Tải bản đầy đủ (.pdf) (211 trang)

Luận văn tiến sĩ Lịch sử: Đảng bộ Quân khu 1 lãnh đạo công tác dân vận từ năm 2003 đến năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.06 MB, 211 trang )

MỤC LỤC

Trang

TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN  TÌNH HÌNH  NGHIÊN CỨU  CÓ LIÊN 
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã  
công bố và những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Chương 2 CHỦ   TRƯƠNG   VÀ   SỰ   CHỈ   ĐẠO   CỦA   ĐẢNG   BỘ 
QUÂN KHU 1 VỀ  CÔNG TÁC DÂN VẬN  TƯ  NĂM 
2003 ĐẾN NĂM 2008
2.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ Quân 
khu 1 về công tác dân vận (2003 ­ 2008)
2.2. Chủ trương của Đảng bộ Quân khu 1 về công tác dân vận 
(2003 ­ 2008)
2.3 Đảng bộ  Quân khu 1 chỉ  đạo thực hiện công tác dân vận  
(2003 ­ 2008)
Chương 3 CHỦ   TRƯƠNG   VÀ   SỰ   CHỈ   ĐẠO   CỦA   ĐẢNG   BỘ 
QUÂN KHU 1 VỀ ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC DÂN VẬN 
TỪ NĂM  2008 ĐẾN NĂM 2013
3.1. Những yếu tố mới tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ 
Quân khu 1 về công tác dân vận (2008 ­ 2013)
3.2. Chủ trương của Đảng bộ Quân khu 1 về đẩy mạnh công tác 
dân vận (2008 ­ 2013)
3.3. Đảng bộ  Quân khu 1 chỉ  đạo đẩy mạnh công tác dân vận  
(2008 ­ 2013)


Chương 4 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. Nhận xét quá trình Đảng bộ Quân khu 1 lãnh đạo công tác 
dân vận (2003 ­ 2013)
4.2. Những kinh nghiệm chủ yếu 
KẾT LUẬN
DANH   MỤC  CÔNG   TRÌNH   KHOA   HỌC  CỦA   TÁC   GIẢ  Đà

5
11
11
30

34
34
55
63

79
79
89
99
117
117
129
152
155


5


CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

156
172


6

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Công tác dân vận là công việc của toàn bộ hệ thống chính trị dưới sự 
lãnh đạo của Đảng tiến hành tập hợp vận động, đoàn kết nhân dân, thực hiện 
đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời 
công tác dân vận cũng nhằm góp phần chăm lo, bảo vệ lợi ích của nhân dân; 

phát huy quyền làm chủ, sức mạnh to lớn của nhân dân trong sự nghiệp xây 
dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng. 
Trong bài báo Dân vận đăng trên báo Sự thật, ngày 15­10­ 1949, Hồ Chí Minh 
khẳng định: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận 
kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” [130, tr. 
234].
Trải qua các thời kỳ lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định 
công tác dân vận là một nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với  
toàn bộ sự nghiệp cách mạng của dân tộc, là điều kiện tiên quyết bảo đảm  
sự  lãnh đạo của Đảng, góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ  gắn bó 
giữa Đảng và nhân dân. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới Đảng và Nhà nước 
đã có nhiều chủ trương, giải pháp về công tác dân vận, phù hợp với từng đối 
tượng, từng lĩnh vực. Đồng thời, thường xuyên đổi mới nội dung, phương 

thức lãnh đạo, mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân cũng 
như  vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể  quần  
chúng và lực lượng vũ trang trong công tác dân vận đã mang lại hiệu quả thiết 
thực.
  Công tác dân vận  của Quân  đội nhân dân Việt Nam là một bộ 
phận công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam,  là một nội dung 
cơ  bản trong hoạt động công tác đảng, công tác chính trị  của quân đội. 
Thực hiện có hiệu quả  công tác dân vận vừa là tình cảm, vừa là trách 


7

nhiệm của “Bộ đội Cụ Hồ” đối với nhân dân, đồng thời, là điều kiện để 
cán bộ, chiến sĩ quân đội hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ đượ c giao.
Địa bàn Quân khu 1 bao gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, 
Thái  Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh   có vị  trí chiến lược đặc biệt quan 
trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng và an ninh của đất nước, có nhiều dân 
tộc, tôn giáo cùng sinh sống. Đây là vùng đất có nhiều tiềm năng, lợi thế, 
nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố mất ổn định, nhất là sự chống phá thường 
xuyên, quyết liệt của các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của 
Đảng và chế  độ  xã hội chủ  nghĩa ở  nước ta. Nhận thức sâu sắc vị  trí, tầm  
quan trọng của địa bàn chiến lược và việc xây dựng “thế  trận lòng dân”  ở 
Quân khu 1, từ 2003 ­ 2013 các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang Quân khu 1 đã 
có nhiều cố gắng trong việc vận động nhân dân thực hiện chủ trương, chính  
sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, góp phần quan trọng xây dựng,  củng cố 
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, bảo 
đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất và tinh 
thần của nhân dân trên địa bàn. Tuy nhiên, công tác dân vận trên địa bàn Quân 
khu 1 vẫn bộc lộ không ít những hạn chế cả trong nhận thức và hành động, 
một số  đơn vị chưa quan tâm đúng mức công tác dân vận , còn có biểu hiện 

xem nhẹ công tác dân vận so với một số mặt công tác khác . Trong tổ chức các 
hình thức dân vận, “một số đơn vị chưa thật sự chú trọng đến công tác tuyên 
truyền vận động nhân dân cùng làm, cùng thực hiện nhiệm vụ;  nội dung, 
phương pháp tuyên truyền còn hạn chế” [85, tr. 8].
Hiện nay trước yêu cầu của sự  nghiệp đổi mới và hội nhập quốc 
tế, công tác dân vận đang đặt ra những yêu cầu mới nhằm tạo sự  đồng  
thuận trong toàn xã hội, xây dựng mối quan hệ  chặt ch ẽ  gi ữa quân đội 
với nhân dân. Cùng với đó, các thế  lực thù địch tăng cườ ng chống phá 
cách mạng nước ta thông qua chiến lược “di ễn bi ến hòa bình” “bạo loạn 


