Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ công lý – từ thực tiễn tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.03 KB, 102 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH NGC H

VAI TRò CủA LUậT SƯ TRONG VIệC BảO Vệ
CÔNG Lý
- Từ THựC TIễN TỉNH PHú THọ

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2019


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH NGC H

VAI TRò CủA LUậT SƯ TRONG VIệC BảO Vệ
CÔNG Lý
- Từ THựC TIễN TỉNH PHú THọ
Chuyờn ngnh: Lut Hin phỏp v Lut Hnh chớnh
Mó s: 8380101.02

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS. NG MINH TUN


HÀ NỘI - 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Ngọc Hà


LỜI CẢM ƠN
Luận văn là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu ở nhà trường, kết
hợp với kinh nghiệm trong quá trình thực tiễn công tác, với sự cố gắng nỗ
lực của bản thân.
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới PGS.TS
Đặng Minh Tuấn là người trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng
dẫn cho tôi cả chuyên môn và phương pháp nghiên cứu và chỉ bảo cho tôi
nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Luật trực thuộc
Đại học Quốc gia Hà Nội và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
cũng như trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Sau cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình đã luôn tạo điều
kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học cũng như thực hiện luận văn.

Mặc dù với sự nỗ lực cố gắng của bản thân, luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của các thầy cô,
đồng nghiệp và bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Ngọc Hà


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỤC LỤC........................................................................................................6
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài........................................................................3
Chương 1..........................................................................................................7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG VIỆC BẢO VỆ CÔNG LÝ..............................................................7
1.1. Khái niệm công lý, các phương thức và ý nghĩa của bảo vệ công lý....7
1.1.1. Khái niệm công lý..................................................................................7
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của luật sư...........................................................21
1.2.3. Nguyên tắc hành nghề luật sư............................................................24
1.3. Khái niệm, đặc điểm, phương thức và ý nghĩa của việc luật sư tham
gia bảo vệ công lý...........................................................................................27
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm, phương thức của việc luật sư tham gia bảo vệ
công lý.............................................................................................................27
1.3.2. Ý nghĩa của việc luật sư tham gia vào bảo vệ công lý......................34

1.4.1. Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ công lý theo quy định của
pháp luật quốc tế...........................................................................................35


1.4.2. Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ công lý theo quy định của
pháp luật Việt Nam........................................................................................39
Kết luận chương 1.........................................................................................50
Chương 2........................................................................................................51
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC BẢO VỆ
CÔNG LÝ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ..........................................51
2.1. Khái quát về hoạt động của luật sư trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.........51
2.2. Thực trạng tham gia bảo vệ công lý của luật sư trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ..................................................................................................................54
2.2.1. Thực trạng vai trò của luật sư trong việc bảo vệ công lý trong lĩnh
vực tố tụng......................................................................................................54
2.2.2. Thực trạng vai trò của luật sư trong việc bảo vệ công lý trong lĩnh
vực tư vấn pháp luật......................................................................................61
2.2.3. Thực trạng vai trò của luật sư trong việc bảo vệ công lý trong lĩnh
vực trợ giúp pháp lý......................................................................................63
2.2.4. Thực trạng vai trò của luật sư trong việc bảo vệ công lý trong công
tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật...........................................................67
2.2.5. Thực trạng vai trò của luật sư trong việc bảo vệ công lý trong công
tác tham gia xây dựng pháp luật..................................................................69
2.3. Những nguyên nhân, khó khăn, thách thức với luật sư trong việc
tham gia bảo vệ công lý trên địa bàn tỉnh Phú Thọ...................................71
Kết luận chương 2.........................................................................................76
Chương 3........................................................................................................77


QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ

TRONG BẢO VỆ CÔNG LÝ TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ THỌ..........77
3.1. Quan điểm nâng cao vai trò của luật sư trong việc bảo vệ công lý từ
thực tiễn tỉnh Phú Thọ..................................................................................77
3.1.1. Phát huy vai trò của luật sư dựa trên quan điểm xây dựng Nhà
nước Pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.............................................77
3.1.2. Phát huy vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng phải luôn gắn
liền với việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế
quốc tế.............................................................................................................78
3.1.3. Nâng cao vai trò của luật sư trong hoạt động tranh tụng nhằm đảm
bảo cơ chế dân chủ xã hội chủ nghĩa...........................................................80
3.1.4. Nâng cao vai trò của luật sư trong hoạt động tranh tụng phải được
đặt trong bối cảnh nâng cao vị thế của nghề luật sư trong xã hội.............81
3.2. Giải pháp nâng cao vai trò của luật sư trong bảo vệ công lý từ thực
tiễn tỉnh Phú Thọ...........................................................................................82
3.2.1. Xây dựng chương trình tổng thể để toàn xã hội nhận thức đúng đắn
vai trò của luật sư trong việc bảo vệ công lý...............................................82
3.2.3. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và hành
nghề luật sư....................................................................................................84
Kết luận chương 3.........................................................................................87
KẾT LUẬN....................................................................................................88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................89



