BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
NGUYỄN HỮU CHIẾN
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC
VÀ THỰC TRẠNG CẤP CỨU BAN ĐẦU Ở BỆNH NHÂN
GÃY XƯƠNG CƠ QUAN VẬN ĐỘNG ĐIỀU TRỊ
TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
NGUYỄN HỮU CHIẾN
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC
VÀ THỰC TRẠNG CẤP CỨU BAN ĐẦU Ở BỆNH NHÂN
GÃY XƯƠNG CƠ QUAN VẬN ĐỘNG ĐIỀU TRỊ
TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103
Chuyên ngành: Ngoại khoa
Mã số: 9.72.01.04
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Hướng dẫn khoa học:
1. GS. TS. Nguyễn Tiến Bình
2. PGS. TS. Phạm Đăng Ninh
HÀ NỘI 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Hữu Chiến
LỜI CẢM ƠN
Trong suôt qua trinh nghiên c
́
́ ̀
ứu va hoan thanh luân án nay, tôi đa nhân
̀ ̀
̀
̣
̀
̃ ̣
được sự hương dân, h
́
̃ ỗ trợ và giup đ
́ ỡ quy bau cua cac thây cô, các c
́ ́ ̉
́
̀
ơ quan,
tổ chức và các cá nhân. Vơi long kinh trong va biêt
́ ̀
́
̣
̀ ́ ơn sâu săc tôi xin đ
́
ược
bay to l
̀ ̉ ời cam
̉ ơn chân thanh nh
̀
ất.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến GS.TS
Nguyễn Tiến Bình và PGS.TS. Phạm Đăng Ninh, hai người Thầy đã tận tâm
dìu dắt, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận án.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến Ban Giam đ
́ ốc, Phong Sau Đ
̀
ại
học, Bô môn Khoa Ch
̣
ấn thương chỉnh hình Học viện Quân y đa giúp đ
̃
ỡ,
góp ý và tao moi điêu kiên t
̣
̣
̀
̣ ốt nhất cho tôi trong qua trinh nghiên c
́ ̀
ứu va hoan
̀ ̀
thanh luân án.
̀
̣
Cuối cùng, tôi xin chân thanh cam
̀
̉ ơn gia đình, bạn bè và những người
thân đa luôn bên canh đông viên, h
̃
̣
̣
ỗ trợ va giup đ
̀ ́ ỡ tôi, là động lực và truyền
nhiệt huyết để tôi hoan thanh luân án này.
̀
̀
̣
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Hữu Chiến
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
Phần viết
tắt
Phần viết đầy đủ
BN
BV
BVĐK
CĐN
YTCS
Bệnh nhân
Bệnh viện
Bệnh viện Đa khoa
Cố định ngoài
Y tế Cơ sở
CSYT
CTCS
CTSN
GX
KHX
MM
Cơ sở Y tế
Chấn thương cột sống
Chấn thương sọ não
Gãy xương
Kết hợp xương
Mạch máu
PKCC
Phòng khám cấp cứu
SD
TK
TNGT
TNLĐ
TNSH
TNTT
XĐ
Standard Deviation (Độ lệch chuẩn)
Thần kinh
Tai nạn giao thông
Tai nạn lao động
Tai nạn sinh hoạt
Tai nạn thương tích
Xương đùi
?
