1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
2
Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC QUY ĐỊNH THỰC CHẤT CỦA ĐỔI MỚI
VÀ KIỆN TOÀN HỀ THỐNG CHÍNH TRỊ LÀ XÂY DỰNG VÀ
TỪNG BƯỚC HOÀN THIỆN NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
4
1.1 Xuất phát từ mối quan hệ giữa hệ thống chính trị và nền
dân chủ XHCN
5
1.2 Xuất phát từ vai trò, chức năng của hệ thống chính trị 7
XHCN
1.3 Xuất phát từ quy luật hình thành chế độ dân chủ và điều
kiện thực hiện dân chủ XHCN ở nước ta
10
1.4 Thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới
chứng minh hệ thống chính trị XHCN đóng vai trò quyết
định trực tiếp sự tồn tại và phát triển của nền dân chủ 13
XHCN
Chương 2 NHỮNG BIỂU HIỆN THỰC CHẤT ĐỔI MỚI VÀ KIỆN TOÀN
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, ĐI ĐÔI VỚI MỞ RỘNG VÀ TỪNG
BƯỚC HOÀN THIỆN NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
14
2.1 Giữ vững nguyên tắc đổi mới chính trị kết hợp với bảo
đảm quá trình xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ XHCN ở nước ta
15
2.2 Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị gắn liền với quá trình xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay
16
2.3 Đổi mới cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị, biểu hiện
trực tiếp của đổi mới cơ chế bảo đảm và thực thi dân chủ 23
XHCN
2.4 Quân đội ta với việc phát huy vai trò nhà nước pháp quyền
XHCN và quyền tự do dân chủ ở nước ta hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
25
30
31
2
MỞ ĐẦU
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa là những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học có quan hệ
biện chứng. Trong đó, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa nói lên đầy đủ chế
độ chính trị của chủ nghĩa xã hội, còn hệ thống chính trị là hình thái tổ chức
và là cốt lõi của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong “Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản”. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “giai đoạn thứ nhất của cuộc
cách mạng công nhân là giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyền”1 V.I.Lênin
cũng nói “dân chủ là hình thức tổ chức xã hội có giai cấp, là hình thái nhà
nước”2. Vì vậy, quá trình thiết lập, củng cố và hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa và xây dựng hệ thống chính trị là quá trình đấu tranh gay gắt trên
lĩnh vực chính trị tư tưởng cũng như lĩnh vực đời sống chính trị thực tiễn.
Theo quan điểm Mácxít, hệ thống chính trị của bất cứ một chế xã hội,
một quốc gia dân tộc cũng đều là hệ thống các tổ chức chính trị xã hội và
mối quan hệ giữa chúng với nhau, vận hành theo một cơ chế nhất định, đảm
bảo cho việc thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền trong
quan hệ với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội khác. xét về mặt cấu
trúc nó bao gồm hai bộ phận cơ bản: Bộ phận thứ nhất là; các tổ chức chính
trị xã hội hợp thành (các Đảng chính trị, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân),
liên kết với nhau trong một chỉnh thể và được hoạt động trong khuôn khổ
hiến pháp và pháp luật. Bộ phận thứ hai; là cơ chế chính trị bảo đảm cho sự
vận hành của hệ thống ấy; là cơ chế thực hiện quyền lực chính trị của giai
cấp thống trị…tất nhiên ở hai bộ phận ấy đều do kết cấu hạ tầng cơ sở của
xã hội quy định.
Trong xã hội có giai cấp bất cứ giai cấp cầm quyền nào cũng tổ chức
ra bộ máy nhà nước để duy trì sự thống trị của mình đối với xã hội. Theo đó,
khi giai cấp công nhân tiến hành cách mạng vô sản giành thắng lợi tất yếu sẽ
Mác và Ăngghen toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H.1995, Tr.615.
Lênin toàn tập, Tập 33, Nxb TB, M, H.1976, Tr.23.
1
2
3
tổ chức ra hệ thống quyền lực của mình đối với xã hội đó là hệ thống chuyên
chính vô sản (hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa). Hệ thống chính trị xã hội
chủ nghĩa là một chỉnh thể bao gồm toàn bộ những tổ chức chính trị xã hội
(Đảng MácLênin, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, các đoàn thể nhân dân), hoạt
động hợp pháp cùng với cơ chế chính trị đảm bảo quyền lực thực tế của
nhân dân lao động. Nói cách khác, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là toàn
bộ những thiết chế, cơ chế của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân lao động, do Đảng cộng sản lãnh đạo thực hiện
“chức năng cơ bản là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”3 trên tất cả các lĩnh vực
đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, quốc phòng an ninh…
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thiết lập sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi. Đó là chế độ dân chủ nhân dân, với sự ra
đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và các tổ chức chính trị xã hội
của nhân dân, ra đời trưởng thành trong cách mạng đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam. Cùng tiến trình phát triển của cách mạng, hệ thống
chính trị ở nước ta ngày càng được củng cố, xây dựng và kiện toàn thể hiện
bản chất khác hoàn toàn so với hệ thống chính trị tồn tại trước đó trong lịch sử.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khảng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân. chính quyền từ xã
đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân.”4.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa nước ta bao gồm: Đảng cộng sản
Việt Nam, Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mặt trận tổ quốc và các
đoàn thể chính trị xã hội của nhân dân, hoạt động theo cơ chế: Đảng cộng
sảnViệt Nam lãnh đạo; Nhà nước điều hành quản lý xã hội; Nhân dân làm
chủ. Chính cơ chế vận hành ấy đã quy định bản chất hệ thống chính trị ở
nước ta mang bản chất xã hội chủ nghĩa, vừa phát huy vai trò, chức năng,
Hỏi đáp CNXHKH, Nxb QĐND, H.2004, Tr.69.
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H.2000, Tr.698.
3
4
4
hiệu quả hoạt động của nó trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Qua hoạt động của hệ thống chính trị, cách mạng Việt Nam đã thu
được nhiều thắng lợi trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đồng thời bản thân hệ thống chính trị cũng ngày càng được
xây dựng, kiện toàn, củng cố, đổi mới và hoàn thiện. Quá trình xây dựng và
từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta nằm “ Bảo
đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả
các lĩnh vực”5.
