Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

SKKN: Bước đầu xây dựng hứng thú học tập môn học Tiếng Anh đối với học sinh khối lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.21 KB, 21 trang )

Phßng gd& ®t huyÖn §«ng TriÒu
Trêng tiÓu häc quyÕt th¾ng
===***===

  

Sáng kiến kinh nghiệm:
“ Bước đầu xây dựng hứng thú học tập môn học Tiếng anh đối với 
học sinh khối lớp 3”

Họ và tên: Nguyễn Thị Thùy Linh
Chức vụ: Giáo viên Tiếng Anh
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quyết Thắng

Năm học: 2014­2015
1


I. PHẦN MỞ ĐẦU: 
1. Lý do chọn đề tài.
      Qua trực tiếp làm công tác giảng dạy môn học Tiếng Anh theo chương trình  
sách giáo khoa của Bộ giáo dục và đào tạo,  đồng thời tôi được tham dự kì thi sát 
hạch năng lực giáo viên theo khung tham chiếu châu Âu và dự các lớp bồi dưỡng 
nâng cao năng lực giáo viên dạy ngoại ngữ theo đề án Quốc ngữ trong  vài năm 
gần đây và để đạt được mục tiêu của Đề  án Quốc ngữ, tôi nhận thấy rằng để 
giúp học sinh học tốt  môn ngoại ngữ   thì trước tiên phải tạo được niềm đam 
mê hứng thú học tập cho học sinh ,có như  thế  mới thu hút được tất cả  đối  
tượng học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động học tập một cách có hiệu  
quả cao, do đó góp phần vào thực hiện mục tiêu của đề án.
        Là một giáo viên với tuổi đời còn khá trẻ, tôi đã từng khá lúng túng trong 
việc thu hút học sinh vào bài giảng mặc dù tôi đã cố  gắng dạy đúng phương  


pháp mới ,  đảm bảo chính xác nội dung bài học . Tuy nhiên vẫn còn tình trạng  
học sinh không tích cực phát biểu ý kiến xây dựng bài hoặc học tập một cách  
rất thụ  động…..Ba năm trở  lại đây môn tiếng anh được đưa vào giảng dạy  ở 
trường  tiểu học như  môn học bắt buộc.Đối với học sinh khối lớp 1 và lớp 2  
học sinh học môn học này là môn học tự chọn. Với học sinh lớp 3,4 và 5 là môn 
học bắt buộc..Tôi đã tìm hiểu và tiến hành một cuộc điều tra khảo sát đối với 
tất cả các khối lớp từ khối 1 đến khối 5. Học sinh chỉ  việc trả lời câu hỏi là:”  
Em có thích học Tiếng anh không ?Tại sao có? tại sao không ?” Kết quả  thu 
được là có khoảng 15% học sinh thích học môn học này với những lí do như đó  
là môn học thoải mái ,có nhiều trò chơi sôi động….50% học sinh không thích 
học môn Tiếng anh với những lí do như các em không nhớ từ ,không thuộc ngữ 
pháp ,nghe rất khó và nói không trôi chảy…..Còn lại 35% học Tiếng anh vì đó là  
môn học bắt buộc của chương trình học .
       Qua các cuộc điều tra trên thì tôi đã hiểu được nguyên nhân .Tôi thấy rằng  
cần phải tạo hứng thú học tập bộ môn ngoại ngữ cho học sinh ngay từ lớp đầu  
cấp học và không ngừng củng cố  ,quan tâm đối với các lớp học sinh lớp trên.  
2


Điều này là vô cùng quan trọng và cần thiết vì nó ảnh hưởng tích cực đến  các  
lớp học ở những bậc học cao hơn.
     Với kinh nghiệm bản thân từng là người học ngoại ngữ và lại làm công tác  
giảng dạy Tiếng anh thực tế tôi xin mạnh dạn trình bày một số ý kiến trong quá  
trình thực hiện “ Bước đầu xây dựng hứng thú học tập môn học Tiếng anh  
đối với học sinh khối lớp 3”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
   Với việc nghiên cứu thành công đề tài sáng kiến kinh nghiệm này sẽ góp phần 
giúp các giáo viên chú trọng đến việc đem lại hứng thú học tập môn ngoại ngữ 
cho học sinh.
­ Biết cách gây dựng niềm đam mê với môn học cho học sinh.

­ Nắm rõ các hoạt động nhằm xây dựng hứng thú học tập cho các em.
- Giúp học sinh tự tin ,chủ động và tích cực hoc tập.
3.Đối tượng nghiên cứu.
       Bắt đầu từ  năm học 2013­ 2014 đối tượng là các em học sinh khối lớp 3  
trường Tiểu học Quyết Thắng.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
  Phạm vi nghiên cứu đối tượng là học sinh trường Tiểu học Quyết Thắng.Đối 
tượng chính là học sinh khối lớp 3 do chính tôi được phân công giảng dạy trong 
năm học vừa qua.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu, áp dụng  “ Bước đầu xây dựng hứng thú học tập môn học 
Tiếng anh đối với học sinh khối lớp 3”   lµ viÖc lµm cÇn thiÕt, nã cã ý
nghÜa rÊt quan träng trong qu¸ tr×nh d¹y vµ häc m«n TiÕng Anh, gãp
phÇn n©ng cao chất lượng và hiệu quả  môn học. Giúp cho giáo viên có 
phương pháp xây dựng hứng thú học tập Tiếng Anh cho học sinh ngay từ lớp 3  
đầu cấp học của bậc học Tiểu học. Có hứng thú học tập giúp cho học sinh thay  
đổi suy nghĩ rằng “ Học Tiếng anh là vô cùng khó và chán…”. Có hứng thú học  
3