Số trung bình cộng
χ2
Khi bình phương
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
Tên bảng
Trang
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ
Trang
Tên biểu đồ
DANH MỤC HÌNH
Hình
Tên hình
Trang
11
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gãy xương cơ quan vận động bao gồm gãy cột sống, gãy khung chậu
và gãy xương tứ chi. Có nhiều nguyên nhân gây gãy xương và ở mỗi quốc
gia, mỗi khu vực thì cơ cấu, tỷ lệ, đặc điểm phân bố và nguyên nhân gãy
xương cũng rất khác nhau. Trên thế giới, hàng ngày có khoảng 16 nghìn
người chết do chấn thương [1]. Tại Việt Nam, tỷ lệ tử vong do tai n ạn
giao thông là 27/100.000 dân, cao hơn so với tỷ lệ chung của toàn cầu là
19/100.000 dân [2]. Ở nước ta, nguyên nhân gãy xương do tai nạn giao
thông là phổ biến nhất. Các tai nạn chấn thương gây gãy xương không
những chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, khả năng lao động mà quan trọng hơn
còn là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Tai nạn thương tích nói chung và
gãy xương nói riêng thực sự đã trở thành vấn đề xã hội cấp thiết, nhất là
tại những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Gãy xương là một cấp cứu ngoại khoa, nhưng nếu được sơ cứu, cấp
cứu ban đầu kịp thời và đúng cách với các biện pháp như phòng chống sốc,
cố định ổ gãy, phòng chống di lệch và thương tổn thứ phát, vận chuyển
sớm… thì sẽ tạo điều kiện tốt cho điều trị ở tuyến sau có kết quả [3]. Do
vậy, vấn đề cấp cứu ban đầu đóng vai trò rất quan trọng. Việc sơ cấp cứu
đúng cách, cố định ổ gãy vững chắc sẽ giảm tỷ lệ các biến chứng toàn thân
và tại chỗ như sốc, tổn thương gãy kín thành gãy hở và tổn thương mạch
máu, thần kinh. Việc sơ cấp cứu sớm còn tạo điều kiện cho tuyến sau xử
trí được thuận lợi hơn...Sơ cấp cứu ban đầu kịp thời và hiệu quả là vô
cùng quan trọng để giảm mức độ trầm trọng và tử vong do thương tổn từ
các tai nạn thương tích đem lại [4].
12
Các nghiên cứu về gãy xương do tại nạn thương tích đã được nhiều
tác giả trong và ngoài nước quan tâm. Trên thế giới, hầu hết các quốc gia
đều có các trung tâm phòng ngừa tai nạn và thương tích. Ở Việt Nam, trong
khoảng hơn 10 năm trở lại đây, khía cạnh dự phòng tai nạn thương tích, dự
phòng gãy xương, sơ cấp cứu ban đầu khi bị gãy xương mới được chú ý.
Để có những thông tin cơ bản, hệ thống và đầy đủ về đặc điểm dịch
tễ của gãy xương cơ quan vận động và thực trạng công tác cấp cứu ban
đầu tại các tuyến sơ cứu trước bệnh viện, chúng tôi thực hiện nghiên cứu
đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học và thực trạng cấp
cứu ban đầu ở bệnh nhân gãy xương cơ quan vận động điều trị tại
Bệnh viện Quân y 103” nhằm các mục tiêu sau:
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Xác định một số đặc điểm dịch tễ học gãy xương cơ quan vận
động ở bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện Quân y 103 giai đoạn
20102014.
2. Khảo sát thực trạng cấp cứu ban đầu ở các bệnh nhân gãy
xương cơ quan vận động điều trị tại Bệnh viện Quân y 103 trong
thời gian trên.
13
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐỊNH NGHĨA, PHÂN LOẠI GÃY XƯƠNG
1.1.1.Khái niệm, định nghĩa
Gãy xương (GX) là tình trạng thương tổn làm mất tính liên tục của
xương [3]. GX cơ quan vận động bao gồm GX tứ chi, GX cột sống, GX
chậu và gãy một số xương khác (xương đòn, xương bả vai, xương bánh
chè…). Hiện nay, có nhiều cách phân loại GX đang được áp dụng. Phân
loại theo nguyên nhân là cách phân loại có nhiều ứng dụng trên thực tế lâm
sàng. Theo cách phân loại này người ta chia ra GX do chấn thương và GX
do bệnh lý. GX do bệnh lý có thể do viêm xương, giang mai xương, do u ác
tính nguyên phát, di căn ung thư xương từ nơi khác đến… GX nén ép do
mỏi hay do tai biến sản khoa [5], [6].
1.1.2. Phân loại gãy xương
1.1.2.1. Phân loại theo tổn thương phần mềm
+ Khái niệm chung: GX kín là GX không có vết thương làm thông ổ
gãy với môi trường bên ngoài. GX hở là GX mà ổ gãy thông với môi trường
bên ngoài qua vết thương. Mức độ tổn thương phần mềm là căn cứ để lựa
chọn các phương pháp điều trị GX. Đối với GX hở, mức độ ô nhiễm, nguy
cơ biến chứng nhiễm khuẩn và các biến chứng khác phụ thuộc vào tổn
thương phần mềm [3], [5].