Nghiên cứu quá trình ra đời, tồn tại, phát triển, vai trò, chức năng, của hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta trên quan điểm chủ nghĩa Mác Lê
nin, chúng ta có thể khẳng định rằng: Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị
thực chất là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay. Vấn đề này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nhận
thức lý luận, tư tưởng cũng như thực tiễn quá trình đổi mới, kiện toàn hệ
thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với tính
cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay nói chung và xây dựng quân đội cũng như thực hiện
dân chủ trong quân đội ta nói riêng. Với ý nghĩa đó, tôi chọn vấn đề “Đổi mới
và kiện toàn hệ thống chính trị, đi đôi với mở rộng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” làm bài tiểu luận của
mình.
I. Cơ sở khoa học quy định thực chất của đổi mới và kiện toàn hệ
thống chính trị là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác Lênin chỉ rõ: Chuyên chính vô sản là
sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân đối với toàn bộ xã hội, do
cách mạng vô sản sinh ra và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã
Đảng CSVN, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển
năm 2011), Nxb CTQG, H.2011, Tr.85.
5
5
hội và chủ nghĩa cộng sản, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ trên rất
cả mọi mặt đời sống xã hội. Theo ý nghĩa đó, Đảng ta sử dụng khái niệm hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa thực chất xét về mục đích, chức năng, nhệm
vụ là thống nhất với khái niệm chuyên chính vô sản trong quá trình thực hiện
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Do đó, thường xuyên xây dựng, đổi
mới, kiện toàn hệ thống chính trị là một tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong từng thời kỳ, từng giai đoạn
để đạt tới mục tiêu của cách mạng hội chủ nghĩa là: giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người một cách triệt để;
đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ xã hội, làm chủ đất nước, làm chủ
chính bản thân mình. Theo đó, khẳng định thực chất của đổi mới và kiện toàn
hệ thống chính trị là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là hoàn toàn có cơ sở khoa học.
1.1. Xuất phát từ mối quan hệ giữa hệ thống chính trị và nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa.
Hệ thống chính trị và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là hai phạm trù cơ
bản của chủ nghĩa xã hội khoa học có quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau
trong một chỉnh thể thống nhất; là mối quan hệ “song trùng” cả về quá trình
hình thành, phát triển, bản chất; đồng thời quy định bản chất của chế độ xã
hội xã hội chủ nghĩa ưu việt hơn hẳn chế độ xã hội xã hội tư bản chủ
nghĩa.
Bản chất của chế độ xã hội do cơ sở kinh tế quy định, nhưng biểu
hiện trước hết về mặt xã hội là chế độ dân chủ. Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ra đời bắt đầu từ khi chính quyền thuộc về tay giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa. Là nền dân chủ
của nhân dân từng bước chuyển biến thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Là
nền dân chủ cho đa số, do đa số nhân dân lao động, tiến tới một xã hội không
còn giai cấp. Thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là giải quyết mối quan
hệ cốt lõi: dân chủ với ai, chuyên chính với ai. Nếu như trong xã hội tư bản,
6
dân chủ là đàn áp, nô dịch với đa số nhân dân lao động và dân chủ, tự do với
số ít bọn người bóc lột (giai cấp tư sản) thì trong xã hội xã hội chủ nghĩa
thực hành dân chủ với quảng đại đa số quần chúng nhân dân lao động và
chuyên chính với bọn phản động, và giai cấp bóc lột chống lại nền dân chủ
của nhân dân lao động.
Xét về bản chất, hệ thống chính trị trong chủ nghĩa xã hội và hệ thống
chuyên chính vô sản là đồng nhất. Nó là cơ chế bảo đảm quyền lực của nhân
dân, vận hành theo nguyên tắc: Đảng lãnh đạo; Nhà nước quản lý; Nhân dân
làm chủ. Chính vì vậy, quyền lực xã hội, quyền lực nhà nước và quyền lực
dân chủ đến đâu đều phụ thuộc vào cơ chế, thiết chế và tổ chức hoạt động
của hệ thống chính trị do giai cấp công nhân và nhân dân lao động thiết lập
sau khi cách mạng vô sản thành công. Thiết lập hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa đồng thời cũng là bắt đầu xây dựng và thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa, đó cũng là quá trình đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong
điều kiện đã có chính quyền, đã thiết lập được chuyên chính vô sản và từng
bước vào thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do đó, hệ thống chính trị và
nền dân chủ có mối quan hệ chặt chẽ khăng khít với nhau trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Mác đã chỉ rõ: hậu quả tất yếu của nền dân chủ ở tất
cả các nước văn minh là quyền thống trị về chính trị của giai cấp vô sản,
quyền thống trị của giai cấp vô sản là tiền đề đầu tiên của tất cả mọi biện
pháp cộng sản chủ nghĩa. Có nghĩa là chuyên chính vô sản, tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ đều là những
tiền đề, phương thức để giai cấp công nhân và nhân dân lao động xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Kế thừa tư tưởng của Mác, Lênin cho rằng: “đương nhiên chế độ dân
chủ cũng là một hình thức nhà nước và sẽ phải mất đi khi nhà nước tiêu
vong, nhưng điều đó chỉ xảy ra khi chủ nghĩa xã hội thắng lợi hoàn toàn và
được củng cố, quá độ lên chủ nghĩa xã hội hoàn toàn”6. Nghĩa là chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thái nhà nước, trong nhà nước đó nhân dân là
Lênin toàn tập, Tập27, NxbTB, M, H.1980, Tr.329.
6
7
tính thứ nhất, nhà nước là tính thứ hai chịu sự quy định của nhân dân; nhân
dân là chủ, nhà nước là công cụ để nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm
chủ của mình đối với nhà nước và xã hội. Những hình thái đó càng được mở
rộng và phát triển bao nhiêu thì càng dẫn đền tiêu vong sớm bấy nhiêu. Dưới
chủ nghĩa cộng sản, hệ thống và chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ không
còn cơ sở tồn tại, dân chủ sẽ trở nên hoàn bị và triệt để hoàn toàn.
