Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Bài tiểu luận: Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, đi đôi với mở rộng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.12 KB, 35 trang )

1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
  2
Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC QUY ĐỊNH THỰC CHẤT CỦA ĐỔI MỚI   
VÀ KIỆN TOÀN HỀ  THỐNG CHÍNH TRỊ  LÀ XÂY DỰNG VÀ 
TỪNG BƯỚC HOÀN THIỆN  NỀN DÂN CHỦ  XàHỘI  CHỦ 
NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

 4

          1.1 Xuất phát từ  mối quan hệ  giữa hệ  thống chính trị  và nền   
dân chủ XHCN
 5
          1.2 Xuất   phát   từ   vai   trò,   chức   năng   của   hệ   thống   chính   trị   7
XHCN
1.3 Xuất phát từ  quy luật hình thành chế  độ  dân chủ  và điều 
kiện thực hiện dân chủ XHCN ở nước ta
10
             1.4 Thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế  giới    
chứng minh hệ  thống chính trị  XHCN đóng vai trò quyết 
định trực tiếp sự  tồn tại và phát triển của nền dân chủ  13
XHCN
Chương 2  NHỮNG BIỂU HIỆN THỰC CHẤT ĐỔI MỚI VÀ KIỆN TOÀN   
HỆ  THỐNG CHÍNH TRỊ, ĐI ĐÔI VỚI MỞ  RỘNG VÀ TỪNG 
BƯỚC HOÀN THIỆN NỀN DÂN CHỦ XàHỘI CHỦ NGHĨA Ở 
NƯỚC TA HIỆN NAY

14


2.1   Giữ  vững nguyên tắc đổi mới chính trị  kết hợp với bảo    
đảm quá trình xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân 
chủ XHCN ở nước ta
15
2.2 Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của hệ  thống  
chính trị  gắn liền với quá trình xây dựng và từng bước  
hoàn thiện nền dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay
16
2.3 Đổi mới cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị, biểu hiện 
trực tiếp của đổi mới cơ  chế  bảo đảm và thực thi dân chủ  23
XHCN
2.4 Quân đội ta với việc phát huy vai trò nhà nước pháp quyền 
XHCN và quyền tự do dân chủ ở nước ta hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

25
 30
 31


2

MỞ ĐẦU
            Chế  độ  dân chủ  xã hội chủ  nghĩa và hệ  thống chính trị  xã hội chủ 
nghĩa là những phạm trù cơ  bản của chủ  nghĩa xã hội khoa học có quan hệ 
biện chứng. Trong đó, chế  độ  dân chủ  xã hội chủ  nghĩa nói lên đầy đủ  chế 
độ  chính trị của chủ nghĩa xã hội, còn hệ  thống chính trị  là hình thái tổ  chức 
và là cốt lõi của chế  độ  dân chủ  xã hội chủ  nghĩa. Trong “Tuyên ngôn của  
Đảng cộng sản”. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “giai đoạn thứ  nhất của cuộc  

cách mạng công nhân là giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyền”1 V.I.Lênin 
cũng nói “dân chủ  là hình thức tổ  chức xã hội có giai cấp, là hình thái nhà  
nước”2. Vì vậy, quá trình thiết lập, củng cố và hoàn thiện nền dân chủ xã hội  
chủ  nghĩa và xây dựng hệ  thống chính trị  là quá trình đấu tranh gay gắt trên 
lĩnh vực chính trị tư tưởng cũng như lĩnh vực đời sống chính trị thực tiễn.
           Theo quan điểm Mác­xít, hệ thống chính trị của bất cứ một chế xã hội,  
một quốc gia dân tộc cũng đều là hệ  thống các tổ  chức chính trị  ­ xã hội  và 
mối quan hệ giữa chúng với nhau, vận hành theo một cơ chế nhất định, đảm 
bảo cho việc thực hiện quyền lực chính trị  của giai cấp cầm quyền trong  
quan hệ  với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội khác. xét về  mặt cấu  
trúc  nó bao gồm hai bộ phận cơ bản: Bộ phận thứ nhất là; các tổ chức chính 
trị ­ xã hội hợp thành (các Đảng chính trị, Nhà nước, các đoàn thể  nhân dân),  
liên kết với nhau trong một chỉnh thể  và được hoạt động trong khuôn khổ 
hiến pháp và pháp luật. Bộ phận thứ hai; là cơ chế chính trị bảo đảm cho sự 
vận hành của hệ  thống  ấy; là cơ  chế  thực hiện quyền lực chính trị  của giai  
cấp thống trị…tất nhiên ở hai bộ phận ấy đều do kết cấu hạ tầng cơ sở của  
xã hội quy định.
Trong xã hội có giai cấp bất cứ giai cấp cầm quyền nào cũng tổ  chức 
ra bộ máy nhà nước để duy trì sự thống trị của mình đối với xã hội. Theo đó, 
khi giai cấp công nhân tiến hành cách mạng vô sản giành thắng lợi tất yếu sẽ 
Mác và Ăngghen toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H.1995, Tr.615.
 Lênin toàn tập, Tập 33, Nxb TB, M, H.1976, Tr.23.

1
2


3
tổ chức ra hệ thống quyền lực của mình đối với xã hội đó là hệ thống chuyên  
chính vô sản (hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa). Hệ  thống chính trị xã hội  

chủ  nghĩa là một chỉnh thể bao gồm toàn bộ  những tổ  chức chính trị  ­xã hội 
(Đảng Mác­Lênin, Nhà nước xã hội chủ  nghĩa, các đoàn thể  nhân dân), hoạt  
động hợp pháp cùng với cơ  chế  chính trị  đảm bảo quyền lực thực tế  của  
nhân dân lao động.  Nói cách khác, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là toàn 
bộ  những thiết chế, cơ  chế  của chế  độ  dân chủ  xã hội chủ  nghĩa, bảo đảm 
quyền lực thuộc về nhân dân lao động, do Đảng cộng sản lãnh đạo thực hiện 
“chức năng cơ bản là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội  
chủ  nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về  nhân dân”3 trên tất cả  các lĩnh vực 
đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, quốc phòng ­ an ninh…
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thiết lập sau Cách 
mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi. Đó là chế độ dân chủ nhân dân, với sự ra  
đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và các tổ chức chính trị ­ xã hội 
của nhân dân, ra đời trưởng thành trong cách mạng đặt dưới sự  lãnh đạo của 
Đảng cộng sản Việt Nam. Cùng tiến trình phát triển của cách mạng, hệ thống  
chính trị   ở  nước ta ngày càng được củng cố, xây dựng và kiện toàn thể  hiện 
bản chất khác hoàn toàn so với hệ thống chính trị tồn tại trước đó trong lịch sử. 
Như  Chủ  tịch Hồ  Chí Minh đã khảng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao  
nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân. chính quyền từ xã  
đến Chính phủ  Trung  ương do dân cử  ra. Nói tóm lại, quyền hành và lực  
lượng đều ở nơi dân.”4.
Hệ  thống chính trị  xã hội chủ  nghĩa nước ta bao gồm: Đảng cộng sản  
Việt Nam, Nhà nước xã hội chủ  nghĩa Việt Nam, mặt trận tổ  quốc và các  
đoàn thể  chính trị xã ­ hội của nhân dân, hoạt động theo cơ  chế: Đảng cộng 
sảnViệt Nam lãnh đạo; Nhà nước điều hành quản lý xã hội; Nhân dân làm  
chủ. Chính cơ  chế  vận hành  ấy đã quy định bản chất hệ  thống chính trị   ở 
nước ta mang bản chất xã hội chủ  nghĩa, vừa phát huy vai trò, chức năng,  
Hỏi đáp CNXHKH, Nxb QĐND, H.2004, Tr.69.
 Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H.2000, Tr.698.