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT:

Cơ quan điều tra


CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
ĐTV:

Điều tra viên


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó “bảo vệ
công lý” được coi là một trong những mục tiêu cơ bản của cải cách tư pháp.
Cùng với đó, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đề ra những biện pháp nhằm đảm bảo cơ sở chính trị
cho hoạt động cải cách tư pháp để từ đó xây dựng cơ quan tư pháp phải thật sự
là chỗ dựa vững chắc trong hoạt động bảo vệ công lý và quyền con người cho
nhân dân. Cụ thể, về mục đích và lộ trình thực hiện, Văn kiện xác định:
Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp,
xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và
cá nhân. Phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính với
trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt động của các
cơ quan tư pháp [11].
Có thể thấy, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, công lý và bảo vệ công lý đã trở thành một trong những mục tiêu cơ
bản, xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà
nước ta, được xem như là một giá trị tiến bộ xã hội nhân văn, bền vững được
toàn xã hội thừa nhận và hướng tới [20].

Công lý là một khái niệm rộng, về khía cạnh ngôn ngữ, khái niệm công
lý cũng đã xuất hiện trong một số từ điển, ví dụ như:
Công lý là lẽ phải, lẽ công bằng, phù hợp với pháp luật đương thời,
không thiên lệch, không tư vị [15].
1


Hay công lý là:
Sự công bằng hay chính nghĩa, sự đúng đắn, lẽ phải. Thường được
dùng trong đời sống pháp lý và đặc biệt là trong hoạt động tư pháp [2];
Công lý là sự nhận biết đúng đắn và tôn trọng theo lẽ phải các
quyền lợi ích chính đáng của mọi người [22].
Trong lĩnh vực luật học, công lý có thể được hiểu là sự công bằng
trong việc bảo vệ các quyền và trừng phạt các hành vi vi phạm.
John Rawls, một trong những đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa tự do
của Mỹ, đã định nghĩa, công lý là lẽ phải, điều thiện và là phẩm hạnh tối cao
của con người, là sự công bằng và công lý chính là chuẩn mực của một xã hội
lý tưởng. Chuẩn mực của công bằng trong một thể chế xã hội cụ thể chính là
nguyên tắc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ cho mỗi cá nhân [34]. Bởi lẽ đó,
bảo vệ công lý có thể hiểu là bảo vệ giá trị nhân văn, nhân đạo, dân chủ, công
bằng, lẽ phải, cũng như các yêu cầu về bảo đảm và bảo vệ các quyền con
người, quyền công dân. Đối với bất cứ một quốc gia nào trên thế giới, thì
công lý và đảm bảo công bằng xã hội cho tất cả công dân của quốc gia đó là
một trong những yêu cầu hàng đầu được đặt ra.
Luật sư với sứ mệnh và chức năng xã hội của mình luôn được đặt niềm
tin là người góp phần bảo vệ cán cân công lý, giúp đỡ những người yếu thế,
đảm bảo để tất cả mọi người làm được hưởng sự công bằng. Khi luật pháp là
phương tiện để đạt được những kết quả công bằng, thì luật sư cũng là một
trong những nhân tố hỗ trợ, là người giúp sức điều khiển phương tiện ấy đi
tìm lẽ phải. Với tư cách là thành tố quan trọng trong thực hành tư pháp với