tập khiến cho người học say mê áp dụng ,thực hành kiến thức mà giáo viên gợi  
mở, dẫn dắt…. ở mọi lúc, mọi nơi.
II. PHẦN NỘI DUNG: 
1.Cơ sở lý luận.
      Việc thực hiện dạy Tiếng anh theo Đề  án dạy và học ngoại ngữ  trong hệ 
thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008­2020 (hay còn gọi  là đề  án)  đã được 
triển khai gần 4 năm học   (2011­2014) vừa qua đã và đang đặt ra nhiều thách 
thức không chỉ riêng với người dạy mà còn đối với người học – là các em học  
sinh thân yêu .Từ đó việc nghiên cứu – áp dụng là mối quan tâm của tất cả mọi  
giáo viên dạy ngoại ngữ. Nhu cầu nâng cao, áp dụng các phương pháp dạy học 

như thế nào? Ra sao ? đang là mục tiêu chung của ngành giáo dục nói chung cũng 
như  môn ngoại ngữ  ( Tiếng Anh ) nói riêng . Công tác bồi dưỡng giáo viên đã  
được quan tâm ,bước  đầu đổi mới chương trình ,sách giáo khoa ,phương pháp 
giảng dạy và thi , kiểm tra đánh giá năng lực sử  dụng ngoại ngữ  trong môi  
trường giao tiếp đa văn hóa , đa ngôn ngữ  ,quan tâm bổ  sung cơ  sở  vật chất và  
thiết bị dạy học ngoại ngữ theo hướng hiện đại bằng các nguồn vốn của trung  
ương và địa phương ,khai thác các nguồn học liệu nước ngoài, đặc biệt là qua 
internet để phục vụ dạy và học ngoại ngữ.
1.2. Cơ sở thực tiễn.
      Vấn đề đặt ra trước chúng ta là: Từng bước hoàn thành mục tiêu của Đề án 
Dạy và học ngoại ngữ  trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008­2020  
(hay còn gọi  là đề án) và hoàn thành nội dung cơ bản bằng những phương pháp 
mới ,sử dụng các hoạt động sôi nổi trong giờ học nhăm xây dựng hứng thú học  
tập đối với bộ  môn ngoại ngữ  trên cơ  sở  phương pháp đã được đào tạo ,bồi  
dưỡng nhằm nâng cao năng lực Tiếng anh cho đội ngũ giáo viên ngoại ngữ  rất 
nhiều và thường xuyên trong suốt các mùa hè những năm gần đây.
      Với những yêu cầu, mục tiêu trên đòi hỏi ở  học sinh phải có một động cơ 
,hứng thú học tập lớn … Vậy mỗi thày cô giáo chúng ta phải làm gì để  các em  
đạt được mục tiêu học tập ?
4


      Phải chăng thày chỉ cố gắng truyền đạt làm sao đảm bảo đúng chương trình 
sách giáo khoa , làm cho học sinh  nhận biết được nghĩa của từ  vựng ,rồi làm  
các bài tập ngữ pháp trong sách bài tập ? mà theo phương pháp mới đó là :” Lấy 
người học làm trung tâm “. Vai trò chủ  yếu của người thày là điều khiển ,dẫn  
dắt học sinh vào những hoạt động học tập tích cực và chủ động trên lớp ( Giáo  
viên là người hướng dẫn và tổ  chức học tập ). Với vai trò đó ,cuối cùng giáo  
viên phải làm sao thu hút, lôi cuốn học sinh thấy hứng thú vào giờ  học và yêu  
thích môn học này .

      Việc gây hứng thú học tập cho học sinh nói chung, giúp học sinh yêu thích 
môn Tiếng Anh nói riêng không  phải lúc nào cũng được chú ý thường xuyên. 
Đây không phải là vấn đề mới nhưng để  thực hiện tốt không dễ. Làm thế  nào 
để học sinh yêu thích môn Tiếng Anh? Làm thế nào để Tiếng Anh trở thành bộ 
môn được học sinh coi trọng như các môn học khác chính là vấn đề  đặt ra với 
mỗi giáo viên mỗi trường học, mỗi cấp học hiện nay. Bởi vậy trong khuôn khổ 
sáng kiến kinh nghiệm này tôi mạnh dạn đặt ra vấn đề và bước đầu đề xuất ra 
những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ học Tiếng Anh cũng như  giúp 
học sinh yêu thích môn học này hơn nữa.  
2.Thực trạng.
* Thuận lợi và khó khăn:
a. Đối với học sinh : 
     Ngay từ những tuần học đầu tiên của tháng 8 tôi đã tiến hành khảo sát phân  
loại đối tượng học sinh khối lớp 3.
     Đối với học sinh khối 3 – là các em học sinh còn nhỏ tuổi chưa thể nhận biết  
được tầm quan trọng của việc học   ngoại ngữ  hay mục đích chính cuarvieecj  
học ngoại ngữ  để  làm gì.Cho nên những học sinh này gặp không ít khó khăn  
trong việc làm quen với môi trường giáo dục  mới như:  Chương trình mới, cách 
học mới…..