3

4


4
hiệu quả  hoạt động của nó trong quá trình cách mạng xã hội chủ  nghĩa  ở 
nước ta. Qua hoạt động của hệ  thống chính trị, cách mạng Việt Nam đã thu 
được nhiều thắng lợi trong sự  nghiệp kháng chiến, kiến quốc và xây dựng  
chủ nghĩa xã hội, đồng thời bản thân hệ thống chính trị cũng ngày càng được  
xây dựng, kiện toàn, củng cố, đổi mới và hoàn thiện. Quá trình xây dựng và 
từng bước hoàn thiện nền dân chủ  xã hội chủ  nghĩa  ở  nước ta nằm “ Bảo  
đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống  ở mỗi cấp, trên tất cả  
các lĩnh vực”5.
Nghiên cứu quá trình ra đời, tồn tại, phát triển, vai trò, chức năng, của hệ 
thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta trên quan điểm chủ nghĩa Mác ­ Lê  
nin, chúng ta có thể khẳng định rằng: Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị 
thực chất là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa 
ở  nước ta hiện nay. Vấn đề  này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nhận 
thức lý luận, tư  tưởng cũng như  thực tiễn quá trình đổi mới, kiện toàn hệ 
thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với tính 
cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình cách mạng xã hội chủ 
nghĩa ở nước ta hiện nay nói chung và xây dựng quân đội cũng như thực hiện 
dân chủ trong quân đội ta nói riêng. Với ý nghĩa đó, tôi chọn vấn đề “Đổi mới  
và kiện toàn hệ  thống chính trị, đi đôi với mở  rộng và từng bước hoàn thiện 
nền dân chủ  xã hội chủ  nghĩa  ở  nước ta hiện nay” làm bài tiểu luận của 
mình. 
I. Cơ  sở  khoa học quy  định thực chất của  đổi mới và kiện toàn hệ 
thống chính trị là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội  
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 
         Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác ­ Lênin chỉ rõ: Chuyên chính vô sản là  
sự  thống trị  về  chính trị  của giai cấp công nhân đối với toàn bộ  xã hội, do 

cách mạng vô sản sinh ra và có sứ  mệnh xây dựng thành công chủ  nghĩa xã 
  Đảng CSVN, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 
năm 2011), Nxb CTQG, H.2011, Tr.85.
5


5
hội và chủ nghĩa cộng sản, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ trên rất  
cả mọi mặt đời sống xã hội. Theo ý nghĩa đó, Đảng ta sử dụng khái niệm hệ 
thống chính trị xã hội chủ nghĩa thực chất xét về mục đích, chức năng, nhệm 
vụ là thống nhất với khái niệm chuyên chính vô sản trong quá trình thực hiện  
sứ  mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Do đó, thường xuyên xây dựng, đổi 
mới, kiện toàn hệ  thống chính trị  là một tất yếu nhằm đáp  ứng yêu cầu,  
nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong từng thời kỳ, từng giai đoạn 
để đạt tới mục tiêu của cách mạng hội chủ nghĩa là: giải phóng giai cấp, giải 
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người một cách triệt để; 
đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ  xã hội, làm chủ  đất nước, làm chủ 
chính bản thân mình. Theo đó, khẳng định thực chất của đổi mới và kiện toàn  
hệ  thống chính trị  là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ  xã hội  
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là hoàn toàn có cơ sở khoa học.
1.1. Xuất phát từ mối quan hệ giữa hệ thống chính trị và nền dân chủ xã  
hội chủ nghĩa.
Hệ thống chính trị và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là hai phạm trù cơ 
bản của chủ  nghĩa xã hội khoa học có quan hệ  mật thiết, gắn bó với nhau  
trong một chỉnh thể thống nhất; là mối quan  hệ “song trùng” cả về quá trình 
hình thành, phát triển, bản chất; đồng thời quy định bản chất của chế  độ  xã  
hội ­ xã hội chủ  nghĩa  ưu việt hơn hẳn chế  độ  xã hội ­ xã hội tư  bản chủ 
nghĩa.
  Bản chất của chế  độ  xã hội do cơ  sở  kinh tế  quy định, nhưng biểu 
hiện trước hết về  mặt xã hội là chế  độ  dân chủ. Nền dân chủ  xã hội chủ 

nghĩa ra đời bắt đầu từ  khi chính quyền thuộc về  tay giai cấp công nhân và  
nhân dân lao động, thông qua cách mạng xã hội chủ  nghĩa. Là nền dân chủ 
của nhân dân từng bước chuyển biến thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Là 
nền dân chủ cho đa số, do đa số nhân dân lao động, tiến tới một xã hội không  
còn giai cấp. Thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là giải quyết mối quan  
hệ cốt lõi: dân chủ với ai, chuyên chính với ai. Nếu như trong xã hội tư bản, 


6
dân chủ là đàn áp, nô dịch với đa số  nhân dân lao động và dân chủ, tự do với  
số  ít bọn người bóc lột (giai cấp tư  sản) thì trong xã hội ­ xã hội chủ  nghĩa 
thực hành dân chủ  với quảng đại đa số  quần chúng nhân dân lao động và 
chuyên chính với bọn phản động, và giai cấp bóc lột chống lại nền dân chủ 
của nhân dân lao động.
Xét về bản chất, hệ thống chính trị trong chủ nghĩa xã hội và hệ thống 
chuyên chính vô sản là đồng nhất. Nó là cơ chế bảo đảm quyền lực của nhân 
dân, vận hành theo nguyên tắc: Đảng lãnh đạo; Nhà nước quản lý; Nhân dân 
làm chủ. Chính vì vậy, quyền lực xã hội, quyền lực nhà nước và quyền lực  
dân chủ đến đâu đều phụ  thuộc vào cơ  chế, thiết chế  và tổ  chức hoạt động 
của hệ  thống chính trị  do giai cấp công nhân và nhân dân lao động thiết lập  
sau khi cách mạng vô sản thành công. Thiết lập hệ thống chính trị xã hội chủ 
nghĩa đồng thời cũng là bắt đầu xây dựng và thực hiện dân chủ  xã hội chủ 
nghĩa, đó cũng là quá trình đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong  
điều kiện đã có chính quyền, đã thiết lập được chuyên chính vô sản và từng  
bước vào thực hiện dân chủ  xã hội chủ  nghĩa. Do đó, hệ  thống chính trị  và 
nền dân chủ có mối quan hệ chặt chẽ khăng khít với nhau trong quá trình xây 
dựng chủ nghĩa xã hội. Mác đã chỉ rõ: hậu quả tất yếu của nền dân chủ ở tất  
cả  các nước văn minh là quyền thống trị  về  chính trị  của giai cấp vô sản,  
quyền thống trị  của giai cấp vô sản là tiền đề  đầu tiên của tất cả  mọi biện  
pháp cộng sản chủ  nghĩa. Có nghĩa là chuyên chính vô sản, tổ  chức và hoạt  

động của hệ  thống chính trị  xã hội chủ  nghĩa và nền dân chủ  đều là những  
tiền đề, phương thức để  giai cấp công nhân và nhân dân lao động xây dựng  
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Kế thừa tư tưởng của Mác, Lênin  cho rằng: “đương nhiên chế độ dân  
chủ  cũng là một hình thức nhà nước và sẽ  phải mất đi khi nhà nước tiêu  
vong, nhưng điều đó chỉ  xảy ra khi chủ  nghĩa xã hội thắng lợi hoàn toàn và  
được củng cố, quá độ lên chủ nghĩa xã hội hoàn toàn”6. Nghĩa là chế độ dân 
chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thái nhà nước, trong nhà nước đó nhân dân là 
 Lênin toàn tập, Tập27, NxbTB, M, H.1980, Tr.329.