đặc thù hoạt động nghề nghiệp với 3 tính chất cơ bản: phản biện, tư vấn và trợ
giúp, luật sư có nhiệm vụ lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để
xem xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ phải trái, đúng sai…từ
đó đề xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ cái sai, bảo vệ
2


công lý. Có thể nói, luật sư chiếm một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong
việc bảo vệ công lý trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên, trong thực tế, do quan niệm không đúng về vai trò của luật
sư nên đôi khi CQTHTT, người tiến hành tố tụng vẫn còn có những hành vi
gây khó khăn, cản trở luật sư khi tham gia tố tụng. Nhận thức của xã hội về vị
trí, vai trò của luật sư chưa toàn diện, sâu sắc; nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp
lý của luật sư còn ít. Đó chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài: “Vai trò của
luật sư trong việc bảo vệ công lý - Từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ” để thực hiện
khóa luật tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề vai trò của luật sư ở nước ta đã được nhiều tác giả nghiên cứu.
Một số công trình tiêu biểu có thể kể như sau:
- Các công trình nghiên cứu về vai trò của luật sư có: “Giáo trình luật
sư và nghề luật sư” (GVC.ThS. Nguyễn Hữu Ước, TS. Nguyễn Văn Điệp, TS
Nguyễn Văn Tuân, TS. Đặng Vũ Huân, ThS. Tống Thị Thanh Thanh, TS.
Trần Huy Liệu. LS Nguyễn văn Chiến, PGS.TS Nguyễn Minh Hằng, ThS.
Nguyễn Thị Minh Huệ - NXB Tư pháp, 2016); “Bàn về khái niệm và đặc
điểm nghề luật sư” (Phan Trung Hoài -Tạp chí khoa học pháp lý số 7/2018,
thành phố Hồ Chí Minh); “Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự” (TS.
Nguyễn Văn Tuân, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001); “Vai trò của luật sư
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” (Nguyễn Đăng Khoa, luận văn thạc sĩ
luật học, 2008); “Vai trò của luật sư – người bào chữa trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự” (Nguyễn Văn Phương, Luận văn thạc sĩ luật học,

2014); “Vai trò của luật sư bảo chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự”
(Cao Thị Ngọc Hà, Luận văn thạc sĩ luật học, 2015) …
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp một lượng kiến thức,
thông tin lớn về vai trò của luật sư nói chung và vai trò của luật sư trong từng
3


lĩnh vực nói riêng. Đây là những nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả
khi thực hiện luận văn này.
Mặc dù vậy, hiện chưa có công trình nghiên cứu nào trực tiếp đề cập
đến vai trò của luật sư trong việc bảo vệ công lý ở Việt Nam nói chung cũng
như ở tỉnh Phú Thọ nói riêng. Chính vì vậy, có thể khẳng định luận văn này
có tính cấp thiết và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò
của luật sư trong việc bảo vệ công lý trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, trên cơ sở đó
đánh giá chính xác nhất về giá trị và tầm quan trọng của luật sư trong việc bảo
vệ công lý, để từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vai trò của luật
sư trong trong việc bảo vệ công lý trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian
tới, đồng thời làm tư liệu để phục vụ công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực
luật sư trên địa bàn tỉnh nói chung và trên cả nước nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể của
đề tài là:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận như: khái niệm của công lý, ý
nghĩa của việc bảo vệ công lý, khái niệm luật sư, vị trí, vai trò của luật sư
trong việc bảo vệ công lý.
- Phân tích đánh giá thực trạng vai trò của luật sư trong việc bảo vệ
công lý, từ đó phát hiện những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất cập và

nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vai trò của luật sư
trong việc bảo vệ công lý trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng vai trò của luật sư trong
việc bảo vệ công lý trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vai
trò của luật sư trong việc bảo vệ công lý từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ. Thể hiện
trong Hiến pháp năm 2013 và các luật chuyên ngành như: Luật Luật sư năm
2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và Pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thực hiện đề tài bao
gồm phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê. Ngoài ra, để thực hiện đề
tài, tác giả còn tham khảo ý kiến của một số nhà chuyên môn.
6. Tính mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa thiết thực cả về phương
diện lý luận cũng như thực tiễn về vấn đề vai trò của luật sư trong việc bảo vệ
công lý trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Luận văn đã nghiên cứu toàn diện, có hệ
thống về cơ sở lý luận, pháp lý về vai trò của luật sư trong việc bảo vệ công lý
nói riêng và vai trò của luật sư trong đời sống xã hội nói chung; đánh giá đúng
những kết quả đã đạt được của luật sư trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, cũng như

phát hiện những khó khăn, hạn chế, tồn tại làm ảnh hưởng đến thực trạng này
của luật sư; từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp nhằm nâng cao giá trị
của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự.

