Phßng gd& ®t huyÖn §«ng TriÒu
TrƯêng tiÓu häc quyÕt th¾ng
===***===
Sáng kiến kinh nghiệm:
"Một số biện pháp dạy nghĩa của từ và các hợp từ có quan
hệ
về ngữ nghĩa cho học sinh lớp 5"
Họ và tên: Nguyễn Thị Hoan
Chức vụ: Giáo viên Tiểu học
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quyết Thắng
1
Năm học: 20142015
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Tầm quan trọng của vấn đề cần được nghiên cứu :
Trường Tiểu học là nơi đầu tiên trẻ em được học tập Tiếng Việt, chữ viết
với phương pháp nhà trường, phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ một cách khoa
học. Học sinh tiểu học chỉ có thể học tập các môn khác khi có kiến thức Tiếng
Việt. Bởi đối với người Việt, tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao
đổi thông tin và chiếm lĩnh tri thức. Hơn nữa, con người muốn tư duy phải có ngôn
ngữ. Cả những lúc chúng ta nghĩ thầm trong bụng, chúng ta cũng “bụng bảo dạ”
cũng nói thầm, tức là cũng sử dụng ngôn ngữ, một hình thức ngôn ngữ mà các nhà
chuyên môn gọi là ngôn ngữ bên trong. Còn thông thường thì chúng ta thể hiện ra
ngoài kết quả của hoạt động tư duy, những ý nghĩ tư tuởng của chúng ta thành
những lời nói, những thực thể ngôn ngữ nhất định. Ngôn ngữ là công cụ, là hiện
thực của tư duy. Bởi lẽ đó, tư duy và ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau. Người có tư duy tốt sẽ nói năng mạch lạc, trôi chảy và nếu
trau dồi ngôn ngữ được tỉ mỉ, chu đáo thì sẽ tạo điều kiện cho tư duy phát triển tốt.
Môn Tiếng Việt trong trường tiểu học không thể là bản sao từ chương trình khoa
học Tiếng Việt vì trường có nhiệm vụ riêng của mình. Nhưng với tư cách là một
môn học độc lập, Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho HS những tri thức về hệ
thống Tiếng Việt (hệ thống âm thanh, cấu tạo từ, cấu trúc ngữ pháp, khả năng
biểu cảm của ngôn ngữ, quy tắc hoạt động của ngôn ngữ). Đồng thời, kiến thức
môn Tiếng Việt hình thành cho HS kĩ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết). Ngoài ra,
Tiếng Việt còn là công cụ giao tiếp và tư duy cho nên nó còn có chức năng kép mà
các môn học khác không có được, đó là: trang bị cho HS một số công cụ để tiếp
2
nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học trong nhà trường, là công cụ để học các
môn học khác; kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là phương tiện là điều kiện thiết yếu
của quá trình học tập. Bên cạnh chức năng giao tiếp, tư duy ngôn ngữ còn có chức
năng quan trọng nữa đó là thẩm mĩ, ngôn ngữ là phương tiện để tạo nên cái đẹp,
hình tượng nghệ thuật. Trong văn học, HS phải thấy được vẻ đẹp của ngôn ngữ.
Vì thế ở trường tiểu học, Tiếng Việt và văn học được tích hợp với nhau, văn học
giúp HS có thẩm mĩ lành mạnh, nhận thức đúng đắn, có tình cảm thái độ hành vi
của con người Việt Nam hiện đại, có khả năng hòa nhập và phát triển cộng đồng
nên hiểu được các văn bản văn học hoặc hiểu được ngôn ngữ trong giao tiếp thì
học sinh cần phải hiểu được nghĩa của từ và các lớp nghĩa của từ.
1.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
Với mục tiêu được quy định thì môn Tiếng Việt có vai trò hết sức quan
trọng, giúp trẻ chiếm lĩnh tri thức mới, hình thành và phát triển năng lực sử dụng
tiếng Việt trong học tập và trong giao tiếp. Ngay từ bậc tiểu học, học sinh được
chú trọng dạy từ, trong đó dạy giải nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ
nghĩa là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
2.1. Mục tiêu:
Mục tiêu của đề tài là tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn về giải nghĩa từ.
Tạo hứng thú khi học Tiếng Việt nói chung và phần nghĩa của từ có quan hệ về
ngữ nghĩa, giúp học sinh không còn ngại nói, ngại phát biểu trong Tiếng Việt để
nâng cao chất lượng học cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 5.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh lớp 5.
Thực trạng của việc dạy Tiếng Việt lớp 5 của trường Tiểu học Quyết Thắng.
Khảo sát điều tra thực tế.
Nghiên cứu nội dung chương trình phân môn Tiếng Việt lớp 5.
3
Dạy thực nghiệm.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 5 trường Tiểu học Quyết Thắng.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
+ Giới hạn:
Một số biện pháp để dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về nghĩa cho
học sinh lớp 5.
+ Phạm vi:
Môn Tiếng Việt lớp 5 (về nội dung chương trình, phương pháp dạy học và
tâm lí của học sinh tiểu học).
+ Thời gian:
Từ tháng 8/2014 đến tháng 3/2015.
5. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết để tìm ra cơ sở khoa học chi
phối việc lựa chọn nội dung và xác định hệ thống nguyên tắc, phương pháp dạy
học môn Tiếng Việt.
b. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp khảo sát điều tra thực tế.
Phương pháp thống kê.
Phương pháp phân tích số liệu.
II. PHẦN NỘI DUNG:
1. Cơ sở lí luận :
Ngôn ngữ văn học còn là biểu hiện bậc cao của nghệ thuật ngôn từ nên khi
dạy văn là cách bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ tối ưu cho người học. Dạy Tiếng
Việt là đưa các em hoà nhập vào một môi trường sống của thời kì hội nhập. Còn
hiểu sâu sắc về Tiếng Việt là tác động đến kĩ năng cảm thụ thơ văn của HS. Kết
4
hợp giữa dạy văn và dạy tiếng sẽ tạo được hiệu quả cao giữa hai môn văn Tiếng
Việt để HS lớn lên trở thành những con người hiện đại, được giáo dục toàn diện.
Về bản chất giáo dục là sự chuyển giao các giá trị văn hoá đông tây, kim cổ,
một sự giao tiếp mà phương tiện chủ yếu là lời nói của cha mẹ, thầy cô là sách
báo các loại. Trong giáo dục, việc nắm vững tiếng nói (trước hết là tiếng mẹ đẻ)
có ý nghĩa quyết định. Nếu học sinh yếu kém về ngôn ngữ, nghe nói chỉ hiểu lơ
mơ, nói viết không chính xác, không thể hiện được ý mình cho suôn sẻ, thì không
thể nào khai thác đầy đủ các thông tin tiếp nhận từ người thầy, từ sách vở được.
