A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lời mở đầu
Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất, thẩm
mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên bậc học Trung học
cơ sở.
Trong chương trình giáo dục phổ thông Cấp tiểu học, mỗi môn học đều
xác định rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.
Do vậy, mỗi giáo viên cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học để đạt hiệu quả cao. Là một giáo
viên qua 2 năm giảng dạy tôi thực sự trăn trở với mỗi bài giảng của mình.
Làm thế nào để học sinh hiểu được nội dung bài học, biết vận dụng vào
thực tế cuộc sống. Hiểu rõ được tầm quan trọng của từng môn học tôi luôn
học hỏi, tìm tòi, đúc rút kinh nghiệm qua các bài học vận dụng linh hoạt
các PPDH, HTTC phù hợp với trình độ của học sinh.
Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy sự phức tạp về việc “giúp học
sinh hiểu nghĩa từ”. Làm thế nào để các em hiểu được nghĩa của từ, phân
loại đúng theo yêu cầu, dùng từ chính xác để đặt câu, để viết văn và giao
tiếp trong cuộc sống. Mặt khác, học sinh muốn viết câu đúng ngữ pháp, câu
có hình ảnh, có cảm xúc học sinh phải hiểu rõ cấu tạo của từ. Trên cơ sở
đó, học sinh biết vận dụng vào thực tế. Do vậy, tôi đã mạnh dạn đưa ra
một số giải pháp, biện pháp là kinh nghiệm nhỏ của mình giúp học sinh lớp
4 phân biệt được từ đơn, từ ghép, từ láy và danh từ, động từ, tính từ.
II.Thực trạng của vấn đề
1. Tình hình nhà trường
Trường Tiểu học Thành Vinh là một trường nắm cách trung tâm huyện
khoảng 17 km, có 17 lớp với 25 cán bộ giáo viên. 100% cán bộ giáo viên
đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, có lòng yêu nghề mến trẻ tận tuỵ với
công việc của mình. Luôn trau dồi , học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ.
2.Địa phương. Là một xã miền núi, đời sống của nhân dân trong vùng đa
phần còn gặp nhiều khó khăn. Nghề nghiệp chính là trồng trọt, chăn nuôi,
thu nhập thấp. Một số hộ gia đình do điều kiện kinh tế eo hẹp phải đi làm
ăn xa phó mặc con cái ở nhà cho ông bà, chú bác…Dẫn đến việc quan tâm
đến việc học tập của con em họ là hạn chế. Học sinh đến trường không có
đủ đồ dùng học tập, không làm bài và chuẩn bị bài trước khi đến lớp dẫn
đến chất lượng học tập không cao.
Mặt khác, do đặc điểm vùng miền khả năng dùng từ đặt câu vận dụng
vào giao tiếp của học sinh còn hạn chế. Phụ huynh học sinh chưa quan tâm
1
nhiều, chưa hiểu hết tầm quan trọng của việc học nói chung và phân môn
Luyện từ và câu nói riêng.
3. Tình hình lớp
Sau 2 năm thực dạy lớp 4 tôi nhận thấy học sinh thường hay nhầm lẫn
rất nhiều.
* Nguyên nhân chủ yếu :
+ Về phía học sinh
Do học sinh không hiểu rõ nghĩa của từ ( trường hợp mà nghĩa của từ
hoặc dấu hiệu hình thức không rõ ràng) nên khi xác định từ loại còn khó
khăn.
Do thời gian học trên lớp hạn chế nên chưa mở rộng hết được nội dung
kiến thức có liên quan.
Học sinh chưa hiểu được về khả năng kết hợp của từ.
Bên cạnh đó, sự tập trung của các em chưa bền vững, khả năng tập trung
chưa cao, nóng vội trong các tình huống cộng với trình độ ngôn ngữ thấp so
với yêu cầu đặt ra.
Điều kiện kinh tế gia đình còn khó khăn, thời gian dành cho việc học tập
ở nhà còn ít, một số em ở nhà đi chăn trâu, bế em giúp mẹ. Măt khác, việc
mua sắm tài liệu tham khảo còn hạn chế dẫn đến chất lượng không cao.
Không chịu học bài, rèn luyện, ghi nhớ các bài học.
Không tự rèn luyện, học hỏi, tự trao đổi ở nhà, vận dụng vào thực tế
cuộc sống.
+ Về phía giáo viên
Quá trình bồi dưỡng, tích luỹ kinh nghiệm về vốn từ của học sinh còn
hạn chế.
Chưa hệ thống được một số dạng bài tập.
Từ việc tìm hiểu nguyên nhân trên tôi đã tiến hành tìm hiểu, điều tra tại
lớp mà mình thực dạy. Kết quả thu được như sau:
Lỗi
HS sai
Không phân
Không xác định
Không xác định đúng
định được ranh đúng từ ghép, từ danh từ, động từ, tính
giới từ.
láy.
từ .
TS HS
23
6
7
5
Từ những nguyên nhân trên, tôi xin trình bày một số kinh nghiệm nhỏ để
hướng dẫn học sinh khắc phục các lỗi trên.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Các giải pháp thực hiện
2
Từ việc tìm hiểu nguyên nhân, tôi đã tiến hành tìm hiểu lỗi sai, nội dung
bài dạy, phạm vi kiến thức trong và ngoài bài học, lựa chọn nội dung kiến
thức, PPDH phù hợp với bài dạy, với từng đối tượng học sinh.
1. Hướng dẫn học sinh phân định ranh giới từ.
1.1. Giúp học sinh hiểu rõ khái niệm.
a) Tiếng là đơn vị cấu tạo nên từ. Mỗi tiếng thường có ba bộ phận : Âm
đầu, vần và thanh. Tiếng nào cũng có vần và thanh. Có tiếng không có âm
đầu.
Ví dụ:
Tiếng
Âm đầu
Vần
Thanh
Người
ng
ươi
Huyền
Giá
gi
a
S ắc
b) Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa dùng để:
Biểu thị sự vật, hoạt động, đặc điểm,..( biểu thị ý nghĩa) và cấu tạo câu.
Tiếng cấu tạo nên từ. Từ chỉ gồm một tiếng gọi là từ đơn. Từ gồm hai
hay nhiều tiếng gọi là từ phức.
Từ nào cũng có nghĩa và dùng để tạo câu.
Mỗi tiếng trong từ phức có nghĩa rõ ràng hoặc không rõ ràng. Dựa vào đó
người ta phân biệt từ phức thành hai loại là từ ghép và từ láy.