5


Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho việc tuyên truyền, phổ biến đến người dân. Đồng thời, luận văn
có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và
nghiên cứu.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài danh mục lục, phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận, pháp lý về vai trò của luật sư trong
việc bảo vệ công lý
Chương 2: Thực trạng vai trò của luật sư trong việc bảo vệ công lý trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao vai trò của luật sư trong bảo
vệ công lý từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG VIỆC BẢO VỆ CÔNG LÝ
1.1. Khái niệm công lý, các phương thức và ý nghĩa của bảo vệ công lý
1.1.1. Khái niệm công lý
Trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, khái niệm “công lý” đã

được nhiều nhà tư tưởng đề cập đến. Khái niệm “công lý” được xác định dựa
trên nhiều khía cạnh, góc độ tiếp cận khác nhau, thể hiện những khác biệt
giữa các nền văn hóa khác nhau, giữa các thời điểm lịch sử tư tưởng nhà nước
và pháp luật khác nhau.
Xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại, công lý được Bộ luật Hammurabi của
Nhà nước Lưỡng Hà khắc họa khá rõ nét bằng sự trả thù cá nhân, bằng luật
báo thù, dĩ oán báo oán. Công lý lúc này được hiểu là yêu cầu áp dụng hình
phạt ngang bằng với thiệt hại mà kẻ phạm tội gây ra, đó chính là nguyên tắc
báo thù Talion (mắt đền mắt, răng đền răng). Ví dụ, một người thợ xây làm
chết con của chủ nhà thì con của người thợ xây phải bị giết theo nguyên tắc
báo thù Talion Theo đánh giá, đây là một bộ luật mà nguyên tắc Talion được
áp dụng một cách triệt để, tàn khốc và cứng nhắc một cách cực đoan [24]. Ở
giai đoạn thứ hai, nhận thức về khái niệm “công lý” không theo nguyên tắc
báo thù, mà thay vào đó là sự bồi thường, phạt vạ, để nhằm giữ yên ổn, hoà
hảo trong nội bộ các bộ tộc, bộ lạc. Một ví dụ sinh động về cách phạt vạ khá
cẩn thận, tỉ mỉ của người Abysinie trong giai đoạn này như sau: “Nếu một
đứa nhỏ trên cây té xuống đúng vào một đứa bạn của nó, làm cho đứa này
chết thì mẹ của đứa chết có quyền sai một đứa khác leo lên cây rồi buông tay
cho rớt xuống đúng đầu đứa phạm tội”. Đến giai đoạn thứ ba, để ngăn chặn
các cuộc trả thù cá nhân, toà án đã được thành lập để thẩm định, đánh giá các

7


mức độ thiệt hại, từ đó hoà giải, điều đình, phân xử các xung đột giữa các cá
nhân trong xã hội. Công lý và tư pháp xét xử đã vững bước song hành từ
những bước phát triển của lịch sử văn minh nhân loại như vậy [33].
Trong nền văn minh Hy Lạp cổ đại - cái nôi của văn minh phương Tây,
công lý được cho rằng bắt nguồn từ trật tự xã hội, một xã hội ổn định, có trật
tự sẽ thúc đẩy sự phát triển của công lý và ngược lại, một nền công lý mạnh

mẽ sẽ thúc đẩy một xã hội trật tự, ổn định.
Theo Plato - nhà triết học Hy Lạp nổi tiếng, người đã đặt những luận
giải của mình về công lý chủ yếu trong các tranh luận về vấn đề đạo đức,
công lý là một khái niệm thể hiện phẩm hạnh và sự hài hoà của cộng đồng, là
kết quả của sự đồng tâm hợp tác giữa những cá nhân có đức hạnh tham gia
giải quyết các vấn đề của cộng đồng và quốc gia. Công lý liên quan trực tiếp
đến sự tiết chế và khả năng tự kiểm soát của mỗi cá nhân. Công lý là một vấn
đề giản dị nếu con người cũng giản dị, rời xa lòng tham lam và sự xa hoa và
sống theo đúng chức phận của mình. Công lý xuất phát từ sự hài hoà và nó
hướng tới những người khác thông qua những hành vi nhân hậu và tử tế [31].
Còn theo Aristotle, một trong những người thầy có ảnh hưởng nhất đối
với bộ môn triết học chính trị, thì công lý cốt ở việc đối xử bình đẳng với
những người ngang nhau và bất bình đẳng với những người không ngang
hàng, tương xứng với sự khác nhau về địa vị của họ. Theo ông, công lý được
chia thành “công lý cải tạo” - nơi mà toà án sửa chữa một lỗi lầm do một bên
phạm phải đối với bên khác và “công lý phân phối” - cách thức, nỗ lực cố
gắng để công bằng với mỗi người, đúng theo những gì mà người đó xứng
đáng. Theo Aristotle, công lý phân phối chính là mối quan tâm chủ yếu, hàng
đầu của các nhà lập pháp. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng luật pháp và
công lý là hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất, thậm chí, trong một số
xã hội, luật pháp đôi khi đi trệch hướng hoặc đối nghịch với công lý [25].
8