Xét về mặt cấu chúc, hệ thống chính trị và nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa có mối quan hệ càng gắn bó, khăng khít, cái này nằm trong cái kia, cái
kia bao hàm cái này không tách dời nhau, là một chỉnh thể thống nhất. Nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa là toàn bộ thể chế, thiết chế, cơ chế chính trị của
chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa thể hiện và bảo đảm các quyền tự do, bình
đẳng, dân chủ của nhân dân trong đời sống và quan hệ xã hội, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân. Trong cấu chúc của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa thì hệ thống chính trị là một bộ phận cơ bản, trọng yếu với tính cách là
thiết chế, cơ chế chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do đó, đổi mới
và hoàn thiện hệ thống chính trị là nội dung quan trọng trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, theo Lênin: Chế độ
dân chủ bao giờ cũng mang tính giai cấp, bản chất của nền dân chủ được quy
định bởi bản chất của giai cấp thống trị. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế
độ dân chủ “gấp triệu lần” dân chủ tư sản, nhưng không phải là cái gì trừu
tượng, mà chính là quyền lực thực tế của nhân dân lao động đối với xã hội và
bản thân. Do vậy, nền dân chủ ấy phải có một thiết chế, cơ chế đảm bảo
cho nền dân chủ hội chủ nghĩa được thực hiện. Thiết chế ấy chính là hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế: Đảng cộng sản lãnh
đạo Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý, nhân dân lao động làm chủ. Đây là
thiết chế, cơ chế bảo đảm chắc chắn nhất cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
thể hiện đúng bản chất và được hiện thực hóa trên thực tế.
Như vậy, từ mối quan hệ giữa hệ thống chính trị và nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa chúng ta có thể khẳng định thực chất đổi mới và kiện toàn hệ
8
thống chính trị là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa xét về bản chất và cấu trúc của hệ thống chính trị và nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa.
1.2. Xuất phát từ vai trò, chức năng của hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa có vai trò quyết định với việc thực
hiện và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, vai trò đó được quy định một cách
khách quan từ bản chất của nó. Đồng thời hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
là công cụ để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình đối với xã hội. Hệ
thống chính trị là thiết chế, cơ chế của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa,
chức năng cơ bản của nó là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, trước hết hệ thống chính trị được thiết lập và không
ngừngđược củng cố, hoàn thiện là điều kiện cơ bản nhất bảo đảm cho công
cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi, là cơ sở
cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tồn tại và phát triển. Mặt khác, hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa còn là khâu then chốt, yếu tố cơ bản nhất để xây
dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nó tạo ra một bộ máy hoạt
động theo cơ chế bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Hơn nữa, hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa là một bộ phận đặc biệt có vai trò chi phối
các bộ phân khác trong kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa. Nó vừa phản
ánh cơ sở kinh tế, vừa chịu quy định của các quan hệ kinh tế xã hội chủ
nghĩa, đồng thời nó vừa tác động trực tiếp và tích cực đến cơ sở kinh tế cái
nền tảng bảo đảm nền dân chủ xã hội chhủ nghĩa ra đời, tồn tại và phát
triển. Chính vì lẽ đó, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa có vai trò định
hướng sự phát triển của dân chủ. Chế độ dân chủ phát triển theo hướng mở
rộng dân chủ cho quảng đại quần chúng nhân dân, hay bó hẹp cho thiểu số
bóc lột; chuyên chính với kẻ thù hay chuyên chính với nhân dân lao động là do
bản chất hệ thống chính trị quyết định.
9
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là bộ máy bảo đảm cho hiện thực hóa
quyền dân chủ của nhân dân, gắn với kỷ cương, kỷ luật và ngăn chặn những
hành vi xâm phạm dân chủ, lợi dụng dân chủ để gây mất ổn định chính trị xã
hội.
Vai trò của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa đối với nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa được quy định một cách khách quan, được biểu hiện qua vai trò
chức năng của từng thành tố trong cấu trúc của hệ thống chính trị. Trong đó,
Đảng cộng sản vừa là hạt nhân lãnh đạo vừa là một thành tố của hệ thống có
vai trò quyết định sự ra đời và phát triển của hệ thống chính trị và nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản là nhân tố có
ý nghĩa quyết định cho sự vận động và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Đảng cộng sản là người đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng cộng sản được trang bị lý luận
khoa học đó là Chủ nghĩa MácLênin. Đảng cộng sản vạch ra cương lĩnh
chính trị, chính sách kinh tế xã hội bảo đảm cho sự phát triển của đất nước.
Đảng cộng sản đưa chủ nghĩa MácLênin vào trong phong trào cách mạng
quần chúng, nâng cao giác ngộ chính trị của quần chúng, đảm bảo tính tự giác
của phong trào trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cũng
chỉ có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản nhân dân mới có thể tiến hành cuộc
đấu tranh có hiệu quả, chống lại mọi biểu hiện chủ nghĩa quan liêu, mưu đồ
lợi dụng quá trình dân chủ hóa vì lợi ích trái với lợi ích của nhân dân. Đồng
thời, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản quyết định
bản chất nền dân chủ và hệ thống chính trị. Nếu tách sự lãnh đạo của Đảng
với xã hội, hoặc coi nhẹ sự lãnh đạo của Đảng sẽ làm cho các thành tố khác
trong hệ thống chính trị mất phương hướng hoạt động, xa dời bản chất giai
cấp công nhân, hoạt động đi theo hướng tự do kiểu tư bản, kéo theo làm mất
quyền dân chủ cho nhân dân lao động. Mặt khác, lợi ích của giai cấp công
nhân, của Đảng không nằm ngoài lợi ích của nhân dân lao động; Đảng là đại
biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
10
cả dân tộc, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân; hoạt động trong khuôn
khổ hiến pháp và pháp luật. Do vậy, giữ vững tăng cường sự lãnh đạo duy
nhất của Đảng cộng sản trong hệ thống chính trị là nhân tố cơ bản, điều kiện
tiên quyết nhất bảo đảm cho sự ra đời và bản chất nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa thiết chế có chức năng trực tiếp nhất
trong thể chể hóa tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, là công cụ sắc
bén nhất trong cuộc đấu tranh với mọi mưu đồ đi ngược lại lợi ích của nhân
dân; là thiết chế chính trị có hệu quả nhất trong tổ chức xây dựng xã hội mới;
là công cụ hữu hiệu để vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội nói chung và xây dựng nền dân chủ nói xã hội chủ nghĩa nói
riêng được thực hiện. Chính vì vậy, trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa,
đảng ta xem nhà nước là “trụ cột”, “là một công cụ chủ yếu, vững mạnh của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”7.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện bằng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, bằng cả hệ thống tổ chức và cơ chế phức tạp của
nhiều yếu tố phức hợp tạo thành. Nhưng với tính cách là một chế độ chính trị,
trước hết dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện bằng Nhà nước và thông
qua Nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân trên cơ sở khối liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng cộng sản lãnh đạo. Nhà nước
có chức năng cụ thể hóa đường lối quan điểm của Đảng về các quyền của
nhân dân thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách…và tổ chức thực hiện chúng.