Bởi vậy, trong nội dung giáo dục, chúng ta cần phải hết sức coi trọng việc đào tạo
về mặt ngôn ngữ, xem đó là điều kiện không thể thiếu để bảo đảm thành công
trong thực hiện sứ mệnh trong đại của mình.
Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể, gắn với các hình
ảnh và hiện tượng cụ thể. Trong khi đó kiến thức về nghĩa của từ và các lớp từ có
quan hệ về ngữ nghĩa có tính trừu tượng và khái quát cao. Do vậy, các em thường
không thích học, ngại suy nghĩ dẫn đến tiết học kém hiệu quả, học sinh nắm kiến
thức hời hợt. Mặt khác, học sinh lớp 5 được tiếp xúc với những từ mới có những
bước nhảy vọt về kiến thức nên các em thường có hiện tượng lười học, sợ giải
nghĩa từ, sợ học các bài về các lớp từ. Chính vì lẽ đó, người giáo viên là người dạy
phải biết khơi dậy niềm say mê học, óc tư duy, sáng tạo của mỗi học sinh. Làm
thế nào để đạt được điều đó?
Do đặc điểm của môn học và đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 5 mau
nhớ nhưng lại nhanh quên, không thích những hoạt động kéo dài, thích những hình
ảnh trực quan sinh động..., người giáo viên cần lựa chọn phương pháp, hình thức
tổ chức dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh trong lớp để học sinh nào
cũng nắm chắc kiến thức về từ, củng cố tri thức mới, rèn luyện các kỹ năng cơ sở,
phát triển tư duy, ngôn ngữ... giúp học sinh tự tin hơn khi giao tiếp.
* Cơ sở thực tiễn :
5
Chương trình các môn học ở trường tiểu học hiện nay đã được sắp xếp
một cách khoa học hệ thống song đối với học sinh tiểu học là bậc học nền tảng,
đến trường là một bước ngoặt lớn của các em trong đó hoạt động học là hoạt động
chủ đạo, kiến thức các môn học về tự nhiên và xã hội chưa được bao nhiêu, vốn từ
sử dụng vào trong cuộc sống để diễn đạt trình bày tư tưởng, tình cảm của mình
còn quá ít. Mặc dù vấn đề nghĩa của từ, các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa và
việc dạy vấn đề này ở trường tiểu học không gây nhiều tranh cãi như việc dạy
nội dung cấu tạo từ nhưng đây lại là công việc không mấy dễ dàng bởi vì nghĩa
của từ là một vấn đề phức tạp, trừu tượng, khó nắm bắt trong khi đó tư duy của
học sinh tiểu học chủ yếu thiên về cụ thể tư duy trừu tượng phát triển nhưng ở
mức độ thấp. Các em thường lẫn lộn giữa từ nhiều nghĩa từ đồng nghĩa từ đồng
âm, giải nghĩa từ còn mang tính chung chung, không chính xác. Hơn thế nữa, các
em chưa ý thức được vai trò xã hội của ngôn ngữ, chưa nắm được các phương tiện
kết cấu và quy luật cũng như họat động chức năng của nó. Mặt khác, HS cần hiểu
rõ người ta nói và viết không chỉ cho riêng mình mà cho người khác nên ngôn ngữ
cần chính xác, dễ hiểu, tránh làm cho người khác hiểu sai nội dung câu, từ, ý nghĩa
diễn đạt. Chính vì vậy việc dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ
nghĩa có rất nhiều giáo viên trong trường quan tâm song chưa có ai nghiên cứu nên
tôi đã chọn vấn đề này giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc khi học
mảng kiến thức này của môn Tiếng Việt.
2. Thực trạng:
2.1. Thực trạng của nhà trường:
Năm học 2014 2015, trường Tiểu học Quyết Thắng có ba lớp 5 với 105
học sinh. Tôi được phân công dạy và chủ nhiệm lớp 5A. Lớp tôi chủ nhiệm có 35
học sinh trong đó có 19 nữ, 16 nam. Trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình, tôi
gặp một số khó khăn và thuận lợi như sau:
*Thuận lợi :
+ Về phía Nhà trường:
6
Luôn quan tâm đến chất lượng dạy của GV và chất lượng học của HS.
Đầu tư đầy đủ cơ sơ vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác dạy và học.
Hàng tuần có các buổi sinh hoạt chuyên môn để GV trao đổi kinh nghiệm,
thảo luận bài để tìm ra phương pháp, hình thức dạy học tối ưu trong quá trình dạy.
Tổ chức thao giảng các cấp để giáo viên được cọ sát, học hỏi kinh nghiệm
của đồng nghiệp.
+ Về phía giáo viên:
Phần lớn giáo viên của trường có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đạt và
vượt chuẩn, nhiều giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi các cấp.
Giáo viên trong các tổ, khối chuyên môn luôn tự học hỏi để bổ sung, cập
nhật kiến thức phục vụ cho công tác giảng dạy của mình.
Giáo viên quan tâm đến các đối tượng học sinh, nhiệt tình trong công tác
giảng dạy.
+ Về phía học sinh:
Phần nhiều học sinh ngoan, tích cực trong học tập và rèn luyện.
Các em có đầy đủ đồ dùng học tập, sách giáo khoa, vở viết đúng quy định.
Phụ huynh học sinh luôn quan tâm đến việc rèn luyện học tập HS, có sự
kết hợp giữa phụ huynh, giáo viên và các lực lượng giáo dục trong, ngoài Nhà
trường.
* Khó khăn:
+ Về phía giáo viên:
Đôi khi ở một số tiết giáo viên chuẩn bị đồ dùng dạy học còn sơ sài chưa
kích thích được sự hứng thú, tìm tòi, sáng tạo của học sinh.
Một vài giáo viên chưa nhanh nhạy trong việc đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm.
+ Về phía học sinh:
7
Một số ít học sinh còn lười học, làm bài còn cẩu thả, làm các bài toán dưới
hình thức qua loa cho xong.
Một số gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học của con mình, còn giao
phó việc rèn luyện và học tập của học sinh cho Nhà trường.
2.2. Thực trạng dạy của giáo viên
* Ưu điểm:
Đa số giáo viên trong trường rất nhiệt tình, tích cực trong quá trình giảng dạy.
Giáo viên đã quan tâm, đầu tư thời gian để tìm hiểu chương trình, nội dung từng
tiết dạy, truyền đạt đủ kiến thức cơ bản, trọng tâm theo yêu cầu, mục tiêu của
mỗi tiết học, mỗi chủ đề và mỗi chương.
Giáo viên đã chú trọng đến việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học,
vận dụng được nhiều phương pháp dạy học như: vấn đáp, trực quan, giảng
giải...giúp học sinh chiếm lĩnh được kiến thức mới.