+ Phân loại gãy xương hở của Gustilo và Anderson
Cách phân loại này được Gustilo R.B. và Anderson J.T. đề xuất lần
đầu vào năm 1976, sau đó Gustilo cùng các tác giả khác đã nhiều lần bổ
sung và đề xuất thành bảng phân loại hoàn chỉnh vào năm 1990 (Gustilo và
14
cs., 1984; 1987; 1990). Đây là phương pháp phân loại được sử dụng rộng rãi
nhất hiện nay. Bảng phân loại năm 1990 cụ thể như sau [3], [5], [7]:
Độ I: Vết thương rách da < 1cm và sạch, thường là gãy hở do đầu
xương gãy chọc ra. Tổn thương phần mềm rất ít, không có bầm dập.
Xương gãy đơn giản, gãy vững.
Độ II: Vết thương rách da > 1cm, không có lóc da, đụng dập phần
mềm nhẹ, vết thương ít ô nhiễm. Xương có thể gãy đơn giản hoặc gãy có
mảnh rời nhưng không phức tạp.
Độ III: Tổn thương phần mềm nặng (bao gồm da, cân cơ, mạch
máu, thần kinh: TK), vết thương ô nhiễm nặng, gãy hở đến muộn sau 6
giờ. Tổn thương do lực chấn thương có năng lượng cao (hoả khí, tai nạn
giao thông...) GX phức tạp, di lệch lớn. GX hở độ III được chia thành 3
loại:
Độ IIIA: Tổn thương phần mềm nặng (rách da, lóc da, bầm dập)
nhưng sau khi cắt lọc vết thương, phần mềm còn đủ để che phủ xương
gãy. Nhóm này còn bao gồm các GX nhiều mảnh rời, GX nhiều mảnh do
lực chấn thương có động năng cao.
Độ IIIB: Vết thương ô nhiễm nặng, tổn thương phần mềm phức
tạp hoặc mất tổ chức, sau khi cắt lọc không đủ để che phủ xương gãy,
phải thực hiện các phẫu thuật tạo hình phủ bổ sung. Xương gãy vụn rời,
lóc tuột màng xương, thường do lực chấn thương có động năng cao.
Độ IIIC: GX hở có tổn thương mạch máu (MM) và TK chính của
chi cần phải khâu nối phục hồi lưu thông, nếu không được sẽ phải cắt cụt.
+ Phân loại tổn thương phần mềm của Oestern và Tscherne
Dựa trên mức độ tổn thương phần mềm kể cả gãy hở và gãy kín,
Oestern H.J. và Tscherne H. (1984) đã giới thiệu bảng phân loại tổn thương
15
phần mềm. Đối với GX kín bao gồm 4 mức độ, (từ độ 0 đến độ III) và GX
hở gồm 4 mức độ (từ độ I đến độ IV) [3], [5], [8].
Phân loại tổn thương phần mềm ở gãy xương kín
Độ C0: Không có tổn thương phần mềm hoặc tổn thương không
đáng kể, GX đơn giản.
Độ CI: da có sây sát, mài sát hoặc bị đụng dập và xương gãy đơn
giản.
Độ CII: Vết thương mài sát da có ô nhiễm, đụng dập da và cơ tại chỗ
do lực chấn thương trực tiếp. GX phức tạp có nguy cơ chèn ép khoang.
Độ CIII: Da bị bầm dập nhiều, có tổn thương cơ nặng, có thể bong
lóc da. Có hội chứng chèn ép khoang hoặc tổn thương MM chính.
Phân loại tổn thương phần mềm ở gãy xương hở
Độ OI: Không có đụng dập da hoặc đụng dập không đáng kể, vết
thương ít ô nhiễm, thường vết thương do đầu xương gãy chọc ra.
Độ OII: Đụng dập da và phần mềm nhưng có giới hạn, vết thương ô
nhiễm mức độ trung bình. GX phức tạp.
Độ OIII: Tổn thương phần mềm nặng, mất tổ chức, vết thương ô
nhiễm nặng, thường có kết hợp tổn thương MM và TK. Những gãy hở do
hoả khí, gãy nát vụn xương, và gãy hở có ô nhiễm trầm trọng.
