MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của giáo dục và nhà trường đã chứng minh giáo dục có
vai trò to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Giao dục không chỉ vạch
ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người mà còn tổ
chức dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo chiều
hướng đó. Thực tiễn giáo dục cũng đã chứng minh sự phát triển tâm lý của
trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều kiện của dạy
học và giáo dục. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định “ Giáo dục đào tạo là
quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà nước và toàn dân”. Trong điều 27
của luật giáo dục, mục tiêu giáo dục Tiểu học được xác định là “Giáo dục
Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát
triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở”. Chính vì thế, giáo
dục Tiểu học là cấp học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Do vậy,
người giáo viên Tiểu học có vị trí, vai trò quan trọng, góp phần quyết định
trong việc thực hiện hoạt động dạy và học có chất lượng. Điều đó cho thấy,
phương pháp giáo dục có vai trò quan trọng quyết định đến hiệu quả của quá
trình giáo dục. Xuất phát từ bối cảnh xã hội hiện nay đang có những biến đổi
mạnh mẽ, việc giáo dục học sinh ở nhà trường đang ngày càng đặt ra nhiều
khó khăn và thách thức đối với nhà giáo dục. Đa số phụ huynh và giáo viên
đều mong muốn trẻ có ý thức kỷ luật, giữ gìn nề nếp tốt, tự tin, chủ động, là
“con ngoan trò giỏi”. Nhiệm vụ quan trọng nhất hay có thể nói là nghĩa vụ
thiêng liêng của người làm giáo dục là không để học sinh thấy chán nản
trường lớp, là để mọi trẻ đến trường cảm thấy được khích lệ, đạt được sự
tự tin từ trường học và giáo viên. Đây là trách nhiệm của người làm giáo dục,
và việc giáo dục chỉ có thể tốt khi trẻ có hi vọng và hạnh phúc về tương lai…
Tuy nhiên làm thế nào để đạt được điều đó luôn là câu hỏi khiến nhiều giáo
viên trăn trở, đặc biệt với những học sinh thường hay mắc lỗi, bướng bỉnh.
Trong nhiều trường hợp học sinh mắc lỗi giáo viên thường dùng các hình
phạt hà khắc như đánh đập, trách mắng để mong muốn các em thay đổi, sửa
chữa. Song kết quả thường không được như mong muốn, thay vì làm theo ý
của giáo viên thì các em trở nên khó bảo hơn, chống đối, khép mình hơn hoặc
trầm cảm, thiếu tự tin. Kết quả các em thường học tập kém, phát triển không
toàn diện về thể chất, tinh thần và mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh
ngày càng trở nên căng thẳng. Từ thực tiễn những chú trọng gần đây của
ngành Giáo dục và Đào tạo về sự quan tâm đến phương pháp giáo dục cũng
như đi tìm kiếm phương pháp giáo dục học sinh hiệu quả. Thì việc giáo dục
học sinh bằng phương pháp kỷ luật trách phạt không còn phù hợp nữa. Nó chỉ
làm các em thiếu tự tin vào giá trị của bản thân mình.
Thực tế hiện nay trong nhà trường đã có một số học sinh nảy sinh những
hành vi tiêu cực mà nhà giáo dục cần có biện pháp để phòng ngừa và ngăn
chặn kịp thời nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Vậy phải làm
thế nào để giáo dục học sinh một cách toàn diện mà không làm tổn thương
đến thể xác và tinh thần các em đang trở thành mối quan tâm lớn của ngành
giáo dục. “Phương pháp kỷ luật tích cực” có lẽ là một giải pháp tốt cho vấn
đế này. Nhằm tạo điều kiện tốt nhất để học sinh tự giác sửa chữa khuyết
điểm và tự giác rèn luyện mà giáo viên không cần dùng đến đòn roi. Xuất
phát từ những lý do trên, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Phương pháp kỷ luật
tích cực và kỷ luật không nước mắt cho học sinh tiểu học ” để nghiên cứu.
Đứng trên cương vị là một giáo viên tương lai em hi vọng có thể đóng góp
được một phần nhỏ trong việc tìm kiếm các phương pháp giáo dục học sinh
một cách hiệu quả và phù hợp.
2.
Mục đích nghiên cứu
Giới thiệu một số kiến thức và kỹ năng cơ bản của phương pháp kỷ
luật tích cực, kỷ luật không nước mắt nhằm thay thế các hình thức trừng
phạt, kỷ luật học sinh tiêu cực
Giúp học sinh tự do phát triển khả năng, chủ động trong hành vi và sáng
tạo trong các hoạt động tập thể, cá nhân những vẫn đảm bảo được kỷ luật
của nhà trường
Giúp giáo viên chủ nhiệm đổi mới cách quản lý học sinh một cách chủ
động, khoa học, thay đổi cách xử lý sai phạm của học sinh với thái độ động
viên, khuyến khích giúp học sinh có hành vi và thái độ ứng xử đúng đắn
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh tiểu học đồng thời
giải quyết được các vấn đề thực tiễn trong trường tiểu học
3.
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này tập trung nghiên cứu các biện pháp giáo dục học sinh tiểu học
bằng hình thức “kỷ luật tích cực” và “kỷ luật không nước mắt”
4.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài cần thực hiện những nhiệm
vụ sau:
Nghiên cứu cơ sở lý luận về phương pháp kỷ luật tích cực và kỷ luật
không nước mắt cho học sinh tiểu học
Nghiên cứu đặc điểm của học sinh tiểu học
Đề xuất một số phương pháp kỷ luật học sinh tiểu học tích cực và
không nước mắt
Tiến hành thực nghiệm sư phạm đánh giá tính hiệu quả của việc áp
dụng các phương pháp kỷ luật tích cực và kỷ luật không nước mắt cho học
sinh tiểu học
5.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp điều tra
Phương pháp phân tíchtổng hợp
Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp so sánh
Phương pháp tổng hợp
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHƯƠNG PHÁP
KỶ LUẬT TÍCH CỰC, KỶ LUẬT KHÔNG NƯỚC MẮT
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
I. Phương pháp giáo dục
1.1. Khái niệm chung về phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục là những cách thức, biện pháp tác động của giáo
viên đến học sinh, là những con đường hợp lý về mặt sư phạm để tổ chức
cuộc sống cho học sinh, nhằm mục đích hình thành ý thức, bồi dưỡng tình
cảm , rèn luyện thói quen, hành vi của con người mới về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, thể chất, thẩm mĩ, lao động...
