Tải bản đầy đủ (.pdf) (160 trang)

Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học và thực trạng cấp cứu ban đầu ở bệnh nhân gãy xương cơ quan vận động điều trị tại Bệnh viện Quân y 103

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 160 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO   

   BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN QUÂN Y

NGUYỄN HỮU CHIẾN

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC
VÀ THỰC TRẠNG CẤP CỨU BAN ĐẦU Ở BỆNH NHÂN 
GÃY XƯƠNG CƠ QUAN VẬN ĐỘNG ĐIỀU TRỊ 
TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC


HÀ NỘI ­ 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO   

   BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN QUÂN Y

NGUYỄN HỮU CHIẾN

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC
VÀ THỰC TRẠNG CẤP CỨU BAN ĐẦU Ở BỆNH NHÂN 
GÃY XƯƠNG CƠ QUAN VẬN ĐỘNG ĐIỀU TRỊ 
TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103 

Chuyên ngành: Ngoại khoa


Mã số: 9.72.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC


Hướng dẫn khoa học:
1. GS. TS. Nguyễn Tiến Bình
2. PGS. TS. Phạm Đăng Ninh   

HÀ NỘI ­ 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số 
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố 
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án

Nguyễn Hữu Chiến


LỜI CẢM ƠN
Trong suôt qua trinh nghiên c
́
́ ̀
ứu va hoan thanh luân án nay, tôi đa nhân
̀ ̀
̀

̣
̀
̃ ̣  
được sự hương dân, h
́
̃ ỗ trợ và giup đ
́ ỡ quy bau cua cac thây cô, các c
́ ́ ̉
́
̀
ơ  quan,  
tổ  chức và các cá nhân. Vơi long kinh trong va biêt 
́ ̀
́
̣
̀ ́ ơn sâu săc tôi xin đ
́
ược 
bay to l
̀ ̉ ời cam 
̉ ơn chân thanh nh
̀
ất.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ  lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến GS.TS  
Nguyễn Tiến Bình và PGS.TS. Phạm Đăng Ninh, hai người Thầy đã tận tâm 
dìu dắt, hướng dẫn và giúp đỡ  tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn 
thành luận án.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến Ban Giam đ
́ ốc, Phong Sau Đ
̀

ại  
học, Bô môn Khoa Ch
̣
ấn thương chỉnh hình ­ Học viện Quân y đa giúp đ
̃
ỡ,  
góp ý và tao moi điêu kiên t
̣
̣
̀
̣ ốt nhất cho tôi trong qua trinh nghiên c
́ ̀
ứu va hoan
̀ ̀ 
thanh luân án.
̀
̣
Cuối cùng, tôi xin chân thanh cam 
̀
̉ ơn gia đình, bạn bè và những người 
thân đa luôn bên canh đông viên, h
̃
̣
̣
ỗ trợ va giup đ
̀ ́ ỡ tôi, là động lực và truyền 
nhiệt huyết để tôi hoan thanh luân án này.
̀
̀
̣

Nghiên cứu sinh

        Nguyễn Hữu Chiến


MỤC  LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC HÌNH


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
Phần viết 
tắt

Phần viết đầy đủ

BN
BV
BVĐK
CĐN
YTCS

Bệnh nhân 
Bệnh viện 
Bệnh viện Đa khoa

Cố định ngoài
Y tế Cơ sở

CSYT
CTCS
CTSN
GX
KHX
MM

Cơ sở Y tế
Chấn thương cột sống
Chấn thương sọ não
Gãy xương
Kết hợp xương
Mạch máu

PKCC

Phòng khám cấp cứu

SD
TK
TNGT
TNLĐ
TNSH
TNTT


Standard Deviation  (Độ lệch chuẩn)

Thần kinh
Tai nạn giao thông
Tai nạn lao động
Tai nạn sinh hoạt
Tai nạn thương tích
Xương đùi

?

