Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Chức năng, nhiệm vụ của công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã – từ thực tiễn xã hiệp thuận, huyện phúc thọ, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.61 KB, 95 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH YN

CHứC NĂNG, NHIệM Vụ CủA CÔNG CHứC TƯ
PHáP Hộ TịCH CấP Xã - Từ THựC TIễN Xã HIệP
THUậN,
HUYệN PHúC THọ, THàNH PHố Hà NộI

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2019


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH YN

CHứC NĂNG, NHIệM Vụ CủA CÔNG CHứC TƯ PHáP
Hộ TịCH CấP Xã - Từ THựC TIễN Xã HIệP THUậN,
HUYệN PHúC THọ, THàNH PHố Hà NộI
Chuyờn ngnh: Lut Hin phỏp v lut hnh chớnh
Mó s: 8380101.02

LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: GS.TS PHM HNG THI

H NI - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ
tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem
xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Yến


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Chương 2: Thực trạng chức năng, nhiệm vụ của công chức tư pháp – hộ tịch
cấp xã tại Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.............................7
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã.............................................7
1.1.Khái niệm, đặc điểm, vai trò, tiêu chuẩn của công chức tư pháp – hộ tịch
cấp xã.................................................................................................................8
1.2.Chức năng, nhiệm vụ của công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã.................14

1.3.Những yêu tố đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của công chức tư
pháp – hộ tịch..................................................................................................29
Chương 2.........................................................................................................34
THỰC TRẠNG CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA CÔNG CHỨC...............34
TƯ PHÁP – HỘ TỊCH CẤP XÃ TẠI XÃ HIỆP THUẬN,.............................34
HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI..............................................34
2.1. Đặc điểm, tình hình xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
ảnh hưởng tới chức năng, nhiệm vụ của công chức tư pháp – hộ tịch của xã
Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội...........................................34


2.2. Thực trạng quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của công chức
tư pháp – hộ tịch cấp xã...................................................................................37
2.3. Kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của công chức tư pháp – hộ tịch
cấp xã tại xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội......................40
Chương 3.........................................................................................................63
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA CÔNG CHỨC TƯ PHÁP –.....................63
HỘ TỊCH CẤP XÃ..........................................................................................63
3.1. Những quan điểm chỉ đạo Đảng và Nhà nước về việc nâng cao chức
năng, nhiệm vụ công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã hiện nay.........................63
3.2. Giải pháp..................................................................................................66


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TĂT
CCTP-HT: Công chức tư pháp – hộ tịch
HĐND:

Hội đồng nhân dân


PBGDPL:

Phổ biến, giáo dục pháp luật

UBND:

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1

Tổng hợp số liệu các vụ việc đăng ký hộ tịch tại xã Error:
Hiệp Thuận năm 2018
Referenc
e source
not
found

Bảng 2.2

Kết quả khảo sát đánh giá của người dân khi đến Error:
UBND xã giải quyết công việc đối với CCTP- Referenc

HTcấp xã trên địa bàn
e source
not
found


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) có vị trí rất quan trọng trong
hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương của nước ta hiện nay. Hệ
thống chính quyền đều được cầu thành từ các chính quyền địa phương cấp xã
và sự vững mạnh của chính quyền cấp xã là nền tảng cho sự vững mạnh của
hệ thống chính quyền trong cả nước và ngược lại. Khâu quan trọng quyết định
sự vững mạnh của hệ thống chính quyền cơ sở phải nói đến khâu tổ chức,
quản lý cán bộ, công chức hay nói cách khác đội ngũ cán bộ, công chức là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước và chế độ, là then chốt trong công tác xây dựng Đảng,
trung tâm trong kiện toàn hệ thống Nhà nước. Cán bộ, công chức cấp xã là
những người gần dân nhất, trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, hàng ngày triển
khai, hướng dẫn, vận động nhân dân thực hiện mọi chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trực tiếp lắng nghe, giải quyết
hoặc kiến nghị lên chính quyền cấp trên những kiến nghị, ý kiến, nguyện
vọng của nhân dân.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII xác định: “Rà soát, sửa
đổi, bổ sung chính sách đối với cán bộ, công chức theo hướng khuyến khích
cán bộ, công chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công
vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; lấy bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng

lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Xây
dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài”.
Chương trình 08-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội khóa XVI về Đẩy mạnh
cải cách hành chính, tạo bước chuyển mạnh về kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách
nhiệm, chất lượng phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên

1


chức giai đoạn 2016 – 2020 chỉ ra một trong những mục tiêu, nhiệm vụ quan
trọng:
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đồng bộ, thực sự
trong sạch, vững mạnh, có đủ trình độ, phẩm chất, đạo đức và năng
lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, trọng tâm là tạo bước
chuyển mạnh về kỷ luật, kỷ cương, ý thức, trách nhiệm, chất lượng
phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định:
Công chức cấp xã có các chức danh sau đây: Trưởng công an; chỉ
huy trưởng quân sự; văn phòng - thống kê; địa chính - xây dựng đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã); tài chính - kế
toán; tư pháp - hộ tịch; văn hóa - xã hội.
Trong đó, CCTP-HT cấp xã tham mưu giúp UBND cấp xã tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 7 Thông tư liên tịch số
01/2009/TTLT-BTP-BNV về hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc UBND cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc
UBND cấp huyện và Công tác Tư pháp của UBND cấp xã.
Với địa vị pháp lý của mình, CCTP-HT cấp xã thực hiện một trong
những nhiệm vụ hết sức quan trọng của chính quyền địa phương. Đảng, Nhà
nước ta coi công tác tư pháp cấp xã là một trong những biện pháp quan trọng
góp phần tăng cường mối quan hệ, đoàn kết, nhất trí của Đảng, Nhà nước và
nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân

dân, vì nhân dân. CCTP-HT là những người thường xuyên và trực tiếp tiếp
xúc với nhân dân địa phương, giải quyết yêu cầu, kiến nghị của nhân dân, là
người trực tiếp xử lý các công việc hàng ngày của Nhà nước; trực tiếp giải
quyết những công việc của địa phương mình và lắng nghe mọi ý kiến, nguyện

2


vọng của nhân dân mà không phải qua khâu trung gian nào, như vậy, CCTPHT là những người thường xuyên, hàng ngày áp dụng pháp luật và bằng hành
vi hành chính của mình giải quyết các công việc hành chính trong nội bộ địa
phương; phổ biến, triển khai thực hiện mọi chủ trương, nghị quyết của Đảng,
Nhà nước và giải quyết những công việc hành chính ở địa phương về chứng
thực, hộ tịch, hòa giải ở cơ sở, thi hành án dân sự, hình sự, quản lý nhà nước
trên địa bàn…, các công việc này nếu được giải quyết tốt ở cơ sở thì hiệu quả
hoạt động của bộ máy nhà nước sẽ cao hơn.
CCTP-HT cấp xã là bộ phận chuyên môn, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của
chính quyền cơ sở đồng thời chịu sự chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của các
cơ quan tư pháp cấp trên, là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện của Ngành Tư pháp
nhằm đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống của nhân dân, nâng cao ý thức
pháp luật, góp phần duy trì pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
thực hiện dân chủ và công bằng xã hội ở cơ sở. Nói cách khác CCTP-HT xã
chính là cánh tay nối dài của Chính quyền cơ sở trong việc lãnh đạo, quản lý
địa phương.
Xã Hiệp Thuận thuộc huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, được sáp
nhập vào thủ đô từ năm 2008. Từ thời điểm đó đến nay xã có những bước
chuyển biến rõ rệt. Xuất phát điểm là một xã nông thôn nghèo nhưng qua hơn
10 năm, xã đã cố gắng vươn lên xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, quá
trình phát triển kinh tế của xã lại có nhiều khó khăn, do còn tồn tại các tệ nạn
xã hội, người dân tiếp cận pháp luật còn hạn chế. Chính vì vậy, để nâng cao
chất lượng và làm rõ chức năng, nhiệm vụ của CCTP-HT cấp xã để việc bảo

đảm thực hiện pháp luật, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, tác giả quyết định lựa chọn chủ đề “Chức năng, nhiệm vụ của công
chức tư pháp – hộ tịch cấp xã, từ thực tiễn xã Hiệp Thuận, huyện Phúc
Thọ, thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ.