Trong xã hội hiện đại, những giải thích về công lý có khuynh hướng tập
trung vào công lý phân phối với mục tiêu làm thế nào để xã hội có thể phân
phối một cách công bằng nhất những gánh nặng và phúc lợi của đời sống xã
hội, từ đó đã đưa khái niệm công lý mang tính thực tiễn và chính trị hơn là
một quan niệm siêu hình trước đây. F.A. Hayek, một trong những kiến trúc sư
chính của cuộc xây dựng lại chủ nghĩa tự do, khẳng định sự tương đồng giữa

tính “mù” của công lý và cạnh tranh, theo ông, công lý và cạnh tranh đều
không thiên vị ai và pháp luật chính là công lý hình thức [14].
Còn John Rawls, đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa tự do của Mỹ, đã
định nghĩa công lý là lẽ phải, điều thiện và là phẩm hạnh tối cao của con
người. Công lý là sự công bằng và công lý chính là chuẩn mực của một xã
hội lý tưởng. Chuẩn mực của công bằng trong một thể chế xã hội cụ thể
chính là nguyên tắc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ cho mỗi cá nhân. Theo
ông, công bằng chỉ có được khi con người tự nguyện cùng tham dự vào quá
trình hợp tác xã hội để làm sao mỗi cá nhân giành được lợi ích nhiều hơn
so với khi họ sống đơn lẻ [35].
Nhìn chung, người phương Tây quan niệm công lý là một khái niệm
triết lý, pháp luật, đạo đức đặt ra trên cơ sở tôn trọng pháp luật và sự công
bằng. Về mặt đạo đức: Công lý là thái độ, cách ứng xử tôn trọng chân lý và tự
do của người khác, thái độ này là có nguồn gốc bẩm sinh và phổ biến trong ý
thức mỗi con người. Dưới góc độ pháp luật, công lý là sự công bằng bình
đẳng. Công lý là nền tảng của cuộc sống xã hội dân sự.
Trong truyền thống và văn hóa của người châu Phi và châu Á cũng có
quan niệm khác nhau về công lý. Theo quan niệm của người châu Phi, công lý
là sự ứng xử phù hợp với truyền thống của tiền nhân. Ở Ấn Độ, người
Hindous coi công lý là sự tôn trọng và chấp nhận trật tự, đẳng cấp trong xã
hội. Còn giáo lý đạo Ki-tô thì cho rằng công lý là sự công bằng, sự liêm khiết,
9


sự phán quyết công minh phù hợp với pháp luật và trên hết là phù hợp với lề
luật thiên chúa và luật tự nhiên [27].
Trong cuốn từ điển Luật Black, “công lý” đã được định nghĩa là “sự
công bằng và hợp lý, với ba ý niệm cơ bản: sự nhấn mạnh về tầm quan trọng
cá nhân, yêu cầu các cá nhân phải được đối xử một cách phù hợp, không
thiên vị và bình đẳng” [33].