Số trung bình cộng

χ2

Khi bình phương


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng

Tên bảng

 Trang


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ
Trang

Tên biểu đồ


 


DANH MỤC HÌNH

Hình

Tên hình

 Trang


11

ĐẶT VẤN ĐỀ
Gãy xương cơ quan vận động bao gồm gãy cột sống, gãy khung chậu 
và gãy xương tứ chi. Có nhiều nguyên nhân gây gãy xương và ở mỗi quốc 
gia, mỗi khu vực thì cơ  cấu, tỷ  lệ, đặc điểm phân bố  và nguyên nhân gãy 
xương cũng rất khác nhau. Trên thế  giới, hàng ngày có khoảng 16 nghìn 
người chết do chấn thương [1]. Tại Việt Nam, tỷ  lệ  tử  vong do tai n ạn  
giao thông là 27/100.000 dân, cao hơn so với tỷ  lệ  chung của toàn cầu là 
19/100.000 dân [2].  Ở  nước ta, nguyên nhân gãy xương do tai nạn giao 
thông là phổ  biến nhất. Các tai nạn chấn thương gây gãy xương không 
những chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, khả năng lao động mà quan trọng hơn  
còn là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Tai nạn thương tích nói chung và 
gãy xương nói riêng thực sự  đã trở  thành vấn đề  xã hội cấp thiết, nhất là 
tại những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. 
Gãy xương là một cấp cứu ngoại khoa, nhưng nếu được sơ cứu, cấp  
cứu ban đầu kịp thời và đúng cách với các biện pháp như phòng chống sốc, 
cố  định  ổ  gãy, phòng chống di lệch và thương tổn thứ  phát, vận chuyển 

sớm… thì sẽ tạo điều kiện tốt cho điều trị ở tuyến sau có kết quả [3]. Do 
vậy, vấn đề cấp cứu ban đầu đóng vai trò rất quan trọng. Việc sơ cấp cứu  
đúng cách, cố định ổ gãy vững chắc sẽ giảm tỷ lệ các biến chứng toàn thân  
và tại chỗ  như sốc, tổn thương gãy kín thành gãy hở  và tổn thương mạch 
máu, thần kinh. Việc sơ cấp cứu sớm còn tạo điều kiện cho tuyến sau xử 
trí được thuận lợi hơn...Sơ  cấp cứu ban đầu kịp thời và hiệu quả  là vô 
cùng quan trọng để giảm mức độ  trầm trọng và tử  vong do thương tổn từ 
các tai nạn thương tích đem lại [4]. 


12

Các nghiên cứu về gãy xương do tại nạn thương tích đã được nhiều 
tác giả  trong và ngoài nước quan tâm. Trên thế  giới, hầu hết các quốc gia  
đều có các trung tâm phòng ngừa tai nạn và thương tích. Ở Việt Nam, trong 
khoảng hơn 10 năm trở lại đây, khía cạnh dự phòng tai nạn thương tích, dự 
phòng gãy xương, sơ cấp cứu ban đầu khi bị gãy xương mới được chú ý. 
 Để  có những thông tin cơ bản, hệ thống và đầy đủ  về  đặc điểm dịch 
tễ  của gãy xương cơ  quan vận động và thực trạng công tác cấp cứu ban  
đầu tại các tuyến sơ cứu trước bệnh viện, chúng tôi thực hiện nghiên cứu  
đề  tài: “Nghiên cứu một số  đặc điểm dịch tễ  học và thực trạng cấp 
cứu ban đầu  ở  bệnh nhân gãy xương cơ  quan vận động điều trị  tại 
Bệnh viện Quân y 103” nhằm các mục tiêu sau:
Mục tiêu nghiên cứu:

1. Xác định một số  đặc điểm dịch tễ  học gãy xương cơ  quan vận  

động  ở  bệnh nhân điều trị  tại Bệnh viện Quân y 103 giai đoạn  
2010­2014.
2. Khảo   sát   thực   trạng   cấp   cứu   ban   đầu   ở   các   bệnh   nhân   gãy  


xương cơ quan vận động điều trị tại Bệnh viện Quân y 103 trong  
thời gian trên.


13

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐỊNH NGHĨA, PHÂN LOẠI GÃY XƯƠNG
1.1.1.Khái niệm, định nghĩa
Gãy xương (GX) là tình trạng thương tổn làm mất tính liên tục của 
xương [3]. GX cơ  quan vận động bao gồm GX tứ  chi, GX cột sống, GX  
chậu và gãy một số  xương khác (xương đòn, xương bả  vai, xương bánh 
chè…). Hiện nay, có nhiều cách phân loại GX đang được áp dụng. Phân  
loại theo nguyên nhân là cách phân loại có nhiều ứng dụng trên thực tế lâm 
sàng. Theo cách phân loại này người ta chia ra GX do chấn thương và GX  
do bệnh lý. GX do bệnh lý có thể do viêm xương, giang mai xương, do u ác 
tính nguyên phát, di căn ung thư  xương từ  nơi khác đến… GX nén ép do  
mỏi hay do tai biến sản khoa [5], [6].
1.1.2. Phân loại gãy xương
1.1.2.1. Phân loại theo tổn thương phần mềm
        + Khái niệm chung: GX kín là GX không có vết thương làm thông  ổ 
gãy với môi trường bên ngoài. GX hở là GX mà ổ gãy thông với môi trường  
bên ngoài qua vết thương. Mức độ tổn thương phần mềm là căn cứ để lựa  
chọn các phương pháp điều trị GX. Đối với GX hở, mức độ ô nhiễm, nguy 
cơ  biến chứng nhiễm khuẩn và các biến chứng khác phụ  thuộc vào tổn 
thương phần mềm [3], [5]. 
       + Phân loại gãy xương hở của Gustilo và Anderson
         Cách phân loại này được Gustilo R.B. và Anderson J.T. đề  xuất lần 