Đa số giáo viên đã quan tâm đến việc bồi dưỡng các đối tượng học sinh
trong lớp. Giáo viên đã chú trọng tới đổi mới các hình thức tổ chức dạy học, dạy
học có sử dụng đồ dùng, mô hình, vật thật.
95% GV có kiến thức về tin học và 80% GV đã thiết kế bài giảng điện tử.
* Một số tồn tại:
Một số giáo viên còn lúng túng khi miêu tả, giải thích nghĩa của từ. Khi thể
hiện tiết dạy hầu như GV chỉ chú ý đến đối tượng học sinh khá giỏi, còn lại đa
số HS khác thụ động ngồi nghe, một số em khác có muốn nêu cách hiểu của mình
về nghĩa của từ, từ nhiều nghĩa từ đồng nghĩa từ đồng âm cũng sợ sai lệch, từ
đó tạo nên không khí một lớp học trầm lắng, HS làm việc tẻ nhạt, thiếu hứng thú,
không tạo được hiệu quả trong giờ học.
Đôi khi điều kiện giảng dạy của giáo viên còn hạn chế, các tài liệu tham
khảo phục vụ việc giảng dạy chưa phong phú.
Khả năng vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học chưa cao.
8
Một số giáo viên phụ thuộc theo sách giáo khoa, áp đặt học sinh tiếp thu kiến
thức thụ động không mang tính sáng tạo, tích cực.
Đó đây vẫn còn giáo viên chưa tâm huyết với nghề, với học sinh, chưa chuẩn
bị kĩ lưỡng cho bài dạy, mỗi tiết dạy và nhất là dạy chay.
* Nguyên nhân:
Một số giáo viên có tuổi đời, tuổi nghề cao nên phương pháp dạy học truyền
thống đã ăn sâu vào tiềm thức khó thay đổi hoặc thay đổi chậm. Việc tiếp cận
vấn đề lí luận chung về đổi mới phương pháp còn gặp khó khăn, lúng túng.
Khi dạy, số ít giáo viên còn chưa nghiên cứu thật kỹ nội dung bài, việc soạn
bài với giáo viên là hình thức sao chép. Khi dạy giáo viên còn lệ thuộc vào tài liệu
có sẵn, hình thức lựa chọn còn sơ sài, chưa cuốn hút học sinh vào bài học, kiến
thức truyền thụ chưa trọng tâm.
Việc chọn lựa các hình thức dạy học chưa phù hợp với đối tượng học sinh,
chưa phù hợp với bài dạy nên dẫn đến tình trạng học sinh nhàm chán. Trong tiết
học thì dạy chay là chủ yếu vì ngại hướng dẫn bằng đồ dùng mất nhiều thời gian
sẽ vi phạm thời gian trong tiết dạy.
2.3. Thực trạng học của học sinh
*Ưu điểm :
Phần nhiều học sinh tiếp thu bài tương đối nhanh.
Học sinh có phương pháp học tập tốt, có đầy đủ góc học tập.
Nhiều học sinh được gia đình quan tâm, mua đủ sách giáo khoa, các đồ dùng
học tập cần thiết cho môn học.
* Tồn tại:
Ở lớp 5, c ác em được làm quen nhiều hơn với mảng kiến thức mới: Bồi
dưỡng năng lực cảm thụ văn học... nhưng ở một số học sinh còn thiếu sự say mê
cần thiết, chưa biết đọc diễn cảm bài văn hay, chưa thể xúc động thật sự với
những gì đẹp đẽ được tác giả diễn qua bài văn ấy.
9
Kỹ năng trình bày bài của học sinh chưa tốt, có học sinh hiểu bài nhưng
diễn đạt không thoát ý, học sinh chưa sáng tạo khi làm bài.
Học sinh còn khó khăn trong việc giải nghĩa các từ: giải nghĩa từ sai, lúng
túng và nghĩa còn lủng củng.
Nhiều học sinh chưa biết phân biệt nghĩa gốc và một số nghĩa chuyển của
từ nên còn làm sai bài tập.
Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn mơ hồ, định tính.
Đặt câu có sử dụng từ nhiều nghĩa chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu
cầu. Vả lại, cách dạy của giáo viên thì nặng về giảng giải khô khăn, áp đặt. Điều
này gây tâm lý mệt mỏi, ngại học trong học sinh.
* Nguyên nhân:
Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi và đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học.
Vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thiếu sự quan tâm của phụ huynh đến việc
học của con em mình .
Cách dạy của nhiều giáo viên trong giờ luyện từ và câu, giải nghĩa từ trong
giờ tập đọc còn đơn điệu, lệ thuộc một cách máy móc vào sách giáo viên, hầu như
rất ít sáng tạo, chưa sinh động, chưa cuốn hút được học sinh.
Vốn từ ngữ của một số giáo viên chưa phong phú, chưa đáp ứng được yêu
cầu hướng dẫn học sinh mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ. Kiến thức về từ vựng
ngữ nghĩa học của một số giáo viên còn hạn chế, nên bộc lộ những sơ suất, sai
sót
về kiến thức.
Học sinh ít hứng thú học phân môn này. Hầu hết các em được hỏi ý kiến
đều cho rằng: Luyện từ và câu và giải nghĩa từ là phần học khô và khó. Một số
chủ đề còn trừu tượng, khó hiểu, không gần gũi, quen thuộc.
Do vậy, để dạy và học phần nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ
nghĩa đạt hiểu quả cao, cần chú trọng đến hình thức truyền thụ kiến thức để gây
10
hứng thú nâng cao chất lượng học cho học sinh. Qua tìm hiểu và áp dụng một vài
biện pháp dạy học về vấn đề “Dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về
ngữ nghĩa cho học sinh lớp 5” trong năm học 2014 – 2015, tôi nhận thấy hiệu
quả giờ học cao hơn, học sinh hứng thú học, giờ học thật vui, thật nhẹ nhàng, sôi
nổi đặc biệt mỗi học sinh đều được bộc lộ suy nghĩ về vốn sống, vốn từ của mình
3. Biện pháp dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa:
Nghĩa của từ được hiểu là nội dung đối tượng vật chất, là sự phản ánh đối
tượng của hiện thực (một hiện tượng, một quan hệ, một tính chất, hay một quá
trình) trong nhận thức, được ghi lại bằng một tổ hợp âm thanh xác định. Để tăng
vốn từ cho học sinh, ngoài việc hệ thống hóa vốn từ, công việc quan trọng là làm
cho học sinh hiểu nghĩa từ, phân biệt được các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa.