Phương pháp giáo dục là tổ hợp các cách thức hoạt động của giáo viên
và học sinh, được thực hiện trong sự thống nhất với nhau nhằm thực hiện
các nội dung giáo dục để đạt được mục đích giáo dục.
+ Phương pháp giáo dục là một thành tố quan trọng của quá trình giáo
dục.Nó có mối quan hệ với các thành tố khác của quá trình giáo dục
+ Phương pháp giáo dục thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa cách
thức hoạt động của giáo viên và học sinh
+ Tác động của giáo viên là tác động chủ đạo, còn tự giáo dục của học
sinh được thực hiện dưới tác động chủ đạo của giáo viên
1.2.
Đặc điểm của phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục cũng như bản thân quá trình giáo dục diễn ra hết
sức phức tạp và nó có những đặc điểm sau:
Qúa trình giáo dục về bản chất là quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt
động và giao lưu cho học sinh, vì vậy, phương pháp giáo dục chính là cách
thức tổ chức cuộc sống, tổ chức hoạt động và giao lưu cho trẻ theo mục đích
giáo dục
Qúa trình giáo dục được diễn ra theo ba khâu, bắt đầu từ nhận thức,
thái độ đến hành vi.Như vậy, phương pháp giáo dục phải là cách thức tác
động đến từng khâu đồng thời đến tất cả các khâu của quá trình giáo dục
Đối tượng của giáo dục là con người, mỗi con người có những nét độc
đáo về mặt tâm lý, ý thức, điều kiện sống, hoàn cảnh giáo dục, trình độ nhận
thức...Do đó, phương pháp giáo dục phụ thuộc vào từng đối tượng cụ thể,
từng tình huống cụ thể, mỗi cá nhân có một cách giáo dục, mỗi tình huống có
một phương pháp giáo dục, không thể có phương pháp chung, hiệu quả đối
với tất cả mọi học sinh.
1.3. Phân loại phương pháp giáo dục
Xung quanh vấn đề phân loại phương pháp giáo dục, có nhiều cách phân
loại khác nhau. Tuy nhiên, cách phân loại dựa trên lý thuyết Tâm lý học về
hoạt động là phù hợp hơn cả.
Theo lý thuyết này, bất kỳ hoạt động nào cũng có bốn yếu tố: ý thức về
quá trình hoạt động; tổ chức hoạt động; kích thích, điều chỉnh hoạt động và
kiểm tra; đánh giá hoạt động.
Hoạt động giáo dục là một dạng hoạt động đặc biệt của con người, nó
cũng có bốn yếu tố như vậy. Tương ứng với bốn yếu tố có bốn nhóm
phương pháp tương ứng
Nhóm 1: Nhóm các phương pháp hình thành ý thức và tình cảm cá nhân
Nhóm 2: Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động để hình thành kinh
nghiệm ứng xử và kĩ năng, kĩ xảo
Nhóm 3: Nhóm các phương pháp kích thích và điều chỉnh hành vi ứng
Nhóm 4: Nhóm phương pháp đánh giá hành vi và hoạt động của học
xử
sinh
2. Tìm hiểu hệ thống các phương pháp giáo dục
2.1. Tìm hiểu nhóm phương pháp hình thành ý thức và tình cảm cá
nhân (Phương pháp thuyết phục)
a. Khái niệm
Ý thức cá nhân là một tổng thể thống nhất giữa tri thức và niềm tin cá
nhân về những chuẩn mực đã được quy định.
Thuyết phục là phương pháp tác động trực tiếp đến nhận thức và tình
cảm của học sinh thông qua việc phân tích, so sánh, dẫn chứng, kết luận,
khiến cho người được giáo dục hiểu , đồng tình, chấp nhận, biết nhận xét,
phân biệt, có tình cảm tích cực và mong muốn thể hiện trong cuộc sống.
Vấn đề cơ bản của thuyết phục là làm cho học sinh hình thành và
chuyển biến về ý thức, tư tưởng, tình cảm, từ chưa biết đến biết, từ biết ít
đến biết nhiều, từ biết đến tin và có tình cảm, xúc cảm tích cực để hành
động đúng
b. Các phương pháp thuyết phục cụ thể
Phương pháp đàm thoại
Đàm thoại là phương pháp trò chuyện, trao đổi giữa nhà giáo dục và học
sinh, hoặc giữa các học sinh về các chủ dề đạo đức, thể chất, thẩm mĩ và lao
động, có tác dụng hình thành và củng cố nhận thức, tình cảm và niềm tin cho
học sinh.
