, phân tích, tổng hợp ta mới có thể  nhận biết được. Do  
đó, từ chỉ tính chất cũng là từ chỉ đặc điểm bên trong của sự vật( tốt, xấu, 

ngoan, hư, nặng ,nhẹ, sâu sắc, ...)
c) Từ chỉ trạng thái
       Trạng thái là tình trạng của một sự  vật hoặc một con người, tồn tại  
trong một thời gian nào đó. Từ  chỉ  trạng thỏi là từ  chỉ  trạng thái tồn tại 
của sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan.
Ví dụ: Trời đang đứng gió. Người bệnh đang hôn mê
   Xét về mặt từ loại Từ chỉ trạng thỏi  có thể là động từ, có thể là tính từ 
hoặc mang đặc điểm của cả động từ và tính từ (từ trung gian), nhưng trong  
chương trình tiểu học xếp vào nhóm động từ.
3. 2. Cách phân biệt các danh từ, động từ, tính từ.
    Để  phân biệt các danh từ, động từ, tính từ  dễ  lẫn lộn, ta thường dùng  
phép liên kết ( khả năng kết hợp) với các phụ từ.
* Danh từ
­ Có khả năng kết hợp với các từ  chỉ số  lượng như: mọi, một, hai, những,
…ở phía trước ( những khái niệm, những tình cảm, những nỗi đau,…).
­ Danh từ kết hợp với các từ chỉ định: này, kia, ấy, nọ,…ở phía sau.
­ Danh từ  có khả  năng tạo câu hỏi với từ  nghi vấn” nào” đi sau ( lợi ích 
nào?...) 
­ Các động từ và tính từ đi kèm: sự, cuộc, nỗi, niềm,…ở phía trước thì tạo  
thành một danh từ mới ( sự hi sinh, cuộc đấu tranh, nỗi nhớ, niềm vui,…).
­ Chức năng ngữ pháp ngữ pháp thay đổi cũng dẫn đến sự thay đổi về thể 
loại.
11


Ví dụ: Yêu cầu học sinh đặt câu với từ cho dưới sao cho từ đó là động từ, 
danh từ, tính từ.
Cân­ Mẹ em mua một chiếc cân đĩa ( cân­ danh từ).
         Mẹ cân một con gà ( cân ­ động từ).
         Hai bên cân sức cân tài ( cân là tính từ).

* Động từ.
­ Có khả năng kết hợp với các phụ từ mệnh lệnh.
+ Về  phía trước: Động từ  có khả  năng kết hợp với các phó từ  ( phụ  từ 
mệnh lệnh): đã, sẽ, đang, hãy, đừng, chớ, không, điều, cùng....ở phía trước 
+ Về phía sau: ĐT có thể kết hợp với 1 từ, một nhóm từ, 1 cụm C­V.
­ Có thể  tạo câu hỏi bằng cách đặt sau chúng từ   bao giờ  hoặc  bao lâu 
( Tính từ không có khả năng này).
­ Động từ thường đảm nhiệm chức vụ vị ngữ.
* Tính từ
Có khả năng kết hợp được với từ chỉ mức độ  như: rất, hơi, lắm, quá, cực 
kì,…( rất tốt, đẹp lấm,…).
* Lưu ý: Các động từ  chỉ  cảm xúc ( trạng thái) như: yêu, quý, ghét, xúc 
động,…cũng kết hợp  được với các từ  rất, hơi, lắm,… Vì vậy, khi băn 
khoăn một từ nào đó là động từ hay tính từ thì nên cho học sinh thử kết hợp  
với các từ hãy, đừng, chớ,…Nếu kết hợp được thì đó là động từ.
3. 3. Một số lưu ý về sự chuyển loại của từ.
    Chuyển loại là một hiện tượng chuyển nghĩa, một phương thức tạo từ 
mới. Từ  mới được tạo ra theo phương thức chuyển loại có các đặc điểm  
sau:
­ Giữ nguyên vỏ  âm thanh của từ xuất phát. Mang ý nghĩa mới có quan hệ 
nhất định với nghĩa của từ xuất phát. Mang những đặc điểm ngữ pháp mới 
(khả  năng kết hợp thay đổi, khả  năng làm thành phần câu thay đổi). Như 
chuyển danh từ thành quan hệ từ, chuyển danh từ thành động từ và ngược 
lại…
Ví dụ 1: Chuyển danh từ thành quan hệ từ.
­ Trên bảo, dưới không nghe.          ­ Ý kiến ấy chẳng dựa trên cơ sở nào.
               DT          DT                                                                  QHT
Ví dụ 2. Chuyển DT thành động từ và ngược lại.
­ DT chỉ công cụ chuyển thành động từ chỉ hoạt động sử dụng công cụ ấy:
Cái cày/ cày ruộng; cái cuốc/cuốc đất; cái bơm/bơm xe...