đầu vào năm 1976, sau đó Gustilo cùng các tác giả  khác đã nhiều lần bổ 
sung và đề xuất thành bảng phân loại hoàn chỉnh  vào năm 1990 (Gustilo và  


14

cs., 1984; 1987; 1990). Đây là phương pháp phân loại được sử dụng rộng rãi 
nhất hiện nay. Bảng phân loại năm 1990 cụ thể như sau [3], [5], [7]:  
Độ  I: Vết thương rách da < 1cm và sạch, thường là gãy hở  do đầu 
xương  gãy chọc  ra. Tổn  thương  phần  mềm rất  ít,  không có  bầm dập. 
Xương gãy đơn giản, gãy vững.
Độ  II: Vết thương rách da > 1cm, không có lóc da, đụng dập phần  
mềm nhẹ, vết thương ít ô nhiễm. Xương có thể gãy đơn giản hoặc gãy có 
mảnh rời nhưng không phức tạp.
Độ  III: Tổn  thương phần mềm nặng (bao gồm da, cân cơ, mạch 
máu, thần kinh: TK), vết thương ô nhiễm nặng, gãy hở  đến muộn sau 6 
giờ. Tổn thương do lực chấn thương có năng lượng cao (hoả  khí, tai nạn  
giao thông...)  GX phức tạp, di lệch lớn. GX hở  độ  III được chia thành 3  
loại: 
­ Độ  III­A: Tổn thương phần mềm nặng (rách da, lóc da, bầm dập)  
nhưng sau khi cắt lọc vết thương, phần mềm còn đủ  để  che phủ  xương 
gãy. Nhóm này còn bao gồm các GX nhiều mảnh rời, GX nhiều mảnh do 
lực chấn thương có động năng cao.
­ Độ  III­B: Vết thương ô nhiễm nặng, tổn thương phần mềm phức  
tạp hoặc mất tổ  chức, sau khi cắt lọc không đủ  để  che phủ  xương gãy,  
phải thực hiện các phẫu thuật tạo hình phủ  bổ  sung. Xương gãy vụn rời, 
lóc tuột màng xương, thường do lực chấn thương có động năng cao.
­ Độ  III­C: GX hở có tổn thương mạch máu (MM) và TK chính của 
chi cần phải khâu nối phục hồi lưu thông, nếu không được sẽ phải cắt cụt.
      + Phân loại tổn thương phần mềm của Oestern và Tscherne

Dựa trên mức độ  tổn thương phần   mềm  kể  cả  gãy hở  và gãy kín, 
Oestern H.J. và Tscherne H. (1984) đã giới thiệu bảng phân loại tổn thương  


15

phần mềm. Đối với GX kín bao gồm 4 mức độ, (từ độ 0 đến độ III) và GX 
hở gồm 4 mức độ (từ độ  I đến độ IV) [3], [5], [8].
 Phân loại tổn thương phần mềm ở gãy xương kín

Độ  C0: Không có tổn thương phần mềm hoặc tổn thương không 
đáng kể, GX đơn giản.
Độ  CI: da có sây sát, mài sát hoặc bị  đụng dập và xương gãy đơn 
giản. 
Độ CII: Vết thương mài sát da có ô nhiễm, đụng dập da và cơ tại chỗ 
do lực chấn thương trực tiếp. GX phức tạp có nguy cơ chèn ép khoang.
Độ  CIII: Da bị bầm dập nhiều, có tổn thương cơ  nặng, có thể  bong  
lóc da. Có hội chứng chèn ép khoang hoặc tổn thương MM chính. 
 Phân loại tổn thương phần mềm ở gãy xương hở