6


7
tính thứ nhất, nhà nước là tính thứ hai ­ chịu sự quy định của nhân dân; nhân  
dân là chủ, nhà nước là công cụ để nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm  
chủ của mình đối với nhà nước và xã hội. Những hình thái đó càng được mở 
rộng và phát triển bao nhiêu thì càng dẫn đền tiêu vong sớm bấy nhiêu. Dưới  
chủ  nghĩa cộng sản, hệ  thống và chế  độ  dân chủ  xã hội chủ  nghĩa sẽ  không  
còn cơ sở tồn tại, dân chủ sẽ trở nên hoàn bị và triệt để hoàn toàn.
Xét về  mặt cấu chúc, hệ  thống chính trị  và nền dân chủ  xã hội chủ 
nghĩa có mối quan hệ  càng gắn bó, khăng khít, cái này nằm trong cái kia, cái 
kia bao hàm cái này không tách dời nhau, là một chỉnh thể  thống nhất. Nền  
dân chủ  xã hội chủ  nghĩa là toàn bộ  thể  chế, thiết chế, cơ  chế  chính trị  của 
chế độ xã hội ­ xã hội chủ nghĩa thể hiện và bảo đảm các quyền tự do, bình 
đẳng, dân chủ  của nhân dân trong đời sống và quan hệ  xã hội, bảo đảm 
quyền lực thuộc về  nhân dân. Trong cấu chúc của nền dân chủ  xã hội chủ 
nghĩa thì hệ thống chính trị là một bộ phận cơ bản, trọng yếu với tính cách là 
thiết chế, cơ chế chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do đó, đổi mới  
và hoàn thiện hệ  thống chính trị  là nội dung quan trọng trong quá trình xây  

dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, theo Lênin: Chế độ 
dân chủ bao giờ cũng mang tính giai cấp, bản chất của nền dân chủ được quy  
định bởi bản chất của giai cấp thống trị. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế 
độ  dân chủ  “gấp triệu lần” dân chủ  tư sản, nhưng không phải là cái gì trừu  
tượng, mà chính là quyền lực thực tế của nhân dân lao động đối với xã hội và 
bản thân. Do vậy, nền dân chủ   ấy phải có một thiết chế, cơ  chế  đảm bảo  
cho nền dân chủ  hội chủ  nghĩa được thực hiện. Thiết chế   ấy chính là hệ 
thống chính trị  xã hội chủ  nghĩa vận hành theo cơ  chế: Đảng cộng sản lãnh  
đạo ­ Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý, nhân dân lao động làm chủ. Đây là 
thiết chế, cơ chế bảo đảm chắc chắn nhất cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa 
thể hiện đúng bản chất và được hiện thực hóa trên thực tế.
Như vậy, từ mối quan hệ giữa hệ thống chính trị và nền dân chủ xã hội 
chủ  nghĩa chúng ta có thể  khẳng định thực chất đổi mới và kiện toàn hệ 


8
thống chính trị là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ  xã hội chủ 
nghĩa ­ xét về bản chất và cấu trúc của hệ thống chính trị và nền dân chủ  xã 
hội chủ nghĩa.
1.2. Xuất phát từ  vai trò, chức năng của hệ  thống chính trị  xã hội chủ  
nghĩa.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa có vai trò quyết định với việc thực  
hiện và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, vai trò đó được quy định một cách 
khách quan từ bản chất của nó. Đồng thời hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa 
là công cụ để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình đối với xã hội. Hệ 
thống chính trị  là thiết chế, cơ  chế  của chế  độ  dân chủ  xã hội chủ  nghĩa, 
chức năng cơ  bản của nó là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ 
xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, trước hết hệ thống chính trị được thiết lập và không 
ngừngđược củng cố, hoàn thiện là điều kiện cơ bản nhất bảo đảm cho công 
cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ  nghĩa giành thắng lợi, là cơ  sở 

cho nền dân chủ  xã hội chủ  nghĩa tồn tại và phát triển. Mặt khác, hệ  thống 
chính trị  xã hội chủ  nghĩa còn là khâu then chốt, yếu tố  cơ  bản nhất để  xây 
dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nó tạo ra một bộ máy hoạt 
động theo cơ chế bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Hơn nữa, hệ 
thống chính trị  xã hội chủ  nghĩa là một bộ  phận đặc biệt có vai trò chi phối 
các bộ phân khác trong kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa. Nó vừa phản 
ánh cơ  sở  kinh tế, vừa chịu quy định của các quan hệ  kinh tế  xã hội chủ 
nghĩa, đồng thời nó vừa tác động trực tiếp và tích cực đến cơ sở kinh tế ­ cái  
nền tảng bảo đảm nền dân chủ  xã hội chhủ  nghĩa ra đời, tồn tại và phát 
triển. Chính vì lẽ  đó, hệ  thống chính trị  xã hội chủ  nghĩa có vai trò định 
hướng sự phát triển của dân chủ. Chế  độ  dân chủ  phát triển theo hướng mở 
rộng dân chủ  cho quảng đại quần chúng nhân dân, hay bó hẹp cho thiểu số 
bóc lột; chuyên chính với kẻ thù hay chuyên chính với nhân dân lao động là do  
bản chất hệ thống chính trị quyết định.


9
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là bộ máy bảo đảm cho hiện thực hóa  
quyền dân chủ  của nhân dân, gắn với kỷ cương, kỷ  luật và ngăn chặn những  
hành vi xâm phạm dân chủ, lợi dụng dân chủ để gây mất ổn định chính trị ­ xã 
hội.
Vai trò của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa đối với nền dân chủ xã 
hội chủ nghĩa được quy định một cách khách quan, được biểu hiện qua vai trò  
chức năng của từng thành tố trong cấu trúc của hệ thống chính trị. Trong đó, 
Đảng cộng sản vừa là hạt nhân lãnh đạo vừa là một thành tố của hệ thống có  
vai trò quyết định sự  ra đời và phát triển của hệ  thống chính trị  và nền dân 
chủ xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản là nhân tố có 
ý nghĩa quyết định cho sự vận động và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ 
nghĩa. Đảng cộng sản là người đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, 
nhân dân lao động và của cả  dân tộc. Đảng cộng sản được trang bị  lý luận  

khoa học đó là Chủ  nghĩa Mác­Lênin. Đảng cộng sản vạch ra cương lĩnh 
chính trị, chính sách kinh tế  xã hội bảo đảm cho sự  phát triển của đất nước. 
Đảng cộng sản đưa chủ  nghĩa Mác­Lênin vào trong phong trào cách mạng 
quần chúng, nâng cao giác ngộ chính trị của quần chúng, đảm bảo tính tự giác  
của phong trào trong quá trình xây dựng nền dân chủ  xã hội chủ  nghĩa. Cũng 
chỉ  có sự  lãnh đạo của Đảng cộng sản nhân dân mới có thể  tiến hành cuộc 
đấu tranh có hiệu quả, chống lại mọi biểu hiện chủ nghĩa quan liêu, mưu đồ 
lợi dụng quá trình dân chủ  hóa vì lợi ích trái với lợi ích của nhân dân. Đồng  
thời, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản quyết định 
bản chất nền dân chủ và hệ thống chính trị.  Nếu tách sự lãnh đạo của Đảng  
với xã hội, hoặc coi nhẹ sự lãnh đạo của Đảng sẽ  làm cho các thành tố khác  
trong hệ  thống chính trị  mất phương hướng hoạt động, xa dời bản chất giai  
cấp công nhân, hoạt động đi theo hướng tự do kiểu tư bản, kéo theo làm mất 
quyền dân chủ  cho nhân dân lao động. Mặt khác, lợi ích của giai cấp công  
nhân, của Đảng không nằm ngoài lợi ích của nhân dân lao động; Đảng là đại 
biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của 