Pháp luật trở thành công cụ chủ yếu của nhà nước trên mọi lĩnh vực đời sống
xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý bằng pháp luật. Mọi cá nhân
tổ chức hợp pháp đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trước pháp luật.
Quyền lực xã hội, quyền lực nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội thuộc về nhân
dân nhưng phải được đảm bảo bằng hiến pháp và pháp luật, phải được quy
định cụ thể trong luật pháp. Công việc đó là do các cơ quan nhà nước thực
7
Đảng cộng sản Việt nam, Văn kiện NQTW3, KhóaVIII, Nxb CTQG, H.1997, Tr.6.
11
hiện, thể hiện ý trí nguyện vọng của nhân dân và đại diện cho nhân dân thực
hiện quyền lực ấy trên cơ sở điều hành, quản lý mọi mặt đời sống xã hội.
Đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền lực của mình trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa , xã hội, quốc phòng, an ninh…
Vấn đề thuộc bản chất của bất cứ nền dân chủ nào đó là giải quyết mối
quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính. Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa,
dân chủ luôn gắn với kỷ cương, pháp luật, pháp chế; thống nhất giữa quyền
lợi nghĩa vụ trách nhiệm, dân chủ đi đôi với chuyên chính. Để thực hiện dân
chủ cho nhân dân phải chuyên chính với kẻ thù; bọn phản động phá hoại dân
chủ, Nhà nước là công cụ thực hành chuyên chính với mưu đồ đi ngược lại với
với lợi ích và quyền làm chủ của nhân dân, đó cũng là chức năng cơ bản của
nhà nước chuyên chính vô sản trong xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa.
Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, mặt trận tổ quốc và các đoàn
thể chính trị xã hội cách mạng ra đời và trưởng thành trong quá trình cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các đoàn thể ấy là tổ chức của nhân dân,
phấn đấu cho dân, thực hiện quyền lợi cho dân, bênh vực cho quyền lợi chính
đáng của nhân dân, liên lạc mật thiết giữa nhân dân với Chính phủ. Cho nên,
nó có vai trò rất to lớn trong tập hợp, giáo dục quần chúng nhân dân tham gia
xây dựng và thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà
nước; quy tụ mọi thành viên vào thực hiện có hiệu quả những quyền lực hợp
pháp của mình. Đồng thời nó là công cụ, thông qua đó nhân dân tham gia xây
dựng, giám sát hoạt động của Đảng, Nhà nước, bảo vệ, thỏa mãn lợi ích, nhu
cầu chính đáng của các thành viên trong tổ chức mình. Thực chất đó là hệ
thống công cụ trong thiết chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện quyền lực của
mình đối với xã hội.
Các thành tố trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa có quan hệ chặt
chẽ với nhau tạo thành cơ chế bảo đảm quyền làm chủ chủa nhân dân. Do
vậy, đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị nói chung và các thành tố nói riêng
12
thực chất là đổi mới, kiện toàn thiết chế, cơ chế cho nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa được xây dựng và từng bước hoàn thiện.
1.3. Xuất phát từ quy luật hình thành chế độ dân chủ và điều kiện thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Dân chủ là giá trị nhân loại, ước nguyện từ xa xưa của con người muốn
làm chủ tự nhiên, xã hội và làm chủ chính bản thân mình; đó là nhu cầu khách
quan của sự phát triển xã hội loài người. Nhưng dân chủ bao giờ cũng bị chi
phối, quy định bởi cơ sở kinh tể xã hội và cơ sở chính trị xã hội. ở chế độ
chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến hầu như không có dân chủ. Đến nền
văn minh Châu Âu (thế kỷ XVI đến XIX) dân chủ đã có sự phát triển vượt
bậc đó là chế độ dân chủ tư sản. Tuy nhiên, đó vẫn là nền dân chủ chật hẹp,
bị cắt xén, giả dối, giả hiệu bởi do chế độ kinh tế xã hội và bản chất giai
cấp tư sản quy định. Chỉ đến chế độ xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ mới được
xây dựng trên cơ sở của chính nó, chế độ kinh tế xã hội dựa trên cơ sở công
hữu về tư liệu sản xuất và công bằng, không có bóc lột, bất công, mọi người
được sống tự do, bác ái, khi ấy xã hội mới có bước phát triển lên trình độ dân
chủ, nhân dân làm chủ xã hội.
Theo nghĩa đó, ở nước ta vấn đề dân chủ luôn gắn liền với vấn đề dân
tộc, chỉ có giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức bóc lột mới mở đường cho dân
chủ phát triển, dân chủ trở thành mục đích trực tiếp trong công cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta được hình
thành và phát triển là kết quả tất yếu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đó là vấn đề có tính
quy luật trong quá trình hình thành, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, nếu không có cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công thiết lập
nên chuyên chính vô sản thì không thể có nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tồn
tại và phát triển như hiện nay.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Cách mạng táng Tám
năm 1945 thành công, thiết lập nền dân chủ mới Nhà nước dân chủ nhân
13
dân; phát huy vai trò của nó trong cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. Do vậy, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là quá trình lâu dài nhằm từng bước hoàn thiện các thiết
chế, cơ chế dân chủ, hệ thống pháp luật, thực hiện các nội dung, hình thức
dân chủ trong đời sống xã hội; nâng cao trình độ văn hóa dân chủ cho nhân
dân; hạn chế loại trừ những ảnh hưởng của dân chủ tư sản, tàn dư của tâm
lý, thói quen của nền sản xuất nhỏ…toàn bộ quá trình đó tất yếu phải do hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa tổ chức xây dựng. Cho nên, thực chất quá
trình phát huy, đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị là yêu cầu khách quan do
chính quy luật hình thành phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta quy định, thực chất đó là quá trình từng bước hoàn thiện nền dân chủ ở
nước ta hiện nay.