Mục đích của đàm thoại nhằm lôi cuốn học sinh vào các sự kiện, các
hiện tượng và tình huống trong cuộc sống, trên cơ sở đó mà hình thành ý thức
và thái độ đúng đắn đối với hiện thực cuộc sống. Nội dung của đàm thoại
càng gắn với kinh nghiệm sống của học sinh thì càng có hiệu quả
Việc sử dụng phương pháp đàm thoại cần bảo đảm các yêu cầu sau:
+ Xác định mục tiêu, yêu cầu đàm thoại
+ Chuẩn bị những chủ đề sinh động, hấp dẫn, sâu sắc và có ý nghĩa giáo
dục
+ Đề tài phải được thông báo trước để học sinh chuẩn bị đàm thoại
+ Khi đàm thoại phải biết khêu gợi, tạo tình huống có vấn đề để lôi
cuốn học sinh tham gia
+ Cuối buổi đàm thoại nên hướng dẫn cho học sinh tự rút ra các kết
luận, có đánh giá tổng kết để chốt lại những quan điểm, những giải pháp
đúng đắn để học sinh hiểu đúng các vấn đề đàm thoại
Phương pháp kể chuyện:
Kể chuyện là phương pháp giáo viên dùng lời nói, điệu bộ và nét mặt để
kể lại, thuật lại một cách sinh động một câu chuyện nào đó có ý nghĩa giáo
dục
Phương pháp này có tác dụng đặc biệt với học sinh lứa tuổi nhỏ
Qua nội dung câu chuyện và cách thức kể chuyện của nhà giáo dục, có
thể hình thành và phát triển được ở học sinh khả năng nhận thức thế giới
xung quạh, tình cảm, xúc cảm tích cực và niềm tin đúng đắn. Học tập được
những gương tốt và tránh được những gương xấu với óc phê phán, nhận xét
và đánh giá
Sử dụng phương pháp này cần lưu ý các điểm sau:
+ Lựa chọn những câu chuyện sinh động, hấp dẫn, chứa đựng nhiều tình
huống giáo dục cần thiết
+ Khối lượng câu chuyện phải phù hợp với thời gian và đặc điểm tâm
sinh lí, trình độ nhận thức của học sinh
+ Lời nói phải sinh động, diễn cảm, giọng nói, nét mặt phải luôn luôn
thay đổi cho phù hợp với tình tiết của cốt truyện, gây được sự chú ý và những
cảm xúc mạnh mẽ, sâu sắc ở học sinh
+ Khi kể chuyện phải kèm theo tranh ảnh để minh họa cho hấp dẫn, gây
ấn tượng người nghe
+ Cần phải theo dõi nét mặt, thái độ của người nghe để kịp thời điều
chỉnh cách kể chuyện
Phương pháp giảng giải và khuyên răn:
Giảng giải là phương pháp giáo viên dùng lời nói để giải thích, chứng
minh các chuẩn mực xã hội đã được quy định, nhằm giúp học sinh hiểu và
nắm được ý nghĩa, nội dung và quy tắc của việc thực hiện các chuẩn mực
này. Nhờ đó mà học sinh có thể lĩnh hội một cách tích cực những chuẩn mực
xã hội, hình thành được tình cảm, niềm tin để có thể tự giác thực hiện những
chuẩn mực này với thái độ và động cơ đúng đắn
Những lưu ý:
+ Chuẩn bị nội dung về những chuẩn mực nào đó để giảng giải phải
đầy đủ, chính xác
+ Khi giảng giải phải dùng lời nói rõ ràng, khúc chiết, không dài dòng, lan
man
+ Lập luận phải chính xác, logic, dễ hiểu
+ Có thể minh họa bằng tranh ảnh, bằng những ví dụ thực tế
+ Cần phải thu hút học sinh tham gia vào quá trình giảng giải
Nên tạo điều kiện để học sinh có thể liên hệ thực tế, với bản thân.
Phương pháp nêu gương
Nêu gương là dùng phương pháp dựa trên cơ sở tâm lí hay bắt chước của
người được giáo dục, nhất là trẻ em, dùng những tấm gương sáng của cá
nhân hay tập thể để kích thích người được giáo dục học tập và làm theo
Điều cần nhấn mạnh khi nói đến phương pháp giáo dục này là tầm quan
trọng, có ý nghĩa quyết định đó chính là tấm gương của chính bản thân nhà
giáo dục. Vì vậy trong quá trình giáo dục học sinh nhà giáo dục không chỉ nêu
gương mà còn cần phải làm gương cho học sinh.
Song để phát huy được tác dụng của phương pháp này cần lưu ý:
+ Phải lựa chọn những tấm gương sáng, gương phản diện phù hợp với
mục tiêu, mục đích giáo dục và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học
sinh.
+ Những gương được lựa chọn phải có tính khả thi để học sinh có thể
học tập được
+ Tạo điều kiện cho học sinh tham gia phân tích, đánh giá và rút ra những
kết luận bổ ích
+ Nêu gương cũng có thể có tác dụng thuyết phục, giúp cho học sinh có
được hiểu biết, niềm tin và tình cảm đúng đắn
2.2. Tìm hiểu nhóm phương pháp giáo dục tổ chức hoạt động
a. Khái niệm
Các phẩm chất nhân cách của học sinh thường được thể hiện bằng hành
vi và đặc biệt là thói quen hành vi. Vì vậy, trong quá trình giáo dục cần phải
vận dụng nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn để giáo dục
học sinh tiểu học. Nhóm này gồm các phương pháp sau:
Phương pháp giao công việc
Phương pháp tập luyện
Phương pháp rèn luyện
b. Các phương pháp giáo dục tổ chức hoạt động
Phương pháp giao việc
Là phương pháp lôi cuốn học sinh vào các hoạt động đa dạng với những
công việc cụ thể, với những nghĩa vụ xã hội nhất định. Qua đó, học sinh sẽ
có điều kiện để thể hiện những kinh nghiệm ứng xử trong các mối quan hệ
đa dạng và hình thành được các hành vi ứng xử phù hợp với những yêu cầu
của công việc được giao
Khi giao việc cho học sinh cần lưu ý mấy điểm sau:
+ Chọn công việc phù hợp với mục đích, mục tiêu giáo dục
+ Giao việc phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí, đặc điểm lứa tuổi,
khả năng, trình độ và hứng thú của học sinh
+ Giao việc cho học sinh những cần phải có theo dõi, giúp đỡ, khích lệ,
động viên kịp thời
+ Có sự kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện công việc được giao của cá
nhân hay tập thể học sinh
Phương pháp tập luyện
Đây là phương pháp tổ chức thực hiện một cách đều đặn và có kế hoạch
các hành động nhất định, nhằm hình thành và củng cố các kĩ năng, kĩ xảo thực
hiện hành vi và hình thành các phẩm chất nhân cách phù hợp
Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng: đối với học sinh nói chung và học
sinh nhỏ nói riêng việc học tập thói quen rất quan trọng vì trình độ nhận thức
của các em còn non nớt, cho nên nếu ngay từ nhỏ đã dần dần tập cho các em
các thói quen tốt thì sau này lớn lên các em sẽ thực hiện các hành vi đúng đắn
và tự giác
Để thực hiện phương pháp này đạt kết quả tốt cần lưu ý:
+ Trước hết phải giúp c ho học sinh nắm được các quy tắc hành vi, hình
dung rõ những hành vi cần được thực hiện để họ có thể định hướng được
+ Trong những trường hợp cần thiết, có thể làm mẫu cho học sinh về
những hành vi cần luyện tập
+ Hình thành cho học sinh nhu cầu luyện taaoj và tạo điều kiện cho họ
được luyện tập theo quy tắc hành vi, theo các mẫu hành vi đã được giới thiệu
+ Khuyến khích người được giáo dục luyện tập thường xuyên
+ Luyện tập cần có thời gian thích hợp, không nên nôn nóng, vội vàng.