Đây là nhiệm vụ quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Việc dạy
nghĩa của từ được tiến hành trong tất cả các giờ học, bất cứ ở đâu có cung cấp từ
ngữ, thuật ngữ, khái niệm, thì ở đó có dạy nghĩa từ. Bài tập giải nghĩa từ xuất hiện
trong phân môn LTVC không nhiều nhưng việc giải nghĩa từ lại chiếm vị trí rất
quan trọng trong các bài học MRVT. Việc cho các em hiểu nghĩa các từ chủ điểm,
từ trung tâm của mỗi trường nghĩa là vô cùng cần thiết.
3.1. Mục tiêu của biện pháp dạy nghĩa của từ cho học sinh lớp 5.
Chia nhóm từ và xác định biện pháp giải nghĩa từ tương ứng với các nhóm.
Định hướng các biện pháp giải nghĩa từ thích hợp với lượng từ ngữ cần
cung cấp cho học sinh lớp 5 và các biện pháp tìm hiểu từ ngữ nghệ thuật trong các
văn bản Tập đọc của khối lớp 5.
Dạy các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa.
3.2. Nội dung và cách thực hiện biện pháp:
Biện pháp 1: Giải nghĩa từ cho học sinh lớp 5.
Qua 16 tiết MRVT và 69 văn bản tập đọc, tôi thống kê được hơn 200 từ học
sinh cần hiểu nghĩa. Đây là số lượng từ khá lớn so với khả năng giải nghĩa của học
11
sinh độ tuổi 11,12. Trong một số công trình nghiên cứu về PPDH TV và một số tài
liệu hướng dẫn giáo viên tiểu học dạy từ ngữ đã nêu một số cách giải nghĩa sau:
“Giải nghĩa bằng trực quan; giải nghĩa bằng cách đối chiếu so sánh với các
từ khác; giải nghĩa bằng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa; giải nghĩa từ bằng cách
phân tích từ các thành tố và giải nghĩa từng thành tố này; giải nghĩa bằng định
nghĩa....
Tôi đã chia các từ mà sách giáo khoa TV5 yêu cầu học sinh hiểu nghĩa thành
các nhóm và xác định biện pháp giải nghĩa từ tương ứng với mỗi nhóm.
A. Giải nghĩa bằng định nghĩa
Giải nghĩa bằng định nghĩa là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội dung
nghĩa, gồm tập hợp các nét nghĩa bằng một định nghĩa. Tập hợp nét nghĩa được liệt
kê theo sự sắp xếp nét nghĩa khái quát, cũng là nét nghĩa từ loại lên trước hết và các
nét nghĩa càng hẹp, càng riêng thì càng ở sau. Tôi đã hướng dẫn HS:
Nhận dạng được ý nghĩa phạm trù của từ.
Xác định tiểu loại của từ.
Tạm thời phân biệt cách giải nghĩa các nhóm từ như sau:
a. Nhóm các từ thuộc từ loại danh từ
* Danh từ trừu tượng
Khi giải nghĩa các danh từ trừu tượng, tôi hướng dẫn HS làm như sau:
Chọn được các từ gọi tên các nét nghĩa khái quát.
Xác định rõ phạm trù nghĩa của các từ cần giải nghĩa.
Tùy đặc điểm riêng từng từ mà có thể chọn một trong các từ sau: sự, cuộc,
những, phạm vi, lĩnh vực, nơi.... làm từ công cụ để mở đầu nét nghĩa khái quát cho
mỗi từ.
Ví dụ: Tôi hướng dẫn HS giải nghĩa từ: “Tư tưởng”:
Chọn được các từ gọi tên các nét nghĩa khái quát: suy nghĩ hoặc ý nghĩ
( tập trung tư tưởng).
12
Xác định rõ phạm trù nghĩa của các từ cần giải nghĩa: quan điểm và ý nghĩa
chung của người đối với hiện thực khách quan (tư tưởng tiến bộ, tư tưởng phong
kiến...)
Chọn từ công cụ để mở đầu cho nét nghĩa “sự”.
Vậy, “tư tưởng” là sự suy nghĩ hoặc ý nghĩ (tập trung tư tưởng), quan
điểm và ý nghĩa chung của người đối với hiện thực khách quan (tư tưởng tiến bộ,
tư tưởng phong kiến...)
* Danh từ chỉ sự vật cụ thể.
Tên gọi các sự vật tồn tại trong thực tế khách quan có rất nhiều nhưng có thể
quy về các phạm trù sau:
Từ chỉ đồ vật, từ chỉ người và con vật, từ chỉ cây cối, chỉ các hiện tượng tự
nhiên... Vì thế nét nghĩa khái quát mở đầu cho cách giải nghĩa bằng định nghĩa.
Khi dạy bài Cửa sông (TV5 T2 Tr 75), tôi đã hướng dẫn HS giải nghĩa từ
“Tôm rảo” : một loại tôm (nghĩa khái quát) sống ở vùng nước lợ, thân nhỏ và dài.
Với các từ chỉ đồ vật, dụng cụ, đồ dùng hoặc phương tiện sản xuất, sau nét
nghĩa phạm trù là nét nghĩa hình dáng, kích thước, cấu tạo và cuối cùng là nét nghĩa
chức năng.
Ví dụ: (cái) Bay (TV5 T1 Tr 148): đồ vật (nét nghĩa phạm trù), dụng cụ của
thợ nề, gồm một miếng thép mỏng hình lá lắp vào cán (nét nghĩa hình dáng, kích
thước, cấu tạo) , dùng để xây, trát, láng ( nét nghĩa chức năng).
Khi giải nghĩa các từ bàn, ghế, sập, các em sẽ miêu tả cấu tạo các đồ vật
này na ná như nhau, nhưng nhất thiết các em phải nói được bàn dùng để kê viết
hoặc đặt đồ đạc, ghế dùng để ngồi, sập dùng để nằm. Các đồ vật này khác nhau
về chức năng. Thực tế ở tiểu học, rất nhiều trường hợp học sinh thậm chí cả giáo
viên chỉ nêu được nét nghĩa chức năng khi giải nghĩa danh từ chỉ đồ vật dụng cụ.
Ví dụ: men: (TV 5 T1 – Tr118) chất được dùng trong quá trình làm bia ,
rượu; chất gây say.
13
Cách giải nghĩa các từ chỉ động, thực vật.
Khi giải nghĩa các từ thuộc loại này, giáo viên có thể nêu đây là một loại động
vật, thực vật, thuộc họ.... Tuy nhiên để giảng nghĩa ngắn gọn, giáo viên nên nêu
trực tiếp nghĩa khái quát của từng loại, tiếp đến là các nét nghĩa hình dáng, kích
thước, môi trường sống hoặc tính năng của loài động vật, thực vật đó.
Ví dụ: Con mang (con hoẵng) (TV5 T1 Tr 75): Loài thú rừng(nghĩa khái
quát ), cùng họ với hươu (thuộc họ), sừng bé có hai nhánh và lông vàng đỏ ( hình
dáng, kích thước).