5


    Điều này đã gây tâm lí thiếu tự tin, rụt rè, bỡ ngỡ trong các em học sinh .Cụ 
thể là các em ngại phát biểu, không mạnh dạn hỏi thày cô về những vấn đề mà  
các em chưa hiểu, khi giáo viên gọi lên thì lúng túng trong các câu trả lời …..
    Ngoài ra các em học sinh lớp 3 còn chưa ý thức được tầm quan trọng của việc  
học môn ngoại ngữ, do đó các em chưa xác định được động cơ, thái độ học tập  
đúng đắn: Học để làm gì ? Học như thế nào ? Là những băn khoăn lớn nhất của 
các em.

    Học sinh chưa nhận thức đúng đắn về động cơ và mục đích học tập , chưa có  
quyết tâm và nhiệt tình học tập .( Thiếu kiến thức ,kỹ năng học tập để học tập  
lớp đang học : Ngồi nhầm lớp ) sinh ra chán học .
    Học sinh chưa có phương pháp học tập khoa học ,hầu hết là học thụ động ,lệ 
thuộc vào các loại sách “ Để học tốt Tiếng anh ,sách giải bài tập” ( HS chép bài  
tập vào vở nhưng không hiểu gì cả ).
     Chưa có phong trào học nhóm , học tổ và trên hết là khả năng tự học ở nhà  
do đó không lĩnh hội và luyện tập được các nội dung kiến thức học được trên 
lớp ,biến kiến thức sách giáo khoa thành kiến thức của bản thân mình.
b. Đối với phụ huynh học sinh :
      Một bộ phận lớn phụ huynh học sinh xác định mục đích học tập môn ngoại 
ngữ  cho con còn thiếu đúng đắn .Họ  cho rằng “ Học ngoại ngữ chằng để  làm 
gì, học xong không sử  dụng đến rồi quên ngay, có phải ngành nghề  nào cũng 
cần ngoại ngữ đâu  …..” Ngoài ra việc tuyên truyền về tầm quan trọng của việc 
học ngoại ngữ  còn yếu kém ,sự  phối hợp giữa nhà trường và cha mẹ  học sinh  
còn hạn chế vì đa phần bố mẹ các em đều là nông dân. 
c. Đối với chương trình và sách giáo khoa Tiếng Anh 3
     Chương trình học dù đã giảm tải xong khối lượng kiến thức vẫn còn nặng 
nề, nhiều học sinh không theo kịp chương trình , nội dung nhiều trong một tiết  
học nên giáo viên khó thực hiện đổi mới Phương Pháp theo hướng phát huy tính  
tích cực của học sinh vì sợ “cháy” giáo án. 
d, Đối với giáo viên dạy môn Tiếng Anh :
6


     Hiện nay,  giáo viên còn phải dành nhiều thời gian vào  hệ  thống hồ  sơ, sổ 
sách, rồi các khóa học bồi dưỡng kéo dài ( đến chín mươi ngày như trong hè vừa  
qua – năm 2014) ngoài ra còn phải tham gia rất nhiều   các cuộc thi trên nhiều 
lĩnh vực khác…….do đó thời gian dành cho soạn bài cũng như  việc nghiên cứu  
tài liệu phục vụ cho giảng dạy còn hạn chế.

    Việc dạy cho học sinh tự học và sáng tạo hình như ít thực hiện ,giáo viên chỉ 
lo dạy hết giáo án ,chương trình ,nội dung quy định ,lo “cháy” giáo án  .
    Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi muốn sẽ góp phần nào giúp giáo viên dần 
khắc phục những khó khăn trong dạy học ngoại ngữ cho học sinh có hiệu quả 
tôt hơn, học sinh sẽ tích cực học, chủ động tiếp thu kiến thức của bài học một  
cách mê say và đầy hứng thú .
­ Khảo sát (thống kê).
Chất lượng cụ thể

Lớp Sĩ số

Giỏi
3A
35
 3B
31
3C
32
  ­ Đánh giá (phân tích).

5
3
2

Khá Trung 
12
6
6

Bình

16
17
17

Ghi ch ú

Yếu
2
5
7

     Với kết quả khảo sát trên thì việc gây hứng thú học tập cho học sinh là rất 
quan trọng nên tôi đã đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi: Tại sao phải gây hứng thú 
cho học sinh? Trong việc dạy cũng như học ngoại ngữ , yếu tố quyết định thành  
công là việc đầu tư công sức và thời gian vào việc học tập có phương pháp, ghi 
nhớ thực hành để quen. Để đạt được điều đó các em phải kiên trì, say mê thich  
thú môn học .
 */  Nguyên nhân của thực trạng trên:
      Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến học sinh không yêu thích môn ngoại ngữ. 
Theo cá nhân tôi thì do những nguyên nhân sau: 

7


* Nguyên nhân thứ  nhất : Từ  trước đến nay Tiếng Anh luôn được coi là môn  
học khó đối với học sinh.
* Nguyên nhân thứ  hai  ảnh hưởng rất lớn đến việc học môn Tiếng Anh giảm  
sút là chế độ thi cử không ổn định. Trước đây môn học này được đưa vào là môn 
thi thứ ba trong kì thi tuyển sinh đầu vào và cũng là môn thi bắt buộc của kỳ thi  
Tốt nghiệp THPT ,tuy nhiên sau một thời gian thì lại bị bỏ thi hoặc là môn thi tự 