3


2. Tình hình nghiên cứu
Tại Việt Nam đã có rất nhiều những bài viết, công trình nghiên cứu về
công tác tư pháp – hộ tịch cấp xã cũng như về chức năng, nhiệm vụ của
CCTP-HT cấp xã như:
Các bài viết đăng trên các tạp chí gồm: “Địa vị pháp lý của công chức
tư pháp – hộ tịch cấp xã trong quản lý nhà nước về công tác tư pháp của Ủy
ban nhân dân cấp xã giai đoạn hiện nay” của Th.S Trần Thị Mai – Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật; “Nâng cao năng lực công chức Tư pháp – Hộ tịch
trong giai đoạn hiện nay” Trần Văn Quảng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số
tháng 9/2006); “Thực trạng đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch và yêu cầu
chuẩn hóa” Trần Lệ Hoa, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề Pháp
luật hộ tịch năm 2013; “Nâng cao năng lực đội ngũ công chức tư pháp – hộ
tịch trong giai đoạn hiện nay” Trần Văn Quảng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật
số tháng 9 năm 2016; “Tư pháp Hà Nội không vì khó khăn mà từ chối đăng ký
khai sinh” Đàm Thị Kim Hạnh, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 3 năm
2008;
Các đề tài nghiên cứu khoa học, báo cáo hay luận văn nghiên cứu các
vấn đề lý luận, thực tiễn về CCTP-HT gồm: Luận văn Thác sĩ luật học của
Nguyễn Hữu Đính “Công tác tư pháp – hộ tịch ở cấp xã: Những vấn đề lý
luận và thực tiễn ở tỉnh Bắc Giang” năm 2008; Luận văn Thạc sĩ luật học của
Nguyễn Văn Tuấn “Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch, qua
thực tiễn thành phố Hà Nội” năm 2015; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Bùi

Thị Tư “Quản lý hột tịch – Qua thực tiễn ở Hải Phòng” năm 2014; Luật văn
Thạc sĩ Luật học của Trương Thị Vân Anh “Quản lý nhà nước về hộ tịch ở
cấp xã, thực tiễn ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội” năm 2015
Cho đến nay cũng đã có khá nhiều những công trình nghiên cứu về
những khía cạnh về công tác tư pháp và công tác hộ tịch nhưng chưa có đề tài

4


nào nghiên cứu một cách cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của những CCTP-HT
cấp xã một cách cụ thể và đẩy đủ, từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao chức
năng, nhiệm vụ của những CCTP-HT cấp xã trong thực tiễn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu của luận văn là nhằm nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận
về chức năng, nhiệm vụ của CCTP-HT cấp xã theo quy định của pháp luật
hiện nay. Đánh giá thực trạng về hoạt động của CCTP-HT tại xã Hiệp Thuận,
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, đề xuất các giải pháp cho cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tiếp tục bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện những văn bản
pháp luật để nâng cao hiệu quả hoạt động của đối với CCTP-HT cấp xã.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Để thực hiện được mục tiêu tổng quát trên, luận văn đề ra những mục
tiêu cụ thể như sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chức năng, nhiệm vụ cũng như
địa vị pháp lý của CCTP-HT cấp xã
- Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động của CCTP-HT cấp
xã tại xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
- Đề xuất những giải pháp, tham mưu, góp ý cho cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiếp tục bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện những văn bản pháp luật
để nâng cao hiệu quả hoạt động của CCTP-HT cấp xã

4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn có những điểm mới như sau:
- Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn để góp phần chuẩn hoá
hệ thống các khái niệm, quy định liên quan đến chức năng, nhiệm của CCTPHT cấp xã.
- Nghiên cứu khái quát và đánh giá thực tiễn hiệu quả hoạt động của
CCTP-HT cấp xã tại xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội

5


nhằm đề xuất, kiến nghị về phương hướng xử lý các tình huống phức tạp trên
thực tế đạt hiệu quả.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chức năng, nhiệm vụ và kỹ năng của CCTPHT cấp xã tại xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: UBND xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ, thành
phố Hà Nội.
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2005 đến nay.
6. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu
6.1. Nội dung nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam chức
năng, nhiệm của CCTP-HT cấp xã.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu truyền thống là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: Hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình chuyên khảo có hệ thống và toàn diện, góp phần
hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ

của CCTP-HT cấp xã và nâng cao nhiệm vụ của công chức tư phá trong hoạt
động công vụ. Thông qua các giải pháp đề tài đề xuất góp phần hoàn thiện
hơn nữa hệ thống lý luận cũng như cung cấp thông tin cho các cơ quan, cán
bộ, công chức có thẩm quyền trong đổi mới, nâng cao hiệu quả trong hoạt
động thực hiện nhiệm vụ của CCTP-HT cấp xã.
Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho việc xây dựng các quy định của
pháp luật về nâng cao chức năng, nhiệm vụ của CCTP-HT cấp xã nói chung
và công chức nói riêng.