Xét về điều kiện để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta bao
gồm nhiều vấn đề: cơ sở kinh tế xã hội, cơ sở chính trị xã hội, trong đó
trực tiếp nhất là vần đề dân sinh, dân trí và dân quyền. Muốn có dân chủ, dân
chủ là dân làm chủ, trước hết dân phải có quyền sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc. Nhân dân phải có trí tuệ, văn hóa, tri thức về dân chủ,
phải có độc lập dân tộc, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Những điều
kiện trực tiếp ấy không thể nào không do cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
đem lại; không thể nào không do hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa xây
dựng, tổ chức lên. Điều đó được thể hiện rất rõ trong vai trò của Đảng đặt ra
đường lối, chiến lược, sách lược phát triển đúng đắn, nhất là khi có chính
quyền, Đảng trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo chính quyền nhà nước và
lãnh đạo toàn xã hội tiến hành xây dựng những điều kiện, cơ sở chính trị xã
hội, kinh tế xã hội cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do vậy, sư phát triển
của dân chủ phụ thuốc rất lớn vào uy tín của Đảng với quần chúng. Nếu
Đảng được lòng dân, được dân tin, dân yêu thì dân chủ sẽ đực phát huy mở
rộng. Ngược lại, Đảng không ngang tầm, không trong sạch vững mạnh về
14
chính trị, tư tưởng và tổ chức sẽ mất lòng tin của nhân dân, dân chủ sẽ bị thu
hẹp hoặc hình thức. Nhà nước phải là nhà nước thực quyền, của dân, do dân,
vì dân, phát huy vai trò tổ chức xây dựng các điều kiện cho dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Trong đó, phải có sự đột phá trong khâu thông tin cho dân, giáo dục
nhận thức cho nhân dân, nâng cao trình độ học vấn, đời sống vật chất tinh
thần cho nhân dân, bồi dưỡng năng lực thực hành dân chủ cho dân để tạo
điều kiện cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ, dám
nói, dám làm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “dân chỉ biết rõ giá
trị của độc lập khi nào dân được ăn no, mặc đủ”8 và “Nhà nước chẳng những
công nhận những quyền lợi của công dân mà còn bảo đảm những điều kiện
vật chất cần thiết để cho công dân thực sự được hưởng quyền đó”9.
Như vậy, xét về điều kiện để thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
hệ thống chính trị ở nước ta đóng vai trò trực tiếp thỏa mãn những điều kiện
ấy. Cho nên đổi mới, kiện toàn, phát huy vai trò của hệ thống chính trị thực
chất là tạo điều kiện cần thiết để xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở nước
ta hiện nay.
1.4. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới chứng minh
hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa đóng vai trò quyết định trực tiếp sự
tồn tại và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn 60 năm xây dựng nhà nước dân chủ nhà nước xã hội chủ
nghĩa và thực tiễn nền dân chủ ở Việt Nam cho thấy ở đâu, khi nào hệ thống
chính trị được kiện toàn, xây dựng trong sạch vững mạnh, cơ chế hoạt động
linh hoạt, nhịp nhàng, ăn khớp thì ở đó, khi đó dân chủ được phát huy, mở
rộng, phát triển (xét trên cả bình diện phạm vi toàn quốc và từng cơ sở).
Ngược lại, khi nào, ở đâu hệ thống chính trị mắc bệnh quan liêu, tham nhũng
trì trệ, cồng kềnh, hoạt động chồng chéo lấn sân, pháp luật không hoàn thiện
và nghiêm minh, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị xa dân, suy thoái về
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H.2000, Tr.152.
Hồ Chí Minh toàn tập, tập9, Nxb CTQG, H.2000, Tr.593.
8
9
15
đạo đức, chính trị, lối sống…thì ở đó, khi đó quyền dân chủ của nhân dân bị
vi phạm, cắt xén hoặc dân chủ hình thức, làm lung lay thậm trí xụp đổ nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề có tính quy luật trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Thực tiễn ở một
số nơi, một số địa phương có tình trạng mất dân chủ, xảy ra hiện tượng
khiếu kiện kéo dài của nhân dân, hoặc bạo loạn chính tri, những hiện tượng
đó do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống chính trị
còn yếu kém, một bộ phận không nhỏ cán bộ trong hệ thống chính trị tham
nhũng, quan liêu, sách nhiễu nhân dân. chính vì vậy, để đảm bảo dân chủ cho
nhân dân, tất yếu phải xây đựng, kiện toàn hệ thống chính trị trong sạch vững
mạnh.
Bài học thực tiễn về sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực và chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô cho thấy: Sự tan rã của
chế dộ dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết và bắt đầu từ sự biến chất của hệ
thống chính trị. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã tiến hành chiến
lược “diễn biến hòa bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ, tiến công vào hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Trước hết là làm mất vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản, Đảng xa dời các nguyên lý lý luận chủ nghĩa MácLênin, bản
chất giai cấp công nhân; Tách dời sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và
các tổ chức chính trị xã hội của nhân dân, “ phi chính trị hóa” quân đội.
Khuyến khích “dân chủ hóa” đời sống xã hội theo kiểu phương tây, buông
lỏng kỷ cương, pháp luật, dân chủ vô nguyên tắc…từ đó chúng làm cho quá
trình “tự diễn biến” trong nội bộ hệ thống chính trị diễn ra nhanh chóng.
