Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.83 KB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN KIM THỌ

SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN KIM THỌ

SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà

HÀ NỘI – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng


tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Kim Thọ


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỰ THAM GIA
CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ..................................................6
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ..............................................................................................6
1.2. Ý NGHĨA SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN
SỰ........................................................................................................................19
1.3. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUY ĐỊNH SỰ THAM GIA CỦA LUẬT
SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.......................................................................22
1.4. LƯỢC SỬ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SỰ
THAM GIA CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.............................26
1.5. ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ............................................................................................32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1....................................................................................34
CHƯƠNG 2:QUY ĐỊNHCỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SỰ THAM
GIA CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.......................................35

2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ
VỚI TƯ CÁCH NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO UỶ QUYỀN TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ..............................................................................................................35
2.2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ
VỚI TƯ CÁCH NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.......................................................51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2....................................................................................61
CHƯƠNG 3:THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ................................................................................62
3.1. THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.................62
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỰ THAM GIA CỦA
LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ...........................................................70
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3....................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................79


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật dân sự
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
HĐXX: Hội đồng xét xử
LTCTAND: Luật tố chức tòa án nhân dân
NLHVTTDS: Năng lực hành vi dân sự
VADS: Vụ án dân sự
TTDS: Tố tụng dân sự
TAND:

Tòa án nhân dân


XHCN: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nghề luật sư là một trong các nghề cao quý nhất trong xã hội hiện nay và đặc biệt
trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và tiến tới hội nhập quốc tế thì các mối quan
hệ dân sự càng trở nên đa dạng và phức tạp hơn, thậm chí điều này làm phát sinh
những mâu thuẫn, tranh chấp không thể giải quyết thông qua thương lượng hay hòa
giải. Từ đó, các sự kiện trên nảy sinh những vấn đề mang tính cấp thiết là bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của người liên quan trong các VADS và cũng là một trong
các lý do mà nghề luật sư ra đời và không ngừng phát triển, chính là đáp ứng các nhu
cầu chính đáng đó. Có thể thấy, sự tham gia của luật sư trong hoạt động tố tụng nói
chung cũng như trong hoạt động TTDS là không thể thiếu được trong xã hội và ngày
càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Tuy không phải là hoạt động tư pháp nhưng hoạt động của luật sư lại có mối liên
hệ chặt chẽ với các hoạt động tư pháp hay hỗ trợ cho các hoạt động tư pháp. Hoạt
động của luật sư có thể xem như một công cụ hữu hiệu để giúp cho các cá nhân, tổ
chức bảo vệ được các quyền và lợi ích chính đáng của mình khi tiến hành giải quyết
các vấn đề trong các vụ án tranh chấp cụ thể. Đó cũng chính là nguyên tắc bảo đảm
quyền bảo vệ của đương sự đã được pháp luật ghi nhận là Cá nhân, cơ quan, tổ chức
khi tham gia TTDS với tư cách là đương sự có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình hoặc nhờ luật sư bảo vệ, còn Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự
thực hiện quyền bảo vệ của họ. Vì vậy mà hiện nay, số lượng luật sư tham gia tố tụng
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự ngày một nhiều hơn. Tuy nhiên, sự
tham gia của luật sư trong TTDS vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, bất cập khi nhiều
người vẫn chưa có cách nhìn đúng đắn về sự tham gia của luật sư trong TTDS, đôi khi
điều đó đến cả từ những người tiến hành tố tụng với quan niệm cho rằng sự tham gia
của luật sư trong hoạt động TTDS chỉ đem tới những khó khăn, phiền hà cho cơ quan
tiến hành tố tụng cũng như là khó khăn cho các bên có thể tiệm cận công lý. Bên cạnh