Danh từ có nhiều tiểu loại, với mỗi tiểu loại, cách giải nghĩa bằng định nghĩa
cũng tương tự nghĩa là đưa nét nghĩa chỉ loại lên trước hết, sau đó mới cụ thể hóa.
Ví dụ: Thanh ray: (TV5 – T2 Tr136) Thanh sắt hoặc thép ghép nối với nhau
thành hai đường song song để tạo thành đường cho tàu hoả, tàu điện hay xe goòng
chạy (cụ thể hóa).
b. Nhóm các từ thuộc loại động từ
Chia động từ thành ba loại: động từ chỉ hành động, động từ chỉ trạng thái
và động từ chỉ quá trình.... nghĩa chỉ ở loại vừa nêu chính là nét nghĩa khái quát, mở
đầu cho lời giải nghĩa động từ theo cách định nghĩa. Việc xác định các nét nghĩa
tiếp theo cũng căn cứ vào nét nghĩa khái quát này. Chẳng hạn khi giải nghĩa một
động từ hành động, người giải nghĩa phải nêu được các nét nghĩa hành động tự
thân hay hành động tác động, cách thức hành động và kết quả hành động.
Ví dụ: Trình (TV5 T2 – Tr84): hoạt động, đưa ra để người trên xem xét và giải
quyết.
Đối với các động từ chỉ ý nghĩa quá trình, sau nét nghĩa phạm trù cần nêu
được nét nghĩa chỉ diễn biến hoặc kết quả của quá trình biến đổi.
Ví dụ: Hóa thân: quá trình biến đi và hiện ra lại thành một người hoặc một
vật cụ thể khác nào đó (hóa thân vào nhân vật).
14
Riêng đối với các động từ chỉ trạng thái, việc lựa chọn từ ngữ để giải nghĩa
cần chú ý sao cho các đặc điểm trạng thái của đối tượng được miêu tả rõ nét,
nhưng không lẫn với cách giải nghĩa các tính từ. Đặc biệt là các động từ chỉ trạng
thái tâm lí, tình cảm của con người. Ví dụ: Ác: tính chất gây hại, đau khổ, tai họa
cho người khác.
c. Nhóm từ thuộc loại tính từ
Tính từ thường được chia làm hai loại:
Tính từ không mức độ: Để thể hiện được mức độ đặc điểm, tính chất mà
chúng biểu thị, những tính từ này có thể kết hợp với các từ: rất, quá, lắm...
Ví dụ: trắng, vàng, xanh, đỏ, tròn... .
Tính từ có mức độ: các tính từ này đã hàm chứa ý nghĩa mức độ nên chúng
không kết hợp được với các từ rất, quá, lắm ... Vì vậy khi dạy các em giải nghĩa
các từ thuộc từ loại tính từ, nét nghĩa phạm trù cần nêu trước hết chính là nét nghĩa
tính chất, đặc điểm. Các nét nghĩa cần trình bày theo lối miêu tả.
Ví dụ: Lan man: nhiều ( nói, viết, suy nghĩ) hết cái này đến cái kia một
cách mạch lạc, không hệ thống.
Giải nghĩa bằng tập hợp các nét nghĩa là cách dạy đầy đủ nhất nhưng là
một yêu cầu khó đối với học sinh tiểu học, vì vậy các bài tập giải nghĩa trong môn
LTVC thường xây dựng dưới dạng cho sẵn từ và nghĩa của từ, các định nghĩa về
từ yêu cầu học sinh xác lập sự tương ứng.
Loại này có 2 tiểu dạng.
+ Dạng 1: Cho sẵn các từ yêu cầu học sinh tìm trong các nghĩa đã cho nghĩa
phù hợp với từ. Ví dụ:
*Bài tập 1(TV5 T1 Tr 47) Dòng nào dưới đây nêu đúng nghĩa của từ hoà bình:
a, Trạng thái bình thản.
b, Trạng thái không có chiến tranh.
c, Trạng thái hiền hoà, yên ả.
15
+ Dạng 2: Cho từ và nghĩa của từ, yêu cầu học sinh xác lập sự tương ứng.
Ví dụ:
* Bài tập 1(TV5 T1 Tr116). Mỗi từ ở cột A dưới đây ứng với nghĩa nào ở cột B?
A
Sinh vật
B
Quan hệ giữa sinh vật(kể cả người) với môi trường
Sinh thái
xung quanh.
Tên gọi chung các vật sống, bao gồm động vật, thực
hình thái
vật và vi sinh vật, có cinh ra, lớn lên và chết.
Hình thức biểu hiện ra bên ngoài của sự vật, có thể
quan sát được
B. Giải nghĩa theo lối so sánh từ đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc trái nghĩa
Đây là cách giải nghĩa một từ bằng cách quy nó về những từ đã biết, các từ
dùng để quy chiếu đó phải được giảng kĩ.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Tranh Làng Hồ”, tôi hướng dẫn HS giải nghĩa từ thuần
phác như sau:
+ Thuần phác (TV5 T2 Tr 88): chất phác, mộc mạc.
Vì từ đồng nghĩa thường khác nhau về sắc thái cho nên cách giảng theo lối
so sánh từ đồng nghĩa nên kết hợp với cách giảng định nghĩa hoặc với cách giảng
theo lối miêu tả. Bên cạnh việc đưa ra các từ đồng nghĩa, gần nghĩa để đối chiếu,
cần bổ sung thêm những nét nghĩa riêng cho từng từ nên khi giải nghĩa chúng ta có
thể chỉ cần làm rõ nghĩa một từ nhưng việc xác định loạt đồng nghĩa sẽ giúp chúng
ta hiểu rõ nghĩa của từ cần giải nghĩa hơn.
Ví dụ: Khi giải nghĩa từ lốc (cơn lốc), chúng ta đưa từ này về loạt đồng
nghĩa: lốc, gió, bão, giông, giông tố,..... Trong loạt từ trên, chúng ta chọn từ gió làm
từ trung tâm rồi giảng nghĩa từ thật kĩ, rồi bổ sung những nghĩa đặc thù cho các từ
lốc, bão, giông...
16
+ gió: là hiện tượng không khí trong khí quyển chuyển động thành luồng từ
vùng có áp suất cao đến vùng có áp suất thấp.
+ lốc: gió xoáy mạnh trong phạm vi nhỏ.
+ giông: biến động mạnh của thời tiết, thường có gió to giật mạnh và có
sấm sét, mưa rào.
+ giông tố: cơn giông có gió rất to và mạnh (thường dùng để ví cảnh gian
nan đầy thử thách)
Hoạt động giải nghĩa các từ ghép chính phụ cùng hình vị chính, khác nhau về
hình vị phân nghĩa sắc thái hóa, cũng thực hiện theo cách thức nêu trên.