10
cả  dân tộc, có mối quan hệ  mật thiết với nhân dân; hoạt động trong khuôn  
khổ  hiến pháp và pháp luật. Do vậy, giữ  vững tăng cường sự  lãnh đạo duy  
nhất của Đảng cộng sản trong hệ thống chính trị là nhân tố cơ bản, điều kiện  
tiên quyết nhất bảo đảm cho sự  ra đời và bản chất nền dân chủ  xã hội chủ 
nghĩa.
Nhà nước xã hội chủ  nghĩa ­ thiết chế  có chức năng trực tiếp nhất  
trong thể chể hóa tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, là công cụ  sắc  
bén nhất trong cuộc đấu tranh với mọi mưu đồ  đi ngược lại lợi ích của nhân 
dân; là thiết chế chính trị có hệu quả nhất trong tổ chức xây dựng xã hội mới; 
là công cụ  hữu hiệu để  vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng  
chủ nghĩa xã hội nói chung và xây dựng nền dân chủ nói xã hội chủ nghĩa nói 

riêng được thực hiện. Chính vì vậy, trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa,  
đảng ta xem nhà nước là “trụ cột”, “là một công cụ chủ yếu, vững mạnh của  
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”7.
Nền dân chủ  xã hội chủ  nghĩa được thực hiện bằng Nhà nước pháp 
quyền xã hội chủ  nghĩa, bằng cả  hệ  thống tổ  chức và cơ  chế  phức tạp của  
nhiều yếu tố phức hợp tạo thành. Nhưng với tính cách là một chế độ chính trị,  
trước hết dân chủ  xã hội chủ  nghĩa được thực hiện bằng Nhà nước và thông  
qua Nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước pháp quyền  
của dân, do dân và vì dân trên cơ sở khối liên minh giữa giai cấp công nhân với  
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng cộng sản lãnh đạo. Nhà nước  
có chức năng cụ  thể  hóa đường lối quan điểm của Đảng về  các quyền của 
nhân dân thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách…và tổ chức thực hiện chúng. 
Pháp luật trở thành công cụ chủ yếu của nhà nước trên mọi lĩnh vực đời sống 
xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý bằng pháp luật. Mọi cá nhân  
tổ  chức hợp pháp đều bình đẳng về  nghĩa vụ  và quyền lợi trước pháp luật.  
Quyền lực xã hội, quyền lực nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội thuộc về  nhân  
dân nhưng phải được đảm bảo bằng hiến pháp và pháp luật, phải được quy  
định cụ  thể  trong luật pháp. Công việc đó là do các cơ  quan nhà nước thực  
7

Đảng cộng sản Việt nam, Văn kiện NQTW3, KhóaVIII, Nxb CTQG, H.1997, Tr.6.


11
hiện, thể hiện ý trí nguyện vọng của nhân dân và đại diện cho nhân dân thực  
hiện quyền lực  ấy trên cơ  sở  điều hành, quản lý mọi mặt đời sống xã hội. 
Đảm bảo cho  nhân dân thực hiện quyền lực của mình trên các lĩnh vực chính 
trị, kinh tế, văn hóa , xã hội, quốc phòng, an ninh…
Vấn đề thuộc bản chất của bất cứ nền dân chủ nào đó là giải quyết mối  
quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính. Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa,  

dân chủ  luôn gắn với kỷ cương, pháp luật, pháp chế; thống nhất giữa quyền  
lợi ­ nghĩa vụ ­ trách nhiệm, dân chủ đi đôi với chuyên chính. Để thực hiện dân  
chủ  cho nhân dân phải chuyên chính với kẻ  thù; bọn phản động phá hoại dân 
chủ, Nhà nước là công cụ thực hành chuyên chính với mưu đồ đi ngược lại với  
với lợi ích và quyền làm chủ  của nhân dân, đó cũng là chức năng cơ  bản của  
nhà nước chuyên chính vô sản trong xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ  xã 
hội chủ nghĩa.
Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, mặt trận tổ quốc và các đoàn 
thể  chính trị  ­ xã hội cách mạng ra đời và trưởng thành trong quá trình cách  
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các đoàn thể ấy là tổ  chức của nhân dân, 
phấn đấu cho dân, thực hiện quyền lợi cho dân, bênh vực cho quyền lợi chính 
đáng của nhân dân, liên lạc mật thiết giữa nhân dân với Chính phủ. Cho nên, 
nó có vai trò rất to lớn trong tập hợp, giáo dục quần chúng nhân dân tham gia  
xây dựng và thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà 
nước; quy tụ mọi thành viên vào thực hiện có hiệu quả những quyền lực hợp  
pháp của mình. Đồng thời nó là công cụ, thông qua đó nhân dân tham gia xây  
dựng, giám sát hoạt động của Đảng, Nhà nước, bảo vệ, thỏa mãn lợi ích, nhu  
cầu chính đáng của các thành viên trong tổ  chức mình. Thực chất đó là hệ 
thống công cụ trong thiết chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện quyền lực của  
mình đối với xã hội.
Các thành tố trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa có quan hệ  chặt 
chẽ  với nhau tạo thành cơ  chế  bảo đảm quyền làm chủ  chủa nhân dân. Do  
vậy, đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị nói chung và các thành tố nói riêng  


12
thực chất là đổi mới, kiện toàn thiết chế, cơ chế cho nền dân chủ xã hội chủ 
nghĩa được xây dựng và từng bước hoàn thiện.
1.3. Xuất phát từ  quy luật hình thành chế  độ  dân chủ  và điều kiện thực  
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Dân chủ là giá trị nhân loại, ước nguyện từ xa xưa của con người muốn 
làm chủ tự nhiên, xã hội và làm chủ chính bản thân mình; đó là nhu cầu khách 
quan của sự phát triển xã hội loài người. Nhưng dân chủ  bao giờ  cũng bị  chi 
phối, quy định bởi cơ sở kinh tể ­ xã hội và cơ sở chính trị ­ xã hội. ở chế độ 
chiếm hữu nô lệ và chế  độ phong kiến hầu như không có dân chủ. Đến nền  
văn minh Châu Âu (thế  kỷ  XVI đến XIX) dân chủ  đã có sự  phát triển vượt 
bậc đó là chế độ dân chủ tư sản. Tuy nhiên, đó vẫn là nền dân chủ chật hẹp,  
bị cắt xén, giả  dối, giả hiệu bởi do chế độ  kinh tế  ­ xã hội và bản chất giai 
cấp tư sản quy định. Chỉ đến chế độ xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ mới được  
xây dựng trên cơ sở của chính nó, chế độ kinh tế ­ xã hội dựa trên cơ sở công  
hữu về tư liệu sản xuất và công bằng, không có bóc lột, bất công, mọi người  
được sống tự do, bác ái, khi ấy xã hội mới có bước phát triển lên trình độ  dân 
chủ, nhân dân làm chủ xã hội.
Theo nghĩa đó, ở nước ta vấn đề dân chủ luôn gắn liền với vấn đề dân 
tộc, chỉ có giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức bóc lột mới mở đường cho dân  
chủ  phát triển, dân chủ  trở  thành mục đích trực tiếp trong công cuộc cách 
mạng giải phóng dân tộc. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta được hình  
thành và phát triển là kết quả  tất yếu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ 
nhân dân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đó là vấn đề có tính 
quy luật trong quá trình hình thành, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ  xã 
hội chủ nghĩa, nếu không có cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công thiết lập 
nên chuyên chính vô sản thì không thể  có nền dân chủ  xã hội chủ  nghĩa tồn  
tại và phát triển như hiện nay.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Cách mạng táng Tám 
năm 1945 thành công, thiết lập nền dân chủ  mới ­ Nhà nước dân chủ  nhân  