chọn của kì thi TN PTTH,( cụ thể là năm học 2013­ 2014) Và bây giờ trước đề 
án Quốc ngữ của Bộ giáo dục thì môn Tiếng Anh lại là môn học được quan tâm  
nhiều. Bộ Giáo dục mới quyết định đưa môn Ngoại ngữ trong đó có Tiếng Anh 
là một trong ba môn thi bắt buộc của kì thi chung Quốc gia từ năm 2015.
* Nguyên nhân thứ ba : Do người học chưa xác định được động cơ học tập môn  
ngoại ngữ ( Học sinh chưa có hứng thú học tập đối với bộ môn này). 
3. Giải pháp, biện pháp.
3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
       Qua nghiên cứu cơ  bản về  chương trình tiếng anh lớp 3 và đặc điểm đối 
tượng học sinh với những khó khăn và thuận lợi trong việc học tập môn Ngoại 
ngữ  nói chung và môn Tiếng anh nói riêng ,tôi xin trình bày một số  giải pháp 
sau:
     Trước tiên giáo viên nên thảo luận về những lợi ích của việc học ngoại ngữ 
­ cụ  thể  là môn Tiếng anh cùng với các em học sinh. Lắng nghe những ý kiến 
của các em học sinh về  những mục đích khác nhau rồi nêu ra mục đích chung 
của việc học ngoại ngữ. Đó là môn học giúp các em giao tiếp được với tất cả 
mọi người trên thế  giới trong thời đại mới­ thời kì của sự  hội nhập và phát  
triển.Tiếng anh được coi là ngôn ngữ  thứ  hai sau tiếng mẹ đẻ. Hơn nữa , học 
tiếng anh giúp người học biết sử dụng được tất cả các thiết bị điện tử  từ Máy  
vi tính cho đến mọi vật dụng khác….trong cuộc sống. Qua đó học sinh thấy  
được sự cần thiết phải học ngoại ngữ như thế nào.
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
8


      Một điều khiến cho các em thấy học Tiếng anh là vô cùng khó dẫn đến tâm 
lí sợ  môn học này­ Đó là do các em không biết  phương pháp tự  học  ở  nhà. Do 
vậy ngay từ tiết học đầu tiên giáo viên nên dành thời gian để đưa ra các phương 
pháp học cũng như  các cách để  ôn tập  ở  nhà, vì ôn tập là rất quan trọng. Như 
vậy học sinh có thể lựa chọn phương pháp học phù hợp với bản thân các em.

  * Đối với việc ôn tập bài cũ ở nhà: Học kết hợp với ôn tập rất có hiệu quả. Có 
thể ôn tập một mình hay cùng một người bạn hoặc một nhóm bạn .

­

Cách thứ  nhất: Đọc và viết ra giấy nháp nhiều lần một từ  cho đến  
thuộc và ghi nhớ nghĩa của từ đó.

­

Cách thứ hai: Mỗi ngày viết ra mảnh giấy nhỏ năm từ  và dán ở  khắp 
nơi trong ngôi nhà ­ những nơi mà em hay đi đến.

­

Cách thứ ba: Ghi chép các từ vựng ra một quyển sổ nhỏ theo một hàng 
dọc ,và cột kia đương nhiên là nghĩa Tiếng Việt. Có ghi chú từ  loại 
của từ  đó và đặt câu với từ  vựng cũng là cách ghi nhớ  cách sử  dụng  
của từ đó.
( a) bag  :(n)           ­ Cái túi   ­ It is a bag
                                                ­I have a bag
                                               ­ This is a bag is nice

Cách 3: Trong lúc rảnh rỗi có thể nghĩ đến các từ đã học và lết kê ra giấy nháp.
Cách 4: ( Ôn cùng nhóm bạn ) dùng phương pháp “What andWhere”, “ Rub out  
and remember” ,” Matching”, “ odering”, and so on.
Cách 5: Giáo viên nên khuyên học sinh viết nhật kí bằng Tiếng anh đều đặn  
hàng ngày, hàng tuần…Khi viết cố  găng sử  dụng ngay những từ, cấu trúc vừa 
mới được học.
Cách 6: Giao tiếp với bạn bằng Tiếng Anh bất cứ lúc nào có thể. Việc luyện 

tập thực hành giao tiếp sẽ giúp các em nhớ các mẫu câu và từ vựng rất tốt vì khi 
ấy các em đã biến ngôn ngữ sách vở thành ngôn ngữ của bản thân mình.

9


    Học sinh có thể sử dụng nhiều phương pháp học khác nhau mà vẫn đảm bảo 
tính hiệu quả và còn tránh được sự nhàm chán trong học tập. Giáo viên cần thiết  
phải cho học sinh biết rằng học cái gì cũng phải đầu tư thời gian và học ngoại  
lại càng cần thiết hơn nữa, đòi hỏi tính cần cù, siêng năng hơn những môn học  
khác.
    Đặc biệt càng cần dành thời gian cho nó đều đặn hàng ngày. Học ngoại ngữ 
cũng như tập thể dục vậy, đều đặn mới có kết quả. Song các em học sinh phải  
tự  tạo cảm hứng học tập cho mình, đừng gò ép mình học một cách bị  động và 
căng thẳng. Học là phải lúc nào cũng như  mới. Mỗi ngày các em hãy tạo cho 
mình một cách học mới để  quên đi sự  nhàm chán cũng như  suy nghĩ của bản 
thân. Đó là cách đánh lừa cảm xúc của chính mình.
    Đó là phần tự học của học sinh, còn đối với giáo viên thì việc dạy học như 
thế  nào để  giờ  học đạt chất lượng cao, thu hút học sinh tích cực tham gia vào 
các hoạt động học tập với tinh thần mê say, phấn khởi….đó mới là một giờ dạy 
thành công trươc tiên là ở trong mắt học trò.
     Một giờ dạy thành công chắc chắn đem lai hứng thú học tập cho các em .Đòi 
hỏi giáo viên phải vận dụng tốt các phương pháp dạy học theo hương đổi mới 
một cách linh hoạt, sáng tạo tránh áp dụng một cách máy móc, dập khuôn . Luôn 
luôn tìm tòi và lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp với điều kiện, tình 
hình cơ sở vật chất nhà trương. Chúng ta nên thay đổi cách dạy vì sự lặp đi lặp  
lại một cách máy móc và mô phạm là gốc rễ của nhàm chán.
 Ví dụ : Khi dạy xong phần từ mới giao viên cần có cách kiểm tra như:
       Matching, wordsquare,   jumbled words,   bingo,   slap the board, noughts and 
crosses .