6


8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, cấu trúc
luận văn bao gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về công chức tư pháp – hộ tịch
cấp xã.
Chương 2: Thực trạng chức năng, nhiệm vụ của công chức tư pháp –
hộ tịch cấp xã tại Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ
CÔNG CHỨC TƯ PHÁP - HỘ TỊCH CẤP XÃ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, tiêu chuẩn của công chức tư pháp –
hộ tịch cấp xã

1.1.1. Khái niệm công chức
Thuật ngữ “Công chức” có thể nói đã xuất hiện từ khá lâu và lịch sử
khá lâu dài, từ thời kỳ phong kiến Trung Quốc đội ngũ công chức manh nha
hình thành, bắt đầu bằng các học thuyết về tổ chức nhà nước và Nho
giáo của Khổng Tử và được áp dụng chặt chẽ hơn, nâng lên thành thiết chế
dưới thời của Hán Vũ Đế thuộc triều Hán vào khoảng thế kỷ thứ III Công
nguyên (206- 220 CN) thời này với học thuyết Nho giáo thịnh hành, tổ chức
chính quyền của Trung Hoa phong kiến đã chia thành 06 bộ (Lục bộ) như Bộ
binh, Bộ hình, Bộ lại, Bộ lễ, Bộ công, Bộ hộ và mô hình này ảnh hưởng đến
nhiều nước như Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản.
Đến thế kỷ thứ XVI thì hệ thống công chức bắt đầu hình thành và phát
triển ở châu Âu phong kiến. Tuy nhiên thuật ngữ công chức chính thức được
ra đời tại nước Anh trong thế kỷ XIX (năm 1847) [24].
Thuật ngữ “Công chức” ở Việt Nam đã được sử dụng đầu tiên trong
Sắc lệnh số 76/SL của Chủ tịch nước nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà Số
76/SL ngày 20/5/1950. Theo Sắc lệnh:
Những công Dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để
giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở
trong hay ở ngoài nước, đều là công chức theo Quy chế này, trừ
những trường hợp riêng biệt do Chính phủ định.

8


Đến Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng số 169-HĐBT ngày 25/5/1991
về công chức nhà nước quy định:
Công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công
vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở Trung ương
hay địa phương; ở trong nước hay ngoài nước; đã được xếp vào
một ngạch, hưởng lương do ngân sách Nhà nước cấp gọi là công

chức Nhà nước.
Pháp lệnh Cán bộ công chức năm 1998 đưa ra khái niệm chung về cán
bộ, công chức, và Nghị định số 95/1998/NĐCP của Chính phủ ngày
17/11/1998 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức đưa ra khái niệm về
công chức.
Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008 đưa ra khái niệm chi tiết về
công chức như sau:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn
vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [29].

9


Chức danh công chức cơ sở: Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng
công án chính quy); Chỉ huy trưởng quân sự Văn phòng – thống kê; Địa chính
– xây dựng – đô thị - môi trường (đối với phường, thị trấn), địa chính - xây
dựng – nông nghiệp – môi trường (đối với xã); Tài chính – kế toán; Tư pháp –
hộ tịch; Văn hóa – xã hội.
Đây là nhóm người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên

môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã. Trong điều kiện hiện nay, làm việc ở
cấp cơ sở còn có một lực lượng lao động đặc biệt. Đó là những “công chức dự
bị” của các cấp cao hơn được đưa về làm việc tại cơ sở.
1.1.2. Khái niệm công chức tư pháp – hộ tịch
Thuật ngữ “Tư pháp” được bắt nguồn từ thuật ngữ “Juristice” theo chữ
Latinh, có thể hiểu là “công lý” hay “nền công lý”. Tư pháp được quan niệm
như là một ý tưởng cao đẹp về nền công lý, việc giải quyết các tranh chấp,
mâu thuẫn trong xã hội phải đúng pháp luật, hợp lẽ công bằng và các chuẩn
mực khác. Tư pháp cũng có thể hiểu là “nền tư pháp” mà ở đó bao gồm cả hệ
thống pháp luật và các thiết chế nhằm duy trì, bảo đảm việc thi hành một cách
nghiêm minh hệ thống pháp luật đó, phát huy hiệu quả thực tế của chúng
trong đời sống xã hội. Tư pháp theo nghĩa Hán - Nôm là “gìn giữ pháp luật”
hay “bảo vệ pháp luật”.
Tư pháp được coi là một lĩnh vực tổ chức và hoạt động đặc biệt của
Nhà nước nhằm duy trì an ninh, an toàn và công bằng xã hội. Nói cách khác,
tư pháp có nhiệm vụ duy trì và bảo vệ công lý.
Vào thời kỳ trước năm 1975, lần đầu tiên thuật ngữ “Hộ tịch” được tác
giả Phan Văn Thiết đưa ra như sau: “Hộ tịch – còn gọi là nhân thế bộ - là cách
sinh hợp pháp của một công dân trong gia đình và trong xã hội. Hộ tịch căn
cứ vào ba hiện tượng quan trọng nhất của con người: sinh, giá thú và tử” [34].
Theo tác giả Vũ Văn Mẫu – Lê Đình Chân đưa ra một định nghĩa khác:

10


“Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các người trong nhà. Hộ tịch
gồm ba sổ để ghi chép các sự khai giá thú, khai sinh và khải tử” [25].
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, định nghĩa hộ tịch được
đưa ra tại Nghị định số 83/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/10/1998 về
đăng ký hộ tịch, đến Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký

và quản lý hộ tịch như sau: “Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình
trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết đi”. Đồng thời
Luật Hộ tịch năm 2014 còn nêu thêm khái niệm “đăng ký hộ tịch” như sau:
1. Hộ tịch là những sự kiện được quy định tại Điều 3 của Luật này, xác
định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết.
2. Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác
nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ
sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, thực hiện quản lý về dân cư [31].
Trong thời kỳ sau cách mạng tháng 8 Chính phủ ban hành lần lượt Sắc
lệnh 63/SL cho đến năm 1998, đội ngũ thực hiện công tác tư pháp và công tác
hộ tịch tại cấp xã được gọi chung là Ban Tư pháp. Thuật ngữ “Cán bộ hộ tịch
tư pháp” xuất hiện đầu tiên tại Nghị định 83/1998/NĐ-CP của Chính phủ ban
hành ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch.
Nghị định của Chính phủ số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về Cán
bộ, công chức xã, phường, thị trấn quy định về công chức được tuyển dụng,
giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã trong đó
có CCTP-HT. Kể từ sau đó, trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ta đều
thống nhất sử dụng chung thuật ngữ CCTP-HT.
Sự ra đời của thuật ngữ CCTP-HT là việc sử dụng đồng thời lồng ghép
giữa các chức danh của công chức làm công tác tư pháp và công tác hộ tịch,
trên cơ sở sử dụng cùng lúc hai công tác trên cho ra đời chức danh CCTP-HT

11


thì nhà nước có thể áp dụng chung chế độ và chính sách cho cùng 1 chức
danh công chức nhằm tinh giản bộ máy hành chính ở địa phương. Nhưng
trong thực tế thì đây là hai công tác hoàn toàn khác nhau, công tác tư pháp
mang tính chất hành chính trật tự, còn công tác hộ tịch đòi hỏi sự ổn định,

thường xuyên, liên tục và chuyên môn cao.
CCTP-HT tại các xã, phường, thị trấn là những người chăm lo mọi việc
pháp lý liên quan đến quyền lợi của người dân trong suốt vòng đời sinh tử của
họ, từ việc lấy vợ, lấy chồng, sinh con, nuôi con, giao dịch nhà đất, hòa giải
các tranh chấp nhỏ trong đời sống ở thôn, làng...
Từ những quy định của pháp luật về công chức, nội dung về tư pháp,
hộ tịch, có thể hiểu: CCTP-HT cấp xã được hiểu như là công chức cấp xã,
giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trong đăng
ký và quản lý hộ tịch. Đối với những xã, phường, thị trấn có đông dân cư, số
lượng công việc hộ tịch nhiều, thì phải có cán bộ chuyên trách làm công tác
hộ tịch, không kiêm nhiệm các công tác tư pháp khác.
1.1.3. Đặc điểm, vai trò, tiêu chuẩn của công chức tư pháp – hộ tịch
cấp xã
Với vị trí là một bộ phận của công tác quản lý nhà nước, CCTP-HT cấp
xã chủ yếu quản lý các hoạt động phát sinh trong phạm vi ở cơ sở và tham
mưu cho chủ tịch UBND cấp xã về lĩnh vực tư pháp theo quy định của pháp
luật. Tuy nhiên, khối lượng công việc lớn và không ngừng gia tăng do sự gia
tăng dân số và tính chất ngày càng phức tạp của các quan hệ xã hội. Với vị trí
là cấp cơ sở gần dân nhất so với chính quyền cấp huyện và tỉnh, tư pháp cấp
xã không chỉ trực tiếp triển khai và thực hiện các chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về công tác tư pháp và đăng ký hộ tịch
mà còn là bộ phận tương tác trực tiếp với quyền và lợi ích của người dân, thể
hiện sự công bằng của pháp luật, quyền làm chủ của nhân dân, đánh giá tính