13
dân; phát huy vai trò của nó trong cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất 
đất nước, đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ  tư bản  

chủ  nghĩa. Do vậy, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ  xã hội  
chủ nghĩa ở nước ta là quá trình lâu dài nhằm từng bước hoàn thiện các thiết  
chế, cơ  chế  dân chủ, hệ  thống pháp luật, thực hiện các nội dung, hình thức  
dân chủ  trong đời sống xã hội; nâng cao trình độ  văn hóa dân chủ  cho nhân 
dân; hạn chế  loại trừ những  ảnh hưởng của dân chủ  tư sản, tàn dư  của tâm  
lý, thói quen của nền sản xuất nhỏ…toàn bộ quá trình đó tất yếu phải do hệ 
thống chính trị  xã hội chủ  nghĩa tổ  chức xây dựng. Cho nên, thực chất quá 
trình phát huy, đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị là yêu cầu khách quan do 
chính quy luật hình thành phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước 
ta quy định, thực chất đó là quá trình từng bước hoàn thiện nền dân chủ   ở 
nước ta hiện nay.
Xét về điều kiện để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta bao  
gồm nhiều vấn đề: cơ  sở  kinh tế  ­ xã hội, cơ  sở  chính trị  ­ xã hội, trong đó 
trực tiếp nhất là vần đề dân sinh, dân trí và dân quyền. Muốn có dân chủ, dân 
chủ là dân làm chủ, trước hết dân phải có quyền sống, quyền tự do và quyền  
mưu cầu hạnh phúc. Nhân dân phải có trí tuệ, văn hóa, tri thức về  dân chủ, 
phải có độc lập dân tộc, dân quyền tự  do, dân sinh hạnh phúc. Những điều 
kiện trực tiếp  ấy không thể  nào không do cuộc cách mạng xã hội chủ  nghĩa 
đem lại; không thể  nào không do hệ  thống chính trị  xã hội chủ  nghĩa xây  
dựng, tổ chức lên. Điều đó được thể hiện rất rõ trong vai trò của Đảng đặt ra 
đường lối, chiến lược, sách lược phát triển đúng đắn, nhất là khi có chính  
quyền, Đảng trở  thành Đảng cầm quyền lãnh đạo chính quyền nhà nước  và 
lãnh đạo toàn xã hội tiến hành xây dựng những điều kiện, cơ sở chính trị ­ xã 
hội, kinh tế ­ xã hội cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do vậy, sư phát triển  
của dân chủ  phụ  thuốc rất lớn vào uy tín của Đảng với quần chúng. Nếu  
Đảng được lòng dân, được dân tin, dân yêu thì dân chủ  sẽ  đực phát huy mở 
rộng. Ngược lại, Đảng không ngang tầm, không trong sạch vững mạnh về 


14

chính trị, tư tưởng và tổ chức sẽ mất lòng tin của nhân dân, dân chủ sẽ bị thu  
hẹp hoặc hình thức. Nhà nước phải là nhà nước thực quyền, của dân, do dân,  
vì dân, phát huy vai trò tổ  chức xây dựng các điều kiện cho dân chủ  xã hội 
chủ nghĩa. Trong đó, phải có sự đột phá trong khâu thông tin cho dân, giáo dục 
nhận thức cho nhân dân, nâng cao trình độ  học vấn, đời sống vật chất tinh 
thần cho nhân dân, bồi dưỡng năng lực thực hành dân chủ  cho dân để  tạo  
điều kiện cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ, dám  
nói, dám làm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “dân chỉ biết rõ giá  
trị của độc lập khi nào dân được ăn no, mặc đủ”8 và “Nhà nước chẳng những  
công nhận những quyền lợi của công dân mà còn bảo đảm những điều kiện  
vật chất cần thiết để cho công dân thực sự được hưởng quyền đó”9.
Như vậy, xét về điều kiện để thực hiện  nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, 
hệ thống chính trị ở nước ta đóng vai trò trực tiếp thỏa mãn những điều kiện  
ấy. Cho nên đổi mới, kiện toàn, phát huy vai trò của hệ  thống chính trị  thực  
chất là tạo điều kiện cần thiết để xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở nước 
ta hiện nay.
1.4. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế  giới chứng minh  
hệ  thống chính trị  xã hội chủ  nghĩa đóng vai trò quyết định trực tiếp sự  
tồn tại và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn 60 năm xây dựng nhà nước dân chủ  ­ nhà nước xã hội chủ 
nghĩa và thực tiễn nền dân chủ ở Việt Nam cho thấy ở đâu, khi nào hệ thống 
chính trị được kiện toàn, xây dựng trong sạch vững mạnh, cơ chế hoạt động 
linh hoạt, nhịp nhàng, ăn khớp thì  ở  đó, khi đó dân chủ  được phát huy, mở 
rộng, phát triển (xét trên cả  bình diện phạm vi toàn quốc và từng cơ  sở).  
Ngược lại, khi nào, ở đâu hệ thống chính trị mắc bệnh quan liêu, tham nhũng  
trì trệ, cồng kềnh, hoạt động chồng chéo lấn sân, pháp luật không hoàn thiện 
và nghiêm minh, đội ngũ cán bộ  trong hệ  thống chính trị xa dân, suy thoái về 
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H.2000, Tr.152.
  Hồ Chí Minh toàn tập, tập9, Nxb CTQG, H.2000, Tr.593.


8
9


15
đạo đức, chính trị, lối sống…thì ở đó, khi đó quyền dân chủ  của nhân dân bị 
vi phạm, cắt xén hoặc dân chủ  hình thức, làm lung lay thậm trí xụp đổ  nền 
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề  có tính quy luật trong quá trình xây  
dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Thực tiễn ở một  
số  nơi, một số  địa phương có tình trạng mất dân chủ, xảy ra hiện tượng  
khiếu kiện kéo dài của nhân dân, hoặc bạo loạn chính tri, những hiện tượng 
đó do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống chính trị 
còn yếu kém, một bộ  phận không nhỏ  cán bộ  trong hệ  thống chính trị  tham  
nhũng, quan liêu, sách nhiễu nhân dân. chính vì vậy, để đảm bảo dân chủ cho 
nhân dân, tất yếu phải xây đựng, kiện toàn hệ thống chính trị trong sạch vững  
mạnh.
Bài học thực tiễn về sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực và chế 
độ  dân chủ xã hội chủ nghĩa  ở  Đông Âu và Liên Xô cho thấy: Sự  tan rã của 
chế dộ dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết và bắt đầu từ sự biến chất của hệ 
thống chính trị. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã tiến hành chiến 
lược “diễn biến hòa bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ, tiến công vào hệ 
thống chính trị  xã hội chủ  nghĩa. Trước hết là làm mất vai trò lãnh đạo của  
Đảng cộng sản, Đảng xa dời các nguyên lý lý luận chủ nghĩa Mác­Lênin, bản 
chất giai cấp công nhân; Tách dời sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và  
các tổ  chức chính trị  ­ xã hội của nhân dân, “ phi chính trị  hóa” quân đội. 
Khuyến khích “dân chủ  hóa” đời sống xã hội theo kiểu phương tây, buông 
lỏng kỷ  cương, pháp luật, dân chủ  vô nguyên tắc…từ  đó chúng làm cho quá 
trình “tự  diễn biến” trong nội bộ  hệ  thống chính trị  diễn ra nhanh chóng. 
Trong nội bộ  hệ  thống chính trị, bắt đầu từ  việc chấp nhận đa nguyên về 
chính trị, đa Đảng đối lập, thực chất là xa rời bản chất dân chủ  xã hội chủ 

nghĩa, vì đặc chưng cơ  bản của hệ  thống chính trị  xã hội chủ  nghĩa là hệ 
thống chính trị  nhất nguyên dưới sự  lãng dạo của Đảng cộng sản. Từ  sự 
không thừa nhận nhất nguyên về  chính trị  dẫn đến từ  bỏ  sự  lãnh đạo hợp 
pháp của Đảng đối với toàn xã hội (xóa bỏ điều 6 trong hiến pháp nước Cộng 