* Cấu tạo từ
Từ
Từ đơn
Từ phức
Từ ghép
Từ láy
TG tổng TG phân Láy âm Láy
Láy âm và Láy
hợp
loại
đầu
vần
vần
tiếng
1.2. Cách phân định ranh giới từ.
Để tách câu thành từng từ, ta phải chia câu thành từng phần nhỏ có nghĩa
sao cho được nhiều phần nhất ( chia cho đến phần nhỏ nhất). Vì nếu chia
câu thành từng phần có nghĩa nhưng chưa phải là nhỏ nhất thì phần đó có
thể là một cụm từ chứ không phải là một từ.
Dựa vào tính hoàn chỉnh về cấu tạo và về nghĩa của từ, ta có thể xác
định được 1 tổ hợp nào đó là một từ ( từ phức) hay 2 từ đơn bằng cách xem
xét tổ hợp ấy về 2 mặt: kết cấu và nghĩa.
Ví dụ. Bài 1 ( Phần nhận xét). Tiếng việt 4 Tập 1 Từ đơn và từ phức.
* Hướng dẫn học sinh xác định từ đơn, từ phức.
Cách 1. Dùng thao tác chêm, xen.
3
Nếu quan hệ giữa các tiếng trong tổ hợp mà lỏng lẻo, dễ tách rời, có thể
chêm xen một tiếng khác từ bên ngoài vào mà nghĩa của tổ hợp ấy về cơ
bản vẫn không thay đổi thì tổ hợp ấy là hai từ đơn.
Ví dụ: nhờ bạn nhờ vài bạn (2 từ đơn)
Hai tổ hợp trên đã chêm, xen thêm tiếng ‘vài’ nhưng nghĩa của từ này về
cơ bản không thay đổi. Do đó nhờ bạn là sự kết hợp của hai từ đơn.
Ngược lại, nếu trong tổ hợp mà mối quan hệ giữa các tiếng mà chặt
chẽ, khó có thể tách rời và đã tạo thành một khối vững chắc, mang tính cố
định ( không thể chêm, xen) thì tổ hợp ấy là một từ phức.
VD: học hành Không thêm được từ vào giữa 2 kết hợp (từ ghép)
Cách 2.
Xét về nghĩa của các từ ( xét xem trong kết hợp có yếu tố nào chuyển
nghĩa hay mờ nghĩa.
Ví dụ: truyện cổ (tên một loại truyện); nhận mặt (xác định đúng một
người nào đó) đều là các kết hợp của 1 từ đơn và các yếu tố “cổ”, “mặt”
đã mờ nghĩa, chỉ còn là tên gọi của một loại truyện, xác định đúng một sự
vật nào đó, chúng kết hợp chặt chẽ với các tiếng trước nó để tạo thành từ.
Cách 3.
Xét xem trong tổ hợp ấy có nằm trong thế đối lập không, nếu có thì đó là
kết hợp của hai từ đơn.
Ví dụ: có truyện cổ chứ không có cổ truyện. Vậy truyện cổ là 1 từ
phức.
Ngược với chạy đi là chạy lại. Vậy chạy đi là những kết hợp của hai từ
đơn
Lưu ý:
+ Khả năng dùng một yếu tố thay cho cả tổ hợp cũng là cách để chúng ta
xác định ranh giới từ.
2. Hướng dẫn học sinh phân biệt từ ghép và từ láy.
2.1. Giúp học sinh hiểu rõ khái niệm .
* Có hai cách chính để tạo từ phức.
Ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau. Đó là từ ghép.
Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần ( hoặc cả âm đầu và vần) giống
nhau. Đó là từ láy.
a) Từ ghép. Là từ do 2 hoặc nhiều tiếng ghép lại tạo thành nghĩa chung.
Từ ghép được chia thành 2 kiểu:
Từ ghép có nghĩa tổng hợp ( Từ ghép hợp nghĩa, từ ghép đẳng lập, từ
ghép song song): Là từ ghép mà nghĩa của nó biểu thị những loại rộng hơn,
lớn hơn, khái quát hơn so với nghĩa các tiếng trong từ.
Từ ghép có nghĩa phân loại (từ ghép phân loại, từ ghép chính phụ): chỉ
một loại nhỏ thuộc phạm vi nghĩa của tiếng thứ nhất.
4
* Lưu ý:
Các tiếng trong từ ghép có nghĩa tổng hợp thường cùng một kiểu từ loại (
cùng danh từ hoặc cùng động từ,..).
Các từ như: chèo bẻo, bồ kết, ễnh ương, bồ hóng,.., axít, cà phê, ôtô,
môtô,..có thể cho là từ ghép ( theo định nghĩa) hoặc là từ đơn ( tuy là hai
tiếng nhưng gộp lại mới có nghĩa, còn tách rời thì không có nghĩa. Những
trường hợp này gọi là từ đơn đa âm).
b) Từ láy: Là từ phối hợp những tiếng có âm đầu hoặc vần ( hay cả âm
đầu và vần) giống nhau. Căn cứ vào bộ phận được lặp lại, người ta chia từ
láy theo 4 kiểu: Láy tiếng, láy vần, láy âm, láy cả âm và vần. Căn cứ vào số
lượng tiếng được lặp lại, người ta chia thành 3 dạng từ láy: láy đôi, láy ba,
láy tư.
Theo truyền thống có thể chia từ láy làm 3 loại lớn:
* Từ tượng thanh ( bắt chước âm thanh): Là từ láy mô phỏng, gợi tả âm
thanh trong thực tế: Ví dụ: rì rào, ào ào, lóc cóc, ùng oàng,…
* Từ tượng hình ( bắt chước hình dáng): Là từ láy gợi tả hình ảnh, hình
dáng của người, vật; gợi tả màu sắc, mùi vị.
Ví dụ: Gợi tả dáng dấp: lênh khênh, lè tè, lom khom, khẳng khiu,..
Gợi tả màu sắc: chon chót, sặc sỡ, lấp lánh,…
Gợi tả mùi vi: thoang thoảng, nồng nàn, ngào ngạt,..
* Từ láy biểu thái ( biểu thị trạng thái sự vật hoặc tâm lí).VD: bồn chồn, lo
lắng. Lưu ý:
Một số từ vừa có nghĩa tượng hình, vừa có nghĩa tượng thanh, tuỳ vào văn
cảnh mà ta xếp vào nhóm nào.
Ví dụ: làm ào ào ( ào ào là từ tượng hình), thổi ào ào ( ào ào là từ tượng
thanh).
Thực tế vẫn tồn tại những từ tượng hình và từ tượng thanh không phải
là từ láy.
* Nghĩa của từ láy: Rất phong phú, cũng như từ ghép, chúng có cả nghĩa
khái quát, nghĩa tổng hợp và nghĩa phân loại.
Ví dụ: chim chóc, làm lụng,..( nghĩa tổng hợp); nhỏ nhen, nhỏ nhắn, xấu
xa,..( nghĩa phân loại). Tuy nhiên, ở Tiểu học đề cập đến một số dạng sau:
Diễn tả sự giảm nhẹ của tính chất: đo đỏ < đỏ
Diễn tả sự lặp đi lặp lại các động tác, khiến cho từ láy có giá trị gợi hình
cụ thể.