Độ OIV: Cụt hoặc đứt gần lìa chi thể.
+ Phân loại tổn thương phần mềm theo AO
Bảng phân loại này do một nhóm tác giả (Ruedi T., Border J.R. và
Allgower M.) thuộc AO (Arbeitsgemeinschaft fur Osteosynthesefragen) đưa
ra năm 1990, dựa trên 3 loại tổn thương chính là: da, gân cơ và MM, TK.
Mỗi loại tổn thương được chia thành 5 mức độ, cụ thể như sau:
16
Tổn thương da được chia thành hai loại: IC là gãy kín (integuments
closed); OC là gãy hở (integuments open).
IC1: Không tổn thương IO1: VT do đầu xương gãy chọc từ trong ra.
da.
IC2: Dập, không rách da. IO2: VT rách da < 5cm, bầm dập bờ mép.
IC3: Bong lóc da khu trú. IO3: Rách da > 5cm, bầm dập lan rộng, hoại tử mép da.
IC4: Lóc da (kín) rộng, nặng. IO4: Bầm dập sâu rộng, lóc tuột da, mất da.
IC5: Hoại tử do đụng
dập.
Tổn thương cơ và gân gồm các mức độ sau:
MT1: Không có tổn thương gân cơ.
MT2: Tổn thương cơ khu trú, tổn thương cơ trong 1 khoang.
MT3: Tổn thương cơ đáng kể, tổn thương cơ trong 2 khoang.
MT4: Rách nát cơ và gân, đụng dập cơ nặng.
MT5: Hội chứng chèn ép khoang, hội chứng vùi lấp đè ép với tổn
thương rộng.
Tổn thương MM, TK gồm các mức độ sau:
NV1: Không có tổn thương MM và TK.
NV2: Tổn thương TK ngoại vi nhưng khu trú.
NV3: Tổn thương MM ngoại vi nhưng không phải mạch chính của
chi.
NV4: Tổn thương MM chính của đoạn chi thể.
NV5: Tổn thương MM và TK kết hợp, cụt hoặc đứt gần lìa chi thể.
1.1.2.2. Phân loại theo tổn thương ở xương
+ Phân loại theo cơ chế chấn thương
GX do lực chấn thương trực tiếp: tại vị trí tác động của lực chấn
thương.
17
GX do lực chấn thương gián tiếp: ở xa vị trí tác động của lực chấn
thương, bao gồm: lực xoay, xoắn vặn; lực giằng giật; lực gập góc; lực đè
ép, thúc dồn [3].
+ Phân loại theo vị trí gãy
Gãy đầu xương: gãy ở đầu trung tâm hoặc ngoại vi, đây là gãy vùng
xương xốp. Có thể là gãy không phạm khớp (đường gãy không thông vào
khớp) hoặc gãy phạm khớp (đường gãy thông vào khớp).
Gãy thân xương: gãy phần xương nằm giữa hai đầu xương, đây là
gãy vùng xương cứng, có ống tuỷ. Gãy thân xương được phân ra gồm gãy
1/3 trên, 1/3 giữa và 1/3 dưới. GX hoàn toàn thường có di lệch điển hình tùy
theo vị trí gãy, do các cơ co kéo.
Gãy vùng tiếp giáp giữa đầu xương và thân xương, ở trẻ em có loại
gãy vùng sụn tiếp hợp (bong sụn tiếp hợp).
+ Phân loại theo hình thái và tính chất gãy
Xương có thể gãy không hoàn toàn hoặc gãy hoàn toàn [3], [5]:
Gãy không hoàn toàn:
Gãy dưới cốt mạc: đường gãy nằm dưới cốt mạc, cốt mạc không
bị tổn thương, thường gặp trong GX trẻ em.
Gãy cành xanh: gãy một bên thành xương còn bên đối diện cong
lõm vào (giống như khi bẻ một cành cây tươi).
Gãy rạn: đường gãy nhỏ chỉ ở một phần của thành xương, không di
lệch.
Gãy lún: gãy ở vùng xương xốp, do lực đè nén hoặc thúc dồn.