đó, yêu cầu về năng lực trình độ đối với luật sư ngày càng đòi hỏi ở mức độ cao hơn
để đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế, quốc tế….
Từ thực tiễn trên, việc nghiên cứu về sự tham gia của luật sư trong TTDS là một
yêu cầu cấp thiết với một nền công lý và dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cũng
chính vì vậy, tác giả lựa chọn:“Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự” làm đề
1


tài nghiên cứu luận văn với hy vọng sẽ đem lại cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về vai
trò và sự tham gia của luật sư trong TTDS. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đưa
ra một số đề xuất nhằm phát huy những thuận lợi, đồng thời khắc phục những hạn chế,
tiêu cực, từng bước nâng cao và khẳng định vai trò của luật sư trong TTDS.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về sự tham gia của luật sư trong TTDS không chỉ góp phần vào
công cuộc cải cách tư pháp nói chung mà còn đem lại ý nghĩa với chính đội ngũ luật
sư hiện tại, cũng như trong tương lai tới.
Trong thời gian vừa qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến
các khía cạnh khác nhau về vai trò và sự tham gia của luật sư trong TTDS. Một số
công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài này một cách trực tiếp hay gián tiếp, các
khía cạnh nhất định về luật sư trong TTDS như: Luận án tiến sĩ Luật học “ Bảo đảm
quyền bảo vệ của đương sự trong TTDS” của tác giả Nguyễn Công Bình năm 2006;
Bài viết “Luật sư với hoạt động thi hành bản án, quyết định dân sự” của tác giả
Nguyễn Hồng Bách đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật số 07/2015; Bài viết “Vấn
đề hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam” của tác giả TS. Phan Trung Hoài; Bài
viết “Nhận định và phân loại luật sư tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn An đăng trên
Tạp chí luật sư Việt Nam số 8/2015; Cuốn sách “Đạo đức và kỹ năng của luật sư
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của PGS.TS Lê Hồng
Hạnh, NXB Đại học sư phạm năm 2002; Bài viết “Mối quan hệ giữa luật sư với các
cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng” của tác giả Nguyễn Tiến Đạm
năm 2002; Bài viết “Vai trò của luật sư trong TTDS” trong Báo cáo tham luận tại Hội

thảo về tranh tụng trong TTDS ngày 13/3/2004 của Ts. Đinh Văn Thanh; Luận án tiến
sỹ luật học “Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam hiện
nay” của tác giả Phan Trung Hoài năm 2003; Bài viết “Vướng mắc trong việc cấp
Giấy chứng nhận cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự” của tác
giả Đinh Văn Vụ đăng lên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24/2011. Ngoài ra, luận văn
thạc sĩ “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS” và
“Người đại diện hợp pháp của đương sự trong TTDS” tại Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội phần nào có liên quan đến chủ đề nghiên cứu nhưng chưa đầy đủ, cụ thể và
chi tiết trong vai trò của luật sư trong TTDS.

2


Các công trình nghiên cứu chủ yếu đề cập đến khái niệm luật sư, quá trình phát
triển của nghề luật sư cũng như sự tham gia của luật sư trong TTDS một cách khái
quát mà chưa đi sâu vào nghiên cứu phân tích về pháp luật hiện hành về vai trò củaluật
sư, thực trạng về sự tham gia của luật sư trong TTDS. Ngoài ra, một số công trình
được thực hiện trước khi ban hành Luật luật sư và Luật luật sư sửa đổi nên không còn
tính thời sự. Do vậy, đề tài “Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự” rất cần
được tiếp tục nghiên cứu và luận giải sâu sắc hơn trong bối cảnh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về sự tham gia của Luật sư trong
TTDS.
- Làm rõ những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật Việt Nam
hiện hành về sự tham gia của luật sư trong TTDS và những vướng mắc trong quá trình
áp dụng các quy định đó trong thực tiễn xét xử tại Tòa án;
- Tìm ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả về sự tham gia của Luật
sư trong quá trình tham gia TTDS tại các cấp Tòa án.
* Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về sự tham gia của luật sư trong TTDS
như: khái niệm luật sư, đặc điểm, ý nghĩa về sự tham gia của Luật sư trong TTDS, vị
trí, vai trò của luật sư trong TTDS, cơ sở khoa học của việc quy định sự tham gia của
luật sư và các điều kiện đảm bảo sự tham gia của luật sư trong TTDS. Ngoài ra, luận
văn còn nghiên cứu lược sử các quy định của pháp luật về sự tham gia của Luật sư
trong TTDS cũng như nghiên cứu quy định pháp luật về sự tham gia của Luật sư ở một
số nước đại diện cho các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới.
- Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về sự tham gia của Luật
sư trong TTDS.
- Làm rõ thực trạng hoạt động của Luật sư, phân tích nguyên nhân để từ đó đưa
ra các đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả sự tham gia và phát huy vai trò của Luật sư
trong TTDS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận về sự tham gia của luật sư trong
TTDS, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về sự tham gia của luật sư
3