Ví dụ: gật gật, rung rung,…
Diễn tả sự tăng mạnh lên của tính chất. Ví dụ: cỏn con > con
Diễn tả sự đứt đoạn, không liên tục nhưng tuần hoàn.VD: lập loè, lấp ló,
….
Diễn tả tính chất đạt đến một mức độ chuẩn mực, không chê được.
Ví dụ: nhỏ nhắn, xinh xắn, ngay ngắn, tròn trịa,…
5
2.2. Cách phân biệt từ ghép và từ láy.
* Hướng dẫn học sinh qua bài Từ ghép và từ láy Tiếng việt 4 Tập 1.
+ Từ ghép
Giữa các tiếng trong từ ghép có quan hệ về nghĩa ( Các từ khi tách ra
thành từ đơn đều có nghĩa (từ ghép tổng hợp) hoặc liên kết với nhau rất
chặt chẽ không thể tách rời nhau được.Ví dụ: truyện cổ, ông cha, ghi nhớ,
đền thờ, ….( truyện + cổ, ông + cha)
Nếu các từ chỉ còn một tiếng có nghĩa, còn một tiếng đã mất nghĩa nhưng
hai tiếng không có quan hệ về âm thì ta cũng xếp vào nhóm từ ghép.
Ví dụ: tưởng nhớ, ngay đơ,…
+ Từ láy
Giữa các tiếng trong từ láy có quan hệ về âm ( Các từ khi tách ra có một
tiếng có nghĩa (nghĩa gốc), một tiếng không có nghĩa (mờ nghĩa)).
Ví dụ: nô nức, mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp,..
Các từ có một tiếng có nghĩa còn một tiếng không có nghĩa rõ ràng nhưng
các tiếng trong từ được biểu hiện trên chữ viết không có phụ âm đầu thì
cũng xếp vào nhóm từ láy ( láy vắng khuyết phụ âm đầu).VD: ồn ào, ầm ĩ,
ấm áp, ….
Các từ có một tiếng có nghĩa còn một tiếng không có nghĩa rõ ràng nhưng
các tiếng có phụ âm đầu được ghi bằng các con chữ khác nhau nhưng có
cùng cách đọc ( c/ k/ q; ng/ ngh; g/ gh) cũng được xếp vào nhóm từ láy.
Ví dụ: cuống quýt, cũ kĩ, ngốc nghếch, gồ ghề,…
* Lưu ý: Trong thực tế, có nhiều từ ghép ( gốc Hán) có hình thức ngữ âm
giống từ láy, nhưng thực tế các tiếng đều có nghĩa nhưng học sinh rất khó
phân biệt. Do vậy , ta nên liệt kê cho học sinh ghi nhớ.
Ví dụ: bình minh, cần mẫn, căn cơ, hoan hỉ, chuyên chính, chân chất, hảo
hạng,..
Ngoài ra, có những từ có cả quan hệ về âm và về nghĩa ( từ Thuần Việt)
như: tắc kè, bồ hóng, bồ kết, bù nhìn, ễnh ương,…hay các từ vay mượn
như: mì chính, cà phê, xà phòng.
Trong quá trình dạy, tôi thường lấy một số từ đặc biệt để học sinh xác
định.
Ví dụ: bạn bè Có học sinh cho rằng đó là từ ghép nhưng cũng có học sinh
cho rằng đó là từ láy.
Học sinh giải thích:
Bạn bè từ ghép vì bè có nghĩa như bè phái, bè cánh.
Bạn bè từ láy vì bè không có nghĩa nó chỉ láy lại âm đầu.
Với hai cách lập luận này, giáo viên công nhận đều đúng vì học sinh đã
biết dựa vào khái niệm đã học.
Bên cạnh đó, việc hệ thống các dạng bài tập giúp học sinh hiểu rõ hơn là
điều không thể thiếu. Tuỳ vào từng đối tượng học sinh.
6
Ví dụ: Dựa vào từ gốc, hãy tạo ra các từ ghép và từ láy từ từ ngay, thẳng,
thật ( Bài tập 2 Tiếng việt 4 T1 Trang 40).
Từ ghép
Từ láy
ngay thẳng, ngay thật, ngay lưng,… ngay ngắn.
Ngay
thẳng băng, thẳng cánh, thẳng đứng, thẳng thắn, thẳng
Thẳng
thẳng đuột, thẳng tắp, thẳng góc,… thớm,..
chân thật, thành thật, thật lòng,…
thật thà
Thật
3. Hướng dẫn học sinh phân biệt danh từ, động từ, tính từ .
3.1. Giúp học sinh hiểu rõ khái niệm
Trong Tiếng Việt, xét về mặt ngữ pháp, có thể phân chi thành những lớp
đồng nhất về mặt ý nghĩa ( khái quát), về hình thức ngữ pháp và về chức
năng cú pháp, sắp xếp thành hệ thống các từ loại: Thực từ và hư từ
+ Thực từ: Gồm những từ có nghĩa chân thực như danh từ, động từ, tính từ,
đại từ, số từ.
+ Hư từ: Dùng để biểu thị các quan hệ ngữ nghĩa cú pháp giữa các thực
từ .Đó là: phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ,…
Hư từ không có khả năng một mình tạo thành câu hay làm thành phần
câu như thực từ nhưng rất cần thiết trong việc xây dựng câu. Chức năng
của hư từ là làm công cụ ngữ pháp.
Mục đích của việc phân chia từ loại là chỉ ra các đặc điểm về ý nghĩa ngữ
pháp và về hoạt động cú pháp của từ dùng để đặt câu. Nó được chia theo
các tiêu chuẩn sau:
+ Ý nghĩa khái quát của từ. Khả năng kết hợp của từ. Chức năng cú pháp
của từ.
Với phạm vi sáng kiến này chỉ đề cập đến danh từ, động từ, tính từ
a) Danh từ: Là những từ chỉ sự vật ( Người, vật, hiện tượng, khái niệm,
đơn vị).
Ví dụ; Tìm các từ chỉ sự vật và xếp vào nhóm thích hợp (Tiếng việt 4 Tập
1).
Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi
Đời cha ông với đồi tôi
Như con sông với chân trời đã xa
Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình.
Lâm Thị Mỹ Dạ
Từ chỉ người: ông cha, cha ông.
Từ chỉ vật: sông, dừa, chân trời.
7
Từ chỉ hiện tượng: mưa, nắng.
Từ chỉ khái niệm: cuộc sống, truyện cổ, tiếng, xưa, đời. ( biểu thị những
cái chỉ có trong nhận thức của con người, không có hình thù, không chạm
tay vào ngửi, nếm, …được).