Độ  OI: Không có đụng dập da hoặc đụng dập không đáng kể, vết 
thương ít ô nhiễm, thường vết thương do đầu xương gãy chọc ra.
Độ OII: Đụng dập da và phần mềm nhưng có giới hạn, vết thương ô  
nhiễm mức độ trung bình. GX phức tạp.
Độ  OIII: Tổn thương phần mềm nặng, mất tổ  chức, vết thương ô 
nhiễm nặng, thường có kết hợp tổn thương MM và TK. Những gãy hở  do  
hoả khí, gãy nát vụn xương, và gãy hở có ô nhiễm trầm trọng.
Độ OIV: Cụt hoặc đứt gần lìa chi thể.
+ Phân loại tổn thương phần mềm  theo AO
Bảng phân loại này do một nhóm tác giả  (Ruedi T., Border J.R. và 

Allgower M.) thuộc AO (Arbeitsgemeinschaft fur Osteosynthesefragen) đưa 
ra năm 1990, dựa trên 3 loại tổn thương chính là: da, gân cơ  và MM, TK. 
Mỗi loại tổn thương được chia thành 5 mức độ, cụ thể như sau: 


16

Tổn thương da được chia thành hai loại: IC là gãy kín (integuments 
closed); OC là gãy hở (integuments open).
IC1:   Không   tổn   thương  IO1: VT do đầu xương gãy chọc từ trong ra.
da.
IC2: Dập, không rách da. IO2: VT rách da < 5cm, bầm dập bờ mép.
IC3: Bong lóc da khu trú. IO3: Rách da > 5cm, bầm dập lan rộng, hoại tử mép da.
IC4: Lóc da (kín) rộng, nặng. IO4: Bầm dập sâu rộng, lóc tuột da, mất da.
IC5:   Hoại   tử   do   đụng 
dập.

 Tổn thương cơ và gân gồm các mức độ sau: 

MT1: Không có tổn thương gân cơ.
MT2: Tổn thương cơ khu trú, tổn thương cơ trong 1 khoang.
MT3: Tổn thương cơ đáng kể,  tổn thương cơ trong 2 khoang.
MT4: Rách nát cơ và gân, đụng dập cơ nặng.
MT5: Hội chứng chèn ép khoang, hội chứng vùi lấp đè ép với tổn 
thương rộng.
 Tổn thương MM, TK gồm các mức độ sau: 

NV1: Không có tổn thương MM và TK.
NV2: Tổn thương TK ngoại vi nhưng khu trú.
NV3: Tổn thương MM ngoại vi nhưng không phải mạch chính của 

chi.
NV4: Tổn thương MM chính của đoạn chi thể.
NV5: Tổn thương MM và TK kết hợp, cụt hoặc đứt gần lìa chi thể.
1.1.2.2. Phân loại theo tổn thương ở xương
+ Phân loại theo cơ chế chấn thương
GX do lực chấn thương trực tiếp: tại vị  trí tác động của lực chấn 
thương.


17

GX do lực chấn thương gián tiếp:  ở  xa vị  trí tác động của lực chấn 
thương, bao gồm: lực xoay, xoắn vặn; lực giằng giật; lực gập góc; lực đè 
ép, thúc dồn [3].
+ Phân loại theo vị trí gãy
Gãy đầu xương: gãy ở đầu trung tâm hoặc ngoại vi, đây là gãy vùng  
xương xốp. Có thể  là gãy không phạm khớp (đường gãy không thông vào 
khớp) hoặc gãy phạm khớp (đường gãy thông vào khớp).
Gãy thân xương: gãy phần xương nằm giữa hai đầu xương, đây là 
gãy vùng xương cứng, có ống tuỷ. Gãy thân xương được phân ra gồm gãy 
1/3 trên, 1/3 giữa và 1/3 dưới. GX hoàn toàn thường có di lệch điển hình tùy 
theo vị trí gãy, do các cơ co kéo.
Gãy vùng tiếp giáp giữa đầu xương và thân xương, ở trẻ em có loại 
gãy vùng sụn tiếp hợp (bong sụn tiếp hợp). 
+ Phân loại theo hình thái và tính chất gãy 
Xương có thể gãy không hoàn toàn hoặc gãy hoàn toàn [3], [5]: 
Gãy không hoàn toàn:
­

Gãy dưới cốt mạc: đường gãy nằm dưới cốt mạc, cốt mạc không 

bị tổn thương, thường gặp trong GX trẻ em.

­

Gãy cành xanh: gãy một bên thành xương còn bên đối diện cong 
lõm vào (giống như khi bẻ một cành cây tươi).