8

lật đổ” với nhiều thủ  đoạn nham hiểm tinh vi xảo quy ệt, nh ằm chia r ẽ 
gây mất đoàn kết nội bộ, lôi kéo phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc  
nhất là  ở  các địa  bàn trọng điểm, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng 
sâu, vùng xa, biên giới. Thực tiễn đó, đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa chất 
lượng hiệu quả của công tác dân vận, phối hợp chặt chẽ  các tổ  chức, các  
lực lượng tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương chính 
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đã có rất nhiều công trình, đề tài  
nghiên cứu về  công tác dân vận nói chung, trên các địa bàn vùng miền nói 
riêng. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có công trình chuyên khảo nào đi sâu 
nghiên cứu về  qúa trình Đảng bộ  Quân khu 1 lãnh đạo công tác dân vận 
trong khoảng thời gian từ  năm 2003 đến năm 2013 dưới góc độ  khoa học 
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vì vậy, nghiên cứu làm sáng tỏ  quá trình Đảng bộ  Quân khu 1 lãnh 
đạo công tác dân vận từ  năm 2003 đến năm 2013, trên cơ  sở  đó đúc kết  
những kinh nghiệm chủ yếu, góp phần vào việc tổng kết công tác dân vận 
của Đảng, của Quân ủy Trung ương trong thời kỳ đổi mới (qua thực tế địa 
bàn Quân khu 1). Đồng thời góp thêm cơ  sở  cho việc bổ  sung, hoàn thiện 

chủ  trương, biện pháp lãnh đạo công tác dân vận trên địa bàn Quân khu 1  
trong thời gian tới là vấn đề cấp thiết có ý nghĩa cả về lý luân và thực tiễn. 
Từ  những  lý do trên, tôi chọn đề  tài:  “Đảng bộ  Quân khu 1 lãnh  
đạo công tác dân vận từ  năm 2003 đến năm 2013”  làm luận án tiến sĩ 
Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ  quá trình Đảng bộ Quân khu 1 lãnh đạo công tác dân vận từ 
năm 2003 đến năm 2013, đúc kết những kinh nghiệm có giá trị tham khảo trong 


9

việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận ở Quân khu 1 trong thời gian 
tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình lãnh đạo công tác dân  
vận của Đảng bộ Quân khu 1 từ năm 2003 đến năm 2013.
Luận giải làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo công tác dân vận của Đảng bộ 
Quân khu 1 từ năm 2003 đến năm 2013, qua hai giai đoạn 2003 ­ 2008 và 2008 ­ 
2013.
Nhận xét đánh giá những  ưu điểm, hạn chế  làm rõ nguyên nhân 
đúc rút những kinh nghi ệm ch ủ  y ếu từ  quá trình   Đảng bộ  Quân khu  1 
lãnh đạo công tác dân vận (2003 ­ 2013)
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ  Quân khu 1 về  công 
tác dân vận trên địa bàn Quân khu.
* Phạm vi nghiên cứu
Về  nội dung:  Luận án tập trung nghiên cứu  làm rõ những yếu tố  tác 

động, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ Quân khu 1 về công tác dân vận 
từ  năm 2003 đến năm 2013, tập trung làm rõ các vấn đề: Chỉ  đạo giáo dục 
nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ về  công tác dân vận;  
Chỉ  đạo tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ  trương của Đảng, 
chính sách pháp luật Nhà nước; Tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở 
địa phương vững mạnh; Phối hợp giúp đỡ địa phương phát triển kinh tế, văn 
hóa ­ xã hội. 
Về không gian: trên địa bàn Quân khu 1, bao gồm 6 tỉnh (Thái Nguyên, 
Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang)


10

Về  thời gian: Luận án nghiên cứu trong khoảng thời gian 10 năm từ 
năm 2003 đến năm 2013. Năm 2003 là năm Đảng ủy Quân sự  Trung ương 
(nay là Quân  ủy Trung  ương) ra Nghị  quyết 152 “Về  tiếp tục đổi mới và  
tăng cường công tác dân vận của lực lượng vũ trang trong thời kỳ  mới”, 
Đảng ủy Quân khu 1 ra Nghị quyết 403 về “tiếp tục đổi mới và tăng cường 
công tác dân vận của lực lượng vũ trang Quân khu trong thời kỳ mới”. Năm 
2013 là năm Quân ủy Trung ương và Đảng ủy Quân khu 1 tổng kết 10 năm 
thực hiện Nghị  quyết 152. Để  vấn đề  nghiên cứu có tính hệ  thống  bảo 
đảm tính toàn diện, đồng thời phục vụ cho mục tiêu đúc kết kinh nghiệm,  
luận án mở rộng phạm vi nghiên cứu cả trước và sau mốc thời gian trên.
4. Cở sở lý luận, thực tiễn và phươ ng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí 
Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng về vai trò của quần chúng nhân dân và 
công tác vận động quần chúng nhân dân trong sự  nghiệp cách mạng của 
Đảng.
* Cơ sở thực tiễn

Luận án thực hiện trên cơ sở thực tiễn quá trình Đảng bộ Quân khu 1 
lãnh đạo công tác dân vận từ năm 2003 đến năm 2013 (thể hiện qua các báo 
cáo tổng kết của Đảng bộ, Phòng Dân vận Quân khu; các đề tài, công trình 
nghiên cứu có liên quan; các số  liệu điều tra, khảo sát thực tế  của nghiên 
cứu sinh tại địa bàn Quân khu 1(5.2018) và các số  liệu được công bố  trên  
các sách, tạp chí, trong và ngoài quân đội).
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận án sử  dụng  chủ  yếu phương  pháp lịch sử, phương pháp lôgíc; 
kết   hợp   2   phương   pháp   đó   là   chủ   yếu.   Ngoài   ra   còn   sử   dụng  một   số 


11

phương pháp khác: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội 
học, để làm sáng tỏ các nội dung luận án. Cụ thể là:
Phương pháp lịch sử được sử  dụng để  nghiên cứu, miêu tả bối cảnh, chủ 
trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ Quân khu 1 về công tác dân vận theo tiến trình lịch 
sử.
Phươ ng pháp lô gích đượ c sử  dụng để  sâu chuỗi các sự  kiện chủ 
yếu và khái quát lịch sử. Nêu bật những nội dung tr ọng tâm trong từng 
văn kiện và liên kết các nội dung đó để  thấy được quá trình nhận thức  
phát triển chủ  trương của Đảng bộ  Quân khu 1 về  công tác dân vận; sử 
dụng trong khái quát quá trình chỉ  đạo công tác dân vận của Đảng bộ 
Quân khu, sử dụng để khái quát những  ưu điểm, hạn chế, đúc rút những  
kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ Quân khu 1 lãnh đạo công tác dân vận.
Phươ ng pháp lịch sử  kết hợp với phương pháp lô gích để  tái hiện  
một cách chân thực và khoa học quá trình Đảng bộ  Quân khu 1 lãnh đạo 
công tác dân vận từ  năm 2003 đến năm 2013; đồng thời khái quát luận 
giải những  ưu điểm, hạn chế  và đút rút những kinh nghiệm từ  quá trình 
Đảng bộ Quân khu 1 lãnh đạo công tác dân vận.