Ở Việt Nam, những tư tưởng, khát vọng về một nền công lý đích thực
đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc truyền bá từ năm 1925 trong tác phẩm Bản
án chế độ thực dân Pháp (Chương VIII - Công lý). Bằng ngòi bút sắc sảo,
Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra một hình ảnh về chế độ phi pháp quyền, vô nhân
đạo và phản tiến hoá mà người Pháp áp đặt tại Việt Nam:
Công lý được tượng trưng bằng một người đàn bà dịu hiền, một tay
cầm cân, một tay cầm kiếm. Vì đường từ Pháp đến Đông Dương xa
quá, xa đến nỗi sang được tới đó thì cán cân đã mất thăng bằng, đĩa
cân đã chảy lỏng ra và biến thành những tẩu thuốc phiện hoặc
những chai rượu ty, nên người đàn bà tội nghiệp chỉ còn lại độc cái
kiếm để chém giết. Bà chém giết đến cả người vô tội, và nhất là
người vô tội [26].
Ngày nay, khái niệm công lý đã được nhắc đến trong một số công trình
nghiên cứu gần đây của một số tác giả như: Nguyễn Đăng Dung (Tòa án Việt
Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền) [6]; Nguyễn Văn Hiển
(Bàn về hệ thống pháp luật) [17], Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (Đề tài
nghiên cứu cấp cơ sở “Mối quan hệ giữa pháp luật và công lý – Lý luận và
thực tiễn”), Vũ Công Giao (Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước
pháp quyền) [31] …
Bên cạnh đó, về khía cạnh ngôn ngữ, khái niệm công lý cũng đã xuất
hiện trong một số từ điển, ví dụ như:
10


Công lý là lẽ phải, lẽ công bằng, phù hợp với pháp luật đương thời,
không thiên lệch, không tư vị. Chế độ nào cũng coi tòa án là tượng
trưng cho công lý, là cơ quan công lý của chế độ ấy [30].
Hay công lý là:
Sự công bằng hay chính nghĩa, sự đúng đắn, lẽ phải. Thường được
dùng trong đời sống pháp lý và đặc biệt là trong hoạt động tư pháp

[2]; Công lý là sự nhận biết đúng đắn và tôn trọng theo lẽ phải các
quyền lợi ích chính đáng của mọi người [22].
Tóm lại, các quan niệm trên đều đã phần nào tiếp cận đến một khía
cạnh nào đó của công lý như công bằng, tôn trọng trật tự xã hội và pháp luật,
nhưng suy cho cùng, công lý vẫn mang một ý nghĩa nội dung chung nhất là
việc bảo đảm sự công bằng, bình đẳng giữa con người với con người đối với các
quyền và lợi ích hợp pháp của họ, người này không được phép làm phương hại
đến các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, nếu có sự vi phạm về quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác thì người đó sẽ phải chịu trách nhiệm và trả
giá cho những phương hại mà mình đã gây ra. Công lý đã, đang và sẽ xuất hiện
như một khát vọng về tự do, công bằng, chính nghĩa, lẽ phải, lòng nhân ái và
những phẩm hạnh cao quý trong mỗi con người, mỗi xã hội.
1.1.2. Phương thức bảo vệ công lý
Các tư tưởng, học thuyết về công lý đều khẳng định công lý là điều
kiện tiên quyết cho cuộc sống tốt đẹp, là một hình thức luân lý đạo đức phổ
biến mà bất cứ ai cũng phải tuân thủ, là một phẩm hạnh giúp mỗi người được
hưởng những gì mà họ xứng đáng. Với cách tiếp cận này thì quyền là cái có
trước, công lý là điều xuất hiện sau. Khi các quyền được công nhận, thừa
nhận thì công lý sẽ xuất hiện nếu các quyền bị vi phạm. Nói cách khác, công
lý chính là nghĩa vụ với người khác. Từ ý nghĩa đó, có thể khẳng định bảo vệ
công lý chính là bảo vệ các quyền cơ bản của người dân. Bảo vệ công lý có
11


nghĩa là hoàn lại, trả lại cho mọi người cái mà họ có quyền được hưởng và là
mệnh lệnh để ngăn chặn một người chiếm đoạt thứ mà thuộc về người khác
hoặc ngăn chặn việc chiếm đoạt những thứ gì thuộc về mình, là góp phần xây
dựng một xã hội và một hệ thống pháp luật trong sạch, vững mạnh. Bảo vệ
công lý là bảo vệ sự công bằng, lẽ phải được xã hội thừa nhận phù hợp với
đạo lý và lợi ích chung của xã hội, việc giải quyết tranh chấp xảy ra trong xã