­

Gãy rạn: đường gãy nhỏ chỉ ở một phần của thành xương, không di  
lệch.

­

Gãy lún: gãy ở vùng xương xốp, do lực đè nén hoặc thúc dồn. 

Gãy hoàn toàn:
­

Gãy đơn giản: đường gãy ngang, chéo hoặc xoắn nhưng không có 
mảnh rời.


18
­

Gãy nhiều mảnh rời: gãy hình chêm, gãy hình cánh bướm....

­


Gãy nhiều mảnh rời, gãy vụn, gãy nhiều đoạn.

+ Phân loại của Winquist và Hansen
Năm 1980 Winquist R.A. và Hansen S.T. đã đưa ra cách phân loại dựa 
vào tính vững chắc của ổ gãy có mảnh rời. Loại I: Gãy ngang, chỉ có mảnh  
rời nhỏ; Loại II: Gãy hình cánh bướm nhưng diện tiếp xúc  ở  hai đầu gãy 
chiếm > 50% chu vi xương; Loại III: Gãy hình cánh bướm lớn và diện tiếp  
xúc 2 đầu gãy < 50% chu vi xương; Loại IV: GX thành nhiều mảnh.
+ Phân loại tổng hợp của AO
Vị  trí GX: được ký hiệu bằng hai chữ  số: một đại diện cho xương  
gãy và một cho vị trí gãy trên xương đó. 
­

Ký hiệu cho các xương: 1 = xương cánh tay; 2 = xương trụ/quay; 

3 = xương đùi (XĐ); 4 = xương chày/mác; 5 = xương cột sống; 6 = xương  
chậu; 7 = xương bàn tay; 8 = xương bàn chân (hình 1.1).
­

Mỗi   xương   dài   được   chia   thành   3   vùng:   đầu   trung   tâm;   thân 

xương và đầu ngoại vi, riêng xương chày/mác có phần thứ tư là các mắt cá.  
Đầu trung tâm và ngoại vi của xương được giới hạn trong hình vuông có 
cạnh bằng chỗ rộng nhất của đầu xương. Ký hiệu như sau: 1 = đầu trung  
tâm; 2 = thân xương; 3 = đầu ngoại vi, 4 = các mắt cá (hình 1.1).


19

Hình 1.1. Ký hiệu các xương và phân loại vị trí gãy xương theo AO

            * Nguồn: Theo Nguyễn Tiến Bình và cs. (2009) [5]

­ Hình thái và tính chất GX: chia tất cả các hình thái GX thành 3 
loại (type), mỗi loại chia thành 3 nhóm (group), sau đó mỗi nhóm lại chia 
thành 3 kiểu khác nhau (dưới nhóm – subgroup). 
Các loại GX được ký hiệu là A, B, C với B tổn thương nặng hơn A 
và nhẹ hơn C. Các nhóm được ký hiệu bằng các chữ và số (A1, A2, A3; B1, 
B2, B3; C1, C2, C3), tổn thương  ở nhóm 2 nặng hơn so với nhóm 1 và nhẹ 
hơn nhóm 3. Tiếp đến các dưới nhóm được ký hiệu bằng các số 1, 2, 3 với 
mức độ tổn thương nặng dần, như vậy có 27 kiểu gãy khác nhau (hình 1.2).


20

Hình 1.2. Hệ thống phân loại theo hình thái gãy xương
            * Nguồn: Nguyễn Tiến Bình và cs. (2009)[5]

­ Đối với gãy đầu xương (trung tâm và ngoại vi): Loại A: gãy 
không phạm khớp; Loại B: gãy phạm khớp một phần; Loại C: gãy phạm 
khớp hoàn toàn. Riêng đối với đầu trên xương cánh tay: A = gãy ngoài 
khớp­không vỡ chỏm; B = gãy phạm khớp, vỡ chỏm; C = gãy phạm khớp.  
Với đầu trên XĐ: A = gãy vùng mấu chuyển; B = gãy vùng cổ; C = gãy  
chỏm.  
Việc đánh giá phân loại thương tổn không phải lúc nào cũng tuyệt 
đối chính xác ngay từ  lần thăm khám đầu tiên, mà có thể  khác nhau giữa 
các lần và đánh giá chính xác nhất là đánh giá trong lúc mổ. 
1.2. DỊCH TỄ HỌC GÃY XƯƠNG CƠ QUAN VẬN ĐỘNG