Từ chỉ đơn vị: cơn, con, rặng ( biểu thị những đơn vị được dùng để tính
đếm sự vật)
Khi phân loại danh từ Tiếng việt, người ta phân chia thành 2 loại: Danh từ
chung và danh từ riêng.
* Danh từ riêng: Là tên riêng của một loại sự vật.
Tên người Việt Nam là danh từ riêng có cấu tạo như sau:
+ Chỉ gồm một tên riêng: Việt, Hiền, Thuỷ Tiên,…
+ Gồm từ chỉ họ và tên riêng: Nguyễn Việt, Trương Hiền, Nguyễn Thuỷ
Tiên,…
+ Gồm từ chỉ họ, từ đệm, từ tên riêng: Nguyễn Văn Việt, Trương Văn
Hiền, …
+ Gồm từ chỉ họ cha, mẹ, từ đệm và từ tên riêng: Hoàng Nguyễn Thuỷ
Tiên,…
Tên địa điểm
+ Địa danh theo khu vực hành chính hoặc địa lí: Thanh Hoá, Thạch Thành,
…
+ Tên núi, tên sông, tên đất: Ba Vì, Sông Mã,….
* Danh từ chung.
Là tên một loại sự vật ( dùng để gọi chung cho một loại sự vật). Danh từ
chung có thể chia thành 2 loại:
+ Danh từ cụ thể: Là danh từ chỉ sự vật mà ta có thể cảm nhận được bằng
các giác quan ( sách, vở, gió,…).
+ Danh từ trừu tượng: Là danh từ chỉ sự vật mà ta không thể cảm nhận
được bằng các giác quan ( cách mạng, tinh thần, ý nghĩa,…).
Danh từ hiện tượng: Hiện tượng là cái xảy ra trong không gian và thời
gian mà con người có thể nhận thấy, nhận biết được. Có hiện tượng tự
nhiên như: mưa, nắng, sấm, chớp,…và hiện tượng xã hội như: chiến tranh,
đói nghèo,…Danh từ chỉ hiện tượng là danh từ biểu thị các hiện tượng tự
nhiên: tia chớp, ánh sáng,…
Danh từ chỉ khái niệm:
Là danh từ có ý nghĩa trừu tượng. Là loại danh từ không chỉ vật thể, các
chất liệu hay các đơn vị sự vật cụ thể mà biểu thị các khái niệm trừu
tượng như: tư tưởng, đạo đức, phương châm, chủ trương, tình yêu,…Các
khái niệm này chỉ tồn tại trong nhận thức, trong ý thức con người, không
vật chất hoá hay cụ thể hoá được. Nói cách khác, các khái niệm này không
có hình thù, không cảm nhận trực tiếp được bằng các giác quan. Đây là loại
8
danh từ học sinh khó xác định nhất. Nên giáo viên cần dựa vào văn cảnh cụ
thể đển giải thích cho học sinh.
Danh từ chỉ đơn vị: Hiểu theo nghĩa rộng, danh từ chỉ đơn vị là những từ
chỉ đơn vị các sự vật. Căn cứ vào đặc trưng ngữ nghĩa, vào phạm vi sử dụg
có thể chia thành các loại nhỏ sau:
+ Danh từ chỉ đơn vị tự nhiên: Các danh từ này chỉ rõ các loại sự vật nên
còn được gọi là danh từ chỉ loại. Ví dụ: cục, mẩu, miếng, tờ, quyển,…
+ Danh từ chỉ đơn vị đo lường: Các danh từ này dùng để tính đếm, đo đếm
các sự vật, vật liệu, chất liệu.Ví dụ: lạng, cân, yến, sải, gang,…
+ Danh từ chỉ đơn vị tập thể: Dùng để tính đếm các sự vật tồn tại dưới
dạng tập thể, tổ hợp. Ví dụ: đôi, cặp, dãy, bó,…
+ Danh từ chỉ đơn vị thời gian: giây, phút, giờ,…
+ Danh từ chỉ đơn vị hành chính, tổ chức: xóm, thôn, xã, tiểu đội,…
b) Đ
ộng từ ( ĐT
):
Khái niệm: ĐT là những từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật.
Phân loại: Căn cứ vào ý nghĩa khái quát và khả năng sử dụng độc lập hay
không độc lập người ta phân động từ làm hai loại: Những động từ độc lập
và những động từ không độc lập.
* Những động từ độc lập:
Là những động từ tự mình làm thành phần câu, không đòi hỏi có động từ
khác bổ nghĩa: ăn học, nói năng,...
ĐT độc lập có thể có các tiểu loại động từ sau:
ĐT tác động: cắt, gặt, cuốc, chặt, ăn, bắt, gánh, xách, giết, đọc, đóng....
ĐT mang ý nghĩa trao nhận: tặng, cho, biếu, cấp, phát, trả, nộp, vay,
mượn, đòi,
ĐT gây khiến: sai bảo, đề nghị, yêu cầu, cho phép, khiến, khuyên, cấm....
ĐT cảm nghĩ nói năng (động từ chỉ trạng thái, tâm lý): hiểu, biết, nghe,
thấy, ...
ĐT chỉ vận động di chuyển: ra, vào, đi, chạy, lên, xuống, về, đến......
ĐT vận động di chuyển có đặc điểm riêng biệt là sau động từ bắt buộc
phải có thành tố phụ chỉ nơi chốn (bổ ngữ chỉ địa điểm).
ĐT tồn tại; có, còn, nảy sinh nở, mọc, lặn, nổi, sống, chết, tàn, tắt, tan
tác
Những động từ không độc lập: cần kết hợp với động từ khác để biểu thị
nội dung của hành động, trạng thái: nên ăn, cần học, phải đi làm,...Động từ
không độc lập chỉ dùng một mình khi hoàn cảnh giao tiếp cho phép, nghĩa
là, người nói người nghe chấp nhận và không hiểu được nội dung liên
quan mà động từ không mở rộng, đòi hỏi, mặc dù không nói ra trực tiếp
Căn cứ vào ý nghĩa khái quát của động từ biểu thị các dạng thức vận động
và đặc trưng ngữ pháp, chia thành động từ chỉ hành động, chỉ trạng thái, chỉ
tính chất, chỉ quan hệ.
9
* Những động từ không độc lập (động từ tình thái): được chia làm hai
tiểu loại:
1a. ĐT chỉ quan hệ:
ĐT chỉ quan hệ đồng nhất
ĐT chỉ quan hệ quá trình biến hoá: trở nên, trở thành.
ĐT chỉ quan hệ đối chiếu, so sánh: như, giống, khác, tựa...
2b. ĐT chỉ tình thái:
ĐT tình thái chỉ sự cần thiết và khả năng: nếu, cần, phải, cần phải, có
thể, …
ĐT tình thái chỉ ý chí, ý muốn: định, toan, nỡ, mong......