Lúc đầu cần luyện tập chính xác sau đó mới yêu cầu làm nhanh
+ Phải tiến hành kiểm tra, uốn nắn thường xuyên, đồng thời phải
khuyến khích học sinh tự kiểm tra uốn nắn hành vi của mình
+ Chú ý toàn diện và tính chọn lựa cho phù hợp với từng học sinh
Phương pháp rèn luyện
Đây là phương pháp tổ chức cho học sinh thể nghiệm ý thức, tình cảm
của mình về các chuẩn mực xã hội trong các tình huống đa dạng của cuộc
sống. Qua đó, hình thành cà củng cố được những hành vi phù hợp với các
chuẩn mực xã hội đã được quy định
Phương pháp này giống với phương pháp tập thói quen ở chỗ hành vi
được lặp đi lặp lại nhiều lần. Nhưng vấn đề chủ yếu trong rèn luyện là thái
độ, động cơ, ý chí để thống nhất giữa cái “cần làm” và cái “muốn làm”
Phương pháp này tạo cơ hội cho học sinh “thâm nhập” vào những tình
huống đa dạng từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó của cuộc sống. Từ
đó họ phải đấu tranh để tự xác định được động cơ đúng đắn, có tác dụng định
hướng cho hoạt động nhằm giải quyết đúng đắn những tình huống đó
Mặt khác, phương pháp này cìn tạo điều kiện để học sinh thể hiện hành
vi đã được hình thành trong các tình huống khác nhau
Để rèn luyện có hiệu quả thì cần phải:
+ Tạo điều kiện cho học sinh được rèn luyện trong nhiều tình huống
khác nhau
+ Tổ chức rèn luyện có hệ thống, thường xuyên, liên tục
+ Kết hợp chặt chẽ kiểm tra và tự kiểm tra
+ Kết hợp chặt chẽ và thống nhất giữa rèn luyện với tự rèn luyện
2.3. Tìm hiểu nhóm phương pháp giáo dục kích thích hoạt động
a. Khái niệm
Trong quá trình giáo dục, người được giáo dục tham gia vào các hoạt
động giáo dục, rèn luyện những hành vi theo định hướng của các chuẩn mực
đã được xã hội quy định.
Qúa trình này có những người tự giác, tích cực tham gia vào các hoạt
động giáo dục và có những hành vi ứng xử phù hợp với các yêu cầu của xã
hội. Nhưng cũng có những người thiếu ý thức, không tự giác tham gia và có
những hành vi ứng xử không phù hợp, thậm chí trái với các chuẩn mực xã
hội. Vì vậy, một vấn đề cần đặt ra là cần phải kích thích, khích lệ những
hành vi phù hợp với yêu cầu của xã hội và điều chỉnh những hành vi sai lệch.