12


hiệu quả và phù hợp của các chính sách pháp luật. Chủ trương, đường lối,
chương trình, kế hoạch công tác của cơ quan tư pháp cấp trên chỉ được thực
hiện khi được triển khai chất lượng và hiệu quả tại cấp xã.

CCTP-HT phần lớn là dân bản địa, hoặc do sự quản lý của Phòng nội
vụ, cư trú và sinh sống tại địa phương, có mối quan hệ dòng tộc và gắn bó với
người dân địa phương. Yếu tố này chi phối các hoạt động của họ, đặc biệt
trong việc giải quyết những vấn đề có liên quan đến quan hệ giữa các lợi ích
cá nhân - cộng đồng - Nhà nước. CCTP-HT do nhiều nguyên nhân họ ít được
đào tạo, bồi dưỡng và thường xuyên biến động, không ổn định và tính chuyên
nghiệp không cao. Về số lượng, biên chế của Uỷ ban nhân dân cấp xã tối
thiểu 01 CCTP-HT. Đối với những địa bàn có khối lượng công việc lớn, căn
cứ vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm
bố trí đủ CCTP-HT để đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.
Về tiêu chuẩn
+ Tuổi đời: không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu;
+ Học vấn: tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng, đô
thị, tốt nghiệp trung học cơ sở đối với khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa;
+ Lý luận chính trị: sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý
luận chính trị tương đương với trình độ sơ cấp trở lên;
+ Chuyên môn nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng, đô thị có trình độ
trung cấp Luật trở lên và phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp xã
sau khi tuyển dụng; phải sử dụng được tin học văn phòng. Với CCTP-HT
đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng nghiệp
vụ tư pháp cấp xã; nếu được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trung cấp
Luật trở lên; phải qua bồi dưỡng quản lý hành chính nhà nước. Riêng đối với
địa bàn thành phố Hà Nội, việc tuyển dụng ngoài những tiêu chuẩn trên thì
áp dụng Điều 6 Quyết định số 20/2014/QĐ-UBND của UBND thành phố Hà

13


Nội ngày 16/5/2014 về việc ban hành quy chế tuyển dụng công chức xã,
phường, thị trấn và nội quy kỳ thi tuyển công chức xã, phường, thị trấn trên

địa bàn thành phố Hà Nội đối với yêu cầu về trình độ, ngành hoặc chuyên
ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng chức danh công chức
cấp xã đều phải từ Đại học.
Bên cạnh đó, Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV quy định
số lượng CCTP-HT có thể thay đổi để phù hợp với khối lượng công việc và
điều kiện cụ thể của từng địa phương. Việc bố trí số lượng CCTP-HT sẽ do
UBND cấp tỉnh quyết định.
Do đó, theo các quy định này, CCTP-HT là chủ thể duy nhất chịu trách
nhiệm thực hiện và báo cáo về việc thực hiện các nhiệm vụ tư pháp được giao
trước UBND cấp xã. Tuy nhiên, do nhiệm vụ của CCTP-HT tương đối rộng,
có khối lượng công việc lớn nên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, CCTPHT cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội ở địa phương cũng như các công chức chuyên môn khác, đảm bảo việc
giải quyết công việc kịp thời, chất lượng và hiệu quả. Như vậy, đối với chính
quyền cấp xã, việc thực hiện công tác tư pháp thuộc trách nhiệm của UBND,
CCTP-HT là người tham mưu, giúp việc cho UBND, chịu trách nhiệm trước
UBND cấp xã về việc thực hiện các nhiệm vụ được giao.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã
Công tác tư pháp và hộ tịch cấp xã bao gồm nhiều hoạt động có quan
hệ đến các ban, ngành và đoàn thể ở địa phương, do vậy, để phối hợp triển
khai đồng bộ và toàn diện cần dự kiến trước các hoạt động và các đảm bảo
các điều kiện thực hiện trong phạm vi các chương trình và kế hoạch cụ thể.
Việc triển khai thực hiện nhiệm vụ này do CCTP-HT chủ trì giúp UBND cấp
xã thực hiện. CCTP-HT có vai trò là người trực tiếp xây dựng, theo dõi, báo
cáo tình hình thực hiện các chương trình, kế hoạch. Để đảm bảo tính phù hợp,