Các phương pháp khác như  phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh 
được sử dụng phù hợp với từng nội dung của lu ận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
 Về tư liệu: Luận án cung cấp khối lượng tư liệu khá phong phú, cập  
nhật, đáng tin cậy về chủ  trương của Đảng, của Quân ủy Trung  ương và 
đặc biệt là chủ  trương và quá trình chỉ  đạo của Đảng bộ  Quân khu 1 về 
công tác dân vận từ  năm 2003 đến năm 2013. Nguồn tài liệu tham khảo,  
phụ  lục của luận án có thể  đóng góp cho việc nghiên cứu một số  vấn đề 


12

về  công tác vận động quần chúng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân 
tộc, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
 Về nội dung khoa học: 
Luận án trình bày có hệ thống về chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng 
bộ Quân khu 1 lãnh đạo công tác dân vận từ năm 2003 đến năm 2013. 
Đưa ra những nhận xét, đánh giá có cơ sở khoa học về quá trình Đảng bộ 
Quân khu 1 lãnh đạo công tác dân vận từ năm 2003 đến năm 2013, trên cả 2 bình 
diện ưu điểm và hạn chế làm rõ nguyên nhân. Đúc kết những kinh nghiệm chủ yếu 
có giá trị tham khảo, vận dụng trong lãnh đạo công tác dân vận trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của  đề tài
* Ý nghĩa lý luận
Góp phần vào việc tổng kết công tác dân vận của Đảng trong thời 
kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế (qua th ực t ế địa bàn Quân khu 1)
Góp thêm luận cứ  cho việc hoàn thiện chủ  trương, giải pháp đổi 
mới công tác dân vận của Đảng và Đảng bộ  Quân khu 1 trong thời gian  
tới.
* Ý nghĩa thực tiễn
Luận án là tài liệu tham khảo cho các cấp  ủy đảng, các lực lượng tiến 

hành công tác dân vận ở Quân khu 1 và các đơn vị có liên quan. Đồng thời, là tài  
liệu khảo tham phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy liên quan đến vấn đề 
này.  
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở  đầu, 4 chương (10 tiết), kết luận, danh mục công 
trình khoa học của tác giả đã công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ 
lục.


13

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
 CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1 Các nghiên cứu chung về công tác dân vận
Công tác dân vận là công việc của toàn bộ  hệ  thống chính trị  dưới sự 
lãnh đạo của Đảng, nhằm tập hợp vận động, đoàn kết nhân dân, đưa các chủ 
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương  
trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống, góp phần  
xây dựng sự đồng thuận xã hội, thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng của 
Đảng. Vì vậy, luận bàn về công tác dân vận có nhiều công trình nghiên cứu 
khác nhau như:
Nguyễn Văn Linh (1986), Về công tác vận động quần chúng hiện nay 
[122]. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của công tác vận động quần chúng 
trong sự  nghiệp cách mạng Việt Nam, tác giả  đã khẳng định: “Công tác  
vận động quần chúng trong mỗi giai đoạn cách mạng đều có ý nghĩa quyết 
định” [122, tr.30], tác giả nhấn mạnh việc thực hiện chính sách xã hội, giáo 
dục quần chúng hiểu về vai trò làm chủ thực sự của mình, đập tan mọi âm 
mưu của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ Đảng và quần chúng, hòng làm 

suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Góp phần củng cố  mối liên hệ 
giữa Đảng và quần chúng nhân dân, làm tăng thêm sức mạnh của cách 
mạng. Nhiệm vụ  của các cấp  ủy  Đảng trong công tác vận  động quần 
chúng rất nặng nề, “lấy dân làm gốc” phải trở thành nền nếp của xã hội, 
tất cả phải do nhân dân, vì nhân dân mới có thể  thực hiện thắng lợi được  
nhiệm vụ đó. Cán bộ các ngành, các cấp phải coi trọng công tác vận động 


14

quần chúng, xem công tác vận động quần chúng là công việc gốc trong mọi  
hoạt động cách mạng. Chỉ  có như  thế  mới góp phần thúc đẩy phong trào 
cách mạng, lấy lại lòng tin cho quần chúng nhân dân, đưa sự  nghiệp cách 
mạng của nhân dân đến mọi thành công.
  Ban Dân vận Trung  ương (1996), Kỷ  yếu Hội nghị  tổng kết 5 năm 
thực hiện Nghị  quyết Hội nghị  lần thứ  tám, Ban Chấp hành Trung  ương, 
khóa VI, Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan  
hệ giữa Đảng và nhân dân [13], đã tập trung phân tích làm rõ vị trí, vai trò, 
tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng của Đảng, khẳng định 
tính đúng đắn của những quan điểm chỉ  đạo công tác dân vận của Đảng. 
Nhận thức của các cấp ủy đảng, chinh quyên, các ngành, các c
́
̀
ấp, cán bộ và 
đảng viên được nâng cao. Bước đầu nâng cao trách nhiệm của cả hệ thống 
chinh tr
́
ị, góp phần tăng cường và phát huy vị  trí, vai trò của công tác dân 
vận trong thời kỳ mới. Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng 
với nhân dân, tư  tưởng đại đoàn kết dân tộc được thực hiện  ở  tầm cao 

mới, thực hiện cơ chế  “Đảng lanh đao, chinh quyên đi
̃
̣
́
̀ ều hành, quân đội ­  
công an làm tham mưu,  mặt trận và các đoàn thể  nhân dân tham gia phối 
hợp”, trong công tác xây dựng, củng cố  nền quốc phòng toàn dân và thế 
trận an ninh nhân dân. 
Vũ Oanh (1996), Đổi mới công tác dân vận của Đảng, chính quyền,  
Mặt trận và các đoàn thể  [134],  luận giải khá sâu sắc về  vị  trí, vai trò, 
tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng của Đảng trong sự 
nghiệp cách mạng đồng thời nêu rõ sự  cần thiết phải đổi mới công tác 
dân vận của Đảng hiện nay . Trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng luôn 
xác định công tác dân vận là nhiệm vụ  có ý nghĩa chiến lược, phải đượ c 
tiến hành thường xuyên trong mọi hoàn cảnh, trên mọi địa bàn, đối với  