16
hòa Liên bang Xô viết) … dẫn đến mất vai trò lãnh đạo của Đảng, sức mạnh 
quản lý của nhà nước xã hộ  chủ  nghĩa, sức mạnh chiến đấu quân đội trong 
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa làm cho nó 
bị  sụp đổ  nhanh chóng, nhân dân lại trở  lại địa vị  bị  bóc lột, nô lệ  làm thuê  
dưới chủ nghĩa tư bản. Đây là thực tiễn sinh động chứng minh quá trình xây 
dựng và hoàn thiện nền dân chủ  xã hội chủ  nghĩa luôn gắn liền và chịu sự 
quy định của hệ  thống chính trị  xã hội chủ  nghĩa luôn được đổi mới, kiện 
toàn, củng cố cùng với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ những phân tích ở trên, cùng với yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng 
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, chúng ta khẳng định rằng: đổi mới kiện 
toàn hệ thống chính trị là quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội 
chủ nghĩa là hoàn toàn có cơ sở khoa học cả lý luận và thực tiễn.
II. Những biểu hiện thực chất đổi mới và kiện toàn hệ  thống chính trị,  
đi đôi với mở  rộng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ  xã hội chủ 
nghĩa ở nước ta hiện nay
Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là một yêu  
cầu khách quan trong mối quan hệ  với đổi mới kinh tế  nằm trong tổng thể 
của sự  nghiệp đổi mới đất nước. Đổi mới kiện toàn hệ  thống chính trị  bao 
gồm giữ  vững nguyên tắc đổi mới, đổi mới nội dung, phương thức, cơ  chế 
hoạt động của của hệ  thống chính trị  nhằm giữ  vững vai trò lãnh đạo của  
Đảng, sự  quản lý của nhà nước và nhân dân lao động thực sự  làm chủ  mọi 
mặt đời sống xã hội. Thực chất đó quá trình xây dựng và từng bước hoàn  
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

2.1. Giữ vững nguyên tắc đổi mới chính trị kết hợp với bảo đảm quá trình  
xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước  
ta.
Đổi mới là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng đất nước trong 
suốt thời kỳ  quá độ  đi lên chủ  nghĩa xã hội nước ta. Đảng ta xác định: “ kết  


17
hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới  
kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”10. Theo nguyên 
tắc đổi mới nhưng không đổi mầu, đổi mới phải đi đến mục tiêu độc lập dân 
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo đó, “ mục tiêu chủ  yếu của đổi mới  
hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ  xã hội chủ  nghĩa, phát huy  
đầy dủ  quyền làm chủ  của nhân dân”11. để  đạt được mục tiêu đó trong quá 
trình đổi mới hệ  thống chính trị  phải quán triệt và bảo đảm các nguyên tắc 
chủ yếu sau:
Nguyên tắc thứ  nhất: Đổi mới hệ  thống chính trị  là đổi mới nội dung, 
phương thức hoạt động, tổ  chức cán bộ  và các mối quan hệ giữa các tổ  chức 
chính trị hợp pháp và đang có vai trò đối với việc giữ vững định hướng xã hội  
chủ  nghĩa  ở  nước ta. Đổi mới hệ  thống chính trị  là không thay đổi mục tiêu, 
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã 
hội, là con đường duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam đồng thời đó cũng  
là mục tiêu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vì chỉ có chủ nghĩa xã hội, 
quyền lực xã hội của nhân dân mới được thực hiện trên thực tế, chỉ dưới chủ 
nghĩa xã hội nhân dân lao động mới được làm chủ  mọi mặt đời sống xã hội. 
Do đó, nguyên tắc này vừa đảm bảo cho xây dựng hệ thống chính trị giữ được 
bản chất xã hội chủ  nghĩa vừa đảm bảo cho nền dân chủ  xã hội chủ  nghĩa 
được thực hiện trên thực tế.
Nguyên tắc thứ hai: Đổi mới hệ thống chính trị phải bảo đảm cho chức 
năng, nhiệm vụ  của nó được thực hiện một cách triệt để  và ngày càng tốt 

hơn nhằm làm cho quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ  xã hội chủ 
nghĩa ngày càng được mở rộng. Vì hai mặt dân chủ và chuyên chính luôn gắn  
kết với nhau trong bản chất của chế  độ  dân chủ  xã hội chủ  nghĩa, dân chủ 
phải đi đôi với chuyên chính, dân chủ  với đại đa số  nhân dân lao động và 
chuyên chính với bọn phản động. Có như  vậy, hệ  thống chính trị  mới phát  
huy được đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và dân chủ mới được phát huy.
  Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội VIII, Nxb CTQG, H.1996, Tr.71.
  Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội VIII, Nxb CTQG, H.1996, Tr.71.

10
11


18
Nguyên tắc thứ ba: Đổi mới hệ thống chính trị phải giữ vững bản chất 
nhất nguyên của hệ  thống chính trị  xã hội chủ  nghĩa. Đây là nguyên tắc bảo  
đảm tốt nhất cho sự   ổn định đời sống chính trị  ­ xã hội, tạo tiền đề  cho xã  
hội phát triển; xã hội có phát triển nhanh và bền vững, đúng định hướng xã 
hội chủ  nghĩa thì dân chủ xã hội chủ nghĩa mới được giữ vững và từng bước  
hoàn thiện. Bởi vì, chỉ  có dưới sự  lãnh đạo độc tôn của đảng cộng sản, hệ 
thống chính trị ở nước ta mới vững mạnh về chính trị, mới giữ vững bản chất  
giai cấp công nhân của nhà nước. Đồng thời quyền làm chủ của nhân dân chỉ 
được thực hiện và phát huy cao độ, có hiệu quả  tích cực khi có định hướng 
chính trị đúng đắn; mới khắc phục được những nhận thức và hành vi sai trái 
về dân chủ như: dân chủ tư sản, dân chủ cực đoan vô chính phủ, coi thường  
kỷ cương phép nước hoặc thờ ơ với chính trị…trong xã hội.
Đây là nguyên tắc cơ bản, chủ yếu, xuyên suốt trong quá trình đổi mới 
và kiện toàn hệ  thống chính trị, đồng thời là những nguyên tắc chỉ  đạo cho  
quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ  xã hội chủ  nghĩa  ở  nước ta 
hiện nay.