ĐT tình thái chỉ sự chịu đựng, chỉ sự tiếp thu: bị, phải, được....
* Một số lưu ý về động từ chỉ trạng thái.
Đặc điểm ngữ pháp nổi bật nhất của động từ chỉ trạng thái là: nếu như
động từ chỉ hoạt động, hành động, có kể kết hợp với từ song ở phía sau. Ví
dụ: ăn xong, đọc xong,… thì động từ trạng thái không kết hợp với xong ở
phía sau ( không nói: còn xog, hết xong,…).
Một số nội động từ sau đây cũng được coi là động từ trạng thái: nằm,
ngồi, nghỉ, thức,…
Một số từ vừa được coi là động từ chỉ hành động lại vừa được coi là
động từ chỉ trạng thái.
Một số động từ chuyển nghĩa thì được coi là động từ chỉ trạng thái
( trạng thái tồn tại).
Ví dụ: Bác đã đi rồi sao Bác ơi! ( Tố Hữu). Anh ấy đứng tuổi rồi.
Một số từ mang đặc điểm ngữ pháp của tính từ ( kết hợp được với các
tính từ chỉ mức độ).
+ Các ngoại động từ sau đây cũng được coi là động từ chỉ trạng thái ( trạng
thái tâm lí): yêu, ghét, kính trọng, thèm,….các từ này mang đặc điểm ngữ
pháp của tính từ, có tính chất trung gian giữa động từ và tính từ.
+ Có một số động từ chỉ hành động được sử dụng như một động từ chỉ
trạng thái.
Ví dụ: Trên đường treo một bức tranh. Dưới gốc cây có buộc một con
ngựa.
+ Động từ trang thái mang một số đặc điểm về ngữ pháp và ngữ nghĩa
giống như tíh từ. Vì vậy, chúng có thể làm vị ngữ trong câu kể: Ai thế nào?
c) Tính từ: Là những từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của vật, hoạt
động, trạng thái,…
Có 2 các loại tính từ là:
Tính từ chỉ tính chất chung không có mức độ ( xanh, tím, sâu,…).
Tính từ chỉ tính chất có xác định mức độ. Ví dụ: xanh lè, tím ngắt, sâu
hoắm,…
* Phân biệt từ chỉ đặc điểm, từ chỉ tính chất, từ chỉ trạng thái.
10
a) Từ chỉ đặc điểm:
Đặc điểm là nét riêng biệt, là vẻ riêng của một sự vật nào đó (có thể là
người, con vật, đồ vật, cây cối,..). Đặc điểm của sự vật chủ yếu là đặc
điểm bên goài ( ngoại hình) mà ta có thể nhận biết trực tiếp qua mắt nhìn,
tai nghe, mũi sờ, mũi ngửi,…Đó là các nét riêng, vẻ riêng về màu sắc, hình
khối, hình dáng, âm thanh,…của sự vật. Đặc điểm của một vật cũng có thể
là đặc điểm bên trong mà qua quan sát, suy luận, khái quát ta mới có thể
nhận biết được. Đó là các đặc điểm về tính tình, tâm lí, tính cách của một
người, độ bền, giá trị một đồ vật…
Từ chỉ đặc điểm là từ biểu thị các đặc điểm của sự vật, hiện tượng.
Từ chỉ đặc điểm bên ngoài: cao, thấp, rộng, hẹp,…
Từ chỉ đặc điểm bên trong: tốt, ngoan, chăm chỉ,…
b) Từ chỉ tính chất
Tính chất cũng là đặc điểm riêng của sự vật, hiện tượng ( bao gồm cả
những hiện tượng xã hội, hiện tượng cuộc sống,…), nhưng thiên về đặc
điểm bên trong, ta không quan sát trực tiếp được mà phải qua quá trình
quan sát, suy luận, phân tích, tổng hợp ta mới có thể nhận biết được. Do
đó, từ chỉ tính chất cũng là từ chỉ đặc điểm bên trong của sự vật( tốt, xấu,
ngoan, hư, nặng ,nhẹ, sâu sắc, ...)
c) Từ chỉ trạng thái
Trạng thái là tình trạng của một sự vật hoặc một con người, tồn tại
trong một thời gian nào đó. Từ chỉ trạng thỏi là từ chỉ trạng thái tồn tại
của sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan.
Ví dụ: Trời đang đứng gió. Người bệnh đang hôn mê
Xét về mặt từ loại Từ chỉ trạng thỏi có thể là động từ, có thể là tính từ
hoặc mang đặc điểm của cả động từ và tính từ (từ trung gian), nhưng trong
chương trình tiểu học xếp vào nhóm động từ.
3. 2. Cách phân biệt các danh từ, động từ, tính từ.
Để phân biệt các danh từ, động từ, tính từ dễ lẫn lộn, ta thường dùng
phép liên kết ( khả năng kết hợp) với các phụ từ.
* Danh từ
Có khả năng kết hợp với các từ chỉ số lượng như: mọi, một, hai, những,
…ở phía trước ( những khái niệm, những tình cảm, những nỗi đau,…).
Danh từ kết hợp với các từ chỉ định: này, kia, ấy, nọ,…ở phía sau.
Danh từ có khả năng tạo câu hỏi với từ nghi vấn” nào” đi sau ( lợi ích
nào?...)
Các động từ và tính từ đi kèm: sự, cuộc, nỗi, niềm,…ở phía trước thì tạo
thành một danh từ mới ( sự hi sinh, cuộc đấu tranh, nỗi nhớ, niềm vui,…).
Chức năng ngữ pháp ngữ pháp thay đổi cũng dẫn đến sự thay đổi về thể
loại.
11
Ví dụ: Yêu cầu học sinh đặt câu với từ cho dưới sao cho từ đó là động từ,
danh từ, tính từ.
Cân Mẹ em mua một chiếc cân đĩa ( cân danh từ).
Mẹ cân một con gà ( cân động từ).
Hai bên cân sức cân tài ( cân là tính từ).
* Động từ.
Có khả năng kết hợp với các phụ từ mệnh lệnh.
+ Về phía trước: Động từ có khả năng kết hợp với các phó từ ( phụ từ
mệnh lệnh): đã, sẽ, đang, hãy, đừng, chớ, không, điều, cùng....ở phía trước
+ Về phía sau: ĐT có thể kết hợp với 1 từ, một nhóm từ, 1 cụm CV.
Có thể tạo câu hỏi bằng cách đặt sau chúng từ bao giờ hoặc bao lâu
( Tính từ không có khả năng này).
Động từ thường đảm nhiệm chức vụ vị ngữ.
* Tính từ
Có khả năng kết hợp được với từ chỉ mức độ như: rất, hơi, lắm, quá, cực
kì,…( rất tốt, đẹp lấm,…).