Vì vậy, trong quá trình giáo dục cần phải vận dụng nhóm các phương pháp
kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng xử
Nhóm này có các phương pháp sau đây:
Phương pháp thi đua
Phương pháp khen thưởng
Phương pháp trách phạt
b. Các phương pháp giáo dục kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi
ứng xử của học sinh
Phương pháp thi đua
Thi đua là phương pháp kích thích khuynh hướng tự khẳng định mình của
người được giáo dục, thúc đẩy họ cố gắng, hăng hái vươn lên và lôi cuốn cả
những người khác cũng vươn lên giành cho được những thành tích xuất sắc
cho cá nhân và tập thể
Trong thi đua, học sinh với tư cách là “người tham gia cuộc thi” có những
điều kiện tinh thần rất thuận lợi do “không khí” thi đua tạo nên để phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo của mình trong các hoạt động, vì
vậy có thể hình thành và phát triển một cách nhanh chóng và vững chắc
những phẩm chất và năng lực cần thiết của con người mới. Ngoài ra, phương
pháp này còn có tác dụng kích thích sự nỗ lực vươn lên của cá nhân và tập
thể, đề cao tinh thần trách nhiệm và hình thành mối quan hệ tương trợ lẫn
nhau
Nhưng muốn sử dụng phương pháp này cần phải:
+ Quan tâm đúng mức cả ba giai đoạn thi đua: phát động thi đua, tiến
hành thi đua và tổng kết, đánh giá thi đua
+ Tổ chức, động viên mọi người tích cực, tự giác thi đua
+ Thi đua với mục đích cụ thể, rõ ràng, có tính thuyết phục. Hình thức thi
đua phải sinh động, hấp dẫn
+ Đảm bảo tính khách quan, trung thực, có ý nghĩa giáo dục
+ Cần có sự uốn nắn, theo dõi, sơ kết và tổng kết, đánh giá kịp thời,
công bằng và đúng mực
Phương pháp khen thưởng
Khen thưởng là phương pháp kích thích sư phạm bằng cách khẳng định
và biểu dương thành tích, ưu điểm của học sinh sau khi nhận xét, đánh giá
những thành tích và ưu điểm đó. Vì vậy, có tác dụng gây cho học sinh cảm
giác vui sướng, phấn khởi, làm cho họ có tâm lí tích cực, tin vào sức mình để
nỗ lực hoạt động, củng cố và phát huy thành tích đã đạt được
Khen thưởng còn là phương pháp biểu hiện sự đánh giá tích cực của tập
thể, xã hội đối với hành vi ứng xử của mỗi cá nhân hoặc tập thể học sinh. Vì
vậy, phương pháp này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giáo dục
Để khen thưởng mang lại hiệu quả cao thì cần phải đảm bảo các yêu
cầu sau đây:
+ Khen thưởng phải dựa trên cơ sở hành vi thực tế của học sinh
+ Khen thưởng phải công bằng
+ Đảm bảo khen thưởng kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ
+ Phải chú ý đến đặc điểm lứa tuổi và tính cách của học sinh khi được
khen thưởng
+ Cần phải tạo cho học sinh tâm thế đúng đắn khi được khen. Việc khen
thưởng phải làm cho học sinh đề ra cho mình những yêu cầu càng cao hơn
trong học tập, rèn luyện, tránh dẫn đến tình trạng thỏa mãn, kiêu ngạo khi
được khen
Phương pháp trách phạt
Trách phạt là phương pháp biểu thị sự không đồng tình, sự phản đối, sự
phê phán những hành vi sai trái của người được giáo dục so với các chuẩn
mực xã hội đã đề ra
Trách phạt còn là phương pháp gây cho người có lỗi cảm giác hối hận,
khiến họ từ bỏ hành vi, thói quen không phù hợp với yêu cầu chung hoặc có
hại cho cơ thể, cho xã hội, giúp cho người được giáo dục biết kết hợp đúng
đắn giữa hành vi của mình với yêu cầu chung của tập thể, của xã hội
Trách phạt có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau:
+ Nhắc nhở
+ Phê bình
+ Cảnh cáo
+ Đuổi học…
Các hình thức này phản ánh những mức độ khác nhau của trách phạt. Vì
vậy, khi vận dụng vào những trường hợp cụ thể thì cần phải căn cứ:
+ Từng loại hành vi sai lệch
+ Tính chất của hành vi sai lệch
+ Phạm vi và mức độ tác hại do hành vi sai lệch gây ra là nhiều hay ít,
rộng hay hẹp…
Vì vậy, khi tiến hành trách phạt cần phải lưu ý mấy vấn đề sau đây:
+ Trách phạt phải khách quan, công bằng, đúng mức
+ Phải làm cho người bị trách phạt thấy rõ sai lầm của mình và tự
nguyện chấp nhận hình thức và mức độ trách phạt
+ Phải tôn trọng nhân cách của người bị trách phạt
+ Có thể hoãn hoặc bãi bỏ trách phạt khi người có lỗi đã tỏ ra ăn năn,
sửa chữa
+ Phải tranh thủ sự đồng tình của tập thể
+ Trách phạt phải dựa vào những chứng cứ cụ thể, xác đáng
+ Không nên trách phạt thường xuyên và sử dụng các hình phạt quá nặng
với những lỗi lầm không nghiêm trọng
2.4. Tìm hiểu nhóm phương pháp đánh giá hành vi và hoạt động của
học sinh
a. Khái niệm
Nhóm phương pháp này nhằm xác định mức độ đạt được về hành vi và
hoạt động của học sinh sau một giai đoạn giáo dục nhất định. Thuộc nhóm
phương pháp này, có các phương pháp cụ thể như quan sát, điều tra, thăm dò,
nghiên cứu sản phẩm hoạt động của học sinh...
b. Các phương pháp đánh giá hành vi và hoạt động của học sinh
Phương pháp quan sát
Là phương pháp nhà giáo dục thu thập các thông tin về đối tượng giáo
dục thông qua việc tri giác trực tiếp thái độ, hành vi của trẻ trong các hoạt
động hàng ngày
Phương pháp trao đổi, trò chuyện
Là phương pháp nhà giáo dục thu thập các thông tin về đối tượng giáo
dục thông qua trao đổi, trò chuyện với trẻ, với các bậc phụ huynh...
Phương pháp thăm dò, điều tra
Là phương pháp nhà giáo dục sử dụng bảng hỏi để thu thập các thông tin
từ đối tượng giáo dục. Nhờ phương pháp này mà giáo viên có thể biết được
mức độ nhận thức, quan điểm, thái độ, hứng thú của học sinh về các vấn đề
đạo đức, thẩm mỹ, chính trị...
II. Một số đặc điểm của học sinh tiểu học
1.
Các khía cạnh phát triển của học sinh tiểu học
a.