Trong nội bộ hệ thống chính trị, bắt đầu từ việc chấp nhận đa nguyên về
chính trị, đa Đảng đối lập, thực chất là xa rời bản chất dân chủ xã hội chủ
nghĩa, vì đặc chưng cơ bản của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là hệ
thống chính trị nhất nguyên dưới sự lãng dạo của Đảng cộng sản. Từ sự
không thừa nhận nhất nguyên về chính trị dẫn đến từ bỏ sự lãnh đạo hợp
pháp của Đảng đối với toàn xã hội (xóa bỏ điều 6 trong hiến pháp nước Cộng
16
hòa Liên bang Xô viết) … dẫn đến mất vai trò lãnh đạo của Đảng, sức mạnh
quản lý của nhà nước xã hộ chủ nghĩa, sức mạnh chiến đấu quân đội trong
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa làm cho nó
bị sụp đổ nhanh chóng, nhân dân lại trở lại địa vị bị bóc lột, nô lệ làm thuê
dưới chủ nghĩa tư bản. Đây là thực tiễn sinh động chứng minh quá trình xây
dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền và chịu sự
quy định của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa luôn được đổi mới, kiện
toàn, củng cố cùng với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ những phân tích ở trên, cùng với yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, chúng ta khẳng định rằng: đổi mới kiện
toàn hệ thống chính trị là quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa là hoàn toàn có cơ sở khoa học cả lý luận và thực tiễn.
II. Những biểu hiện thực chất đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị,
đi đôi với mở rộng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay
Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là một yêu
cầu khách quan trong mối quan hệ với đổi mới kinh tế nằm trong tổng thể
của sự nghiệp đổi mới đất nước. Đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị bao
gồm giữ vững nguyên tắc đổi mới, đổi mới nội dung, phương thức, cơ chế
hoạt động của của hệ thống chính trị nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của nhà nước và nhân dân lao động thực sự làm chủ mọi
mặt đời sống xã hội. Thực chất đó quá trình xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2.1. Giữ vững nguyên tắc đổi mới chính trị kết hợp với bảo đảm quá trình
xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta.
Đổi mới là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng đất nước trong
suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội nước ta. Đảng ta xác định: “ kết
17
hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”10. Theo nguyên
tắc đổi mới nhưng không đổi mầu, đổi mới phải đi đến mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo đó, “ mục tiêu chủ yếu của đổi mới
hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
đầy dủ quyền làm chủ của nhân dân”11. để đạt được mục tiêu đó trong quá
trình đổi mới hệ thống chính trị phải quán triệt và bảo đảm các nguyên tắc
chủ yếu sau:
Nguyên tắc thứ nhất: Đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, tổ chức cán bộ và các mối quan hệ giữa các tổ chức
chính trị hợp pháp và đang có vai trò đối với việc giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Đổi mới hệ thống chính trị là không thay đổi mục tiêu,
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, là con đường duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam đồng thời đó cũng
là mục tiêu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vì chỉ có chủ nghĩa xã hội,
quyền lực xã hội của nhân dân mới được thực hiện trên thực tế, chỉ dưới chủ
nghĩa xã hội nhân dân lao động mới được làm chủ mọi mặt đời sống xã hội.
Do đó, nguyên tắc này vừa đảm bảo cho xây dựng hệ thống chính trị giữ được
bản chất xã hội chủ nghĩa vừa đảm bảo cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
được thực hiện trên thực tế.
Nguyên tắc thứ hai: Đổi mới hệ thống chính trị phải bảo đảm cho chức
năng, nhiệm vụ của nó được thực hiện một cách triệt để và ngày càng tốt
hơn nhằm làm cho quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ngày càng được mở rộng. Vì hai mặt dân chủ và chuyên chính luôn gắn
kết với nhau trong bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ
phải đi đôi với chuyên chính, dân chủ với đại đa số nhân dân lao động và
chuyên chính với bọn phản động. Có như vậy, hệ thống chính trị mới phát
huy được đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và dân chủ mới được phát huy.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội VIII, Nxb CTQG, H.1996, Tr.71.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội VIII, Nxb CTQG, H.1996, Tr.71.
10
11
18
Nguyên tắc thứ ba: Đổi mới hệ thống chính trị phải giữ vững bản chất
nhất nguyên của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Đây là nguyên tắc bảo
đảm tốt nhất cho sự ổn định đời sống chính trị xã hội, tạo tiền đề cho xã
hội phát triển; xã hội có phát triển nhanh và bền vững, đúng định hướng xã
hội chủ nghĩa thì dân chủ xã hội chủ nghĩa mới được giữ vững và từng bước
hoàn thiện. Bởi vì, chỉ có dưới sự lãnh đạo độc tôn của đảng cộng sản, hệ
thống chính trị ở nước ta mới vững mạnh về chính trị, mới giữ vững bản chất
giai cấp công nhân của nhà nước. Đồng thời quyền làm chủ của nhân dân chỉ
được thực hiện và phát huy cao độ, có hiệu quả tích cực khi có định hướng
chính trị đúng đắn; mới khắc phục được những nhận thức và hành vi sai trái
về dân chủ như: dân chủ tư sản, dân chủ cực đoan vô chính phủ, coi thường
kỷ cương phép nước hoặc thờ ơ với chính trị…trong xã hội.
Đây là nguyên tắc cơ bản, chủ yếu, xuyên suốt trong quá trình đổi mới
và kiện toàn hệ thống chính trị, đồng thời là những nguyên tắc chỉ đạo cho
quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay.
2.2. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị
gắn liền với quá trình xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Cùng với quá trình đổi mới đất nước, đổi mới kinh tế, trong những năm
qua, việc đổi mới hệ thống chính trị đã đạt được những thành tựu quan trọng,
tác động trực triếp đến việc phát huy dân chủ trong mọi mặt đời sống xã hội,
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phấn đấu thực hiện thắn lợi mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thực hiện và phát huy dân chủ sẽ nêu
cao được tính chủ động, sáng tạo, nhiệt tình cách mạng của quần chúng nhân
dân, tập trung được quyền lực, ý trí, sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp
cách mạng. Do vậy, phải tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động
của hệ thống chính trị nói chung và từng thành tố trong đó nói riêng, nhằm
19
“bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân”12. Nhưng để phát huy
dân chủ đúng hướng và đạt kết quả tốt thì trong quá trình đó phải được lãnh
đạo tốt, có bước đi vững chắc phù hợp với tình hình chính trị xã hội và từng
bước phát triển của đất nước.
Sự phát triển của dân chủ bao giờ cũng chịu sự chi phối của phương
thức sản xuất, chế độ xã hội, trạng thái kinh tế xã hội, văn hóa, dân trí…
trong đó bản chất chính trị của giai cấp cầm quyền quyết định. Cho nên, trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, dân chủ xã hội chủ nghĩa phát
triển trước hết phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo của Đảng.