Giải nghĩa từ bằng cách so sánh với từ trái nghĩa, giáo viên cần chú ý bản
chất của từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược, đối lập nhau xét theo một
phạm trù nhất định. Tuy nhiên cần phân biệt, có những cặp từ trái ngược nhau tạo
thành hai cực mâu thuẫn, phủ định cực này tất yếu phải chấp nhận cực kia.
Ví dụ: trắng – đen; trên dưới... Khi nói trên có nghĩa là không phải ở dưới.
Có những từ trái nghĩa phương hướng là các từ chỉ hướng đối lập nhau trong
không gian hoặc thời gian.
Ví dụ: nam bắc; đông – tây; lên – xuống; ra – vào....
Lại có những từ trái nghĩa thang độ, tức là những cặp từ có nghĩa trái ngược
nhau tạo thành hai cực có điểm trung gian, phủ định cực này chưa hẳn đã tất yếu
chấp nhận cực kia.
Ví dụ: nóng – lạnh, ở giữa có mát, ấm; già – trẻ, ở giữa có trung niên.... Vì
thế khi giải nghĩa từ bằng cách so sánh với các từ trái nghĩa, có trường hợp ta nói:
sao nhãng (TV5 T2 Tr153) là không nhớ ( cặp quên – nhớ). Nhưng không thể
giải nghĩa rủi (TV5 T2 Tr126) là không may mắn. Vì cặp rủi – may còn có nghĩa
từ bình thường (cuộc đời rủi ro, cuộc đời bình thường, cuộc đời may mắn). Trong
thực tế, học sinh thường quen giải nghĩa theo kiểu đối lập có – không. Như vậy,
giáo viên cần chú ý giải thích rõ hơn cho các em hiểu.
17
C. Giải nghĩa theo cách miêu tả
* Cách này có hai dạng:
Thứ nhất là dạng dẫn tính chất (hiện tượng thường gặp) để giúp cho học
sinh hiểu ý nghĩa của từ.
Ví dụ: màu ngọc lam(TV5 T1Tr12): chỉ màu sắc có màu xanh đậm.
Thứ hai là đối với các từ có chức năng biểu hiện cao như các từ láy sắc thái
hóa, hoặc từ ghép phân nghĩa sắc thái hóa, một mặt vừa phải kết hợp cách giảng
theo định nghĩa, mặt khác phải dùng lối miêu tả. Để miêu tả, chúng ta có thể lấy
một sự vật, hoạt động cụ thể làm chỗ dựa rồi miêu tả sự vật, hoạt động đó sao
cho nổi bật lên các nét nghĩa chứa đựng trong từ.
Ví dụ: vật vờ: lay động nhẹ, yếu ớt, như không có sức mạnh chống đỡ từ
bên trong, mặc cho sức mạnh bên ngoài kéo đi, lôi lại như cây cỏ dài lay động trong
làn nước nhẹ.
Nếu như cách giải nghĩa theo định nghĩa bắt đầu từ các ý nghĩa biểu niệm thì
giảng nghĩa theo cách miêu tả về cơ bản là bắt đầu bằng một ý nghĩa biểu vật tiêu
biểu nhất để giúp học sinh lĩnh hội được nghĩa biểu vật. Điều này cho phép giáo
viên chấp nhận những lời giải nghĩa của học sinh như sau:
* Bài tập đọc: Quang cảnh làng mạc ngày mùa (TV5 T1 Tr10).
+ Vàng ối: là màu vàng của lá mít.
+ Vàng xuộm: là màu của cánh đồng lúa chín đều.
+ Vàng giòn: là màu vàng của rơm, rạ phơi rất khô.
D. Giải nghĩa theo cách phân tích từ ra từng tiếng và giải nghĩa từng
tiếng
Cách giải nghĩa này có ưu thế đặc biệt khi giải nghĩa từ Hán việt. Việc giải
nghĩa từng tiếng rồi khái quát nêu ý nghĩa chung của cả từ sẽ giúp học sinh cơ sở
nắm vững nghĩa từ.
18
Ví dụ: Nhân quyền: (TV5 T2 Tr 147) : nhân: người; những điều được
hưởng, được làm, được yêu cầu theo quy ước chung trong cộng đồng và theo quy
ước của pháp luật.
Nhân quyền: những điều mà con người được hưởng, được làm, được yêu
cầu, theo quy ước chung trong cộng đồng và theo quy ước của pháp luật.
Biện pháp 2. Các biện pháp tìm hiểu ý nghĩa của một số từ ngữ có giá trị
nghệ thuật trong văn bản Tập đọc
Tác phẩm văn học vốn hàm súc và có nhiều tầng ý nghĩa. Việc đọc hiểu
văn bản nghệ thuật thực chất là khai thác hàm ý ẩn sâu trong câu chữ, hình ảnh,
hình tượng của tác phẩm. Đối với học sinh tiểu học, yêu cầu này là khó đối với
các em. Giáo viên cần có biện pháp giúp các em huy động vốn hiểu biết của mình
từ các môn học khác và từ trong cuộc sống để hiểu nghĩa của từ ngữ có giá trị
nghệ thuật. Nhưng làm thế nào để giúp học sinh nhận ra các từ ngữ được dùng
một cách nghệ thuật. Điều này đòi hỏi giáo viên không chỉ hướng dẫn mà cần có
các bài tập cụ thể để học sinh thực hành nhận diện và phân tích. Việc tìm hiểu ý
nghĩa của một số từ ngữ có giá trị nghệ thuật trong văn bản tập đọc nên thực hiện
như sau:
A. Nhận diện các từ ngữ nghệ thuật
Trước khi tìm ra các biện pháp phân tích từ ngữ nghệ thuật, giáo viên cần
giúp học sinh nhanh chóng tìm ra các từ dùng hay trong văn bản.
Chưa phân tích làm sao biết được từ ngữ đó dùng hay như thế nào nhưng
bằng sự hiểu biết về tính cụ thể, tính trừu tượng trong nghĩa của từ, về hiện
tượng nhiều nghĩa và các quan hệ ngữ nghĩa giáo viên có thể đặt ra các câu hỏi
định hướng để học sinh xác định từ ngữ nghệ thuật.
Ví dụ : Khi dạy bài tập đọc Quang cảnh làng mạc ngày mùa SGK yêu cầu trả
lời câu hỏi sau: hãy chọn một từ chỉ màu sắc trong bài Quang cảnh làng mạc ngày
mùa mà em thích nhất ?