2.2. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của hệ  thống chính trị  
gắn liền với quá trình xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã  
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Cùng với quá trình đổi mới đất nước, đổi mới kinh tế, trong những năm 
qua, việc đổi mới hệ thống chính trị đã đạt được những thành tựu quan trọng, 
tác động trực triếp đến việc phát huy dân chủ trong mọi mặt đời sống xã hội, 
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phấn đấu thực hiện thắn lợi mục tiêu 
độc lập dân tộc và chủ  nghĩa xã hội. Thực hiện và phát huy dân chủ  sẽ  nêu  
cao được tính chủ động, sáng tạo, nhiệt tình cách mạng của quần chúng nhân 
dân, tập trung được quyền lực, ý trí, sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp 
cách mạng. Do vậy, phải tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động 
của hệ   thống chính trị  nói chung và từng thành tố  trong đó nói riêng, nhằm 


19
“bảo đảm tất cả  quyền lực nhà nước thuộc về  nhân”12. Nhưng để  phát huy 
dân chủ đúng hướng và đạt kết quả tốt thì trong quá trình đó phải được lãnh 
đạo tốt, có bước đi vững chắc phù hợp với tình hình chính trị ­ xã hội và từng  
bước phát triển của đất nước.
Sự  phát triển của dân chủ  bao giờ  cũng chịu sự  chi phối của phương  
thức sản xuất, chế  độ  xã hội, trạng thái kinh tế  ­ xã hội, văn hóa, dân trí…
trong đó bản chất chính trị của giai cấp cầm quyền quyết định. Cho nên, trong 
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, dân chủ xã hội chủ nghĩa phát  
triển trước hết phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo của Đảng. 
Thực tiễn phát triển phong phú về  quy mô, tốc độ, chiều sâu sau 20  
năm công cuộc đổi mới đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng xây dựng, chỉnh 
đốn nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu ngang tầm nhiệm vụ.  
Để phát huy tích cực nhất những thành tựu về  dân chủ  của 20 năm đổi mới,  
Đảng ta đã rút ra:  phải “đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của  
Đảng”, “…bảo đảm vừa nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy  

tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của nhà nước, Mặt trận, các  
đoàn thể nhân dân, và người đứng đầu; khắc phục khuynh hướng buông lỏng  
lãnh đạo hoặc bao biện làm thay; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính  
trị, thắt chặt mối quan hệ mắu thịt với nhân dân”13. Đó là mục tiêu, yêu cầu 
và nội dung của đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng hịên 
nay. Có thể nói sự thành công hay không của công cuộc đổi mới phát huy, mở 
rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay tùy thuộc một phần cơ 
bản  quan  trọng  vào  việc   đổi  mới,   hoàn  thiện  phương  thức   lãnh   đạo  của 
Đảng. Bởi lẽ, phương thức lãnh đạo là cách thức, biện pháp, bước đi để thực 
hiện nhiệm vụ, nội dung lãnh đạo, là nhân tố quan trọng đảm bảo cho đường  
lối đi vào cuộc sống thông qua phong trào hành động cách mạng của đông đảo 
nhân dân lao động, dưới ngọn cờ của Đảng. 

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, Tr.238.
  Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, Tr.306.

12
13


20
Tuy nhiên, cho đến nay việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng 
chưa tương xứng với yêu cầu đổi mới, mở  rộng, phát huy dân chủ  của nhân 
dân trên các phương diện như: Chưa đáp ứng được hiệu quả yêu cầu đổi mới  
trong tổ  chức và hoạt động của nhà nước và các đoàn thể. Trên một số  lĩnh  
vực còn lúng túng cả  về  tổ  chức và tổ  chức hoạt động; có không ít vấn đề 
chưa cụ thể hóa, thể chế hóa được một số quan niệm, phương hướng chỉ đạo 
xây dựng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đề  ra, vẫn còn tình  
trạng bao biện lẫn tình trạng buông lỏng, thậm trí còn lúng túng  ở  một số 
phương diện. Công tác lãnh đạo, chỉ  đạo tổ  chức thực hiện nghị  quyết của 

Đảng vẫn là một khâu yếu, chưa khắc phục kịp thời và có hiệu quả. Đảng 
nhấn mạnh: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận  
Tổ  quốc và các đoàn thể  chính trị  ­ xã hội trên một số  nội dung chưa rõ,  
chậm đổi mới. Chức năng, nhiệm vụ  của đảng đoàn, ban cán sự  đảng chưa  
được xác định rõ ràng, cụ thể nên hoạt động còn lúng túng….”14
Trước đòi hỏi cấp bách của đất nước và thực trạng nền dân chủ  hiện 
nay phải tranh thủ  cơ  hội vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ,  
toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững hơn, Đảng ta phải tiếp tục 
đổi mới sâu sắc, hoàn thiện hơn nữa phương thức lãnh đạo trên cơ sở những  
quan điểm sau:
Một là, đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của đảng phải xuất 
phát từ đường lối chính trị thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện. Hai là, đổi 
mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ 
chức và cơ chế vận hành của cả hệ thống chính trị. Đây là một nội dung, một 
bộ  phận trọng yếu của công tác xây dựng Đảng; là sự  biểu hiện và tập trung 
sinh động năng lực lãnh đạo chính trị, văn hóa chính trị  của Đảng. Xác định 
đúng, phân tích rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức mối quan hệ giữa Đảng  
với các tổ  chức quần chúnh trong hệ  thống chính trị, đặc biệt là đối với nhà  
nước trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa. Ba là, đổi 
14

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, Tr.175.


21
mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng phải phù hợp với trình độ trí 
tuệ  của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trình độ  dân chủ  của Đảng, trình độ  dân  
chủ của toàn xã hội và hệ thống tổ chức của Đảng, đặt vững trên nền tảng tập 
trung dân chủ. Đổi mới, đảm bảo nguyên tắc tập thể  lãnh đạo cá nhân phụ 
trách, bí thư  cấp  ủy phải thật là người tiêu biểu về  phẩm chất, về  trí tuệ  và 

phong cách công tác; đồng thời cụ thể hóa thể chế quan điểm, chủ trương đổi 
mới phương thức lãnh đạo của Đảng thành điều lệ, quy chế, quy trình công  
tác. Nâng cao trình độ mọi mặt, trước hết là trình độ  chính trị và trình độ  học 
vấn của cán bộ, đảng viên. phát huy dân chủ  trong Đảng một cách mạnh mẽ 
làm tiền đề động lực phát huy dân chủ trong xã hội một cách đúng hướng, toàn  
diện nhằm góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách chủ động và có hiệu 
quả. Bốn là, phải lấy hiệu quả của việc tổ chức thực hiện đường lối chính trị,  
sự trưởng thành toàn diện của Đảng, hệ thống chính trị, trình độ phát triển của  
dân chủ xã hội, mối liên hệ  mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân làm 
thước đo quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới, hoàn thiện phương 
thức lãnh đạo của Đảng. Đây là sự kiểm chứng nghiêm khắc nhất vai trò, năng 
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Các cấp ủy, tổ chức Đảng từ  trung 
ương tới chi bộ, mỗi đảng viên phải lấy đó làm tiêu trí soát xét mình, từ đó chủ 
đông kịp thời đều chỉnh phương pháp, hình thức công tác cho phù hợp trong  
việc thực hiện đường lối lãnh đạo chính trị.  
Dân chủ bao giờ cũng gắn với chế  độ  nhà nước, Nhà nước xã hội chủ 
nghĩa cũng là ông cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Cho 
nên, muốn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện thì tất yếu phải  
đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của nhà nước. Đảng ta khẳng định: 
“Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội  
chủ  nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì  
nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý hinh tế, quản lý  
xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ  giữa Nhà nước với các tổ  chức khác  
trong hệ thống chính trị, với nhân dân,với thị trường. Nâng cao năng lực quản  