Gãy hoàn toàn:
Gãy đơn giản: đường gãy ngang, chéo hoặc xoắn nhưng không có
mảnh rời.
18
Gãy nhiều mảnh rời: gãy hình chêm, gãy hình cánh bướm....
Gãy nhiều mảnh rời, gãy vụn, gãy nhiều đoạn.
+ Phân loại của Winquist và Hansen
Năm 1980 Winquist R.A. và Hansen S.T. đã đưa ra cách phân loại dựa
vào tính vững chắc của ổ gãy có mảnh rời. Loại I: Gãy ngang, chỉ có mảnh
rời nhỏ; Loại II: Gãy hình cánh bướm nhưng diện tiếp xúc ở hai đầu gãy
chiếm > 50% chu vi xương; Loại III: Gãy hình cánh bướm lớn và diện tiếp
xúc 2 đầu gãy < 50% chu vi xương; Loại IV: GX thành nhiều mảnh.
+ Phân loại tổng hợp của AO
Vị trí GX: được ký hiệu bằng hai chữ số: một đại diện cho xương
gãy và một cho vị trí gãy trên xương đó.
Ký hiệu cho các xương: 1 = xương cánh tay; 2 = xương trụ/quay;
3 = xương đùi (XĐ); 4 = xương chày/mác; 5 = xương cột sống; 6 = xương
chậu; 7 = xương bàn tay; 8 = xương bàn chân (hình 1.1).
Mỗi xương dài được chia thành 3 vùng: đầu trung tâm; thân
xương và đầu ngoại vi, riêng xương chày/mác có phần thứ tư là các mắt cá.
Đầu trung tâm và ngoại vi của xương được giới hạn trong hình vuông có
cạnh bằng chỗ rộng nhất của đầu xương. Ký hiệu như sau: 1 = đầu trung
tâm; 2 = thân xương; 3 = đầu ngoại vi, 4 = các mắt cá (hình 1.1).
19
Hình 1.1. Ký hiệu các xương và phân loại vị trí gãy xương theo AO
* Nguồn: Theo Nguyễn Tiến Bình và cs. (2009) [5]
Hình thái và tính chất GX: chia tất cả các hình thái GX thành 3
loại (type), mỗi loại chia thành 3 nhóm (group), sau đó mỗi nhóm lại chia
thành 3 kiểu khác nhau (dưới nhóm – subgroup).
Các loại GX được ký hiệu là A, B, C với B tổn thương nặng hơn A
và nhẹ hơn C. Các nhóm được ký hiệu bằng các chữ và số (A1, A2, A3; B1,
B2, B3; C1, C2, C3), tổn thương ở nhóm 2 nặng hơn so với nhóm 1 và nhẹ
hơn nhóm 3. Tiếp đến các dưới nhóm được ký hiệu bằng các số 1, 2, 3 với
mức độ tổn thương nặng dần, như vậy có 27 kiểu gãy khác nhau (hình 1.2).
20
Hình 1.2. Hệ thống phân loại theo hình thái gãy xương
* Nguồn: Nguyễn Tiến Bình và cs. (2009)[5]
Đối với gãy đầu xương (trung tâm và ngoại vi): Loại A: gãy
không phạm khớp; Loại B: gãy phạm khớp một phần; Loại C: gãy phạm
khớp hoàn toàn. Riêng đối với đầu trên xương cánh tay: A = gãy ngoài
khớpkhông vỡ chỏm; B = gãy phạm khớp, vỡ chỏm; C = gãy phạm khớp.
Với đầu trên XĐ: A = gãy vùng mấu chuyển; B = gãy vùng cổ; C = gãy
chỏm.
Việc đánh giá phân loại thương tổn không phải lúc nào cũng tuyệt
đối chính xác ngay từ lần thăm khám đầu tiên, mà có thể khác nhau giữa
các lần và đánh giá chính xác nhất là đánh giá trong lúc mổ.