19
Với bài tập như trên, học sinh sẽ biết cách chỉ ra các từ ngữ mà các em thích,
hoặc được gợi ý là từ ngữ đó được dùng độc đáo, sáng tạo. Yêu cầu các em tìm từ
ngữ thể các biện pháp tu từ. Thực hiện bài tập trên các em sẽ tìm ra được các từ
dùng đắt trong văn bản nghệ thuật. Còn các từ đó được dùng nghệ thuật ra sao,
giáo viên cần phải hướng dẫn cụ thể.
B. Đặt từ cần tìm hiểu trong hệ thống để phân tích
Một nguyên tắc của việc phân tích từ ngữ trong tác phẩm văn học, là chú ý
để phát hiện ra tính thống nhất cũng tức là tính hệ thống giữa các từ ngữ với chủ
đề của tác phẩm. Nghĩa là từ ngữ mà giáo viên và học sinh đang xem xét đã cùng
với các từ ngữ khác trong hệ thống bộc lộ ý chủ đạo của văn bản ra sao và giá trị
riêng của từ ngữ đó là gì. Với học sinh tiểu học chúng ta không nên hoặc hạn chế
dùng khái niệm hệ thống khi hướng dẫn học sinh phân tích từ ngữ mà chỉ lên dùng
cách nói: tìm điểm chung, điểm riêng giữa từ đang tìm hiểu với các từ khác.
Ví dụ 1: Có thể dùng từ nào thay thế cho từ đẫm trong câu:
Với đôi cánh đẫm nắng trời
Bầy ong bay đến trọn đời tìm hoa.
Đối với bài tập trên, hình thức giống bài tập thay thế, tích cực hóa vốn từ
nhưng thực chất là dạng bài tập gợi ý phân tích từ ngữ theo lối so sánh đồng nhất
và đối lập. Khi làm bài tập này chắc chắn học sinh phải tìm từ đồng nghĩa với từ
đẫm như: sũng, thấm đẫm, ngập,vv... và phân tích đối chiếu để khẳng định từ đẫm
dùng trong ngữ cảnh này là hợp lí nhất, có tác dụng gợi hình ảnh và biểu cảm rõ
rệt.
C. Phân tích mối quan hệ giữa nghĩa chính và nghĩa chuyển của từ nhiều
nghĩa.
Theo GS. Đỗ Hữu Châu: từ ngữ và các hình ảnh ngôn ngữ trong tác phẩm
thường nằm trong các trường hợp ngữ nghĩa sau:
20
a, Từ ngữ được dùng trong nghĩa chính hay nghĩa phụ ngôn ngữ và chỉ dùng
trong nghĩa đó mà thôi.
b, Từ ngữ được dùng trong nghĩa tu từ và chỉ có nghĩa tu từ mà thôi.
c, Từ ngữ vừa dùng trong nghĩa chính vừa dùng trong nghĩa bóng tu từ.
Đối với trường hợp từ chỉ dùng trong nghĩa chính, giáo viên có thể hướng dẫn
học sinh so sánh với các từ cùng trường nghĩa, đồng nghĩa hay trái nghĩa, nhờ biện
pháp tái hiện giả định quá trình lựa chọn của tác giả mà học sinh phát hiện ra cái
hay, cái đẹp của việc dùng từ.
Còn những trường hợp từ được dùng trong nghĩa phụ ngôn ngữ hay nghĩa
bóng tu từ, tức là từ được dùng với nghĩa chuyển. Nguyên tắc để phân tích hiện
tượng nhiều nghĩa trong tác phẩm là phải bám chắc lấy nghĩa chính, hiểu thật
chính xác nó, dựa vào cơ chế chuyển nghĩa mà tìm ra sự sáng tạo trong cách dùng
từ của tác giả.
Ví dụ: Trong bài thơ ‘‘Hạt gạo làng ta’’, câu thơ cuối Trần Đăng Khoa viết:
Em vui em hát, hạt vàng làng ta. Để học sinh hiểu được giá trị của từ hạt vàng
trong câu, giáo viên phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ: hạt vàng là kim loại
hiếm có màu vàng và có giá trị cao (quí như vàng). Nhưng trong câu thơ được tác
giả sử dụng gọi thay thế cho hạt gạo, tác giả đã dùng phép so sánh để nói nên mồ
hôi công sức một nắng hai sương của bố mẹ làm ra hạt gạo và hạt gạo đó đã góp
công vào chiến thắng chung của dân tộc. Do vậy hình ảnh hạt gạo trong bài thơ
được tác giả so sánh nâng cao tầm giá trị như hạt vàng nhưng nó lại mang sắc thái
gần gũi tạo nên vẻ đẹp có giá trị nghệ thuật cao.
Biện pháp 3. Dạy các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa
Bài học về các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa: từ đồng nghĩa và trái nghĩa,
nhiều nghĩa được bố trí trong môn Luyện từ và câu lớp 5 với thời lượng 9 tiết,
thành hai dạng bài. Dạng lí thuyết được xếp trong tiết học đầu tiên của mỗi lớp
từ. Dạng bài thực hành được xếp ngay sau tiết học lí thuyết. Cụ thể từ đồng nghĩa
21
4 tiết (1 tiết lí thuyết, 3 tiết luyện tập) từ trái nghĩa 2 tiết (1 tiết lí thuyết, 1 tiết
luyện tập), Từ nhiều nghĩa 3 tiết (1 tiết lí thuyết, 2 tiết luyện tập) Cấu trúc nội
dung bài học của mỗi dạng bài được biên soạn theo cách khác nhau.
A. Cấu trúc nội dung bài học các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa trong
sách giáo khoa.
A.1. Cấu trúc nội dung bài học lý thuyết.
Giống như cấu trúc nội dung bài học lí thuyết Luyện từ và câu nói chung, bài
học lí thuyết về từ đồng nghĩa, trái nghĩa, từ nhiều nghĩa ...được biên soạn theo
cấu trúc ba phần : Phần I. Nhận xét
Phần II. Ghi nhớ
Phần III. Luyện tập.
Nhiệm vụ của phần I và phần II là hình thành khái niệm, vì thế trong phần
nhận xét, SGK đưa ra các ngữ liệu và hệ thống bài tập để học sinh tìm ra được các
dấu hiệu của khái niệm. Kết quả của quá trình hình thành khái niệm được chốt ở
mục II, phần ghi nhớ.
Khi học khái niệm từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm, giáo viên cần
hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm:
*Từ đồng nghĩa:
a) Bản chất từ đồng nghĩa
Từ đồng nghĩa là những từ đồng nhất với nhau về nghĩa nhưng có một số từ
có sự khác biệt nhất định về sắc thái nghĩa. Khi phân tích từ đồng nghĩa có hai thao
tác , đó là chỉ ra sự giống nhau và khác nhau nhưng quan trọng là phải chỉ ra được
sự khác nhau về sắc thái .