     Qua các cuộc điều tra khảo sát tôi nhận thấy rằng các em đặc biết rất thích 
các hoạt động, trò chơi. Học­ Chơi­ Học  đó là phương pháp mang lại hiệu quả 
cao, thu hút được học sinh rất nhanh và giúp các em hình thành dần dần hứng 
thú đối với môn học.

10


     Đối với môn học Tiếng Anh được coi là môn đem lại sự thoải mái nhất đến  
với người học. Người ta còn học Tiếng anh để  giải trí , thư  giãn và giúp phát 
triển trí thông minh cho người học. Môn học này không gây căng thẳng nếu biết  
kết hợp xen kẽ  các hoạt động sáng tạo cho từng mục trong giờ  dạy. Tổ chức  
các trò chơi cho học sinh nhằm làm tăng tình đoàn kết, hợp tác và tinh thần đồng  
đội cao cũng như rèn luyện thêm cho các em kỹ năng sống ở  lứa tuổi tiểu học. 
Nhờ vào các hoạt động vui ­ học này mà bầu không khí lớp học diễn ra sôi động 
,hào hứng nhất và thoải mái nhất. Giáo viên phải tìm tòi , áp dụng trò chơi co 
tính giáo dục và chất lượng nhất đối với môn hoc.
Ví dụ  : Khi học xong phần từ  vựng về  chủ   đề  rau, củ  , quả  như: tomatoes,  
apples, carrots, potatoes, banana,   oranges, papaya,….. GV có thể  cho học sinh  
chia thành 2 đội, bốc thăm, vẽ lên bảng, học sinh  ở dưới lớp đoán từ  và đọc to  
từ  đó lên ghi điểm vòng I,II,III….Học sinh phải viết nhanh tên của các hình vẽ 
đó bằng Tiếng Anh .Đội nào hoàn thành sớm, chính xác sẽ  giành được phần  
thắng. Đội thắng cuộc là đội có tổng số điểm cao nhất. Với trò chơi này sẽ giúp 
học sinh ôn tập được cả phần chữ viết Tiếng Anh lẫn phần nghĩa của từ và cả 
phát âm của từ  đó. Qua các hình  ảnh nghộ  nghĩnh mà các em vẽ  khiến cho các  
em sẽ lưu giữ mài những từ vựng đã học.
     Theo báo cáo của trung tâm nghiên cứu kĩ thuật của Mỹ vào năm 1993: “ Con  
người lưu lại trong bộ nhớ được khoảng 20% những gì họ thấy  và khoảng 30%  
những gì họ nghe và con số này có thể lên đến 80% nếu họ thấy và nghe sự vật,  
hiện tượng một cách đồng thời”.

   Cũng qua điều tra tôi thấy rằng học sinh rất thích các bài hát tiếng Anh mà các 
em đã được nghe, xem trên các chương trình truền hình , phát thanh…Do vậy ở 
các tiết học nghe giáo viên có thể lồng ghép một bài hát với khoảng năm, mười  
chỗ trống .học sinh có thể nghe băng và điền vào chỗ  trống để có được bài hát 
hoàn chỉnh. Làm được như vậy thì giáo viên cần phải “updated” một chút ít các  
bài hát phù hợ lứa tuổi cũng như độ “ hot” của bài hát đó tránh những bài hát có 
nội dung không tôt đối với các em.
11


Vi du: The song: ­ “ Brown Girl in the ring” ( Boney M)
  Giáo viên photo bài hát này và phát cho mỗi em một bản trong khi nghe các em  
sẽ điền để hoàn thành bài hát.
  Brown girl in the ring ( tra la la la, la)
There’s  (1)…. Brown girl ……(2)…..in the ring ( tra la la la)
  Brown girl in the ring ( tralalala,la)
…..(3)……looks like …(4)….sugar in a plum.
Show…(5)….motion( tra la la la, la)
…(6)….on show me a motion ( tra la la la, la)
Show me a motion ( tra la la la, la)
She looks like a sugar in a plum.
Oh……………………..>>.
      Một điều nữa là giáo viên có thể tổ chức cho các em tham gia vào câu lạc bộ 
EM YÊU TIẾNG ANH  ở trường. Thời gian sinh hoạt mỗi tháng một lần. Dưới  
sự  hướng dẫn của giáo viên các em sẽ  tìm hiểu và thảo luận về  các vấn đề 
xung quanh môn học cũng như khám phá thêm về nền văn hóa Anh cũng như đất 
nước và con người Anh. Trong các buổi sinh hoạt câu lạc bộ  ,giáo viên có thể 
hướng dẫn học sinh viết kịch và đóng kịch bằng Tiếng anh hay cùng chia sẻ 
những tieur phẩm vui cười….Kịch ở đây có thể dài hay ngắn tùy thuộc vào trình 
độ của học sinh. Có thể cho các em sắm vai ngay trong những bài hội thoại của 

chương trình học.
    Ví dụ : GV có thể sưu tầm trên chuyên mục : 
để giupscho các buổi sinh hoạt CLB thêm phong phú.
        Sự khác nhau giữa “Start” và “ Begin” như thế nào ?
Cặp từ này đều mang nghĩa là “ bắt đầu” ,” khởi đầu” một việc gì đó . Nhưng  
Start   (n)   được   sử   dụng   cho   các   loại   động   cơ   và   xe   cộ   (engines   and  
vehicles).Chúng ta để ý ở cần điều khiển xe máy hay ô tô có in chữ này. ( Người 
ta không dùng “ Begin”
12