15

mọi tầng lớp nhân dân. Phải bằng nhiều hình thức và biện pháp để  đưa  
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với đông đảo quần 
chúng nhân dân, phù hợp với từng đối tượ ng quần chúng nhân dân. Song 
trướ c tiên phải xuất phát từ  thực tiễn tình hình đất nước, tình hình quần 
chúng nhân dân hiện nay để  xây dựng đường lối, chủ  trương, chính sách 
đúng, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân.
Hội Nông dân Việt Nam (1999),  Công tác dân vận trong thời kỳ công  
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, [138] khẳng định vị  trí, vai trò của Hội 
Nông dân Việt Nam trong hệ thống chinh tri: Nông dân Vi
́
̣

ệt Nam có vị trí chí 
chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo  
vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế ­ xã  hội 
bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng, giữ gìn,  
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ  môi trường sinh thái của đất  
nước. Tăng cường lanh đao, c
̃
̣ ủng cố  xây dựng Hội Nông dân các cấp vững  
mạnh về  chinh tri, t
́
̣ ư  tưởng và tô ch
̉ ưc, th
́ ực sự  là lực lượng nòng cốt của 
phong trào nông dân xây dựng nông thôn mới, là thành viên tích cực trong khối 
đại đoàn kết toàn dân, là nhân tố quan trọng của khối liên minh giai cấp công ­ 
nông và đội ngũ trí thức ­ nền tảng chinh tri v
́
̣ ững chắc của chế độ.
Bộ Quốc phòng (1998) Lịch sử 50 năm Quân đội nhân dân Lào 1945­
1995, [26] cuốn sách đã tổng hợp lại những bài học kinh nghiệm của Đảng 
nhân dân cách mạng Lào trong lãnh đạo công tác tuyên truyền, vận động để 
tổ  chức xây dựng lực  lượng quân đội nhân dân Lào vững mạnh về  chính 
trị, tư tưởng và tổ chức. Quân đội nhân dân Lào là lực lượng vũ trang cách 
mạng của Đảng, Nhà nước, của nhân dân các bộ  tộc Lào, là đội quân của 
dân, do dân và vì dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu đặt dưới 
sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng nhân dân Cách mạng 


16


Lào. Nội dung cuốn sách khẳng định: Quân đội Nhân dân Lào có truyền  
thống đoàn kết, gắn bó mật thiết với nhân dân, chiến đấu vì nhân dân đư ợc 
nhân dân đùm bọc, che chở, giúp đỡ và nuôi dưỡng. Những thành tích to lớn 
và truyền thống vẻ  vang của quân đội là thành tích chung của Đảng, Nhà 
nước và của nhân dân các bộ  tộc Lào, được bắt nguồn từ  tinh thần đại  
đoàn kết, mối quan hệ  chặt chẽ  giữa quân đội và nhân dân dưới sự  lãnh  
đạo của Đảng. Đó là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách  
mạng nói chung, của Quân đội nhân dân Lào nói riêng.
Nguyễn Tiến Thịnh (Chủ  biên), (2003), Công tác dân vận của Đảng  
thời kỳ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa [154], phân tích làm rõ vị 
trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng của Đảng. 
Công tác dân vận là nhiệm vụ  có ý nghĩa chiến lược của Đảng, một trong 
những công tác cơ bản, gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng 
sản Việt Nam; là truyền thống, nguồn gốc sức mạnh của Đảng,  có  mối 
quan hệ  gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Để  nâng cao năng lực 
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tạo 
phong trào rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự 
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải thực hiện tốt  
công tác dân vận trong thời kỳ  mới. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tạo 
phong trào rộng lớn xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã  
hội chủ nghĩa.
Tòng Thị  Phóng (2003), “Nhiệm vụ  trung tâm của công tác dân vận 
hiện nay”  [135], tác giả  khẳng định công tác dân vận là nhiệm vụ  quan 
trọng của cả  hệ thống chính trị, do vậy phải nâng cao nhận thức về  công  
tác dân vận một cách đồng bộ và sâu sắc. Trong giai đoạn hiện nay để việc 
triển khai thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà  
nước có kết quả  tốt, phải có sự  quan tâm lãnh đạo chặt chẽ  của các cấp 


17


ủy, đồng thời có sự  đổi mới nhận thức, tư  duy về  công tác dân vận hiện 
nay trong toàn bộ  hệ  thống chính trị. Phải quan tâm xây dựng được mối 
quan hệ giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với phong trào quần chúng, vai trò 
sáng tạo của quần chúng nhân dân và cả  vai trò cá nhân trong công tác dân 
vận của Đảng.
Dương Xuân Ngọc  (2005),  “Quan điểm và nguyên tắc chỉ  đạo tiến 
hành công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [133], khẳng định: Công 
tác dân vận là nhiệm vụ  có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ  sự  nghiệp  
cách mạng Việt Nam, cả trong thời kỳ chưa có chính quyền cũng như thời 
kỳ Đảng cầm quyền; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của  
Đảng đối với chính quyền và toàn xã hội, thắt chặt mối liên hệ  máu thịt  
giữa Đảng với dân. Tác giả đã đưa ra bốn quan điểm chỉ đạo công tác dân 
vận dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh: công tác dân vận phải xuất phát 
từ  lợi ích của quần chúng nhân dân, thực hiện và bảo vệ  lợi ích của nhân 
dân; thực hành dân chủ  là phương thức cơ  bản của công tác dân vận; Dân 
vận phải hướng tới mục tiêu đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, xây dựng 
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Dân 
vận và công tác dân vận là sự  nghiệp của cả  hệ  thống chính trị, của toàn 
dân dưới sự  lãnh đạo của Đảng, sự  quản lý của Nhà nước thông qua Mặt 
trận dân tộc thống nhất. Trên cơ sở  phân tích, đánh giá thực trạng công tác 
dân vận, tác giả  chỉ  rõ: Muốn bảo vệ  vững chắc chủ  quyền an ninh biên  
giới quốc gia, Đảng và Nhà nước cần có những chính sách phát triển kinh 
tế  xã hội  thích hợp, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh  
thần của nhân dân các dân tộc nhất là vùng sâu, vùng xa biên giới và làm tốt 
công tác dân vận.