14


đúng đắn của chương trình, kế hoạch công tác tư pháp, việc xây dựng chúng
cần phải có sự tham gia góp ý kiến của một số công chức chuyên môn cấp xã,

các tổ chức, đoàn thể quần chúng có liên quan trên địa bàn. UBND cấp xã,
với tư cách là chủ thể quản lý nhà nước chịu trách nhiệm về việc ban hành, tổ
chức thực hiện và kiểm tra tình hình thực hiện các chương trình, kế hoạch
công tác tư pháp, phải tạo cơ chế làm việc cho CCTP-HT trong việc phối hợp
với các công chức chuyên môn, cơ quan, đoàn thể liên quan trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ.
1.2.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật; quản lý tủ sách pháp luật, tổ
chức phục vụ nhân dân nghiên cứu pháp luật và tổ chức lấy ý kiến nhân
dân trên địa bàn cấp xã trong việc tham gia xây dựng pháp luật
Pháp luật của Nhà nước là sự thể chế hoá đường lối, chính sách của
Đảng, thể hiện nguyện vọng, ý chí của nhân dân và phải được thực hiện thống
nhất trong cả nước. Để nhân dân hiểu biết, tuân thủ pháp luật và giám sát việc
thực hiện pháp luật thì nhiệm vụ của các cán bộ, công chức là phải tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân nắm bắt, hiểu đúng, hiểu
rõ nội dung của pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của
hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối truyền tải pháp luật vào cuộc sống và
là biện pháp quan trọng để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Giáo dục
pháp luật nhằm hình thành lòng tin vào pháp luật, thói quen và ý thức tôn
trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi công dân, nhằm phát huy vai trò, hiệu lực
của pháp luật trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Công tác PBGDPL vô cùng quan trọng thì đối với cấp xã, công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì, cấp xã là
đơn vị cơ sở trong hệ thống hành chính của nước ta là nơi trực tiếp tổ chức,
triển khai thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước đi vào thực tiễn. Triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp

15


xã là con đường gần dân nhất, có hiệu quả nhất để đưa pháp luật đến với cuộc

sống của người dân.
Theo quy định tại Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác thì công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của tất cả các ngành,
các cấp, các cơ quan, đơn vị, đoàn thể, quần chúng, trong đó, đóng vai trò
quan trọng. Để giúp UBND xã thực hiện có hiệu quả công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật trong phạm vi địa phương, CCTP-HT cấp xã tổ chức thực hiện
các công việc sau:
- Xây dựng chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật theo
hướng dẫn của các cơ quan tư pháp cấp trên, phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội, yêu cầu và điều kiện thực tế của địa phương.
Trong kế hoạch phải xác định cụ thể mục đích, yêu cầu, đối tượng, nội
dung, hình thức, biện pháp và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, tiến độ,
thời gian thực hiện, các biện pháp và hình thức phối hợp thực hiện; đồng thời
quy định việc báo cáo theo định kỳ và thường xuyên về tiến độ thực hiện phổ
biến, giáo dục pháp luật.
- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện hoặc kiến nghị biện pháp phù
hợp để tổ chức thực hiện kế hoạch này như điều chỉnh kế hoạch, nội dung, tạo
điều kiện về kinh phí, lực lượng và các điều kiện cần thiết bảo đảm thực hiện.
- Sơ kết, tổng kết công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở xã, phường,
thị trấn;
- Báo cáo định kỳ hoặc đột xuất về công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật với cơ quan tư pháp cấp trên; đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khen thưởng các tổ chức, cá nhân có thành tích và tích cực tham gia công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật.
Ngoài ra, thực hiện Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn,
UBND cấp xã có nhiệm vụ tham gia vào việc thông tin kịp thời và công khai
các chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định của chính quyền địa