­ DT trừu tượng (2 âm tiết) chuyển thành động từ: Những nhận thức mới/ 
nhận thức lại vấn đề; phát triển tư duy/ đang tư duy.
­ ĐT chỉ cảm nghĩ nói năng (2 âm tiết) chuyển thành DT: đang suy nghĩ/ 
những suy nghĩ ấy; đang tính toán/ những tính toán ấy ...
Ví dụ 3. Chuyển DT thành TT và ngược lại.
12


a) Mùa xuân đã về.
              DT
b) Cố ấy đang trong thời kì xuân sắc.
                                              TT
Từ “xuân” trong câu a là danh từ ( chỉ một mùa trong năm), từ “xuân” trong 
câu b là tính từ ( chỉ sắc vẻ trẻ trung , tươi đẹp).
 II. Các biện pháp thực hiện
Biện pháp 1. Giúp HS hiểu nghĩa của từ.
    Vốn từ  Tiếng việt có số  lượng lớn đến hàng chục vạn từ  và luôn luôn 
được bổ sung từ mới. Mỗi từ có ý nghĩa riêng. Nhưng bên cạnh những nét  
riêng của từng từ, có thể  tìm thấy một số  lượng từ  nào đó, có những nét 
nghĩa chung, khái quát. Dựa vào những nét nghĩa khái quát đó, có thể  tập  
hợp lại thành từng lớp, từng loại. Ý nghĩa khái quát của từ bao gồm các nét 
nghĩa liên quan đến ý nghĩa từ vựng và các nét nghĩa liên quan đến ý nghĩa 
ngữ  pháp. Do vậy, khi hướng dẫn học sinh giải nghĩa từ  cần sử  dụng các  
phương pháp giải nghĩa phù hợp như dùng tranh ảnh, vật thật, dựa vào văn 
cảnh,….
Biện pháp 2. Xây dựng hệ thống bài tập..
    Để  học sinh nắm vững lí thuyết giáo viên cần sử  dụng PPDH phù hợp 
với học sinh. Để  học sinh được ôn luyện kiểm tra vốn kiến thức, có kĩ  
năng xác định và sử  dụng đúng từ  loại. Tôi thường sử  dụng hệ  thống bài 
tập khác nhau để giúp học sinh dễ phân biệt :

* Các dạng bài tập giúp học sinh xác định, phân biệt đúng danh từ, động từ, 
tính từ.
Dạng bài 1.  Cho sẵn các từ yêu cầu học sinh xác định các từ đó.
Ví dụ: Xác định từ  của các từ  loại sau: niềm vui, vui tươi, vui chơi, tình 
yêu, yêu thương, đáng yêu.
    Để xác định từ loại của những từ này, ta xét đến ý nghĩa ( chỉ đối tượng,  
chỉ  hành động hay chỉ  tính chất) cũng như  thử  các khả  năng kết hợp của 
chúng ( đã đề cập ở phần giải pháp).
­ những niềm vui                      ­ rất yêu thương             ­ hãy yêu thương    
­ hãy vui chơi                           ­ tình yêu ấy                   ­ rất đáng yêu 
Danh từ
Động từ
Tính từ
Niềm vui, tình yêu
Vui chơi, yêu thương
Vui tươi, đáng yêu
Dạng bài 2.   Xác định từ loai trong đoạn thơ, văn có sẵn.
Ví dụ: Xác định động từ, danh từ, tính từ trong hai câu sau:
   Một cô bé vừa gầy, vừa thấp bị thầy giáo loại ra khỏi dàn đồng ca. Cũng  
chỉ tại cô bé ấy, lúc nào cũng chỉ mặc mỗi một bộ quần áo vừa bẩn, vừa cũ  
lại rộng nữa.