1.2. DỊCH TỄ HỌC GÃY XƯƠNG CƠ QUAN VẬN ĐỘNG
21
1.2.1. Khái quát chung về tình hình tai nạn thương tích – nguyên nhân
chủ yếu và thường gặp gây gãy xương cơ quan vận động
Tai nạn thương tích (TNTT) hoặc còn được gọi là chấn thương, đó là
bất cứ tổn thương có chủ định hay không có chủ định cho cơ thể con người
được gây nên bởi sự phơi nhiễm cấp tính đối với năng lượng nhiệt, cơ
học, điện hay năng lượng hoá học. TNTT là những thương tổn do: tai nạn
giao thông (TNGT), ngã, tai nạn lao động (TNLĐ), va chạm, điện giật dẫn
đến bị vết thương chảy máu, bong gân, phù nề xây xát, GX, gãy răng, vỡ
thủng nội tạng, chấn thương sọ não (CTSN), bỏng, ngạt/đuối nước, ngộ
độc, tự tử…
1.2.1.1. Tình hình tai nạn thương tích trên thế giới
Tình hình TNTT gây GX cơ quan vận động đã được nhiều tác giả
trên thế giới nghiên cứu như Trung Quốc, Iran, Ấn Độ, Brasil, Mỹ… [9],
[10], [11], [12], [13].
Johansen A. và cs. nghiên cứu các trường hợp GX vào khoa cấp cứu
của Bệnh viện (BV) Hoàng gia Cardiff thấy tần suất GX là 21,1/1000
người/năm (nam: 23,5/1.000 người/năm; nữ: 18,8/1.000 người/ năm). Tần
suất GX tương tự với kết quả nghiên cứu ở Mỹ, Úc và Na Uy, nhưng cao
hơn tần suất GX ở Anh vào những năm 1960 (9/1.000 người/năm) [14].
Tiderius C.J. và cs phân tích dịch tễ học GX trẻ em 016 tuổi tại
Malmo, Thụy Điển (19931994) thấy có 1.673 trường hợp GX ở 1.610 trẻ
em. Các vị trí GX thường gặp nhất là 1/3 dưới xương cánh tay (26%), tiếp
theo là các đốt ngón tay (16%) và xương đòn (9%). Tần suất GX hàng năm
là 235/10.000 ở trẻ em nam và 149/10.000 ở trẻ em nữ; 193/10.000 ở cả hai
giới. Tỷ lệ GX hàng năm giảm 9% so với giai đoạn 1975 1979. Tuy nhiên,
22
gãy 1/3 dưới xương cánh tay đã tăng 1/3 so với năm 19751979 là do trẻ em
nữ đã tham gia vào nhiều hoạt động thể dục thể thao nhiều hơn [15].
Van Staa T.P. và cs phân tích hồ sơ của 103.052 nam và 119.317 nữ
trong số 5 triệu người lớn bị GX ở Anh và xứ Wales trong thời gian 1988
1998 thấy: đối với nữ, GX thường gặp nhất là GX quay/xương trụ
(30,2/10.000 người/năm) và GX đùi/cổ XĐ (17,0/10.000 người/năm). Ở nam
giới, GX thường gặp nhất là xương cổ tay (26,2/10.000 người/năm); GX
đùi/ cổ XĐ là 5,3/10.000 người/năm [16].
Tại Anh, Cooper C. và cs. hồi cứu 7 triệu hồ sơ y tế (1988 1998)
thấy có 52.624 trẻ em nam và 31.505 trẻ em nữ bị GX, tần suất là
133,1/10.000 người/năm. Tần suất GX ở trẻ em nam (161,6/10.000
người/năm) cao hơn trẻ em nữ (102,9/10.000 người/năm). GX thường gặp
nhất là xương quay/xương trụ (30%). Tần suất GX cao nhất ở trẻ em nam
là 14 tuổi và ở trẻ em nữ là 11 tuổi. Tần suất GX ở Bắc Ireland, xứ Wales,
Scotland cao hơn so với đông nam nước Anh (p<0,01) [17].
Hedström E.M. và cs phân tích các trường hợp GX ở trẻ em ≤19 tuổi
điều trị tại BV Đại học Umea, Thụy Điển (1993 2007) thấy có 10.203
trường hợp gãy ít nhất 1 xương. Tỷ lệ GX là 201/10.000 người/năm. Tỷ lệ
GX tăng 13% trong giai đoạn 1998 2007. GX thường gặp nhất là xương
cánh tay với cơ chế phổ biến là do ngã. Tỷ lệ GX cao nhất là ở lứa tuổi 11
12 tuổi ở nữ và 1314 tuổi ở nam; tỷ lệ nam/nữ là 1,5 [18].