         Eg: Before the universe began, time and place did not exist.( Tr ước bu ổi s ơ 
khai của vũ trụ , không gian và thời gian chưa hề tồn tại )    Ngoài ra, giáo viên 
có thể  lồng ghép các hoạt động trò chơi liên quan đến kiến thức bài giảng hay 
có tính chất củng cố, ôn tập  để  giúp học sinh thư  giãn ­ Vừa học vừa chơi? 
Dưới đây là một số hoạt động thú vị và bổ ích.
     Hoạt động số  1: Gv chuẩn bị  một quả  bóng tennis ,dùng để  làm vật truyền 
tin .GV bật một đoạn nhạc lên ,HS chuyền tay nhau trái bóng này .GV không 
nhìn xuống lớp nhưng nhấn nút Pause ( tạm dừng) khi  ấy trái bóng ở  trong tay  
HS nào thì HS đó phải bốc thăm một câu hỏi( Các câu hỏi do gv chuẩn bị  từ 
trước để  trong một chiếc túi nhỏ) và trả  lời câu hỏi đó hoặc làm theo yêu cầu 
của lá phiếu thăm đó.Và tiếp tục cho đến lá thăm cuối cùng. Trò chơi này có thể 
rèn được cả từ vựng và ngữ pháp.
      Hoạt động số 2:
      GV yêu cầu cả lớp đứng lên và chia lớp thành 2 đội : Team Boys and Team  
Girls.Hai đội đứng thành hai hàng dọc . HS làm theo mệnh lệnh của giao viên.
­

Teacher: Standing in the order  of their names in the alphabet.


­

Students: Quickly find whose names come first then  moves to the next.

­

Teacher checks to find out which team finishes quickly and correctly.

­

So on ( GV tìm các đặc điểm như  thứ  tự  tháng sinh nhật, thứ  tự  size  
giày hoặc dép, chiều cao­ từ thấp đến cao hay ngược lại ).

         Hoạt động số 3:
­

Gv chia lớp làm 2 đội  đặt tên cho các doi theo con vật mà chúng yêu 
thích như : Lions, Tigers, little ducks, chicken and so on…

­

Mỗi   đội   cử   thành   viên   của   mình   lên   bảng   ,đứng   quay   lưng   vào  
bảng( không được ngoái cổ lại)

­

GV viết một từ lên bảng 

­


Các HS khác dưới lớp( trong đội của người lên bảng) phải miêu tả làm  
sao cho bạn mình nhận ra nội dung của từ mà gv đã viết .

­

Vi dụ: Gv viết từ “  A dog “
13


­

HS   có   thể   gợi   ý   bạn  mình  như   sau   :  This  animal   can  bark  when  a 
stranger comes to a house/ hoặc là: This animal helps the police a lot….

­

Học sinh làm nhiệm vụ đoán, cố gắng nghe và đoán xem bạn trong đội 
miêu tả về con gì hay điều gì.

­

Nếu học sinh đó đoán đúng đội đó ghi được 10 điểm.

­

Đội thắng cuộc là đội có số điểm cao nhất.

   Hoạt động 4: trò choi tung xúc sắc.
       GV chia lớp thành nhiều nhóm khoảng 6 hs /nhóm. Phát xuc sắc cho mỗi  
nhóm hs, trong nhóm tiếp tục chia thành 2 đội nhỏ.Lần lượt từng hs trong đội 

tung xúc sắc .Nếu bề mặt của xúc sắc rơi xuống có bao nhiêu chấm thì đội đó 
được tiến lên từng ấy nước.( Chỉ khi đội đó trả lời đúng câu hỏi của đội bạn)
Ví dụ: ­  What’s the weather like today?
­

How do you feel

­    How often do you go to the zoo ?
­

How do you go to school? 

­ So on. 
­

Đội nào về đích trước thì là đội chiến thắng.

    Với trò chơi này giúp hs luyện tập kĩ năng nghe , nói cũng như  kĩ năng giao  
tiếp. 
    Hoạt động 5:   Waking up ( GV thực hiện vào đầu tiết học buổi sáng­ tiết 1­ 
giúp học sinh khởi động 
để   các   em   hào   hứng 
bước vào giờ  học Tiếng 
anh).
 GV hô to : 
          ­   Students, stand 
up!                             ( Hs 

hot weather
go

on
well
help
many
swim
throw
sing
me
english

fish
school
song
not
close
run

look
my
student Dog
carrots open
desk
to
teacher year
sing
cold

làm theo mệnh lệnh của gv)
­ Students,  dance !
14



­

Students , wash your faces!

­

Students, brush your teeth!

­

Students, comb your hair!

­ Students, have breakfast!
­

Students, drink some water!

­ Students, run to school!
­ Students, say hello to your friends!
­ Students, shake your friends’ hands!
­ Students, close your eyes and shout aloud!
­

Students, sit down!

­

Students, open your books and have a lesson with me!