18


Ban   Dân   vận   Trung   ương  (2006),  75   năm   công   tác   dân   vận   của  
Đảng, một số  vấn đề  lý luận và thực tiễn [15], luận giải làm rõ tầm quan 
trọng của công tác dân vận và quá trình  lãnh đạo sự  nghiệp cách mạng, 
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn có nhận thức đúng đắn quan điểm của Mác 
­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò quần chúng nhân dân trong  
tiến trình cách mạng xã hội và tầm quan trọng của công tác vận động quần 
chúng của chính đảng cách mạng giai cấp công nhân. Đảng luôn xác định 
công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách 
mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự  lãnh đạo của 
Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước 
với nhân dân. Công tác phối hợp giữa các cơ  quan nhà nước với Mặt trận  
Tổ  quốc, các đoàn thể  được các cấp chinh quyên th
́
̀ ực hiện đã đi vào nền  
nếp. Chinh quyên các c
́
̀
ấp và nhiều cơ  quan nhà nước đã phân công một 
đồng chí lanh đao ph
̃
̣
ụ  trách công tác quân chung. Công tác tham m
̀
́
ưu của  
Ban Dân vận các cấp về công tác dân vận của chinh quyên đ
́
̀ ược chú trọng. 
Ban Dân vận  ở địa phương chủ  động phối hợp với các cơ  quan nhà nước, 
chinh quyên các c

́
̀
ấp để  tô ch
̉ ức triển khai, thực hiện và kiểm tra công tác  
dân vận của chinh quyên. Các Ban Dân v
́
̀
ận địa phương đã thành lập bộ 
phận chuyên trách theo dõi công tác dân vận của chinh quyên và tham m
́
̀
ưu  
cho cấp ủy chỉ đạo chinh quyên các c
́
̀
ấp về công tác quân chung.
̀
́
Đỗ  Quang Tuấn (2006)  Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng  
đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể  nhân dân trong thời kỳ đổi mới  
(152) khẳng định: Đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ 
quốc Việt Nam và các đoàn thể  nhân dân nhằm mục tiêu củng cố  và tăng 
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối liên hệ  giữa Đảng và nhân 
dân. Trên cơ sở phân tích những ưu điểm và hạn chế về phương thức lãnh 


19

đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ  quốc và các đoàn thể  quần chúng, tác 
giả nêu lên một số bài học kinh nghiệm: Đảng phải tiếp tục nâng cao nhận  

thức và quan điểm quần chúng, đấu tranh khắc phục bệnh quan liêu, xa rời  
quần chúng của cán bộ, đảng viên, loại bỏ  những phần tử  thoái hóa, biến 
chất. Củng cố, tăng cường Ban Dân vận các cấp về tổ chức, bộ máy và cán 
bộ; về phương tiện, điều kiện làm việc để cho Ban làm tốt chức năng tham  
mưu, hướng dẫn, kiểm tra, phối hợp hoạt động, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ 
về công tác dân vận. 
Hà Thị Khiết (2010) “Một số bài học kinh nghiệm trong công tác dân 
vận của  Đảng sau gần 25 năm  đổi mới”  [115],  khẳng định  những chủ 
trương, chính sách về  công tác dân vận, về  đại đoàn kết dân tộc, về  xây 
dựng giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, thanh niên, phụ nữ, 
về tôn giáo, dân tộc, người Việt Nam ở nước ngoài, lần lượt được xác định 
và ngày càng được hoàn thiện. Trên cơ  sở  phân tích những kết quả  đạt 
được và chỉ  ra những tồn tại, khó khăn trong công tác dân vận của Đảng 
gần 25 năm đổi mới, tác giả chỉ rõ: Thường xuyên củng cố và phát huy sức 
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, để công tác dân vận  ngày càng được 
triển khai sâu rộng trong các cấp, các ngành, các lĩnh vực và trong quần 
chúng nhân dân; đồng thời, huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ 
thống chính trị  và nhân dân thực hiện thành công các nhiệm vụ  chính trị,  
mục tiêu phát triển kinh tế ­ xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra.
Hà Thị  Khiết  (2013),  “Tăng cường sự  lãnh đạo của Đảng đối với 
công tác vận động quần chúng trong tình hình mới” [116] bài viết của tác 
giả đã khẳng định “Công tác vận động quần chúng là nhiệm vụ chiến lược, 
phải được tiến hành thường xuyên trong mọi hoàn cảnh, trên mọi địa bàn, 


20

đối với mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam  ở 
nước ngoài”. Cần tăng cường và đổi mới sự  lãnh đạo của Đảng đối với  
công tác dân vận trong tình hình mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của 

nhân dân đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối 
quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Vận động nhân dân thực hiện tốt 
các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phát huy sức  
mạnh to lớn của nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và 
bảo vệ  Tổ  quốc.  Thực hiện thành công sự  nghiệp công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa, trong điều kiện đất nước có sự thay đổi ngày một cơ bản và toàn  
diện: Kinh tế  ­ xã hội phát triển, quốc phòng ­ an ninh được giữ  vững và 
tăng cường; đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, hệ  thống chính 
trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng  cường. Tác giả 
nhấn mạnh: “Trong bất cứ hoàn cảnh và điều kiện nào cũng phải tin ở lực  
lượng và sức mạnh của nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, một lòng  
một dạ phục vụ nhân dân. Linh hoạt, sáng tạo trong việc tổ chức, tập hợp  
nhân dân bằng các hình thức hoạt động thích hợp trong từng giai đoạn cách  
mạng” [116, tr.4].
Nguyễn Bá Quang (2013), Học tập và làm theo phong cách “Dân vận  
khéo”Hồ Chí Minh (142), đã phân tích làm rõ những nội dung cơ bản của tư 
tưởng Hồ Chí Minh về dân vận khéo; nêu lên những tiêu chí về mô hình và  
điển hình dân vận khéo  ở  một số  cơ  sở;  đề  xuất một số  nội dung và 
phương pháp nhằm hiện thực hóa tư  tưởng “Dân vận khéo” của Người  
trong giai đoạn hiện nay, đó là: thực hành dân chủ, nêu gương; cải cách thủ 
tục hành chính; thực hiện kỹ năng “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”;  
đổi mới công tác cán bộ  dân vận. Đáng chú ý là nhận định của tác giả:  
“Dân vận là công tác khoa học, nhưng cũng là nghệ thuật, nhằm giải quyết  