13


ở  bài tập này học sinh cần xác định danh giới từ, rôi xét ý nghĩa và khả 
năng kết hợp của chúng.
Danh từ
Động từ
Tính từ

Cô   bé,   thầy   giáo,   dàn  loại, mặc.
Gầy,   thấp,   bẩn,   cũ, 
đồng ca, bộ, quần áo.
rộng.
Dạng bài 3.
    Muốn cho học sinh phân định nghĩa của từ  chính xác cũng như  xác định 
đúng từ loại, ta nên đưa ra các bài tập mà học sinh còn nhầm lãn để các em  
sửa.
Ví dụ 1: Tìm tính từ trong đoạn văn sau ( Lớp 4­ tập 1).
     Chủ Tịch Hồ Chí Minh, vị chủ tịch của Chính phủ Lâm thời nước Việt 
Nam Dân chủ Cộng hoà ra mắt đồng bào. Đó là một cụ già gầy gò, trán cao, 
mắt sáng, râu thưa. Cụ đội chiếc mũ đã cũ, mặc áo ka ki cao cổ, đi dép cao  
su trắng. Ông cụ  có dáng đi nhanh nhẹn. Lời nói của cụ  điềm đạm, đầm 
ấm, khúc triết, rõ ràng.
                                                                                  Theo Võ Nguyên Giáp
    Ỏ bài tập này học sinh xác định các tính từ: gầy gò, cao, sáng, thưa, cao,  
trắng, nhanh nhẹn một cách dễ dàng. Khi xét đến: điềm đạm, khúc triết, rõ 
ràng các em lúng túng không xác định được đây thuộc từ loại nào. Vậy phải 
giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, nhận biết đây là tính từ chỉ đặc điểm, tính 
chất hay trạng thái. Sau đó giáo viên cần khắc sâu kiến thức này.
  Ví dụ 2 : Xác định từ loại của các từ trong các thành ngữ sau:
                                                Đi ngược, về xuôi
Nước chảy, đá mòn.
   Các từ loại học sinh xác định nhanh và rõ ràng chính xác là “đi”, “về” là  
động từ, “ nước, đá” là danh từ. Nhưng các từ “ ngược, xuôi, mòn” các em  
lúng túng và hay xếp các từ  này vào loại tính từ. Vậy giáo viên phải phân  
tích ý nghĩa của từ  đó là: “ ngược” chỉ  vùng núi, “ xuôi” là chỉ  vùng đồng 
bằng. Do vậy, “ngược, xuôi” là danh từ. Còn “mòn” là động từ  (mức độ 
giảm bớt).
Dạng bài 4.

Xác định chức vụ ngữ pháp của một từ loại khi nó đứng ở những vị trí khác 
nhau.
Ví dụ. Xác định từ thật thà và chỉ rõ nó giữ chức vụ ngữ pháp trong câu.
a) Bạn Hà rất thật thà.
b) Tính thật thà của Hà khiến ai cũng mến.
c) Bạn Hà ăn nói thật thà dễ nghe.
d) Thật thà là phẩm chất đẹp đẽ của bạn Hà.
   Bài tập này yêu cầu học sinh phải xác định được  thật thà là tính từ, khả 
năng kết hợp của nó. Xác định được thành phần câu.
Câu a: vị ngữ. Câu b: định ngữ. Câu c: bổ ngữ. Câu d: chủ ngữ.
14