21


1.2.1. Khái quát chung về  tình hình tai nạn thương tích – nguyên nhân  
chủ yếu và thường gặp gây gãy xương cơ quan vận động
Tai nạn thương tích (TNTT) hoặc còn được gọi là chấn thương, đó là 
bất cứ tổn thương có chủ định hay không có chủ định cho cơ thể con người  
được gây nên bởi sự  phơi nhiễm cấp tính đối với năng lượng nhiệt, cơ 
học, điện hay năng lượng hoá học. TNTT là những thương tổn do: tai nạn 
giao thông (TNGT), ngã, tai nạn lao động (TNLĐ), va chạm, điện giật dẫn 
đến bị  vết thương chảy máu, bong gân, phù nề  xây xát, GX, gãy răng, vỡ 
thủng nội tạng, chấn thương sọ  não (CTSN), bỏng, ngạt/đuối nước, ngộ 
độc, tự tử… 
1.2.1.1. Tình hình tai nạn thương tích trên thế giới
Tình hình TNTT gây GX cơ  quan vận động đã được nhiều tác giả 
trên thế  giới nghiên cứu như  Trung Quốc, Iran,  Ấn Độ, Brasil, Mỹ… [9], 
[10], [11], [12], [13].
Johansen A. và cs. nghiên cứu các trường hợp GX vào khoa cấp cứu  
của   Bệnh   viện   (BV)   Hoàng   gia   Cardiff   thấy   tần   suất   GX   là   21,1/1000 
người/năm (nam: 23,5/1.000 người/năm; nữ: 18,8/1.000 người/ năm). Tần 
suất GX tương tự với kết quả nghiên cứu ở Mỹ, Úc và Na Uy, nhưng cao 
hơn tần suất GX ở Anh vào những năm 1960 (9/1.000 người/năm) [14].
Tiderius C.J. và cs phân tích dịch tễ  học GX trẻ  em 0­16 tuổi tại  
Malmo, Thụy Điển (1993­1994) thấy có 1.673 trường hợp GX  ở  1.610 trẻ 
em. Các vị trí GX thường gặp nhất là 1/3 dưới xương cánh tay (26%), tiếp  
theo là các đốt ngón tay (16%) và xương đòn (9%). Tần suất GX hàng năm 
là 235/10.000 ở trẻ em nam và 149/10.000 ở trẻ em nữ; 193/10.000  ở cả hai  
giới. Tỷ lệ GX hàng năm giảm 9% so với giai đoạn 1975­ 1979. Tuy nhiên, 


22


gãy 1/3 dưới xương cánh tay đã tăng 1/3 so với năm 1975­1979 là do trẻ em 
nữ đã tham gia vào nhiều hoạt động thể dục thể thao nhiều hơn [15].
Van Staa T.P. và cs phân tích hồ  sơ  của 103.052 nam và 119.317 nữ 
trong số 5 triệu người lớn bị GX  ở Anh và xứ  Wales trong thời gian 1988­
1998   thấy:   đối   với   nữ,   GX   thường   gặp   nhất   là   GX   quay/xương   trụ 
(30,2/10.000 người/năm) và GX đùi/cổ XĐ (17,0/10.000 người/năm). Ở nam 
giới, GX thường gặp nhất là xương cổ  tay (26,2/10.000 người/năm); GX 
đùi/ cổ XĐ là 5,3/10.000 người/năm  [16]. 
Tại Anh, Cooper C. và cs. hồi cứu 7 triệu hồ  sơ  y tế  (1988­ 1998)  
thấy   có   52.624   trẻ   em   nam   và   31.505   trẻ   em   nữ   bị   GX,   tần   suất   là 
133,1/10.000   người/năm.   Tần   suất   GX   ở   trẻ   em   nam   (161,6/10.000 
người/năm) cao hơn trẻ em nữ (102,9/10.000 người/năm). GX thường gặp 
nhất là xương quay/xương trụ (30%). Tần suất GX cao nhất  ở trẻ em nam  
là 14 tuổi và ở trẻ em nữ là 11 tuổi. Tần suất GX ở Bắc Ireland, xứ Wales,  
Scotland cao hơn so với đông nam nước Anh (p<0,01) [17].
Hedström E.M. và cs phân tích các trường hợp GX ở trẻ em ≤19 tuổi 
điều trị  tại BV Đại học Umea, Thụy Điển (1993­ 2007) thấy có 10.203 
trường hợp gãy ít nhất 1 xương. Tỷ lệ GX là 201/10.000 người/năm. Tỷ lệ 
GX tăng 13% trong giai đoạn 1998­ 2007. GX thường gặp nhất là xương  
cánh tay với cơ chế phổ biến là do ngã. Tỷ lệ GX cao nhất là ở lứa tuổi 11­
12 tuổi ở nữ và 13­14 tuổi ở nam; tỷ lệ nam/nữ là 1,5 [18]. 
Lee Y.H. và cs nghiên cứu 5.244 trường hợp GX bệnh lý điều trị  tại 
các BV của Đài Loan (2008) thấy tỷ  lệ  GX bệnh lý của xương cánh tay, 
xương quay/xương trụ, cột sống, cổ XĐ, các phần khác của XĐ và xương 
chày/xương mác lần lượt là 0,67; 0,08; 10,58; 1,11; 0,56 và 0,11/100.000  
người [19]. 