trong TTDS và thực tiễn thực hiện các quy định này tại các Tòa án ở Việt Nam.
Trên cơ sở đó, phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác định là:
- Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động của luật sư trong phạm vi quá
trình giải quyết VADS tại Tòa án mà không bao gồm hoạt động của luật sư trong giai
đoạn thi hành án dân sự;
- Luận văn tập trung phân tích các hoạt động của luật sư với tư cách người đại
diện theo uỷ quyền và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong quá
trình Toà án giải quyết VADS và sự so sánh giữa vị trí của luật sư trong hệ thống pháp
luật châu Âu lục địa và pháp luật Anh Mỹ.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản

Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
Do đó, các đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật đều dựa trên các quan điểm chỉ đạo nêu
trên.
- Phương pháp nghiên cứu: Để hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình, học viên
sử dụng kết hợp các phương pháp:
+ Phương pháp phân tích được sử dụng nhằm làm rõ một số vấn đề về lý luận cơ
bản về luật sư và thực tiễn về sự tham gia của luật sư trong TTDS.
+ Nghiên cứu lịch sử được sử dụng nhằm nghiên cứu rõ hơn các quy định của
pháp luật Việt Nam về sự tham gia của luật sư trong TTDS đã được ghi nhận trong các
văn bản pháp luật trước đây.
+ Phương pháp so sánh được sử dụng đối chiếu, so sánh với pháp luật của một số
quốc gia đại diện các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới nhằm tham khảo, tiếp thu
kinh nghiệm.
+ Phương pháp thống kê được sử dụng trong việc thống kê các số liệu trong thực
tiễn hoạt động hành nghề của luật sư làm cơ sở cho việc đưa ra những nhận xét, kết
luận và đề xuất các biện pháp tăng cường sự tham gia, phát huy vai trò của luật sư.
+ Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong việc tổng hợp các vấn đề đã nghiên
cứu, được đưa ra tranh luận nhằm đưa ra những nhận định và những kết luận.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống về những vấn đề liên quan
4


đến sự tham gia của luật sư trong TTDS. Đưa ra các khái niệm, các đặc trưng, vai trò,
vị trí của luật sư trong TTDS, điều kiện đảm bảo sự tham gia của luật sự trong TTDS.
Các nội dung trên được phân tích một cách đầy đủ, sâu sắc, từ đó làm cơ sở cho việc
luận giải những vấn đề có liên quan đến sự tham gia của luật sư trong TTDS. Trên cơ
sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, Luận văn đã phân tích làm rõ thực trạng pháp luật
hiện hành về sự tham gia của luật sư, về điều kiện tham gia tố tụng, các hoạt động cụ
thể của luật sư cũng như quyền và nghĩa vụ của luật sư trong TTDS.

Luận văn phân tích, đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc những thuận lợi,
những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế, vướng mắc mà luật sư gặp phải
trong quá trình tham gia TTDS. Trên cơ sở đó, luận văn đã đề xuất các giải pháp có giá
trị nhằm nâng cao hiệu quả sự tham gia của luật sư trong TTDS.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về sự tham gia của luật
sư trong TTDS. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong việc áp dụng các quy định pháp luật về sự tham gia của luật sư được thống nhất
và chính xác. Đồng thời, những phát hiện, đóng góp của luận văn cũng là tài liệu có
giá trị cho các cơ quan lập pháp trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật, là tài
liệu tham khảo cho Tòa án, các Thẩm phán có hiểu biết sâu sắc thêm về sự tham gia
của luật sư trong TTDS. Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về pháp luật tại Việt Nam.
8. Về bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cơ cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về sự tham gia của luật sư trong TTDS.
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về sự tham gia của luật
sư trong TTDS.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về sự tham
gia của luật sư trong TTDS và một số kiến nghị