16



phương về thủ tục hành chính giải quyết các công việc có liên quan đến dân,
các nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Để thực hiện các công việc trên, CCTP-HT cần theo dõi, cập nhật các
văn bản pháp luật, bám sát sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan cấp trên và
nhiệm vụ chính trị của địa phương để chủ động xây dựng và tổ chức thực
hiện chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn. Đồng
thời phát huy và thu hút được sự tham gia của đông đảo các tổ chức, đoàn
thể và cá nhân ở địa phương có ý nghĩa quyết định trong việc triển khai thực
hiện hiệu quả nhiệm vụ này. Một trong các biện pháp phổ biến, giáo dục
pháp luật hiệu quả là thông qua sách báo, tài liệu tuyên truyền pháp luật.
Đây là biện pháp có nhiều ưu thế, giúp cán bộ, công chức và người dân chủ
động trong việc tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng những kiến thức pháp luật
trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh và giải quyết các vướng mắc pháp luật trong đời sống hàng ngày.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong việc tìm hiểu, nghiên cứu
sách báo, tài liệu, văn bản pháp luật, Đảng và Nhà nước chủ trương xây
dựng tủ sách pháp luật ở địa bàn cấp xã.
Việc triển khai Tủ sách pháp luật trên toàn quốc thực hiện theo Quyết
định số 69/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 3 năm 1998 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phát hành Công báo nước CHXHCN Việt Nam cho cấp xã,
phường, thị trấn và Chỉ thị số 03/1999/CT-BTP ngày 08 tháng 3 năm 1999
của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc triển khai thực hiện các công tác trọng tâm
của ngành Tư pháp năm 1999 quy định giao trách nhiệm UBND0020cấp xã
có nhiệm vụ quản lý Tủ sách pháp luật và hàng ngày tổ chức phục vụ cho cán
bộ, nhân dân có nhu cầu nghiên cứu được trực tiếp tìm hiểu các văn bản pháp
luật của Nhà nước. Tiếp đến, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
14/2019/QĐ-TTg ngày 13 tháng 3 năm 2019 về việc xây dựng, quản lý, khai
thác tủ sách pháp luật thì CCTP-HT cấp xã với nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân

17



dân cấp xã quản lý nhà nước về công tác tư pháp là người trực tiếp quản lý
việc khai thác, sử dụng Tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn.
Để thực hiện nhiệm vụ này, CCTP-HT cần tiến hành các công việc như
thống kê đối tượng phục vụ và nhu cầu bạn đọc, xây dựng kế hoạch và
phương thức hoạt động của tủ sách; xây dựng quy chế khai thác và duy trì tủ
sách, xây dựng dự toán kinh phí ban đầu và kinh phí hoạt động hàng năm của
tủ sách; sưu tầm, bố trí trang thiết bị cần thiết cho hoạt động của tủ sách; sắp
xếp, phân loại, bảo quản, giới thiệu sách; tổ chức phục vụ bạn đọc...…
Ngoài ra, CCTP-HT phải có mỗi quan hệ mật thiết với các trường học
trên địa bàn, các ban, ngành, đoàn thể ở cơ sở để tuyên truyền, vận động cán
bộ, nhân dân và học sinh đọc và tìm hiểu các loại tài liệu, sách, báo pháp luật
có trong tủ sách; luân chuyển sách, báo, tài liệu pháp lý giữa điểm bưu điện
văn hoá xã, thư viện, tủ sách pháp luật của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp,
trường học,… là những hoạt động cần thiết để nâng cao hiệu quả khai thác và
sử dụng tủ sách pháp luật.
CCTP-HT phụ trách tủ sách không chỉ đơn thuần là người giữ tủ sách,
bảo quản và cho mượn sách mà còn là người hướng dẫn cán bộ, nhân dân sử
dụng sách, báo, tài liệu pháp lý; tuyên truyền, động viên nhân dân tích cực
tìm hiểu pháp luật. Tủ sách pháp luật có phát huy được đầy đủ tác dụng thiết
thực hay không, điều đó còn phụ thuộc rất nhiều vào vai trò, trình độ, tinh
thần trách nhiệm của CCTP-HT. Do đó, CCTP-HT phụ trách tủ sách pháp
luật luôn phải tự học hỏi để nâng cao trình độ chính trị, pháp lý, chuyên
môn, nghiệp vụ nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ được giao. Để
việc luân chuyển, trao đổi sách, báo, tài liệu pháp luật được thuận lợi và đạt
hiệu quả cao, CCTP-HT cần báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch
UBND cùng cấp trong việc luân chuyển sách, báo, tài liệu pháp luật để phối
hợp thực hiện.


18


×