      Như vậy chắc hẳn là học sinh được :                    Play
Learn and
Grow …...………
Together !
  3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp. 
   Trong quá trình giảng dạy ,người giáo viên có thể có những hạn chế, thói quen 
nào đó ảnh hưởng đến tâm lí , hứng thú học tập của học sinh. Do vậy chúng ta  
thường xuyên thăm dò khảo sát học sinh. Lắng nghe ý kiến của các em và các 
đồng nghiệp để điều chỉnh, phát huy tối đa ưu điểm và khắc phục những nhược 
điểm của mình để  dạy thật tốt và làm cho học sinh học tốt hơn qua mỗi ngày 
đến trường.
     Chắc chắn rằng khi đã hiểu biết hơn về  những điều mới lạ  cũng như  giải 
quyết được những vướng mắc trong buổi học  ở  lớp các em sẽ  thêm tự  tin vào  
bản thân mình nhờ làm chủ được tri thức.
   Một điều không thể  phủ  nhận là tâm lí dạy học của người giáo viên  ảnh 
hưởng một cách tích cực hoặc tiêu cực đến người học. Do vậy người giáo viên 
khi bước vào lớp là phải gác lại tất cả các công việc khác, những lo toan phiền 
toái của cuộc sống đời thường. Đặc biệt với đối tượng là các em học sinh lớp 3  
15


giáo viên luôn phải có thái độ khuyến khích, động viên ,gần gũi hơn với các em , 
“ Luôn luôn lắng nghe ,luôn luôn thấu hiểu “ để giúp đỡ các em sửa lỗi sai trong  
phát âm cũng như các dạng bài tập ngữ pháp. Mỗi thày cô giáo còn là cha mẹ , là 
người bạn lớn của những người bạn nhỏ nữa đấy…. Có như  thế học sinh mới 
tin tưởng và mạnh dạn hỏi chúng ta về những vướng mắc hay khó khăn mà các  
em gặp phải. Học­ Hỏi  không ngừng , coi giáo viên là “ nguồn tài nguyên vô tận  
cần khai thác” , là “cuốn từ  điển sống “,…. Chắc chắn các em sẽ  không coi 
những bài kiểm tra ngoại ngữ    là đáng sợ  nữa, hơn nữa   các em sẽ  tìm được  

hứng thú học tập cho mình và như vậy chắc chắn các em sẽ thành công sau này. 

   3.4. Kết quả  thu được qua khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn đề 
nghiên cứu.
      Môn học Tiếng anh là môn học mà các em học sinh coi là khó nhất trong tất  
cả  các môn học. Tuy nhiên chương trình Tiếng anh 3 là chương trình của lớp 
đầu cấp học cũng đã có ít nhiều sự  giảm tải đáng kể. Dưới sự  quan tâm, chỉ 
đạo của Phòng Giáo dục , nhà trường  cũng đã  trang bị các thiết bị phục vụ cho  
dạy và hiện nay là nhà trường cũng trang bị được 2 một phòng học thông minh  
cùng trang bị các máy tính bảng đang được đưa vào sử dụng. Bên cạnh đó tất cả 
các phòng học đều được trang bị đầy đủ máy tính, máy chiếu thuận lợi cho giáo  
viên lên lớp đạt kết quả cao….Tuy nhiên đường truyền cáp quang chưa đạt hiệu  
quả. Phần mềm còn lỗi. Bên cạnh những thuận lợi và khó khăn nêu trên thì  
chúng tôi đã cố gắng tạo niềm say mê học tập cho các em để các em có cái nhìn 
mới về môn học. Các giờ học ngoại ngữ đã sôi nổi hơn nhiều , nhiều học sinh  
đã tự tin trình bày ý kiến của mình bằng tiếng anh dù đôi khi gặp các câu các em 
không diễn tả được các em xen lẫn tiếng Việt vào ….thật hồn nhiên.
     Dưới đây là kết quả  kiểm tra chất lượng học sinh lớp 3 cuối năm học vừa  
qua( 2013­ 2014) tại trường Tiểu học Quyết Thắng.

16


Lớp

Sĩ số

              Chất lượng cụ thể
  Giỏi


  Khá

Ghi ch ú

Trung   Yếu

Bình
3A
35
17
8
10
3B
31
7
11
13
3C
32
5
13
14
     Bên cạnh đó dã có nhiều học sinh khối lớp 3,4 ,5 đăng ký thi học sinh giỏi 
IOE trên mạng và dành được giải nhất, giải nhì, giải ba, giải tư … Các em học 
sinh khối 3 đăng kí, lập Nick tự  luyện Tiếng anh các vòng ngay  ở  nhà. Điều  
quan trọng là các em đã yêu thích môn học hơn trước đây rất nhiều, do đó chất 
lượng học tập môn Tiếng anh đã tăng lên từng bước. Đây là một sự  thay đổi 
đáng mừng  đối  với các giáo viên dạy ngoại ngữ   ở  trường Tiểu học Quyết  
Thắng 
 III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:

 1. Kết luận:
   “ Bước đầu xây dựng hứng thú học tập môn học Tiếng anh đối với học 
sinh khối lớp 3”­ là những kinh nghiệm được tích lũy qua quá trình nghiên cứu 
và tìm hiểu trong công tác giảng dạy của mình và hơn nữa là lòng yêu người,  
yêu nghề suốt mười sáu năm qua .
   Học môn gì cũng vậy để thành công người học phải thật kiên trì say mê mới  
được .Có hứng thú học tập thì học sinh sẽ cảm thấy giờ học trôi qua một cách  
nhanh chóng không giống như  trước đây học sinh mong cho nhanh hết giờ  để 
được ra chơi …Vừa học ,vừa chơi những trò chơi thú vị  qua những hoạt động 
sôi nổi, bổ ích giúp học sinh nhớ bài lâu hơn …Qua mỗi bài học, các em sẽ thêm  
yêu môn học hơn nữa.
    Tạo hứng thú học tập Tiếng Anh  cho học sinh lớp 3 để rồi từ đó các em học 
lên các lớp cao hơn ,bậc học tiếp theo sẽ giúp các em có được nền tảng vững 
chắc về  tri thức ,từ  đó các em khẳng định được mình và thành công hơn trong  
học tập.
17


Để làm tốt đợc việc này cần phải kiên trì, sáng tạo và phải có tính hệ
thống cao. Giỏoviờncnnmvngtõmlớlatui,khnngt duycatng
hcsinh phỏthuyhiuqu cỏcphngphỏptohngthỳtronggi hc
TingAnh.Cỏcphngphỏp,phngtindyhcphickthpmt
cỏchnhunnhuyn,nhpnhng,phựhpvitngchim,ch,nvbi
hc.
Bờncnhú,giỏoviờnnờnkhaithỏctiadựngphngtindyhcsn
cútrongsgk,thvin,nhtrng,aphngvkhụngngngsỏngtotch
bdựngdyhcchoriờngmỡnh.Tngbchctpnõngcaoỏpdngcụng
ngh thụngtinvotronggingdymtcỏchhiuqu btkpvis phỏt
trincaxóhitrongthikỡhinhp.
Cỏcphngphỏp,cỏchgiiquyttinycũnrtnhiusongdothigian

nghiờncucúhnnờnõytụichnờuramtvivớd cỏcbncựngtham
kho,bnbc,suyngm,únggúpýkin ngycnghiusõuhn,cúcỏch
giiquyttthn.
Nidungtióphnnophnỏnh,giiquytcthctinvtớnhcp
thitcavn;nhngmctiờura.
Vphớabnthõntụi,tụixinhastiptcnghiờncu,ỏpdngtivo
gingdy,khụngngngnlcthc,tbidngkinthcvchuyờnmụn
cngnhvcụngnghthụngtin phỏthuyhnnavicỏpdng,m rng
tivocỏckhilphcsinhlnhnnhmthchinttcụngviccngnh
trỏchnhimcamtngithytrongsnghipTrngNgi.
Tuynhiờn,viiukinkhụnggian,thigian,vtrỡnhcabnthõncũn
hnchnờnkhụngtrỏnhkhinhngthiusút.Tụirtmongnhncsquan
tõm,thamgiaúnggúpýkincacỏcbccụchỳ,anhch,bnbốngnghip
nidungcatichonthinhn.
18


2. Kiến nghị:
        Xuất phát từ  cơ  sở  lý luận, thực tiễn, mục đích dạy học cũng như  những  
thành công và hạn chế  trong khi thực hiện đề  tài, để  góp phần cho việc dạy 
Tiếng anh nói chung đạt hiệu quả cũng như đạt được mục tiêu của đề  án Quốc 
ngữ, bản thân tôi xin có một số kiến nghị sau:
­   Hệ thống điện cần phải tu sửa để đảm bảo tính hữu dụng và an toàn khi sử 
dụng .
  ­ Ngoài ra, do đặc điểm của ngành nghề nói chung và của môn ngoại ngữ nói  
riêng (sử dụng các hoạt động trò chơi áp dụng trong giờ  học) đòi hỏi giáo viên  
phải nói to, dài hơi… do vậy đối với cơ sở vật chất, phương tiện dạy học của  
bộ  môn này tôi đề  nghị  nhà trường trang bị thêm cho chúng tôi một thiết bị trợ 
giảng   như   microphone   kèm   loa.   Để   chúng   tôi   thực   hiện   hiệu   quả   hơn   nữa 
nhiệm vụ của mình.

­ Phòng chức năng mạng wifi phải thông suốt đường truyền tốc độ  cao để 
giáo viên có thể  truy cập mạng và download các trò chơi , các bài hát hay các  
hoạt động học tập khác phục vụ công tác giảng dạy được diễn ra tốt hơn. Bên 
cạnh đó hệ  thống tai nghe và loa của học sinh  ở  phòng máy cần đảm bảo hơn 
nữa cho học sinh luyện nghe được tốt hơn.
                                                                                                            Xin chân thành cảm ơn !
             

  Mạo Khê ngày 24 tháng 3 năm 2015.

         Hiệu trưởng

Người thực hiện

                                                                    

      Bùi Thị Hải Thu                                                 Nguyễn Thị Thùy Linh
19


IV. Tài liệu tham khảo­ Phụ lục. 
1. SGV, SGK míi líp 3,4,5 cña Bé GD-§T.
2. English language Teaching Methodology cña Bé GD-§T 2003.
3. The ELTTP Methodology course.
4. Gi¸o dôc häc ®¹i cương - NXB Hµ Néi 1995.
5. §¸nh gi¸ trong Gi¸o dôc cña Bé GD-§T.

20



6. S¸ch “ Mét sè vÊn ®Ò vÒ ®æi míi phương ph¸p d¹y häc bËc Tiểu học
m«n tiÕng Anh..... cña Bé GD-§T ”
7. Tµi liÖu tËp huÊn ®æi míi phương ph¸p m«n tiÕng Anh líp 3,4,5.

21



×