Khái niệm
Phát triển là quá trình thay đổi trong đó trẻ dần dần làm chủ các kĩ năng
vận động, tư duy, cảm xúc và xã hội trong môi trường sống theo mức độ
phức tạp tăng dần
Quan điểm về phát triển của trẻ hiện nay đã có sự thay đổi. Trước
những năm 1970, nhiều người cho rằng trẻ em ngây thơ, phát triển một cách
bị động như tờ giấy trắng, trẻ em phụ thuộc vào sự bảo vệ, chăm sóc của
người lớn. Quan điểm này trong mấy chục năm gần đây có sự thay đổi hoàn
toàn, trẻ em mang tính tích cực và có tiềm năng đóng góp cho xã hội. Qúa trình
phát triển của trẻ chịu ảnh hưởng của những người xung quanh nhưng tr ẻ
cũng ảnh hưởng tới họ (ảnh hưởng 2 chiều)
b.
Các khía cạnh phát triển
Qúa trình phát triển của trẻ thường được xem xét theo 4 khía cạnh sau:
Thể chất
Là sự phát triển về sức khỏe, phát triển về bộ não, phát triển về vận
động. Trẻ lớn dần, có những thay đổi của cơ thể trong suốt thời gian phát
triển
Nhận thức
Liên quan đến những gì trẻ hiểu biết và quá trình suy nghĩ, ghi nhớ, giải
quyết vấn đề, đánh giá và phê phán
Cảm xúc, tình cảm
Bao gồm việc tạo lập các mối quan hệ gắn bó và sự tự tin của trẻ. Khi
lớn dần, trẻ biết cách kiềm chế, kiểm soát cảm xúc của mình. Trẻ học điều
này thông qua tương tác với người khác để nhận ra các hành vi cảm xúc nào
là thích hợp và không thích hợp trong các tình huống khác nhau trong nền văn
hóa của mình. Sự phát triển cảm xúc, tình cảm là nền tảng cho sự phát triển
về mặt nhận thức và xã hội bởi vì hầu hết thông tin trẻ thu nhận đều xuất
phát từ những người gắn bó, gần gũi
Xã hội
Phát triển về mặt xã hội giúp trẻ hiểu thế nào là đúng, sai trong quan hệ
xã hội và chính bản thân mình. Khi trẻ lớn dần, sự hiểu biết này tăng lên
nhưng các hiểu biết, ứng xử đó phụ thuộc rất nhiều vào gia đình, nhà trường,
xã hội. Phát triển về mặt xã hội bao gồm giao tiếp, xây dựng các mối quan
hệ, các thái độ, kỹ năng xã hội, hòa nhập vào môi trường xã hội với các
chuẩn mực, giới hạn, quy tắc ứng xử
Vì vấn đề chúng ta quan tâm là các phương pháp kỷ luật tích cực và kỷ
luật không nước mắt cho học sinh tiểu học, nên chúng ta sẽ lưu tâm nhiều
hơn tới mặt cảm xúc và hành vi ứng xử xã hội trong mối quan hệ giữa giáo
viên và học sinh
Dưới đây là một số đặc điểm phát triển bình thường theo lứa tuổi của
học sinh tiểu học:
611 tuổi
+ Giai đoạn này các em vẫn rất nhạy cảm với việc bị trừng phạt khi
mắc lỗi. Ở lứa tuổi này, các em đang tập thích nghi với trường học. Nếu bị
phạt khi mắc lỗi học sinh dễ thu mình, cảm thấy không an toàn, có thể giảm
hứng thú, động cơ học tập hoặc thậm chí không muốn đi học
+ Giáo viên cần chấp nhận rằng việc các em mắc lỗi là bình thường và
coi đó là cơ hội giúp các em học tập, không đồng nhất hành vi mắc lỗi với
tính cách, con người của các em
+ Chức năng thích nghi của học sinh được củng cố, và đang dần hình
thành thói quen chăm chỉ học tập, giúp giáo viên một số việc. Kỹ năng làm
thành thạo hoặc giỏi một việc gì đó là rất quan trọng cho quá trình phát triển
của học sinh. Các em có thể mặc cảm, tự ti nếu thấy mình không thể đạt
được những gì giáo viên mong đợi. Do đó, các em cần được nâng đỡ, khích lệ
+ Học sinh đã biết tự kiềm chế cảm xúc, ít gây gổ
+ Học sinh có thể tự mình tổ chức, sắp xếp và thực hiện các hoạt động
học và chơi
+ Kỹ năng xã hội của học sinh bắt đầu phát triển, quan hệ bạn bè cùng
tuổi ở giai đoạn này rất quan trọng
+ Học sinh phân biệt rõ cuộc sống chung và cuộc sống riêng tư
+ Học sinh nhận thức được những người nào có “quyền lực” đối với
mình. Ví dụ như thầy cô, cha mẹ...
+ Đặc điểm nhân cách của học sinh phát triển. Nói chung là giai đoạn
này học sinh tiểu học phát triển khá ổn định
2.
Một số nhu cầu cơ bản của học sinh tiểu học
Ngoài những nhu cầu sinh lí tối thiểu như thở, ăn, uống, ngủ...để sống,
trẻ em còn có các nhu cầu tâm lý – xã hội rất cần thiết cho sự phát triển của
mình. Các em có nhu cầu được:
An toàn
Yêu thương
Tôn trọng
Hiểu, thông cảm
Có giá trị
Chán nản là nguồn gốc của mọi hành vi tiêu cực. Vì thế giáo viên phải là
người nắm bắt được tâm lý trẻ, nhu cầu của trẻ để có những cư xử đúng
đắn; kỷ luật, giáo dục trẻ một cách tích cực mà không làm tổn thương các em
3.
Những hành vi tiêu cực của học sinh tiểu học
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến các hành vi tiêu cực của học sinh tiểu
học nhưng yếu tố quan trọng bậc nhất ảnh hưởng đến việc hình thành đạo
đức cho học sinh đó là nhà trường. Do sự ảnh hưởng của yếu tố này và với
lứa tuổi tiểu học các em chưa kiểm soát được hành vi của mình đã gây ra các
hành vi tiêu cực. Dưới đây là một số hành vi tiêu cực thường xảy ra:
Thu hút sự chú ý
Thể hiện quyền lực
Trả đũa
Thể hiện sự không thích hợp
4.