Dạng bài 5.
   Cho sẵn một số từ, yêu cầu học sinh đặt câu để  hiểu rõ sự  chuyển loại 
của từ.
Ví dụ: Đặt câu với từ “suy nghĩ” để nó là động từ, danh từ.
   Bạn Minh đang suy nghĩ.
                                ĐT
   Những suy nghĩ của bạn Minh rất sâu sắc.
                  DT
* Các dạng bài tập giúp học sinh phân biệt được từ ghép, từ láy.
Dạng bài 1.
Từ các tính từ( là từ đơn) cho sẵn dưới đây, hãy tạo ra các từ ghép, từ láy:  
nhanh, đẹp.
Từ ghép
Từ láy
Nhanh
Nhanh tay, nhanh chân, nhanh trí, Nhanh   nhẹn,   nhanh 


nhảu,..
đẹp
Xinh đẹp, …
đẹp đẽ, …
Dạng bài 2.
Hãy xếp những từ  phức được in nghiêng trong các câu dưới đây thành hai  
loại: từ ghép và từ láy. Biết rằng các tiếng in đậm là tiếng có nghĩa (BT1­  
L4­ T1):
Nhân dân  ghi nhớ  công  ơn Chử  Đồng Tử, lập  đền thờ  ở  nhiều nơi bên 
sông Hồng. Cũng từ đó hằng năm, suốt mấy tháng mùa xuân, cả  một vùng 
bờ bãi sông Hồng lại nô nức làm lễ, mở hội để tưởng nhớ ông.
                                                                                        Theo Hoàng Lê
­ Từ ghép: ghi nhớ, đền thờ, tưởng nhớ, bờ bãi, .
­ Từ láy: nô nức.
Dạng bài 3.
Cho sẵn các từ yêu cầu học sinh sắp xếp thành 2 nhóm.
Ví dụ: Cho các từ sau: thật thà, bạn bè, bạn đường, ngoan ngoãn, giúp đỡ, 
khó khăn, học hỏi, thành thật, thành 2 nhóm từ ghép và từ láy.
­ Từ ghép: bạn bè, bạn đường, giúp đỡ, học hỏi, thành thật.
­ Từ láy: thật thà, ngoan ngoãn, khó khăn.
Biện pháp 3. Bồi dưỡng hứng thú học tập
      Hứng thú là một khâu quan trọng, là một hiện tượng tâm lí trong đời  
sống mỗi người. Hứng thú tạo cho con người học tập, lao động được tốt 
hơn. Nhà văn M. gocki nói: “Thiên tài nảy nở  từ  tình yêu đối với công  
việc”. Việc bồi dưỡng hứng thú học tạpp là một việc làm cần thiết. Để 
tạo được hứng thú học tập cho các em, người giáo viên phải tạo được sự 
thoải mái trong học tập, phải làm cho các em cảm nhận được vẻ đẹp, khả 

15



năng kì diệu của ngôn từ  trong tất cả  các giờ  học để  kích thích vốn từ   ở 
học sinh.
Biện pháp 4. Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong một tiết  
học.
   Tuỳ thuộc vào nội dung từng bài dạy cụ thể tôi đã vận dụng linh hoạt các 
phương pháp cũng như hình thức tổ chức dạy học phù hợp như đàm thoại, 
trao đổi nhóm, cá nhân, trò chơi,… nhằm gây hứng thú học tập cho học  
sinh, tránh nhàm chán, đơn điệu.
Biện pháp 5. Sử dụng các phương pháp dạy học.
   Trong quá trình dạy phân môn Luyện từ và câu tôi thường vận dụng linh 
hoạt các phương pháp dạy học vào trong từng bài dạy. Như  Phương pháp 
vấn đáp, PP nêu và giải quyết vấn đề, PP rèn luyện theo mẫu, PP trực  
quan,   PP   phân   tích,…Vì   không   có   phương   pháp   nào   là   vạn   năng,   mỗi 
phương pháp có  ưu điểm, hạn chế  riêng nên cần sử  dụng phù hợp trong  
một tiết dạy, phù hợp với nội dung bài dạy để các phương pháp hỗ trợ lẫn  
nhau giúp học sinh hiểu bài hơn.
Biện pháp 6. Phát huy tính tích cực của học sinh.
     Đổi mới phương pháp dạy học là phải phát huy tính tích cực của học 
sinh, tôi quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh và phân ra nhiều mức 
độ  ( giỏi, khá, trung bình, yếu) để  có phương pháp dạy thích hợp. để  phát 
huy được tính tích cực của học sinh tôi phải nghiên cứu, hệ thống câu hỏi  
trong mỗi bài cụ thể phù hợp với mọi đối tượng học sinh.
Biện pháp 7.  Tổ  chức hình thức ngoại khoá Tiếng Việt trong các tiết  
sinh hoạt tập thể.
    Vào các tuần thứ  tư  của mỗi tháng tôi thường tổ  chức hình thức ngoại  
khoá Tiếng Việt trong các tiết sinh hoạt tập thể  như  thi đố, Góc Tiếng  
Việt…
Thi đố  hay góc Tiếng Việt là một hình thức hấp dẫn. Để  tổ  chức thi đố 
hay góc Tiếng việt tôi thường lựa chọn nội dung theo từng dạng bài với  