hội phải đúng pháp luật, phù hợp với lẽ công bằng và đảm bảo lòng tin của
nhân dân vào pháp luật, góp phần duy trì trật tự pháp luật.
Trên thế giới cũng như Việt Nam, bảo vệ công lý được thể hiện qua
nhiều phương thức khác nhau. Trong đó có thể nói đến việc bảo vệ công lý
thông qua con đường Tòa án, hòa giải, trọng tài, tư vấn, trợ giúp pháp lý,
thương thuyết,…
Một trong những phương thức phổ biến nhất khi nói đến bảo vệ công lý
đó là Tòa án, nói một cách rộng hơn là cơ chế tư pháp.
Trên cơ sở học thuyết tam quyền phân lập, các nhà lập hiến Hoa Kỳ
cho rằng việc thiết lập công lý phải được giao cho một cơ quan có tính ổn
định, lâu dài và không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của các yếu tố chính trị
thoáng qua, nhất thời như các cơ quan được hình thành trên cơ sở bầu cử,
đó chính là hệ thống các cơ quan xét xử. Nếu như lập pháp và hành pháp là
những cơ quan chính trị có trách nhiệm đề ra những chủ trương, chính sách
trong việc giải quyết những yêu cầu, đòi hỏi thường nhật của dân chúng, thì
Tòa án, với tư cách là một cơ quan tư pháp, phải ở một cương vị khác hơn,
ở đó đòi hỏi thái độ bình tĩnh, suy xét để phán quyết sự đúng sai của các vụ
việc đã qua. Mặc dù các thẩm phán ở một mức độ nào đó vẫn phải quan
tâm đến các xu hướng chính trị và nguyện vọng của cử tri nhưng khác với
cơ quan lập pháp, hành pháp, Tòa án đại diện cho công lý chứ không hoàn
toàn đại diện cho cử tri.
12


Trong một Nhà nước pháp quyền và xã hội dân chủ, tư pháp độc lập và
công lý được khẳng định là một tiêu chuẩn, giá trị cơ bản. Theo giáo sư
Richard H.Fallon của Đại học Havard Hoa Kỳ, pháp quyền chỉ được công
nhận khi hội đủ các yếu tố, trong đó, “những thiết chế liêm chính để thực thi
một nền công lý không thiên vị với những thủ tục xét xử công bằng” là một yêu
cầu không thể thiếu và chính là “linh hồn” của Nhà nước pháp quyền [37].

Ở nước ta, trước đây, Tòa án nhân dân luôn được xác định là thiết chế
thực hiện quyền chuyên chính của Nhà nước dân chủ nhân dân, là công cụ
trấn áp, trừng trị bọn tay sai đế quốc và bọn phản cách mạng để bảo vệ chủ
quyền tự do, độc lập dân tộc, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
bảo vệ cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất Tổ quốc. Vấn đề thực thi công lý
của Tòa án gắn liền với việc đảm bảo quyền tiếp cận công lý của người dân
bởi một lẽ rất tự nhiên: Khi có tranh chấp, không tự hòa giải được, người ta
phải tìm đến tòa án để phân giải đúng sai, khi có vi phạm pháp luật, Tòa án là
nơi cuối cùng để xử lý trách nhiệm trên cơ sở công lý. Quá trình yêu cầu Tòa
án thực thi công lý chính là quá trình tiếp cận công lý của người dân. Quá
trình đó bắt đầu từ nhu cầu được tiếp cận công lý và kết thúc là phán quyết và
thực hiện phán quyết của tòa án.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, Tòa án chỉ là phương tiện chủ yếu nhất
chứ không phải là phương tiện duy nhất trong việc giải quyết các tranh chấp,
các vụ việc trong một xã hội hiện đại. Khởi kiện tại Tòa án chỉ là một trong số
nhiều biện pháp giải quyết tranh chấp, quyền lực của Tòa án có thể được thay
thế bởi các cơ chế khác. Trong đó, cơ chế hòa giải được đánh giá là một
phương thức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý mang tính văn minh, có nhiều
ưu điểm, được hầu hết các nước trên thế giới khuyến khích áp dụng.
Trong nhiều thế kỷ, “hòa giải” đã được sử dụng như một biện pháp
truyền thống để giải quyết các tranh chấp trong đời sống xã hội. Nếu như nói
13


giải quyết tranh chấp tại Tòa án là lựa chọn cuối cùng và bất đắc dĩ, thì hòa
giải sẽ là lựa chọn để các bên được quyền tự quyết định việc giải quyết tranh
chấp của mình, tìm được tiếng nói chung để giải quyết, xoa dịu mâu thuẫn,
tiết kiệm được thời gian, công sức của các bên khi phải đưa tranh chấp, khiếu
kiện ra Tòa án.
Từ điển pháp lý của Rothenberg định nghĩa hòa giải là “hành vi thỏa hiệp