21

mối quan hệ  giữa Đảng và dân. Muốn làm tốt công tác dân vận, cán bộ 
phải có tâm trong sáng, có trách nhiệm, có tri thức khoa học, tóm lại phải 
có tâm và có tài, như  vậy mới là “Dân vận khéo” theo tư  tưởng Hồ  Chí 

Minh” [142, tr.80]. 
Sụ  Băn Hủn Nạ  Chăm Pa (2014), “Công tác vận động tuyên truyền  
của Quân đội nhân dân Lào trong tham gia xây dựng cơ sở địa ph ương vững 
mạnh, bảo đảm cho sự   ổn định toàn diện của Tổ  quốc”  [167].  Tác giả, 
khẳng định: vai trò tầm quan trọng chiến lược lâu dài của công tác vận 
động, tuyên truyền; vai trò và bản chất, truyền thống của Quân đội nhân  
dân Lào nói chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội nói riêng. Là 
lực lượng chủ  chốt trong tiến hành cuộc vận động tuyên truyền tham gia 
xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh, đồng thời chỉ rõ đó là chức năng, 
nhiệm vụ  và trách nhiệm của Quân đội nhân dân Lào trong sự  nghiệp xây 
dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn hiện nay. 
Ban Dân vận Trung  ương (2015), Lịch sử công tác dân vận của Đảng  
Cộng sản Việt Nam (1930­2010) [17]. Công trình đã phản ánh quá trình lịch 
sử  phong phú, sinh động về  công tác dân vận của Đảng qua các thời kỳ 
cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nêu bật những  
chủ  trương, chính sách, nhiệm vụ  và quá trình lãnh đạo thực hiện, khẳng 
định những thành tựu đạt được, đồng thời, chỉ  rõ những sai lầm, hạn chế 
trong công tác dân vận. Từ  đó đúc kết những bài học lịch sử  cho công tác  
dân vận của Đảng trong hiện tại và tương lai. Cùng với các công trình trên 
có rất nhiều nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí khoa học, tiêu biểu là  
những bài viết: “Một số  bài học kinh nghiệm về  công tác vận động quần 
chúng của Đảng trong những năm đổi mới”. 


22

Từ  thực tế  lãnh đạo công tác vận động quần chúng của Đảng sau 
gần 30 năm đổi mới, cho thấy Đảng luôn nhận thức đầy đủ, sâu sắc về 
vai trò quan trọng của công tác vận động quần chúng. Quá trình lãnh đạo 
công cuộc đổi mới, lấy độc lập dân tộc và dân giàu, nướ c mạnh, dân 

chủ, công  bằng, văn  minh làm  mục  tiêu  của  công  tác  vận  động quần 
chúng, đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Là hạt nhân, là cơ sở vững chắc  
để  xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác vận động quần  
chúng, được thực hiện trên cơ sở  giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa 
các thành viên trong xã hội, giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể. Công 
tác vận động quần chúng phải đượ c dựa trên cơ sở, thấm nhuần phương 
châm “Vì quần chúng nhân dân, do quần chúng nhân dân”, trong công tác 
vận động quần chúng phải biết phát huy những truyền  thống quý báu của 
dân tộc, nhất là truyền thống yêu nước [17, tr.170 ­ 183]. 
   1.1.2.    Các  nghiên cứu  về  công tác dân vận  ở  các vùng miền, địa  
phương
Trương Minh Dục (2008),   Xây dựng và củng cố  khối đại đoàn kết  
dân  tộc  ở  Tây Nguyên  [102], đã đề  cập đến vấn đề  dân tộc, đặc điểm 
kinh tế ­ xã hội của các dân tộc thiểu số  ở Tây Nguyên. Phân tích làm rõ 
truyền thống đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên qua các thời kỳ  lịch sử, 
quá   trình   xây   dựng   và   củng   cố   khối   đại   đoàn   kết   các   dân   tộc   ở   Tây  
Nguyên. Trong cách mạng dân tộc dân chủ và xây dựng chủ nghĩa xã hội,  
đặc biệt là thời kỳ  đổi mới; đánh giá những kết quả   đã đạt đượ c và 
những hạn chế, yếu  kém. Trong quá trình thực hiện chính sách của Đảng về 
đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên, từ đó đề xuất các nhóm giải pháp khá toàn 
diện, đồng bộ. Nhằm xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây 


23

Nguyên trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, đáng chú ý là nhóm giải pháp tăng  
cường công tác dân vận: Cần nhận thức đúng đắn vai trò của công tác dân 
vận trong quá trình xây dựng khối đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên. Công tác  
vận động quần chúng phải thật sự hướng về cơ sở, nội dung, phương pháp 
vận động phải cụ thể, thiết thực, phù hợp với trình độ  nhận thức và tâm lý 

của đồng bào. Công tác phát động quần chúng là một trong những biện pháp 
quan trọng hàng đầu, là nhiệm vụ  trọng tâm, thường xuyên của hệ  thống 
chính trị  các cấp. Phát huy vai trò già làng trong quá trình củng cố  và tăng 
cường khối đoàn kết các dân tộc thiểu số, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công  
tác vận quần chúng có tâm huyết, biết nghe dân nói, nói dân nghe, làm dân tin  
[102, tr.424 ­ 432].
Lê   Văn   Đính   (2009),  Giải   pháp   tăng   cườ ng   đoàn   kết,   tập   hợp  
thanh niên các dân tộc  ở  Tây Nguyên hiện nay   [105], cuốn sách đã tập 
trung phân tích tình hình thanh niên và thực trạng công tác đoàn kết, tập 
hợp thanh niên các dân tộc  ở  Tây Nguyên trong thời gian qua, nêu lên 
những  ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân. Đề  ra những giải pháp góp phần 
nâng cao hiệu quả  công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc  ở 
Tây Nguyên trong bối cảnh hiện nay. Trong đó, nổi lên là giải pháp tăng 
cường công tác giáo dục chính trị, tư  tưởng, giáo dục pháp luật, giữ  gìn 
bản sắc văn hóa cho thanh niên các dân tộc ở Tây Nguyên.
Lưu Văn Sùng (2010), “Một số điểm nóng chinh tri 
́
̣ ­ xã hội điển hình  
tại các vùng đa dân tộc  ở  miền núi trong những năm gần đây hiện trạng,  
vấn đề các bài học kinh nghiệm trong xử lý tình huống” [145]. Trong những 
năm đầu đẩy mạnh sự  nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nước ta đã 
đạt được những thành tựu quan trọng về  kinh tế, văn hoá ­ xã hội. Đời 
sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện, tình hình chinh tri ­ xã h
́
̣
ội cơ 