những câu hỏi thú vị  góp phần giúp học sinh thi đua, ghi nhớ  nhanh nội  
dung kiến thức . Qua đó học sinh có thể  tự  nhiên, phát huy được tính chủ 
động sáng tạo. 
   Góc Tiếng Việt:   Trong lớp có hai bảng, một bảng chính và một bảng 
giành cho các hoạt động khác. Do vậy,  tôi thường ghi lên những câu đố về 
phân môn Luyện từ và câu, những lỗi sai mà học sinh thường mắc phải và  
yêu cầu học sinh sửa lại hay phần đố  vui qua tranh cũng tạo cho học sinh  
hứng thú.
   Hình thức ngoại khoá Tiếng Việt được tổ  chức thường xuyên, liên tục 
nhằm tạo tính tích cực ở học sinh, sự thi đua giữa các tổ.
Biện pháp 8. Sử dụng từ điển
16


  Để giúp học sinh hiểu rõ hơn nghĩa một số từ, phân biệt đúng từ ghép, từ 
láy,… giáo viên có thể hướng dẫn học sinh sử dụng từ điển Tiếng Việt.
­ Trước hết, tôi hướng dẫn cho các em nắm được nội dung cấu trúc của từ 
điển giúp học sinh hiểu mục đích, tính chất của từ điển .
­ Hướng dẫn xem phần mục từ và ví dụ.
­ Hướng dẫn xem đến phần chú thích, các chữ  viết tắt có trong từ  điển. 
Đặc biệt, chú ý đến thứ  tự  sắp xếp các tiếng­ mục từ  theo thứ tự chữ cái 
trong bảng chữ cái.
   Tôi luôn yêu cầu học sinh tập suy nghĩ viết câu giải thích vào vở nháp sau  
đó xem lại trong từ điển. Từ điển giúp hiểu rõ nghĩa một số từ, do vậy cần  
hướng cho học sinh không nên lạm dụng, không nên phụ  thuộc vì điều đó  
sẽ làm cho học sinh thụ động. 
Biện pháp 9. Phối hợp với gia đình
   Trong quá trình giảng dạy tôi luôn có sự phối hợp với gia đình nhằm giúp  
học sinh có ý thức, có thời gian học tập, tìm hiểu. Luôn trao đổi với gia  
đình trong những lần họp phụ  huynh hoặc qua sổ  liên lạc về  tầm quan 

trọng của phân môn Luyện từ  và câu, mối quan hệ  của phân môn với các 
môn học khác nhằm giúp các gia đình có cách nhìn đúng đối với phân môn 
này và có ý thức rèn cho các em biết sử dụng vào thực tế cuộc sống.
   Ngoài ra, với một số học sinh quá yếu tôi luôn luôn nhắc nhở và cùng với  
học sinh khá giỏi giúp đỡ kèm cặp ngoài giờ. Với giờ học Luyện từ và câu 
hay các giờ  học khác các em luôn là những học sinh được lên bảng nhiều 
nhất. Giáo viên giúp các em nhận xét, phân tích, và phân biệt được cấu tạo  
của từ, của câu,…
   Tuy nhiên, trong thực tế, giờ học trên lớp có hạn nên tôi đã xác định nội  
dung từng loại bài, khoanh vùng kiến thức, dự kiến những lỗi mà học sinh 
sẽ  mắc phải để  giải quyết và có thể  mở  rộng thêm nội dung kiến thức. 
Ngoài ra, cuối mỗi giờ học tôi thường ra thêm một số  bài tập để  học sinh 
về  nhà tự  làm, vào giờ  sinh hoạt 15 phút( buổi kiểm tra) một số  học sinh 
không làm được sẽ đưa ra thắc mắc, một số học sinh giỏi sẽ lên chữa bài 
rồi đến giờ học giáo viên sẽ kiểm tra và chữa lại, khắc sâu kiến thức.
C.KẾT LUẬN
   Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các giải pháp và biện pháp nêu 
trên. Tuy đó là những kinh nghiêm nhỏ  nhưng bước đầu đã giúp học sinh  
hiểu được nghĩa của từ, phân loại được từ theo nhóm thích hợp, vận dụng 
vào quá trình học “câu” và vào thực tế cuộc sống.
Cụ thể, sau khi lựa chọn tôi đã rà soát và kiểm tra lại kết quả thu được như 
sau:
17