23


Joeris A. và cs. (2014) hồi cứu 2.716 trẻ em (60% nam) GX dài (2009­  
2011) điều trị tại hai BV nhi khoa ở Thụy Sĩ thấy có 2.807 tai nạn với 2.840 
GX dài (59% GX quay/trụ; 21% GX cánh tay; 15% GX chày/xương mác; 5%  
GX đùi). Tuổi trung bình là 8,2   4,0 tuổi (6% trẻ sơ sinh, 26% trẻ em mẫu  
giáo; 40% học sinh; 28% thanh thiếu niên). Tỷ lệ GX ở trẻ em nam cao hơn  
trẻ em nữ (p<0,001). Nguyên nhân hàng đầu của GX là ngã (27%), tiếp theo 
là tai nạn trong các hoạt động giải trí (25%),  ở  nhà (14%), sân chơi (11%), 
khi giao thông (11%) và tại trường học (8% ). Trẻ  em nam chủ  yếu bị tai  
nạn  ở sân chơi và tại nhà. Sự  phân bố  các loại tai nạn khác nhau theo các  
nhóm tuổi (p<0,001) [20]. 
Somersalo A. và cs (2014) nghiên cứu dịch tễ  học GX  ở  người ≥16 
tuổi điều trị  tại khoa chấn thương của BV Trung  ương Phần Lan (2002­  
2008) thấy có 3.277 BN nữ  và 2.708 BN nam với số  trường hợp GX là  
3.750 và 3.030. Tỷ  lệ  GX là 4,9/1.000 người/năm (CI 95%: 4,8­ 5,0), trong 
đó nam giới là 5,3/1.000 người (5,1­5,4) và nữ giới là 4,5/1.000 người (4,3­
4,6). Gãy cổ  XĐ, xương mắt cá chân, xương cổ  tay, xương cột sống, 1/3 
trên xương cánh tay chiếm 2/3 số trường hợp GX điều trị tại BV. Tỷ lệ GX  
mắt cá chân (17%) và GX cổ tay (9%) tương đương với gãy cổ  XĐ (27%). 
4/5 số  BN GX đã được phẫu thuật. Trong số  các BN <60 tuổi, tỷ  lệ  nam  
giới cao gấp hai lần nữ giới.  Ở nhóm BN ≥ 60 tuổi thì nữ  giới cao hơn so  
với nam giới [21].
Seid M. và cs. (2015) đánh giá đặc điểm tổn thương của 230 người bị 
TNGT tại Khoa Cấp cứu BV Tikur Anbessa, (Ethiopia) thấy phần lớn là nam  
giới 165 (71,7%) và tỷ lệ nam/nữ là 2,6: 1; lứa tuổi 32,15 ± 14,38 tuổi (từ 14­
80 tuổi). Người lao động (41,3%) và học sinh (12,2%) chiếm tỷ lệ cao. Các  
bộ  phận thường bị  chấn thương là đầu (50,4%) và chi thể  (47,0%). Loại  