Thực tiễn phát triển phong phú về quy mô, tốc độ, chiều sâu sau 20
năm công cuộc đổi mới đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng xây dựng, chỉnh
đốn nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu ngang tầm nhiệm vụ.
Để phát huy tích cực nhất những thành tựu về dân chủ của 20 năm đổi mới,
Đảng ta đã rút ra: phải “đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của
Đảng”, “…bảo đảm vừa nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy
tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của nhà nước, Mặt trận, các
đoàn thể nhân dân, và người đứng đầu; khắc phục khuynh hướng buông lỏng
lãnh đạo hoặc bao biện làm thay; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính
trị, thắt chặt mối quan hệ mắu thịt với nhân dân”13. Đó là mục tiêu, yêu cầu
và nội dung của đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng hịên
nay. Có thể nói sự thành công hay không của công cuộc đổi mới phát huy, mở
rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay tùy thuộc một phần cơ
bản quan trọng vào việc đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của
Đảng. Bởi lẽ, phương thức lãnh đạo là cách thức, biện pháp, bước đi để thực
hiện nhiệm vụ, nội dung lãnh đạo, là nhân tố quan trọng đảm bảo cho đường
lối đi vào cuộc sống thông qua phong trào hành động cách mạng của đông đảo
nhân dân lao động, dưới ngọn cờ của Đảng.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, Tr.238.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, Tr.306.
12
13
20
Tuy nhiên, cho đến nay việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
chưa tương xứng với yêu cầu đổi mới, mở rộng, phát huy dân chủ của nhân
dân trên các phương diện như: Chưa đáp ứng được hiệu quả yêu cầu đổi mới
trong tổ chức và hoạt động của nhà nước và các đoàn thể. Trên một số lĩnh
vực còn lúng túng cả về tổ chức và tổ chức hoạt động; có không ít vấn đề
chưa cụ thể hóa, thể chế hóa được một số quan niệm, phương hướng chỉ đạo
xây dựng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đề ra, vẫn còn tình
trạng bao biện lẫn tình trạng buông lỏng, thậm trí còn lúng túng ở một số
phương diện. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nghị quyết của
Đảng vẫn là một khâu yếu, chưa khắc phục kịp thời và có hiệu quả. Đảng
nhấn mạnh: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội trên một số nội dung chưa rõ,
chậm đổi mới. Chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng chưa
được xác định rõ ràng, cụ thể nên hoạt động còn lúng túng….”14
Trước đòi hỏi cấp bách của đất nước và thực trạng nền dân chủ hiện
nay phải tranh thủ cơ hội vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ,
toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững hơn, Đảng ta phải tiếp tục
đổi mới sâu sắc, hoàn thiện hơn nữa phương thức lãnh đạo trên cơ sở những
quan điểm sau:
Một là, đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của đảng phải xuất
phát từ đường lối chính trị thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện. Hai là, đổi
mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ
chức và cơ chế vận hành của cả hệ thống chính trị. Đây là một nội dung, một
bộ phận trọng yếu của công tác xây dựng Đảng; là sự biểu hiện và tập trung
sinh động năng lực lãnh đạo chính trị, văn hóa chính trị của Đảng. Xác định
đúng, phân tích rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức mối quan hệ giữa Đảng
với các tổ chức quần chúnh trong hệ thống chính trị, đặc biệt là đối với nhà
nước trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ba là, đổi
14
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, Tr.175.
21
mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng phải phù hợp với trình độ trí
tuệ của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trình độ dân chủ của Đảng, trình độ dân
chủ của toàn xã hội và hệ thống tổ chức của Đảng, đặt vững trên nền tảng tập
trung dân chủ. Đổi mới, đảm bảo nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ
trách, bí thư cấp ủy phải thật là người tiêu biểu về phẩm chất, về trí tuệ và
phong cách công tác; đồng thời cụ thể hóa thể chế quan điểm, chủ trương đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng thành điều lệ, quy chế, quy trình công
tác. Nâng cao trình độ mọi mặt, trước hết là trình độ chính trị và trình độ học
vấn của cán bộ, đảng viên. phát huy dân chủ trong Đảng một cách mạnh mẽ
làm tiền đề động lực phát huy dân chủ trong xã hội một cách đúng hướng, toàn
diện nhằm góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách chủ động và có hiệu
quả. Bốn là, phải lấy hiệu quả của việc tổ chức thực hiện đường lối chính trị,
sự trưởng thành toàn diện của Đảng, hệ thống chính trị, trình độ phát triển của
dân chủ xã hội, mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân làm
thước đo quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới, hoàn thiện phương
thức lãnh đạo của Đảng. Đây là sự kiểm chứng nghiêm khắc nhất vai trò, năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Các cấp ủy, tổ chức Đảng từ trung
ương tới chi bộ, mỗi đảng viên phải lấy đó làm tiêu trí soát xét mình, từ đó chủ
đông kịp thời đều chỉnh phương pháp, hình thức công tác cho phù hợp trong
việc thực hiện đường lối lãnh đạo chính trị.
Dân chủ bao giờ cũng gắn với chế độ nhà nước, Nhà nước xã hội chủ
nghĩa cũng là ông cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Cho
nên, muốn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện thì tất yếu phải
đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của nhà nước. Đảng ta khẳng định:
“Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý hinh tế, quản lý
xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị, với nhân dân,với thị trường. Nâng cao năng lực quản
22
lý và điều hành của Nhà nước théo pháp luât”15. Thực chất việc đổi mới kiện
toàn tổ chức và hoạt động của nhà nước ta hiện nay là quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Một trong
những quan điểm cơ bản của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân là quyền lực Nhà nước thống nhất trên cơ sở
phân công và phối hợp trên việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, và tư
pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hoạt động lập pháp hiện nay đang đứng trước những yêu cầu to lớn về
hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như yêu cầu mới mẻ và phức tạp của
việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng
dân chủ trong điều kiện hội nhập, hợp tác quốc tế. Muốn vậy, cần phải tổ
chức tốt hơn nữa quy trình lập pháp. Quy trình đó vừa phải đảm bảo phản
ánh được sự phát triển sống động của đời sống xã hội trong các lĩnh vực, lại
vừa đảm bảo tính khoa học, tính chuyên môn pháp lý của các quy định, bảo
đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các khâu làm luật với việc ban hành các văn
bản dưới luật và tổ chức thực thi pháp luật.