Lee Y.H. và cs nghiên cứu 5.244 trường hợp GX bệnh lý điều trị tại
các BV của Đài Loan (2008) thấy tỷ lệ GX bệnh lý của xương cánh tay,
xương quay/xương trụ, cột sống, cổ XĐ, các phần khác của XĐ và xương
chày/xương mác lần lượt là 0,67; 0,08; 10,58; 1,11; 0,56 và 0,11/100.000
người [19].
23
Joeris A. và cs. (2014) hồi cứu 2.716 trẻ em (60% nam) GX dài (2009
2011) điều trị tại hai BV nhi khoa ở Thụy Sĩ thấy có 2.807 tai nạn với 2.840
GX dài (59% GX quay/trụ; 21% GX cánh tay; 15% GX chày/xương mác; 5%
GX đùi). Tuổi trung bình là 8,2 4,0 tuổi (6% trẻ sơ sinh, 26% trẻ em mẫu
giáo; 40% học sinh; 28% thanh thiếu niên). Tỷ lệ GX ở trẻ em nam cao hơn
trẻ em nữ (p<0,001). Nguyên nhân hàng đầu của GX là ngã (27%), tiếp theo
là tai nạn trong các hoạt động giải trí (25%), ở nhà (14%), sân chơi (11%),
khi giao thông (11%) và tại trường học (8% ). Trẻ em nam chủ yếu bị tai
nạn ở sân chơi và tại nhà. Sự phân bố các loại tai nạn khác nhau theo các
nhóm tuổi (p<0,001) [20].
Somersalo A. và cs (2014) nghiên cứu dịch tễ học GX ở người ≥16
tuổi điều trị tại khoa chấn thương của BV Trung ương Phần Lan (2002
2008) thấy có 3.277 BN nữ và 2.708 BN nam với số trường hợp GX là
3.750 và 3.030. Tỷ lệ GX là 4,9/1.000 người/năm (CI 95%: 4,8 5,0), trong
đó nam giới là 5,3/1.000 người (5,15,4) và nữ giới là 4,5/1.000 người (4,3
4,6). Gãy cổ XĐ, xương mắt cá chân, xương cổ tay, xương cột sống, 1/3
trên xương cánh tay chiếm 2/3 số trường hợp GX điều trị tại BV. Tỷ lệ GX
mắt cá chân (17%) và GX cổ tay (9%) tương đương với gãy cổ XĐ (27%).
4/5 số BN GX đã được phẫu thuật. Trong số các BN <60 tuổi, tỷ lệ nam
giới cao gấp hai lần nữ giới. Ở nhóm BN ≥ 60 tuổi thì nữ giới cao hơn so
với nam giới [21].
Seid M. và cs. (2015) đánh giá đặc điểm tổn thương của 230 người bị
TNGT tại Khoa Cấp cứu BV Tikur Anbessa, (Ethiopia) thấy phần lớn là nam
giới 165 (71,7%) và tỷ lệ nam/nữ là 2,6: 1; lứa tuổi 32,15 ± 14,38 tuổi (từ 14
80 tuổi). Người lao động (41,3%) và học sinh (12,2%) chiếm tỷ lệ cao. Các
bộ phận thường bị chấn thương là đầu (50,4%) và chi thể (47,0%). Loại
24
hình chấn thương chủ yếu là GX (78,0%) và vết thương hở (56,5%). Thời
gian nằm viện là 7,12 ± 10,5 ngày (từ 1 61 ngày), tỷ lệ tử vong là 7,4% [22].
Burns S.T. và cs. (2015) hồi cứu 1252 trường hợp chấn thương do tai
nạn xe máy trong 10 năm (1998 2008) thấy 40,7% số BN có đội mũ bảo
hiểm. Các tổn thương thường gặp là GX chày/xương mác (19,01%), gãy
cột sống (16,21%), và GX cẳng tay (10,14%) [23].