Thái độ, hành vi của giáo viên với hành vi tiêu cực của học sinh
a.
Xác định mục đích sai lệch của hành vi tiêu cực ở học sinh
Có 2 điểm giúp giáo viên xác định mục đích hành vi của học sinh:
Dựa vào cảm giác của mình
Dựa vào phản hồi của học sinh khi mình cố gắng thay đổi hành vi của học
sinh
b. Thái độ ứng xử của giáo viên
Với loại hành vi thu hút sự chú ý, giáo viên nên:
Giảm thiểu và không để ý đến hành vi của học sinh khi có thể, chủ
động chú ý đến học sinh vào lúc khác, những lúc phù hợp và dễ chịu hơn
Nhìn nghiêm nghị nhưng không nói gì
Hướng trẻ vào hành vi có ích hơn
Nhắc nhở cụ thể (tên, công việc phải làm), cho học sinh lựa chọn có giới
hạn
Với loại hành vi nhằm thể hiện quyền lực, giáo viên nên:
Bình tĩnh, rút khỏi cuộc đôi co, xung đột, không “tham chiến” để học
sinh nguôi dần.
Sử dụng các bước khuyến khích học sinh hợp tác (hiểu cảm xúc của
học sinh, thể hiện mình hiểu cảm xúc đó, chia sẻ cảm xúc của mình về tình
huống đó...)
Giúp học sinh có thể sử dụng sức mạnh, quyền lực theo cách thức tích
cực
Quyết định xem mình sẽ làm gì, chứ không phải bản thân sẽ bắt trẻ
làm gì
Với loại hành vi nhằm trả đũa, giáo viên nên:
Kiên nhẫn. Tránh dùng các hình thức trừng phạt học sinh
Khích lệ sự hợp tác, xây dựng lòng tin từ học sinh
Tâm sự riêng với học sinh để giải quyết khó khăn
Với loại hành vi thể hiện không thích hợp, né tránh thất bại, giáo viên
nên:
Không phê phán, chê bai học sinh
Dành thời gian rèn luyện, phụ đạo cho học sinh, đặc biệt về học tập
Chia nhỏ nhiệm vụ, bắt đầu từ việc dễ để học sinh có thể thành công
ban đầu
Không thể hiện thương hại, không đầu hàng
Dành thời gian thường xuyên cho học sinh, giúp học sinh
III. Phương pháp kỷ luật tích cực, kỷ luật không nước mắt cho học
sinh tiểu học
1.
Phương pháp kỷ luật tích cực
1.1.
Khái niệm
Kỷ luật: là những quy tắc, quy định, luật lệ mà con người phải thực
hiện, chấp hành và tuân theo
Kỷ luật tích cực:
Kỷ luật tích cực không phải luôn chú ý kỷ luật học sinh, hoặc có các
hình phạt nặng mà là:
+ Động viên
+ Khuyến khích
+ Hỗ trợ trong quá trình học tập và rèn luyện của học sinh
+ Nuôi dưỡng lòng ham học
+ Tự nhận hình thức kỷ luật, cam kết không tái phạm
Phương pháp kỷ luật tích cực: là biện pháp giáo dục học sinh không sử
dụng đến các hình thức bạo lực, trừng phạt mà thay vào đó sử dụng những
hình thức kỷ luật tích cực, phù hợp để giúp học sinh giảm thiểu những hành
vi không phù hợp, củng cố các hành vi tích cực và phát triển nhân cách một
cách tốt đẹp, bền vững
1.2.
Đặc điểm
Không bạo lực và tôn trọng học sinh
Thực hiện các tác động giáo dục phù hợp với nhu cầu, trạng thái của
học sinh, giúp trẻ khắc phục nhận thức, hành vi chưa đúng của bản thân
Tạo cho học sinh có cảm giác an toàn, thân thiện và được tôn trọng
bằng việc lắng nghe tích cực và khích lệ học sinh, giúp học sinh có khả năng
vượt qua các rào cản về tâm lý, giảm bởi sự căng thẳng trong học tập và cuộc
sống cá nhân
Gia tăng năng lực hoạt động và cơ hội thành công cho học sinh bằng
việc giáo dục kĩ năng sống cơ bản( theo lứa tuổi )
1.3.
Các phương pháp kỷ luật tích cực
a. Hệ quả tự nhiên và Hệ quả logic
Mới nghe tên gọi, chúng ta thấy phương pháp này là một phương pháp
mới. Thật ra không phải như vậy. Giao viên vẫn hay sử dụng phương pháp
này ở trường. Điều đáng bàn là nhiều khi chúng ta sử dụng không đúng cách
nên kém hiệu quả hoặc nhiều trường hợp lại trở thành trừng phạt có hại cho
học sinh
Hệ quả tự nhiên: là những gì xảy ra một cách tự nhiên, không có sự can
thiệp của người lớn. Ví dụ, khi trời nóng mà đi tắm sẽ cảm thấy mát, khi
không ăn sẽ bị đói, khi không ngủ sẽ mệt mỏi...
Hệ quả logic: đòi hỏi có sự can thiệp của người lớn hoặc của trẻ khác
trong gia đình hay lớp học. Ví dụ, khi không làm bài tập ở nhà thì đến lớp sẽ
bị điểm kém; khi trẻ nghịch ngợm, phá hỏng đồ chơi mới mua thì thời gian tới
sẽ không mua đồ chơi mới...
Phương pháp này có 2 mục đích chủ yếu:
Việc sử dụng hệ quả tự nhiên và hệ quả logic dạy cho trẻ có ý thức
trách nhiệm về các hành vi của chính mình, khích lệ trẻ đưa ra những quyết
định có trách nhiệm ( đi học đúng giờ, làm bài tập về nhà...)