Vấn đề cải cách hành chính, những năm qua Đảng và Nhà nước đã có
nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước còn bộc lộ không ít nhược điểm, còn nhiều mặt chưa theo kịp và đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Tổ chức hành pháp chưa thông suốt, còn nhiều
hạn chế trong việc xử lý những mối liên kết dọc và ngang, thậm trí có hiện
tượng cục bộ, bản vị. Chế độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch làm
trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu, dựa dẫm. Thẩm quyền trách
nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt chẽ. Phong cách làm việc và trách
nhiệm trước dân của đội ngũ công chức, viên chức còn là vấn đề bức xúc. Vì
vậy, Đảng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và đặt thành
nhiệm vụ chiến lược cần được xem xét trên cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm
15
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, Tr.246.
23
xây dựng cho được một nền hành chính Nhà nước dân chủ, trong sạch vững
mạnh. Một trong nội dung cơ bản của nguyên tắc phân công và phối hợp
quyền lực nhà nước và cải cách hành chính là sự phân công, phân cấp giữa
trung ương và địa phương, sự phối hợp giữa chính quyền với các bộ phận hợp
thành của hệ thống chính trị. Sự phân công phân cấp ấy phải dựa trên cơ sở
khuyến khích, nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của các bộ phận hợp
thành và các cấp chính quyền, kết hợp chặt chẽ quản lý hành chính lãnh thổ,
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Về lĩnh vực hoạt động tư pháp, đề cao pháp luật tăng cường pháp chế
phải đi liền với mối quan tâm làm sao để đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo thói
quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ, đảng viên và tầng lớp nhân
dân. Vì vậy, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự
là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với
đổi mới và thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng cường hoạt động xây dựng pháp
luật phải đi liền với việc khuyến kích, tạo điều kiện cho các các hoạt động
của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng đầy đủ quyền và thực hiện tốt
nghĩa vụ của họ, khuyến khích tính tích cực pháp lý của họ phải đi liền với
việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, cải cách hành chính và hệ thống tư pháp.
Đồng thời, đề cao pháp luật, pháp chế còn đặt ra nhiệm vụ phải bằng mọi
cách nâng cao hiểu biết pháp luật, tổ chức tốt công tác tư vấn pháp luật cho
mọi tổ chức công dân, đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm,
kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Thực thi
quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn cần đến sự kiểm tra,
giám sát đầy đủ và hữu hiệu. Trong một nhà nước pháp quyền các hình thức và
cơ chế kiểm tra, giám sát phải thực sự được coi trọng và hoàn thiện ở mức cao
nhất, đảm bảo quyền lực nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo thực thi tốt nhất
quyền dân chủ của công dân, phục vụ lợi ích chung của xã hội, của đất nước,
pháp luật luôn được tôn trọng, pháp chế và kỷ cương được giữ vững. Đối với
các cơ quan Nhà nước, kiểm tra, giám sát là cách tốt nhất để các cơ quan đó
24
thực hiện đúng chức trách và thẩm quyền của mình, đồng thời là điều kiện để
phối hợp các hoạt động một cách có hiệu quả. Đến lượt mình, các hoạt động,
các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải có sự phân công phối hợp đầy
đủ và hoàn thiện hơn. Đặc biệt, cần nhấn mạnh quyền giám sát tối cao của
Quốc hội và quyền giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp.
Đổi mới nội dung phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân là yêu cầu khách quan của quá trình đổi mới, kiện toàn hệ
thống chính trị ở nước ta hiện nay. Đại hội X, Đảng ta nhấn mạnh: “ Thực
hiện tốt luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam, quy chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt
trận, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính
quyền và hệ thống chính trị.
Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể
nhân dân và các hội quần chúng, khắc phục tình trạng hành chính hóa, phô
trương, hình thức; làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần
dân và có trchs nhiệm với dân.”16; nhằm “thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân
với Đảng và nhà nước, thực hiện giám sát của nhân dân đối với công tác,
đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và cơ
quan nhà nước”17. Mặt trận tổ quốc Việt nam là tổ chức liên minh chính trị,
liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội,
các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý trí, nguyện vọng, tập hợp
khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp
thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên. Mặt trận có
vai trò to lớn trong xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân,
thực hiện quyền chủ của nhân dân. khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận
tổ quốc phải được củng cố phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững
chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, phát huy
1616, 17
17
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, Tr.124.
25
dân chủ, nâng cao trách nhiệm của công dân của hội viên, đoàn viên, giữ vững
kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối liên hệ
giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, góp phần rất quan trọng trong sự
nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhân dân vừa thực hiện quyền dân chủ
trực tiếp vừa thực hiện quyền dân chủ thông qua đại diện các cơ quan Nhà
nước, các đại biểu nhân dân, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên. Đảng và Nhà nước xây dựng và hoàn thiện quy chế để Mặt trận
tổ quốc và các tổ chức thành viên phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham
gia phát triển kinh tế xã hội, thực hiện “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, qua đó tăng cường đoàn kết
toàn dân, củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội.
Với tinh thần đó, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
cần phát huy đầy đủ vai trò đại diện của nhân dân trong tổ chức bầu cử Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp; tham gia xây dựng chủ trương, chính sách,
pháp luật, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực
hiện giám sát của nhân dân đối với việc thực thi trách nhiệm và đạo đức, lối
sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và các cơ quan nhà
nước; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với
Đảng và Nhà nước; cùng chăm lo, bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của
nhân dân; giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; tham gia công
tác hòa giải…Cần tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận tổ
quốc Việt Nam theo hướng: khắc phục tình trạng hành chính hóa, hình thức,
quan liêu, xa dân; thực hiện tốt luật Mặt trtận tổ quốc Việt Nam; tổ chức các
phong trào thi đua yêu nước, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư,
xây dựng đời sống văn hóa, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, gắn liền với các
chương trình kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước, từng địa
phương và địa bàn dân cư.