Rosengren B.E. và cs. (2015) nghiên cứu 205.908 trường hợp GX ở
người >20 tuổi ở vùng Skane, Thuỵ Điển (19992010) thấy tỷ lệ mắc
192/10.000 người/năm. Tỷ lệ GX tăng 1,2/10.000 người/năm (CI 95%: 0,8
1,5), nhưng xu hướng thời gian khác nhau giữa các loại GX, lứa tuổi và giới
tính. Tỷ lệ GX tăng theo tuổi ở phụ nữ nhưng ổn định ở nam giới [24].
Ameri M. và cs. (2016) nghiên cứu 2.480 BN chấn thương (29,9 ± 17,8
tuổi) điều trị tại BV Shafa Yahyaeian (Tehran, Iran) thấy có 685 BN GX chi
dưới (nam: 73%; nữ: 27%). Cơ chế phổ biến của chấn thương ở BN nam
là ngã tại chỗ (34,8%), chấn thương trực tiếp (24,6%), tai nạn xe máy
(10%) và ngã từ trên cao (7,9%). Các cơ chế phổ biến nhất của chấn
thương ở BN nữ là ngã tại chỗ (54,2%), chấn thương trực tiếp (15,8%) và
ngã từ cầu thang (7,5%), không thấy có mối liên quan giữa giới tính và cơ
chế chấn thương [25].
1.2.1.2. Tình hình tai nạn thương tích ở Việt Nam
Tại Việt Nam, TNTT là nguyên nhân gây tử vong và tàn tật hàng đầu.
Năm 2008, gánh nặng bệnh tật do tàn tật ở cả hai giới đều là 2,7 triệu YLD
[26]. Đoàn Phước Thuộc và cs (2011) nghiên cứu 1.434 BN bị TNGT điều
trị tại BV Đa khoa tỉnh Đắk Lắk (2009) thấy chấn thương xương khớp
chiếm 29,6% [27].
25
Nguyễn Thị Như Tú và cs. (2012) nghiên cứu tại tỉnh Bình Định thấy
nạn nhân TNGT chủ yếu là nam giới (73%), nữ giới chiếm 27%; độ tuổi
1630 chiếm tỷ lệ cao nhất (51,7% ở nam và nữ 48,2%); đa số là nông dân
(41%), kế đến là học sinh (32,5%), cán bộ công nhân viên chức chỉ chiếm
15,3% và trẻ nhỏ là 3%; không có bằng lái xe chiếm 26,7%; có uống
rượu/bia chiếm tỷ lệ 26% và không có đội mũ bảo hiểm chiếm tỷ lệ 27%
[28].
Lê Quang Ánh (2012) điều tra 140 hộ (717 nhân khẩu) khu vực Long
Thành, Nhơn Trạch năm 2011 thấy tỷ lệ TNTT chung là 12,27% [29].
Nguyễn Thị Chinh và cs. (2013) nghiên cứu 289 trường hợp TNTT điều trị
tại BV Đức Giang thấy nguyên nhân chính là TNGT (48,1%), sau đó là ngã
(32.9%). Nhóm tuổi mắc cao nhất là 20 60 tuổi (72,7%), thấp nhất là nhóm
15 19 tuổi (4,8%). Nam cao hơn nữ 1,9 lần. Có 52,6% BN nhập viện bị
GX, vết thương phần mềm (29,4%), chấn thương/va đập vùng đầu
(26,3%), chấn thương ổ bụng (4,5%). Chủ yếu bị chấn thương tại chi dưới
(34,8%), chi trên (22,9%), CTSN: 19,7%; chấn thương cột sống (CTCS):
5,4%, chấn thương ổ bụng chiếm 3,1% [30].
1.2.2. Một số đặc điểm dịch tễ học gãy xương cơ quan vận động
Tại các nước, các khu vực khác nhau, do những đặc điểm về đường
xá mật độ giao thông, tính chất lao động, sinh hoạt khác nhau mà bức tranh
tổng thể về dịch tễ học gãy xương với các chỉ số như tỷ lệ, cơ cấu tổn
thương gãy xương, mức độ các loại gãy xương cũng rất khác nhau. Điều
này đã được nhiều tác giả đề cập tới trước khi nghiên cứu về các phương
pháp kỹ thuật trong chẩn đoán, điều trị và phục hồi chức năng gãy xương.
1.2.2.1.Gãy xương chi trên