giữa các bên sau khi có tranh chấp, mỗi bên nhượng bộ một ít”[13]. Một số học
giả lại cho rằng, hòa giải là “việc GQTC giữa hai bên thông qua sự can thiệp
của bên thứ ba, hoạt động một cách trung lập và khuyến khích các bên xóa bớt
sự khác biệt” [21]. Còn theo Từ điển tiếng Việt, “hòa giải là việc thuyết phục
các bên đồng ý chấm dứt xung đột, xích mích một cách ổn thoả” [30]. Như vậy,
có thể hiểu chủ thể trung tâm của hòa giải là bên trung gian giúp cho các bên
tranh chấp thỏa thuận với nhau về giải quyết tranh chấp. Điều này làm cho
hòa giải có sự khác biệt với thương lượng. Người trung gian có thể là cá nhân,
tổ chức luật sư, tư vấn, hoặc các tổ chức khác do các bên thỏa thuận lựa chọn.
Người này phải có vị trí độc lập với các bên và hoàn toàn không có lợi ích liên
quan đến tranh chấp. Bên thứ ba làm trung gian không đại diện cho quyền lợi
của bất cứ bên nào và không có quyền đưa ra phán quyết, người này phải luôn
giữ được vị thế khách quan, công bằng, nói cách khác là nhân tố bảo vệ công lý.
Để phát huy đầy đủ các giá trị của hòa giải, nhiều nước đã triển khai
phương thức này theo những cách rất đa dạng, như hòa giải ngoài tòa án, hòa
giải bên cạnh tòa án và hòa giải tại tòa án.
Ở Việt Nam, quy định pháp luật về hòa giải, đối thoại đã được xây
dựng, sửa đổi, bổ sung tương đối căn bản trong quá trình cải cách tư pháp;
trong đó, có nhiều quy định nhằm khuyến khích tăng cường hòa giải, đối
thoại. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì hòa giải là nguyên tắc cơ
bản trong tố tụng dân sự, là một trong những thủ tục tố tụng trong giai đoạn
14


sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự và việc dân sự công nhận thuận tình ly hôn,
thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn. Tòa án có trách nhiệm tiến hành
hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ việc dân sự [18]. Bên cạnh quy định về hòa giải, đối thoại
trong Tố tụng dân sự, Tố tụng hình sự, pháp luật còn quy định một số loại
hình hòa giải, đối thoại ngoài Tòa án như: hòa giải ở cơ sở theo quy định của

Luật Hòa giải ở cơ sở; hòa giải tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao
động tập thể (về quyền, về lợi ích) theo quy định của Bộ luật Lao động; hòa
giải thương mại theo quy định của Luật Thương mại và Nghị định số
22/2017/NĐ-CP ngày 24/2/2017 của Chính phủ về hòa giải thương mại; hòa
giải tranh chấp đất đai của UBND cấp xã theo quy định của Luật Đất đai...
Trong đó, đối với một số loại tranh chấp thì hòa giải ngoài Tòa án là thủ tục
bắt buộc trước khi giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan khác có thẩm
quyền, còn được gọi là thủ tục tiền tố tụng. Kết quả hòa giải thành vụ việc
ngoài Tòa án do cơ quan, tổ chức, cá nhân, người có thẩm quyền có thể được
Tòa án xem xét ra quyết định công nhận khi có yêu cầu.
Khi tham gia vào quá trình hòa giải, với tính chất đặt con người ở vị trí
trung tâm, đặt trọng tâm vào khía cạnh duy trì mối quan hệ, hoà giải còn
mang tính giáo dục cho các bên ở chỗ họ được trực tiếp tham gia và học được
cách thức giải quyết vấn đề mà có thể áp dụng trong những hoàn cảnh khác.
Phương thức nhân văn này đã góp phần bảo vệ quyền lợi cho người dân, góp
phần xây dựng một xã hội ổn định, hòa thuận.
Khác với phương thức hòa giải chỉ mang tính chất thuyết phục các bên
tránh việc tranh chấp chứ không có quyền áp đặt, giải quyết tranh chấp bằng
phương thức “trọng tài” ngoài mang tính chất hòa giải còn có tính áp đặt đối
với các bên. Ưu điểm của phương thức này là quyết định của trọng tài là
chung thẩm vì vậy nó có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên, các bên
15


×