* Lưu ý: Các động từ chỉ cảm xúc ( trạng thái) như: yêu, quý, ghét, xúc
động,…cũng kết hợp được với các từ rất, hơi, lắm,… Vì vậy, khi băn
khoăn một từ nào đó là động từ hay tính từ thì nên cho học sinh thử kết hợp
với các từ hãy, đừng, chớ,…Nếu kết hợp được thì đó là động từ.
3. 3. Một số lưu ý về sự chuyển loại của từ.
Chuyển loại là một hiện tượng chuyển nghĩa, một phương thức tạo từ
mới. Từ mới được tạo ra theo phương thức chuyển loại có các đặc điểm
sau:
Giữ nguyên vỏ âm thanh của từ xuất phát. Mang ý nghĩa mới có quan hệ
nhất định với nghĩa của từ xuất phát. Mang những đặc điểm ngữ pháp mới
(khả năng kết hợp thay đổi, khả năng làm thành phần câu thay đổi). Như
chuyển danh từ thành quan hệ từ, chuyển danh từ thành động từ và ngược
lại…
Ví dụ 1: Chuyển danh từ thành quan hệ từ.
Trên bảo, dưới không nghe. Ý kiến ấy chẳng dựa trên cơ sở nào.
DT DT QHT
Ví dụ 2. Chuyển DT thành động từ và ngược lại.
DT chỉ công cụ chuyển thành động từ chỉ hoạt động sử dụng công cụ ấy:
Cái cày/ cày ruộng; cái cuốc/cuốc đất; cái bơm/bơm xe...
DT trừu tượng (2 âm tiết) chuyển thành động từ: Những nhận thức mới/
nhận thức lại vấn đề; phát triển tư duy/ đang tư duy.
ĐT chỉ cảm nghĩ nói năng (2 âm tiết) chuyển thành DT: đang suy nghĩ/
những suy nghĩ ấy; đang tính toán/ những tính toán ấy ...
Ví dụ 3. Chuyển DT thành TT và ngược lại.
12
a) Mùa xuân đã về.
DT
b) Cố ấy đang trong thời kì xuân sắc.
TT
Từ “xuân” trong câu a là danh từ ( chỉ một mùa trong năm), từ “xuân” trong
câu b là tính từ ( chỉ sắc vẻ trẻ trung , tươi đẹp).
II. Các biện pháp thực hiện
Biện pháp 1. Giúp HS hiểu nghĩa của từ.
Vốn từ Tiếng việt có số lượng lớn đến hàng chục vạn từ và luôn luôn
được bổ sung từ mới. Mỗi từ có ý nghĩa riêng. Nhưng bên cạnh những nét
riêng của từng từ, có thể tìm thấy một số lượng từ nào đó, có những nét
nghĩa chung, khái quát. Dựa vào những nét nghĩa khái quát đó, có thể tập
hợp lại thành từng lớp, từng loại. Ý nghĩa khái quát của từ bao gồm các nét
nghĩa liên quan đến ý nghĩa từ vựng và các nét nghĩa liên quan đến ý nghĩa
ngữ pháp. Do vậy, khi hướng dẫn học sinh giải nghĩa từ cần sử dụng các
phương pháp giải nghĩa phù hợp như dùng tranh ảnh, vật thật, dựa vào văn
cảnh,….
Biện pháp 2. Xây dựng hệ thống bài tập..
Để học sinh nắm vững lí thuyết giáo viên cần sử dụng PPDH phù hợp
với học sinh. Để học sinh được ôn luyện kiểm tra vốn kiến thức, có kĩ
năng xác định và sử dụng đúng từ loại. Tôi thường sử dụng hệ thống bài
tập khác nhau để giúp học sinh dễ phân biệt :
* Các dạng bài tập giúp học sinh xác định, phân biệt đúng danh từ, động từ,
tính từ.
Dạng bài 1. Cho sẵn các từ yêu cầu học sinh xác định các từ đó.
Ví dụ: Xác định từ của các từ loại sau: niềm vui, vui tươi, vui chơi, tình
yêu, yêu thương, đáng yêu.
Để xác định từ loại của những từ này, ta xét đến ý nghĩa ( chỉ đối tượng,
chỉ hành động hay chỉ tính chất) cũng như thử các khả năng kết hợp của
chúng ( đã đề cập ở phần giải pháp).
những niềm vui rất yêu thương hãy yêu thương
hãy vui chơi tình yêu ấy rất đáng yêu
Danh từ
Động từ
Tính từ
Niềm vui, tình yêu
Vui chơi, yêu thương
Vui tươi, đáng yêu
Dạng bài 2. Xác định từ loai trong đoạn thơ, văn có sẵn.
Ví dụ: Xác định động từ, danh từ, tính từ trong hai câu sau:
Một cô bé vừa gầy, vừa thấp bị thầy giáo loại ra khỏi dàn đồng ca. Cũng
chỉ tại cô bé ấy, lúc nào cũng chỉ mặc mỗi một bộ quần áo vừa bẩn, vừa cũ
lại rộng nữa.
13
ở bài tập này học sinh cần xác định danh giới từ, rôi xét ý nghĩa và khả
năng kết hợp của chúng.
Danh từ
Động từ
Tính từ
Cô bé, thầy giáo, dàn loại, mặc.
Gầy, thấp, bẩn, cũ,
đồng ca, bộ, quần áo.
rộng.
Dạng bài 3.
Muốn cho học sinh phân định nghĩa của từ chính xác cũng như xác định
đúng từ loại, ta nên đưa ra các bài tập mà học sinh còn nhầm lãn để các em
sửa.
Ví dụ 1: Tìm tính từ trong đoạn văn sau ( Lớp 4 tập 1).
Chủ Tịch Hồ Chí Minh, vị chủ tịch của Chính phủ Lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà ra mắt đồng bào. Đó là một cụ già gầy gò, trán cao,
mắt sáng, râu thưa. Cụ đội chiếc mũ đã cũ, mặc áo ka ki cao cổ, đi dép cao
su trắng. Ông cụ có dáng đi nhanh nhẹn. Lời nói của cụ điềm đạm, đầm
ấm, khúc triết, rõ ràng.
Theo Võ Nguyên Giáp
Ỏ bài tập này học sinh xác định các tính từ: gầy gò, cao, sáng, thưa, cao,
trắng, nhanh nhẹn một cách dễ dàng. Khi xét đến: điềm đạm, khúc triết, rõ
ràng các em lúng túng không xác định được đây thuộc từ loại nào. Vậy phải
giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, nhận biết đây là tính từ chỉ đặc điểm, tính
chất hay trạng thái. Sau đó giáo viên cần khắc sâu kiến thức này.
Ví dụ 2 : Xác định từ loại của các từ trong các thành ngữ sau:
Đi ngược, về xuôi
Nước chảy, đá mòn.