24


bản ổn định, quốc phòng ­ an ninh được tăng cường. Đạt được những thành 
tựu trên là do sự lanh đao đúng đ
̃
̣
ắn của Đảng và sự quản lý của Nhà nước,  
sự  tham gia tích cực của các tô ch
̉ ưc chinh tri quân chung. Cùng v
́
́
̣
̀
́
ới những 
thành quả  đạt được, trong những năm đầu bước vào thời kỳ  công nghiệp  
hóa, hiện đại hóa cũng đã xuất hiện những yếu tố tiêu cực, bất ổn định, an 
ninh chinh tri, tr
́
̣ ật tự an toàn xã hội diễn biến phức tạp. Những vấn đề bức  
xúc của nhân dân ở cơ sở diễn ra ở nhiều địa phương trong cả nước. Công  
tác tiếp dân và giải quyết đơn thư  tố  cáo từ  tỉnh đến cơ  sở  bị  coi nhẹ,  
không quan tâm chỉ  đạo giải quyết kịp thời, thỏa đáng những khiếu kiện 
chính đáng của nhân dân.
Nguyễn Thị  Lệ  (2013),  “Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, 
hiệu quả  công tác dân vận  ở  Thành phố  Hồ  Chí Minh”  [117], bài viết đã 
làm rõ trong những năm qua, trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, 
tình hình khu vực và thế giới diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng và tác động 
trực tiếp tới địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo 
của Đảng bộ, toàn hệ thống chính trị  và nhân dân Thành phố  đã quán triệt 
và chấp hành nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách pháp 
luật của Nhà nước. Vững vàng, đoàn kết, năng động, sáng tạo vượt qua  

khó khăn thách thức, đạt được những kết quả  quan trọng trên nhiều lĩnh  
vực. Góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng  
bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ IX đã đề ra.
 Nguyễn Thế  Tư  (2014),   Xây dựng lực lượng nòng cốt làm công tác  
dân vận trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay [156], 
đã làm rõ cơ sở lý luận, vai trò của lực lượng nòng cốt; phân tích tình hình  
xây dựng và hoạt động của lực lượng nòng cốt  ở  Tây Nguyên. Đưa ra các  
nhóm giải pháp nhằm xây dựng lực lượng nòng cốt làm công tác dân vận 


25

trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay. Điểm nổi bật 
của công trình này là góp phần làm sáng rõ vai trò, tầm quan trọng của việc  
xây dựng lực lượng nòng cốt làm công tác dân vận. Xem đây là một trong  
những nội dung quan trọng của công tác dân vận, góp phần củng cố  mối 
quan hệ  mật thiết giữa Đảng với nhân dân, nhất là tạo lập niềm tin của 
đồng bào dân tộc thiểu số đối với Đảng, chính quyền. Đây là lực lượng gần  
dân, hiểu được đặc điểm, tâm tư, nguyện vọng của đồng bào, trực tiếp vận  
động đồng bào tích cực tham gia các phong trào của địa phương. Các cấp ủy  
Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể  trên địa bàn phải có chương 
trình, kế hoạch, mục tiêu cụ thể để chăm lo xây dựng lực lượng này thực sự 
là chỗ  dựa tin cậy cho tổ chức đảng, chính quyền trong công tác vận động 
đồng bào dân tộc thiểu số [156, tr.35].
 Lê Xuân Đại (2014), “Hiệu quả từ công tác dân vận của chính quyền ở 
Nghệ An” [103], bài viết khẳng định công tác dân vận của hệ thống chính trị 
thì công tác dân vận của chính quyền có vị trí rất quan trọng. Vì chính quyền là 
nơi cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng đến với dân, nhất là việc  
ban hành các cơ chế chính sách để đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, nâng  
cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Các cơ quan nhà nước cũng là 

nơi thường xuyên trực tiếp tiếp xúc, giải quyết các vấn đề liên quan đến dân 
và doanh nghiệp, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân. Nếu chính 
quyền làm không tốt công tác dân vận thì rất khó khăn cho công tác dân vận nói 
chung.
 Nguyễn Văn Hào (2014), “Lãnh đạo công tác dân vận vùng đồng bào dân 
tộc thiểu số ở Tây Nguyên” [111], bài viết làm rõ trong quá trình lãnh đạo, các 
cấp ủy Đảng ở Tây Nguyên luôn xác định công tác vận động đồng bào dân tộc 
thiểu số. Là nhiệm vụ  có ý nghĩa chiến lược, do đó đã ban hành nhiều chủ 
trương, nghị quyết về công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo, về phát triển kinh tế 


26

­ xã hội, giữ  vững an ninh chính trị, nâng cao  đời sống nhân dân trong cộng 
đồng dân tộc thiểu số. Nhiều cấp  ủy viên, người  đứng  đầu cấp  ủy, chính 
quyền, mặt trận, đoàn thể chính trị ­ xã hội đã thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm 
cá nhân trong chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ dân vận ở cơ sở.
Thực tế  cho thấy, đời sống mọi mặt của đồng bào dân tộc thiểu số 
Tây Nguyên được nâng cao hay giảm sút, tình hình an ninh chính trị, trật tự 
xã hội có được giữ  vững hay không thuộc về trách nhiệm của các cấp ủy 
Đảng, các cấp  ủy viên phụ  trách công tác dân vận và cán bộ,  đảng viên ở 
cơ sở. Vì vậy, muốn tăng cường, đổi mới công tác dân vận, ổn định chính trị, 
thúc đẩy phát triển kinh tế ­ xã hội, nâng cao đời sống trong cộng đồng dân tộc 
thiểu số ở Tây Nguyên. Các cấp ủy Đảng cần phải cụ thể hóa nguyên tắc tập 
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách thành quy chế, quy định để cấp  ủy, cá nhân 
cấp ủy viên quán triệt và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. Đối với tập thể cấp 
ủy, cần căn cứ yêu cầu, tình hình cụ thể, xây dựng chủ trương, chương trình 
hành động hàng năm. Định hướng nội dung hoạt động, tạo thuận lợi để mặt 
trận và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng chủ trương, nghị quyết về 
công tác dân vận trong đồng bào dân tộc thiểu số. Lãnh đạo về tổ chức, nhân 