           Lỗi 
       HS sai
TS HS

Không phân định  Không xác định đúng 

được ranh giới từ. từ ghép, từ láy.

Không   xác   định 
đúng   danh   từ, 
động từ, tính từ.

23
2
1
1
   Việc phát hiện lỗi rồi thống kê, điều tra nguyên nhân gây lỗi. Từ đó đưa 
ra các biện pháp khắc phục là việc làm cần thiết đối với mỗi giáo viên. 
Nhưng không phải cứ  khi nào đưa ra giải pháp, biện pháp là có thể  làm  
ngay được mà điều đó cần cả một quá trình lâu dài đòi hỏi người giáo viên  
phải kiên trì, nhẫn nại. Bởi vì, không phải học sinh nào cũng tiến bộ  như 
nhau. Kiến thức khoa học là vô hạn, khả năng tiếp thu của học sinh có giới  
hạn nên tôi luôn lựa chọn, xác định nội dung và các yêu cầu phù hợp với 
khả  năng tiếp thu của các em. Nhằm đảm bảo sự  hài hoà giữa mục tiêu 
chung của môn học với mục tiêu chung của cấp học.
    Việc rèn luyện sửa lỗi cho học sinh phải được tiến hành thường xuyên  
liên tục trong tất cả các môn học cũng như trong thực tế giao tiếp. Bởi : Có 
xuất phát từ thực tiễn nếu phản ánh đúng bản chất của việc dạy học mới  
phát huy được tác dụng thực sự. Trong lĩnh vực này giao tiếp là hoạt động 
thường ngày không thể thiếu của con người. Chỉ có trong giao tiếp thì các 
yếu tố ngôn ngữ mới bộc lộ hết đặc điểm của mình. Vì vậy trong dạy học 
cần phải hướng quá trình dạy từ, dạy câu vào giao tiếp để  thực hiện mục 
đích của việc dạy học. Dù dạy bất cứ  yếu tố  chính tả  nào cũng phải  
hướng dẫn học sinh thấy chúng được sử dụng trong giao tiếp như thế nào  
và liên hệ  với bản thân mình để  có phương pháp tự  luyện. Đặc biệt giáo  
viên phải hướng dẫn cho các em có ý thức nói, viết đúng từ , câu ở mọi lúc,  

mọi nơi (ở trường cũng như giao tiếp ở gia đình và ngoài xã hội). Đó là quá  
trình “gắn Tiếng Việt với quá trình giao tiếp mà những nhà giáo dục đang 
quan tâm”.
   Trong quá trình dạy học tôi luôn tạo hứng thú học tập, tạo động cơ  học 
tập cho học sinh tao sự mạnh dạn, tự tin khi tiếp thu bài. Tôi luôn nhớ một  
câu nói của M. Gorki “ Thiên tài nảy nở từ tình yêu công việc”.
    Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ  mà tôi đã đúc rút được qua 2 năm 
dạy lớp 4. Tuy mới chỉ là bước đầu trong quá trình rèn luyện nhưng những  
kết quả ban đầu đã giúp tôi có thêm niềm tin vào công việc của mình. Tôi 
rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các đồng chí lãnh đạo, các bạn  
đồng nghiệp để  cho tôi ngày một hoàn thiện hơn trong kinh nghiệm dạy  
học của mình.
                          Tôi xin chân thành cảm ơn!
                                                                        
18


                                                               Thành Vinh, ngày 5 tháng 4 năm 2011
                                                                                        Người viết
                                                                               

                                                                                       Quách Thị Tình

19



×