Các từ loại học sinh xác định nhanh và rõ ràng chính xác là “đi”, “về” là
động từ, “ nước, đá” là danh từ. Nhưng các từ “ ngược, xuôi, mòn” các em
lúng túng và hay xếp các từ này vào loại tính từ. Vậy giáo viên phải phân
tích ý nghĩa của từ đó là: “ ngược” chỉ vùng núi, “ xuôi” là chỉ vùng đồng
bằng. Do vậy, “ngược, xuôi” là danh từ. Còn “mòn” là động từ (mức độ
giảm bớt).
Dạng bài 4.
Xác định chức vụ ngữ pháp của một từ loại khi nó đứng ở những vị trí khác
nhau.
Ví dụ. Xác định từ thật thà và chỉ rõ nó giữ chức vụ ngữ pháp trong câu.
a) Bạn Hà rất thật thà.
b) Tính thật thà của Hà khiến ai cũng mến.
c) Bạn Hà ăn nói thật thà dễ nghe.
d) Thật thà là phẩm chất đẹp đẽ của bạn Hà.
Bài tập này yêu cầu học sinh phải xác định được thật thà là tính từ, khả
năng kết hợp của nó. Xác định được thành phần câu.
Câu a: vị ngữ. Câu b: định ngữ. Câu c: bổ ngữ. Câu d: chủ ngữ.
14
Dạng bài 5.
Cho sẵn một số từ, yêu cầu học sinh đặt câu để hiểu rõ sự chuyển loại
của từ.
Ví dụ: Đặt câu với từ “suy nghĩ” để nó là động từ, danh từ.
Bạn Minh đang suy nghĩ.
ĐT
Những suy nghĩ của bạn Minh rất sâu sắc.
DT
* Các dạng bài tập giúp học sinh phân biệt được từ ghép, từ láy.
Dạng bài 1.
Từ các tính từ( là từ đơn) cho sẵn dưới đây, hãy tạo ra các từ ghép, từ láy:
nhanh, đẹp.
Từ ghép
Từ láy
Nhanh
Nhanh tay, nhanh chân, nhanh trí, Nhanh nhẹn, nhanh
…
nhảu,..
đẹp
Xinh đẹp, …
đẹp đẽ, …
Dạng bài 2.
Hãy xếp những từ phức được in nghiêng trong các câu dưới đây thành hai
loại: từ ghép và từ láy. Biết rằng các tiếng in đậm là tiếng có nghĩa (BT1
L4 T1):
Nhân dân ghi nhớ công ơn Chử Đồng Tử, lập đền thờ ở nhiều nơi bên
sông Hồng. Cũng từ đó hằng năm, suốt mấy tháng mùa xuân, cả một vùng
bờ bãi sông Hồng lại nô nức làm lễ, mở hội để tưởng nhớ ông.
Theo Hoàng Lê
Từ ghép: ghi nhớ, đền thờ, tưởng nhớ, bờ bãi, .
Từ láy: nô nức.
Dạng bài 3.
Cho sẵn các từ yêu cầu học sinh sắp xếp thành 2 nhóm.
Ví dụ: Cho các từ sau: thật thà, bạn bè, bạn đường, ngoan ngoãn, giúp đỡ,
khó khăn, học hỏi, thành thật, thành 2 nhóm từ ghép và từ láy.
Từ ghép: bạn bè, bạn đường, giúp đỡ, học hỏi, thành thật.
Từ láy: thật thà, ngoan ngoãn, khó khăn.
Biện pháp 3. Bồi dưỡng hứng thú học tập
Hứng thú là một khâu quan trọng, là một hiện tượng tâm lí trong đời
sống mỗi người. Hứng thú tạo cho con người học tập, lao động được tốt
hơn. Nhà văn M. gocki nói: “Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công
việc”. Việc bồi dưỡng hứng thú học tạpp là một việc làm cần thiết. Để
tạo được hứng thú học tập cho các em, người giáo viên phải tạo được sự
thoải mái trong học tập, phải làm cho các em cảm nhận được vẻ đẹp, khả
15
năng kì diệu của ngôn từ trong tất cả các giờ học để kích thích vốn từ ở
học sinh.
Biện pháp 4. Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong một tiết
học.
Tuỳ thuộc vào nội dung từng bài dạy cụ thể tôi đã vận dụng linh hoạt các
phương pháp cũng như hình thức tổ chức dạy học phù hợp như đàm thoại,
trao đổi nhóm, cá nhân, trò chơi,… nhằm gây hứng thú học tập cho học
sinh, tránh nhàm chán, đơn điệu.
Biện pháp 5. Sử dụng các phương pháp dạy học.
Trong quá trình dạy phân môn Luyện từ và câu tôi thường vận dụng linh
hoạt các phương pháp dạy học vào trong từng bài dạy. Như Phương pháp
vấn đáp, PP nêu và giải quyết vấn đề, PP rèn luyện theo mẫu, PP trực
quan, PP phân tích,…Vì không có phương pháp nào là vạn năng, mỗi
phương pháp có ưu điểm, hạn chế riêng nên cần sử dụng phù hợp trong
một tiết dạy, phù hợp với nội dung bài dạy để các phương pháp hỗ trợ lẫn
nhau giúp học sinh hiểu bài hơn.
Biện pháp 6. Phát huy tính tích cực của học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học là phải phát huy tính tích cực của học
sinh, tôi quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh và phân ra nhiều mức
độ ( giỏi, khá, trung bình, yếu) để có phương pháp dạy thích hợp. để phát
huy được tính tích cực của học sinh tôi phải nghiên cứu, hệ thống câu hỏi
trong mỗi bài cụ thể phù hợp với mọi đối tượng học sinh.
Biện pháp 7. Tổ chức hình thức ngoại khoá Tiếng Việt trong các tiết
sinh hoạt tập thể.
Vào các tuần thứ tư của mỗi tháng tôi thường tổ chức hình thức ngoại
khoá Tiếng Việt trong các tiết sinh hoạt tập thể như thi đố, Góc Tiếng
Việt…
Thi đố hay góc Tiếng Việt là một hình thức hấp dẫn. Để tổ chức thi đố
hay góc Tiếng việt tôi thường lựa chọn nội dung theo từng dạng bài với
những câu hỏi thú vị góp phần giúp học sinh thi đua, ghi nhớ nhanh nội
dung kiến thức . Qua đó học sinh có thể tự nhiên, phát huy được tính chủ
động sáng tạo.
Góc Tiếng Việt: Trong lớp có hai bảng, một bảng chính và một bảng
giành cho các hoạt động khác. Do vậy, tôi thường ghi lên những câu đố về
phân môn Luyện từ và câu, những lỗi sai mà học sinh thường mắc phải và
yêu cầu học sinh sửa lại hay phần đố vui qua tranh cũng tạo cho học sinh
hứng thú.