sự, bố trí, giới thiệu cán bộ, đảng viên có năng lực phụ trách công tác dân vận, 
“khắc phục tình trạng đưa cán bộ  phẩm chất, năng lực yếu kém và không 
có uy tín về làm công tác dân vận” [111, tr.6].
Vũ Thái Dũng (2018)  Công tác dân vận của Đảng bộ  Liên khu Việt  
Bắc từ tháng 10­1949 đến tháng 1­1954 ”, [168] khẳng định đảm bảo thành 
công của mọi cuộc cách mạng là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tập 
hợp được đông đảo nhân dân trong lực lượng của cách mạng. Dưới sự chỉ 
đạo của Trung  ương Đảng và Đảng bộ  Liên khu Việt Bắc, căn cứ  địa 
kháng chiến  được xây dựng, củng cố  về  mọi mặt, sẵn sàng  cho cuộc 
kháng chiến lâu dài của quân và dân Việt Nam. Tại Liên khu Việt Bắc, 


27

chính quyền nhân dân các cấp được chăm lo củng cố  và kiện toàn, khối 
đoàn kết toàn dân được tăng cường, quần chúng nhân dân các dân tộc trên 
địa bàn Liên khu được quy tụ  trong Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt 
với   các   đoàn   thể   (nông   hội,   hội   phụ   nữ,   hội thanh   niên).   Đảng,   chính 
quyền, các tổ chức đoàn thể ở Việt Bắc đã vận động nhân dân các dân tộc 
trên địa bàn đóng góp to lớn sức người, sức của cho kháng chiến, cung cấp 
nhân lực chủ yếu cho chiến trường. Nhờ chủ động trong công tác chuẩn bị 
nên khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ  ra, việc di chuyển các cơ  quan 
đầu não lãnh đạo kháng chiến được thực hiện đúng kế  hoạch. Việc chủ 
động trong công tác xây dựng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, quân và dân 
Việt Nam đã đánh bại âm mưu của thực dân Pháp trong việc đánh vào cơ 
quan đầu não lãnh đạo kháng chiến, làm thất bại hoàn toàn chủ  trương 
đánh nhanh, thắng nhanh của địch. Nhìn lại những chủ  trương, đường lối 
trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác dân vận của 
Đảng suốt những năm tháng đầy khó khăn, thử thách với cách mạng Việt 
Nam là một việc làm rất cần thiết, nhất là sau khi vừa  giành được chính 

quyền cách mạng, cả dân tộc phải đương đầu với kẻ thù lớn mạnh. 
1.1.3. Các nghiên cứu về công tác dân vận trong quân đội
Cục Dân vận và Tuyên truyền đặc biệt (1993), Đổi mới công tác dân  
vận của Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới  [55], làm rõ vị 
trí , vai trò của công tác dân vận và sự cần thiết phải đổi mới công tác dân  
vận trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Nghiên cứu dựa trên quan điểm 
của chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh về  công tác vận động 
quần chúng, đồng thời, xác định rõ vị  trí, vai trò và nội dung công tác dân  
vận của Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới. Trên cơ  sở  đó, 
đề xuất những kiến nghị, giải pháp tiếp tục đổi mới công tác dân vận của  
Quân đội nhân dân Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng 


28

và yêu cầu xây dựng quân đội. Công tác dân vận được coi là tiêu chí để xây  
dựng bản chất và rèn luyện ý chí quyết chiến, quyết thắng của Quân đội 
nhân dân Việt Nam. Công tác dân vận thực sự  là một trong những điều 
kiện quan trọng để quân đội ta rèn luyện, xây dựng bản chất cách mạng và 
truyền thống tốt đẹp “Trung với Đảng, hiếu với dân” xây dựng nên mối 
quan hệ  máu thịt quân ­ dân, tạo thành nguồn sức mạnh vô địch và ý chí 
quyết chiến, quyết thắng mọi kẻ thù, góp phần làm rạng danh Tổ quốc và 
dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.
Đặng Vũ Liêm  (2000), “Công tác vận động quần chúng  của Bộ  đội 
Biên phòng góp phần xây dựng và bảo vệ  chủ  quyền an ninh biên giới Tổ 
quốc” [119], khẳng định, nội dung công tác vận động quần chúng không chỉ 
đơn thuần tuyên truyền vận động, mà phải tiến hành toàn diện. Tham gia 
xây dựng, củng cố cơ sở chính trị, thực hiện các chương trình phát triển kinh 
tế  ­ xã hội, chương trình xóa đói giảm nghèo, tuyên truyền vận động nhân 
dân xây dựng và bảo vệ biên giới. Trên cơ  sở  phân tích những chủ  trương, 

biện pháp đổi mới công tác vận động quần chúng, tác giả  đã đánh giá kết  
quả  thực hiện công tác vận động quần chúng và rút ra 6 kinh nghiệm chủ 
yếu, trong đó kinh nghiệm thứ ba được tác giả chỉ rõ: Bộ đội Biên phòng đã 
kết hợp chặt chẽ  công tác biên phòng với tham gia phát triển kinh tế, văn 
hóa, xã hội  ở  khu vực biên giới; giữa tuyên truyền, giác ngộ  đồng bào với  
“chăm lo nhu cầu bức thiết trong đời sống của quần chúng, cải thiện dân 
sinh, nâng cao dân trí, trên cơ sở đó tạo động lực phong trào quần chúng bảo  
vệ biên giới” [119, tr.14].
 Tổng cục Chính trị (2000), Đẩy mạnh công tác dân vận tham gia xây  
dựng nền chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách  
mạng mới, [160]  khẳng định công tác dân vận của Quân đội nhân dân  Việt 
Nam là một phần công tác dân vận của Đảng Cộng sảng Việt Nam. Trong 


×