24


hình chấn thương chủ  yếu là GX (78,0%) và vết thương hở  (56,5%). Thời 
gian nằm viện là 7,12 ± 10,5 ngày (từ 1­ 61 ngày), tỷ lệ tử vong là 7,4% [22]. 
Burns S.T. và cs. (2015) hồi cứu 1252 trường hợp chấn thương do tai  
nạn xe máy trong 10 năm (1998­ 2008) thấy 40,7% số  BN có đội mũ bảo  
hiểm. Các tổn thương thường gặp là GX chày/xương mác (19,01%), gãy 
cột sống (16,21%), và GX cẳng tay (10,14%) [23]. 
Rosengren B.E. và cs. (2015) nghiên cứu 205.908 trường hợp GX  ở 
người   >20   tuổi   ở   vùng   Skane,   Thuỵ   Điển   (1999­2010)   thấy   tỷ   lệ   mắc  
192/10.000 người/năm. Tỷ  lệ  GX tăng 1,2/10.000 người/năm (CI 95%: 0,8­  
1,5), nhưng xu hướng thời gian khác nhau giữa các loại GX, lứa tuổi và giới 
tính. Tỷ lệ GX tăng theo tuổi ở phụ nữ nhưng ổn định ở nam giới [24]. 
Ameri M. và cs. (2016) nghiên cứu 2.480 BN chấn thương (29,9 ± 17,8 
tuổi) điều trị tại BV Shafa Yahyaeian (Tehran, Iran) thấy có 685 BN GX chi  
dưới (nam: 73%; nữ: 27%). Cơ chế phổ biến của chấn thương  ở BN nam  
là ngã tại chỗ  (34,8%), chấn thương trực tiếp (24,6%), tai nạn xe máy 
(10%)   và   ngã   từ   trên   cao   (7,9%).   Các   cơ   chế   phổ   biến   nhất   của   chấn  
thương ở BN nữ là ngã tại chỗ (54,2%), chấn thương trực tiếp (15,8%) và  
ngã từ  cầu thang (7,5%), không thấy có mối liên quan giữa giới tính và cơ 
chế chấn thương [25]. 
1.2.1.2. Tình hình tai nạn thương tích ở Việt Nam
Tại Việt Nam, TNTT là nguyên nhân gây tử vong và tàn tật hàng đầu. 
Năm 2008, gánh nặng bệnh tật do tàn tật ở cả hai giới đều là 2,7 triệu YLD 
[26]. Đoàn Phước Thuộc và cs (2011) nghiên cứu 1.434 BN bị  TNGT điều 
trị  tại BV Đa khoa tỉnh Đắk Lắk (2009) thấy chấn thương xương khớp  
chiếm 29,6% [27]. 


25

Nguyễn Thị Như Tú và cs. (2012) nghiên cứu tại tỉnh Bình Định thấy  

nạn nhân TNGT chủ  yếu là nam giới (73%), nữ  giới chiếm 27%; độ  tuổi 
16­30 chiếm tỷ lệ cao nhất (51,7%  ở nam và nữ  48,2%); đa số  là nông dân 
(41%), kế  đến là học sinh (32,5%), cán bộ  công nhân viên chức chỉ  chiếm 
15,3%   và   trẻ   nhỏ   là   3%;   không   có   bằng   lái   xe   chiếm   26,7%;   có   uống  
rượu/bia chiếm tỷ lệ 26% và không có đội mũ bảo hiểm chiếm tỷ  lệ 27% 
[28]. 
Lê Quang Ánh (2012) điều tra 140 hộ (717 nhân khẩu) khu vực Long  
Thành,   Nhơn   Trạch   năm   2011   thấy   tỷ   lệ   TNTT   chung   là   12,27%   [29]. 
Nguyễn Thị Chinh và cs. (2013) nghiên cứu 289 trường hợp TNTT điều trị 
tại BV Đức Giang thấy nguyên nhân chính là TNGT (48,1%), sau đó là ngã  
(32.9%). Nhóm tuổi mắc cao nhất là 20­ 60 tuổi (72,7%), thấp nhất là nhóm 
15­ 19 tuổi (4,8%). Nam cao hơn nữ  1,9 lần. Có 52,6% BN nhập viện bị 
GX,   vết   thương   phần   mềm   (29,4%),   chấn   thương/va   đập   vùng   đầu  
(26,3%), chấn thương ổ bụng (4,5%). Chủ yếu bị chấn thương tại chi dưới  
(34,8%), chi trên (22,9%), CTSN: 19,7%; chấn thương cột sống (CTCS):  
5,4%, chấn thương ổ bụng chiếm 3,1% [30]. 
1.2.2. Một số đặc điểm dịch tễ học gãy xương cơ quan vận động
Tại các nước, các khu vực khác nhau, do những đặc điểm về đường 
xá mật độ giao thông, tính chất lao động, sinh hoạt khác nhau mà bức tranh 
tổng thể  về  dịch tễ  học gãy xương với các chỉ  số  như  tỷ  lệ, cơ  cấu tổn  
thương gãy xương, mức độ  các loại gãy xương cũng rất khác nhau. Điều 
này đã được nhiều tác giả đề cập tới trước khi nghiên cứu về các phương  
pháp kỹ thuật trong chẩn đoán, điều trị và phục hồi chức năng gãy xương.
1.2.2.1.Gãy xương chi trên 


×