Cách làm này có thể thay thế cho trừng phạt, trẻ vẫn học được cách
ứng xử tốt nhất mà không cần người lớn đánh mắng
Phương pháp này giúp cho mối quan hệ của giáo viên và học sinh ấm áp
hơn, ít xung đột hơn
Muốn áp dụng phương pháp này trước hết mối quan hệ giữa giáo viên
và học sinh phải dựa trên nền tảng tôn trọng lẫn nhau và cả 2 bên cần cùng
hợp tác và khích lệ lẫn nhau. Nếu muốn thay đổi hành vi nào đó của học sinh,
trước hết giáo viên phải làm cho học sinh hợp tác chứ không phải đối đầu với
giáo viên. Muốn học sinh hợp tác, bản thân mỗi giáo viên phải có tính hợp tác.
Nếu muốn học sinh tôn trọng, giáo viên phải thể hiện sự tôn trọng với học
sinh
Hai quy tắc cho việc áp dụng Hệ quả tự nhiên
Không gây nguy hiểm cho học sinh: Hệ quả tự nhiên là cách giúp trẻ
nhận ra kết quả hành vi của mình một cách tự nhiên. Tuy nhiên, giáo viên
phải đảm bảo an toàn cho học sinh. Ví dụ, chúng ta không được để cho học
sinh sờ vào điện, đi qua đường phố nhiều xe cộ qua lại…chỉ để dạy học sinh
trải nghiệm hệ quả tự nhiên
Không làm ảnh hưởng đến người khác: Ví dụ, không để học sinh ném
đá vào bạn khác. Vì khi đó, tuy học sinh nhanh chóng nhận ra được kết quả
tiêu cực của hành vi đó, nhưng bạn khác phải chịu đau đớn chỉ vì bài học cho
học sinh. Học sinh có thể học được gì nếu các em không quan tâm hoặc
không nhận ra rằng hành vi của mình có ảnh hưởng đến người khác. Vì vậy,
giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ hành vi của mình gây ảnh hưởng thế nào
đối với người khác đồng thời không được để nguy hại đến người khác
Ba quy tắc cho việc áp dụng Hệ quả logic
Việc dùng Hệ quả logic chỉ có hiệu quả khi đảm bảo 3 quy tắc sau:
Liên quan: Nguyên nhân và hệ quả phải có liên quan với nhau. Khi học
sinh vứt rác bừa bãi thì Hệ qủa logic là nhặt lại và bỏ rác đúng nơi quy định.
Khi học sinh viết bậy lên bàn thì học sinh phải lau chùi bàn cho sạch (chứ
không phải là bắt các em quét sân trường, dọn nhà vệ sinh vì các hình thức đó
là trừng phạt, không liên quan đến hành vi làm bẩn của các em)
Tôn trọng: Nếu giáo viên không thể hiện sự tôn trọng khi yêu cầu học
sinh khắc phục lỗi, mà thay vì đó làm cho học sinh bẽ mặt như mắng chửi,
dọa nạt các em…thì đó là cách thức trừng phạt. Khi đó, việc dùng Hệ quả
logic sẽ không hiệu quả.
Hợp lý: Nếu giáo viên vô lý yêu cầu học sinh quét dọn, lau chùi lớp học
và phải rút ra được bài học mà không giải thích thì đó cũng không còn là sử
dụng Hệ quả logic nữa. Tính hợp lý không còn, cộng với việc giáo viên dùng
quyền để bắt học sinh rút kinh nghiệm cho lần sau thì học sinh sẽ khó hợp tác
để thay đổi
Nếu giáo viên không áp dụng 3 quy tắc trên thì việc dùng Hệ quả logic
sẽ là sự trừng phạt và không có hiệu quả cho học sinh của mình, làm cho các
em có những phản ứng và hành vi tiêu cực.
Bảng 1. Sự khác nhau giữa trừng phạt và dùng Hệ quả logic
Trừng phạt
1. Nhấn mạnh quyền hành của
giáo viên. Giao viên chỉ cần yêu
cầu, học sinh phải thực hiện
2. Thể hiện sự độc đoán hoặc ít
liên quan tới hành vi của học sinh
3. Đồng nhất hành vi và nhân cách
của học sinh, hàm ý phán xét về
mặt đạo đức
4. Chỉ chú trọng đến quá khứ
Hệ quả logic
1. Thể hiện thực tế cuộc sống.
Giao viên và học sinh tôn trọng
lẫn nhau
2. Liên quan trực tiếp đến hành
vi của học sinh
3. Phân biệt hành vi và nhân
cách
Quan tâm đến hiện tại và
Dọa sẽ đối xử thiếu tôn trọng tương lai
Yêu cầu vâng lời, tuân thủ ngay 5. Hàm ý thiện chí, thân thiện
6. Cho phép lựa chọn
4.
5.
6.
Ngoài ra còn có một số đặc điểm khác nhau về thái độ của giáo viên
trong 2 phương pháp:
Trừng phạt
Hệ quả logic
1. Giong nói, ánh mắt, nét mặt 1. Giong nói, ánh mắt, nét mặt
giận dữ
bình tĩnh
2. Thái độ không thân thiện, thù 2. Thái độ thân thiện nhưng kiên
ghét
quyết
3. Không chấp nhận sự lựa chọn 3. Có thể chấp nhận quyết định
của học sinh
của học sinh
Cần phải nói thêm rằng, một số giáo viên dù không quát mắng, đánh đập
học sinh nhưng lại sử dụng phương pháp coi như học sinh không tổn hại:
không trò chuyện, không nghe các em nói, không nhìn thấy gì khi các em làm
điều xấu…Tuy nhiên, cách làm này không gây hệ quả trực tiếp nhưng là một