22
lý và điều hành của Nhà nước théo pháp luât”15. Thực chất việc đổi mới kiện 
toàn tổ chức và hoạt động của nhà nước ta hiện nay là quá trình xây dựng nhà 
nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa dưới sự  lãnh đạo của Đảng. Một trong 

những quan điểm cơ bản của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa của dân, do dân và vì dân là quyền lực Nhà nước thống nhất trên cơ  sở 
phân công và phối hợp trên việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, và tư 
pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng. 
Hoạt động lập pháp hiện nay đang đứng trước những yêu cầu to lớn về 
hoàn thiện hệ  thống pháp luật cũng như  yêu cầu mới mẻ  và phức tạp  của  
việc điều chỉnh pháp luật đáp  ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng  
dân chủ  trong điều kiện hội nhập, hợp tác quốc tế. Muốn vậy, cần phải tổ 
chức tốt hơn nữa quy trình lập pháp. Quy trình đó vừa phải đảm bảo phản  
ánh được sự phát triển sống động của đời sống xã hội trong các lĩnh vực, lại  
vừa đảm bảo tính khoa học, tính chuyên môn pháp lý của các quy định, bảo  
đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các khâu làm luật với việc ban hành các văn  
bản dưới luật và tổ chức thực thi pháp luật.
Vấn đề  cải cách hành chính, những năm qua Đảng và Nhà nước đã có 
nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà  
nước còn bộc lộ không ít nhược điểm, còn nhiều mặt chưa theo kịp và đáp ứng 
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Tổ chức hành pháp chưa thông suốt, còn nhiều 
hạn chế  trong việc xử  lý những mối liên kết dọc và ngang, thậm trí có hiện 
tượng cục bộ, bản vị. Chế độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch làm 
trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu, dựa dẫm. Thẩm quyền trách  
nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt chẽ. Phong cách làm việc và trách  
nhiệm trước dân của đội ngũ công chức, viên chức còn là vấn đề bức xúc. Vì  
vậy, Đảng chủ  trương tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và đặt thành  
nhiệm vụ chiến lược cần được xem xét trên cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm  
15

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, Tr.246.



23
xây dựng cho được một nền hành chính Nhà nước dân chủ, trong sạch vững 
mạnh. Một trong nội dung cơ  bản của nguyên tắc phân công và phối hợp 
quyền lực nhà nước và cải cách hành chính là sự  phân công, phân cấp giữa  
trung ương và địa phương, sự phối hợp giữa chính quyền với các bộ phận hợp  
thành của hệ  thống chính trị. Sự  phân công phân cấp  ấy phải dựa trên cơ  sở 
khuyến khích, nâng cao trách nhiệm và tính chủ  động của các bộ  phận hợp  
thành và các cấp chính quyền, kết hợp chặt chẽ quản lý hành chính lãnh thổ,  
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Về  lĩnh vực hoạt động tư  pháp, đề  cao pháp luật tăng cường pháp chế 
phải đi liền với mối quan tâm làm sao để đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo thói 
quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ, đảng viên và tầng lớp nhân 
dân. Vì vậy, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự 
là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với  
đổi mới và thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng cường hoạt động xây dựng pháp 
luật phải đi liền với việc khuyến kích, tạo điều kiện cho các các hoạt động 
của các tổ  chức và công dân nhằm sử  dụng đầy đủ  quyền và thực hiện tốt 
nghĩa vụ  của họ, khuyến khích tính tích cực pháp lý của họ  phải đi liền với  
việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, cải cách hành chính và hệ  thống tư pháp.  
Đồng thời, đề  cao pháp luật, pháp chế  còn đặt ra nhiệm vụ  phải bằng mọi 
cách nâng cao hiểu biết pháp luật, tổ  chức tốt công tác tư  vấn pháp luật cho 
mọi tổ  chức công dân, đấu tranh có hiệu quả  với các vi phạm và tội phạm,  
kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng trong bộ  máy nhà nước.  Thực  thi 
quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn cần đến sự kiểm tra, 
giám sát đầy đủ và hữu hiệu. Trong một nhà nước pháp quyền các hình thức và 
cơ chế kiểm tra, giám sát phải thực sự được coi trọng và hoàn thiện ở mức cao  
nhất, đảm bảo quyền lực nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo thực thi tốt nhất  
quyền dân chủ của công dân, phục vụ lợi ích chung của xã hội, của đất nước,  
pháp luật luôn được tôn trọng, pháp chế và kỷ cương được giữ vững. Đối với  
các cơ  quan Nhà nước, kiểm tra, giám sát là cách tốt nhất để  các cơ  quan đó 



24
thực hiện đúng chức trách và thẩm quyền của mình, đồng thời là điều kiện để 
phối hợp các hoạt động một cách có hiệu quả. Đến lượt mình, các hoạt động, 
các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải có sự phân công phối hợp đầy  
đủ  và hoàn thiện hơn. Đặc biệt, cần nhấn mạnh quyền giám sát  tối cao của  
Quốc hội và quyền giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp. 
Đổi mới nội dung phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các 
đoàn thể nhân dân là yêu cầu khách quan của quá trình đổi mới, kiện toàn hệ 
thống chính trị   ở  nước ta hiện nay. Đại hội X, Đảng ta nhấn mạnh: “ Thực  
hiện tốt luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam, quy chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt  
trận, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính  
quyền và hệ thống chính trị.
Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể  
nhân dân và các hội quần chúng, khắc phục tình trạng hành chính hóa, phô  
trương, hình thức; làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần  
dân và có trchs nhiệm với dân.”16; nhằm “thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân  
với Đảng và nhà nước, thực hiện giám sát của nhân dân đối với công tác,  
đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử  và cơ  
quan nhà nước”17. Mặt trận tổ quốc Việt nam là tổ  chức liên minh chính trị,  
liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị ­ xã hội, các tổ 
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, 
các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư   ở  nước ngoài; là cơ  sở 
chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý trí, nguyện vọng, tập hợp  
khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ  của nhân dân, nơi hiệp 
thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên. Mặt trận có  
vai trò to lớn trong xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân,  
thực hiện quyền chủ của nhân dân. khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận  
tổ  quốc phải được củng cố  phát triển sâu rộng trên cơ  sở  liên minh vững  

chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, phát huy 
1616, 17
17

 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, Tr.124.


25
dân chủ, nâng cao trách nhiệm của công dân của hội viên, đoàn viên, giữ vững 
kỷ  cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối liên hệ 
giữa nhân dân với   Đảng và Nhà nước,  góp phần rất quan trọng trong sự 
nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ  tổ  quốc, đẩy mạnh công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhân dân vừa thực hiện quyền dân chủ 
trực tiếp vừa thực hiện quyền dân chủ  thông qua đại diện các cơ  quan Nhà 
nước, các đại biểu nhân dân, Mặt trận tổ  quốc Việt Nam và các tổ  chức 
thành viên. Đảng và Nhà nước xây dựng và hoàn thiện quy chế  để  Mặt trận  
tổ quốc và các tổ chức thành viên phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham  
gia phát triển kinh tế  ­ xã hội, thực hiện “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân  
kiểm tra”, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, qua đó tăng cường đoàn kết  
toàn dân, củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội.
Với tinh thần đó, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên 
cần phát huy đầy đủ vai trò đại diện của nhân dân trong tổ chức bầu cử Quốc  
hội và Hội đồng nhân dân các cấp; tham gia xây dựng chủ trương, chính sách,  
pháp luật, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng và 
chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực 
hiện giám sát của nhân dân đối với việc thực thi trách nhiệm và đạo đức, lối  
sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử  và các cơ  quan nhà  
nước; tập hợp ý kiến, kiến nghị  của nhân dân để  phản ánh, kiến nghị  với  
Đảng và Nhà nước; cùng chăm lo, bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của 
nhân dân; giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; tham gia công 

tác hòa giải…Cần tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận tổ 
quốc Việt Nam theo hướng: khắc phục tình trạng hành chính hóa, hình thức, 
quan liêu, xa dân; thực hiện tốt luật Mặt trtận tổ quốc Việt Nam; tổ chức các 
phong trào thi đua yêu nước, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư,  
xây dựng đời sống văn hóa, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, gắn liền với các 
chương  trình  kế   hoạch  phát  triển   kinh  tế   ­xã  hội  của  cả  nước,   từng   địa 
phương và địa bàn dân cư.


×