Hình thức ngoại khoá Tiếng Việt được tổ chức thường xuyên, liên tục
nhằm tạo tính tích cực ở học sinh, sự thi đua giữa các tổ.
Biện pháp 8. Sử dụng từ điển
16
Để giúp học sinh hiểu rõ hơn nghĩa một số từ, phân biệt đúng từ ghép, từ
láy,… giáo viên có thể hướng dẫn học sinh sử dụng từ điển Tiếng Việt.
Trước hết, tôi hướng dẫn cho các em nắm được nội dung cấu trúc của từ
điển giúp học sinh hiểu mục đích, tính chất của từ điển .
Hướng dẫn xem phần mục từ và ví dụ.
Hướng dẫn xem đến phần chú thích, các chữ viết tắt có trong từ điển.
Đặc biệt, chú ý đến thứ tự sắp xếp các tiếng mục từ theo thứ tự chữ cái
trong bảng chữ cái.
Tôi luôn yêu cầu học sinh tập suy nghĩ viết câu giải thích vào vở nháp sau
đó xem lại trong từ điển. Từ điển giúp hiểu rõ nghĩa một số từ, do vậy cần
hướng cho học sinh không nên lạm dụng, không nên phụ thuộc vì điều đó
sẽ làm cho học sinh thụ động.
Biện pháp 9. Phối hợp với gia đình
Trong quá trình giảng dạy tôi luôn có sự phối hợp với gia đình nhằm giúp
học sinh có ý thức, có thời gian học tập, tìm hiểu. Luôn trao đổi với gia
đình trong những lần họp phụ huynh hoặc qua sổ liên lạc về tầm quan
trọng của phân môn Luyện từ và câu, mối quan hệ của phân môn với các
môn học khác nhằm giúp các gia đình có cách nhìn đúng đối với phân môn
này và có ý thức rèn cho các em biết sử dụng vào thực tế cuộc sống.
Ngoài ra, với một số học sinh quá yếu tôi luôn luôn nhắc nhở và cùng với
học sinh khá giỏi giúp đỡ kèm cặp ngoài giờ. Với giờ học Luyện từ và câu
hay các giờ học khác các em luôn là những học sinh được lên bảng nhiều
nhất. Giáo viên giúp các em nhận xét, phân tích, và phân biệt được cấu tạo
của từ, của câu,…
Tuy nhiên, trong thực tế, giờ học trên lớp có hạn nên tôi đã xác định nội
dung từng loại bài, khoanh vùng kiến thức, dự kiến những lỗi mà học sinh
sẽ mắc phải để giải quyết và có thể mở rộng thêm nội dung kiến thức.
Ngoài ra, cuối mỗi giờ học tôi thường ra thêm một số bài tập để học sinh
về nhà tự làm, vào giờ sinh hoạt 15 phút( buổi kiểm tra) một số học sinh
không làm được sẽ đưa ra thắc mắc, một số học sinh giỏi sẽ lên chữa bài
rồi đến giờ học giáo viên sẽ kiểm tra và chữa lại, khắc sâu kiến thức.
C.KẾT LUẬN
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các giải pháp và biện pháp nêu
trên. Tuy đó là những kinh nghiêm nhỏ nhưng bước đầu đã giúp học sinh
hiểu được nghĩa của từ, phân loại được từ theo nhóm thích hợp, vận dụng
vào quá trình học “câu” và vào thực tế cuộc sống.
Cụ thể, sau khi lựa chọn tôi đã rà soát và kiểm tra lại kết quả thu được như
sau:
17
Lỗi
HS sai
TS HS
Không phân định Không xác định đúng
được ranh giới từ. từ ghép, từ láy.
Không xác định
đúng danh từ,
động từ, tính từ.
23
2
1
1
Việc phát hiện lỗi rồi thống kê, điều tra nguyên nhân gây lỗi. Từ đó đưa
ra các biện pháp khắc phục là việc làm cần thiết đối với mỗi giáo viên.
Nhưng không phải cứ khi nào đưa ra giải pháp, biện pháp là có thể làm
ngay được mà điều đó cần cả một quá trình lâu dài đòi hỏi người giáo viên
phải kiên trì, nhẫn nại. Bởi vì, không phải học sinh nào cũng tiến bộ như
nhau. Kiến thức khoa học là vô hạn, khả năng tiếp thu của học sinh có giới
hạn nên tôi luôn lựa chọn, xác định nội dung và các yêu cầu phù hợp với
khả năng tiếp thu của các em. Nhằm đảm bảo sự hài hoà giữa mục tiêu
chung của môn học với mục tiêu chung của cấp học.
Việc rèn luyện sửa lỗi cho học sinh phải được tiến hành thường xuyên
liên tục trong tất cả các môn học cũng như trong thực tế giao tiếp. Bởi : Có
xuất phát từ thực tiễn nếu phản ánh đúng bản chất của việc dạy học mới
phát huy được tác dụng thực sự. Trong lĩnh vực này giao tiếp là hoạt động
thường ngày không thể thiếu của con người. Chỉ có trong giao tiếp thì các
yếu tố ngôn ngữ mới bộc lộ hết đặc điểm của mình. Vì vậy trong dạy học
cần phải hướng quá trình dạy từ, dạy câu vào giao tiếp để thực hiện mục
đích của việc dạy học. Dù dạy bất cứ yếu tố chính tả nào cũng phải
hướng dẫn học sinh thấy chúng được sử dụng trong giao tiếp như thế nào
và liên hệ với bản thân mình để có phương pháp tự luyện. Đặc biệt giáo
viên phải hướng dẫn cho các em có ý thức nói, viết đúng từ , câu ở mọi lúc,
mọi nơi (ở trường cũng như giao tiếp ở gia đình và ngoài xã hội). Đó là quá
trình “gắn Tiếng Việt với quá trình giao tiếp mà những nhà giáo dục đang
quan tâm”.
Trong quá trình dạy học tôi luôn tạo hứng thú học tập, tạo động cơ học
tập cho học sinh tao sự mạnh dạn, tự tin khi tiếp thu bài. Tôi luôn nhớ một
câu nói của M. Gorki “ Thiên tài nảy nở từ tình yêu công việc”.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã đúc rút được qua 2 năm
dạy lớp 4. Tuy mới chỉ là bước đầu trong quá trình rèn luyện nhưng những
kết quả ban đầu đã giúp tôi có thêm niềm tin vào công việc của mình. Tôi
rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các đồng chí lãnh đạo, các bạn
đồng nghiệp để cho tôi ngày một hoàn thiện hơn trong kinh nghiệm dạy
học của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
18
Thành Vinh, ngày 5 tháng 4 năm 2011
Người viết
Quách Thị Tình
19