Ví dụ 1: Quả, trái
Giống nhau: Sản phẩm của cây trong một thời kì sinh trưởng nhất định (quả
mít/ trái mít)
Khác nhau: Quả gợi tính hình khối, tròn, treo lủng lẳng, trái toát ra sắc
22
thái tình cảm, trân trọng, nâng niu, yêu thương,...( quả tim/ trái tim; quả
trứng/trái trứng)
b) Các từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái biểu cảm
Ví dụ 1: Cho, biếu, tặng: Cho có sắc thái trung hòa, biếu có sắc thái kính
trọng, tặng có sắc thái thân mật .
c) Do có sự khác nhau về sắc thái nghĩa và sắc thái biểu cảm nên cách dùng
các từ cũng khác nhau nên các từ đồng nghĩa không phải bao giờ cũng thay thế cho
nhau được.
Ví dụ : Hoài sơn/ củ mài ; trần bì/ vỏ quýt: Các từ Hán Việt dùng trong khoa
học còn các từ thuần Việt dùng trong đời sống .
d) Hiện tượng đồng nghĩa không tách rời hiện tượng đa nghĩa, đó là nguyên
nhân của tính mức độ. Các từ đồng nghĩa với nhau không phải đồng nghĩa về toàn
bộ dung lượng nghĩa của nó mà chỉ đồng nghĩa ở một một nghĩa nào đó mà thôi.
Ví dụ : Trông có ba nghĩa : hướng mắt quan sát
giữ, chăm sóc
nương vào, nhờ vào
Dựa có ba nghĩa : theo, căn cứ theo
tựa vào, nhờ vào
nương vào, nhờ vào
Trông và dựa đồng nghĩa với nhau ở nghĩa thứ ba
*Một từ nếu là từ đa nghĩa, với các nghĩa gốc khác của nó, nó có thể đồng
nghĩa với nhiều từ khác nhau
Ví dụ : Ăn thắng (Đội tớ ăn rồi, đội cậu thua )
hợp (ăn cánh, ăn ảnh, ăn hình )
hưởng, nhận ( tàu ăn than
hao, tốn ( xe ăn xăng)
*Từ nhiều nghĩa
23
Các từ lúc mới xuất hiện đều chỉ có một nghĩa, trải quan thời gian có thêm
nhiều nghĩa mới (nghĩa phái sinh, nghĩa bóng) được tạo ra từ nghĩa cơ sớ (nghĩa
gốc, nghĩa đen) đó, trên cơ sở những biểu tượng nhất định.
Biểu tượng làm hình ảnh về hình dáng, kích thước, đặc điểm, tính chất của
sự vật được phản ánh trong ngôn ngữ trong nghĩa gốc của từ dưới dạng các nét
nghĩa trở thành cơ sở để tự phát triển thêm nghĩa mới.Nhờ vào quan hệ liên tưởng
tương đồng (ẩn dụ) và tương cận ( hoán dụ ) người ta liên tưởng từ sự vật này
đến sự vật kia trên những đặc điểm, hình dáng , tính chất giống nhau hay gần nhau
giữa các sự vật ấy.Từ chỗ gọi tên sự vật, tính chất, hành động này (nghĩa 1)
chuyển sang gọi tên sự vật, tính chất, hành động khác nghĩa ( nghĩa 2), quan hệ đa
nghĩa của từ nảy sinh từ đó .
Ví dụ: Khi tìm hiểu nghĩa của từ Chín, tôi hướng dẫn HS tìm được những
nghĩa sau:
(1) Chỉ quả đã qua một quá trình phát triển, đạt đến độ phát triển cao nhất, hoàn
thiện nhất, độ mềm nhất định, màu sắc đặc trưng.
(2) Chỉ quá trình vận động, quá trinh rèn luyện từ đó, khi đạt đến sự phát triển cao
nhất ( Suy nghĩ chín, tình thế cách mạng đã chín)
(3) Sự thay đổi màu sắc nước da ( ngượng chín cả mặt )
(4) Trải qua một quá trình đã đạt đến độ mềm (cam chín).
Như vậy muốn phân tích được nghĩa của từ đa nghĩa, trước hết phải miêu tả
thật đầy đủ các nét nghĩa của nghĩa gốc để làm cơ sở cho sự phân tích nghĩa.
Nghĩa của từ phát triển thường dựa trên hai cơ sở :
+ Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có hai dạng sau :
Dạng 1: Nghĩa của từ phát triển dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa
các sự vật, hiện tượng hay là dựa vào kiểu tương quan về hình dáng.
Ví dụ : Mũi1 ( mũi người) và Mũi2( mũi thuyền)
Miệng1 ( miệng xinh) và miệng2( miệng bát)
24
Dạng 2 : Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ về cách thức hay chức
năng, của các sự vật, đối tượng .
Ví dụ : cắt1 ( cắt cỏ) với cắt2 ( cắt quan hệ )
Dạng 3 : Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ kết quả do tác động của
các sự vật đối với con người.
Ví dụ: đau1 (đau vết mổ ) và đau2 (đau lòng )
+ Theo cơ chế hoán dụ có tác dụng.
Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở quan hệ giữa bộ phận và toàn thể.
Ví dụ: Chân1, Tay1, mặt1 là những tên gọi chỉ bộ phận được chuyển sang chỉ
cái toàn thể (anh ấy có chân2 trong đội bóng Tay2 bảo vệ của nhà máy số ba có
Mặt2 trong hội nghị)
Nghĩa của từ phát triển trên quan hệ giữa vật chứa với cái được chứa.
Ví dụ : Nhà1 Là công trình xây dựng (Anh trai tôi đang làm nhà)
Nhà2 là gia đình ( Cả nhà có mặt)
Dạng 4 : Nghĩa của từ phát triển dựa trên nguyên liệu hay công cụ với sản
phẩm được làm ra từ nguyên liệu hay công cụ đó hoặc hành động dùng nguyên
liệu hay công cụ đó .
Ví dụ : Muối1 : Nguyên liệu ( Một kg muối) ; muối2: hành động làm cho thức
ăn chín hoặc lên men (Chị ấy muối dưa ngon lắm)
Sau khi học sinh đã được cung cấp các hiểu biết lí thuyết về các lớp từ cần
học, SGK đưa ra các bài tập luyện tập ứng với hai nhiệm vụ: củng cố khái niệm
và vận dụng khái niệm vào nói và viết. Các bài tập nhận diện tìm từ đồng nghĩa,
trái nghĩa là bài tập củng cố kiến thức lí thuyết. Các bài tập đặt câu, viết đoạn
trong đó có sử dụng từ đồng nghĩa, trái nghĩa ... là bài tập vận dụng sáng tạo, tích
cực hóa hoạt động học các lớp từ.
* Từ trái nghĩa:
Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược nhau.
25