5


CHƯƠNG 1:NHỮNGVẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỰ THAM GIA CỦA
LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự

Để đưa ra khái niệm sự tham gia của luật sư trong TTDS thì cần thiết phải làm rõ
khái niệm, nội hàm của các khái niệm liên quan “Luật sư” và “TTDS”.
Thứ nhất, về khái niệm luật sư
Luật sư là những người được trọng vọng trong xã hội bởi họ đóng vai trò quan
trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền cơ bản của công dân và phát triển xã hội. Hiện
nay, trên thế giới vẫn chưa có sự thống nhất về khái niệm của luật sư do mỗi nhà
nghiên cứu, người thực hành đều có các cách tiếp cận từ các khía cạnh và giác độ khác
nhau phụ thuộc vào quan điểm của từng hệ thống pháp luật.
Trên thế giới, nghề luật sư được nhiều nước quan niệm là nghề tự do, một số
nước khác lại quan niệm là nghề đặc biệt trong xã hội. Không ai và không một tài liệu
nào cho biết về việc nghề luật sư chính xác xuất hiện từ bao giờ, chỉ biết rằng nghề
này xuất hiện từ thời xa xưa và theo một số nhà nghiên cứu thì quyền bào chữa xuất
hiện sớm nhất ở châu Âu cùng với sự xuất hiện của Tòa án và người biện hộ xuất hiện
cùng thẩm phán. Vào thế kỷ V trước Công nguyên, trong Nhà nước Hy Lạp cổ đại,
một Hội đồng xét xử (có tính chất như Toà án ngày nay) đã được hình thành và việc
xét xử có sự tham gia của mọi người dân. Nguyên cáo hoặc bị cáo có thể trình bày ý
kiến, lý lẽ của mình Hội đồng hoặc nhờ người khác có tài hùng biện viết hoặc trình
bày hộ ý kiến, lý lẽ của mình trước Hội đồng xét xử. Mặc dù, họ đã hành động như
một luật sư theo luật của Athen, tuy nhiên các diễn giả không được trả tiền cho các
dịch vụ của họ và cũng không thể tự tổ chức cho mình như một nghề luật sư. Sau đó,
các luật sư xuất hiện đầu tiên được biết đến ở ở Roma cổ đại, khoảng 204 TCN, đã
nhận được khoản thanh toán cho các dịch vụ của họ khi Hoàng đế Claudius hợp pháp
hoá nghề nghiệp và bãi bỏ lệnh cấm đối với các khoản phí.[21]
Theo một tác giả khác thì từ thế kỷ I hoặc II trước và sau công nguyên tại Hy Lạp
(Greece) và La Mã (Romeo) đã xuất hiện một loại hiệp sỹ đặc biệt, hiệp sỹ đặc biệt
này không dùng khí giới hay bắp thịt (sức mạnh về thể lực) để chiến thắng kẻ địch mà
6


chỉ dùng thiên tài ngôn ngữ và sự hiểu biết rộng rãi về cổ luật để đứng ra bênh vực cho

những kẻ nghèo nàn, yếu thế, thấp cổ bé miệng hoặc phụ nữ bị ngược đãi trước các thế
lực đương thời, họ được gọi tên là “Advocats” (người biện hộ). Các hiệp sỹ này ngày
càng đông và đến thế kỷ thứ IV sau công nguyên, họ tập hợp tại Rome thành một đoàn
thể được độc quyền biện hộ trước Hoàng đế. Đến cuối thế kỷ thứ VIII mới có danh
xưng “Advocats” cho 17 vị và được vua chúa công nhận có quyền biện hộ trước các
Tòa án.[9] Còn ở Việt Nam, luật sư được nhắc đến từ thời điểm các Tòa án Pháp được
thiết lập vào năm 1898,ban đầu thuật ngữ luật sư được biết đến bởi tên gọi “trạng sư
biện hộ” và đến năm 1930 thì đổi thành “Luật sư tòa thượng thẩm”.
Luật sư là một thuật ngữ được tiếp cận, nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau
vì vậy nó sẽ là một khái niệm phong phú, đa nghĩa. Nói đến luật sư có thể hiểu dưới
các bình diện như là một danh từ chỉ người, hoặc là một nghề thuộc các ngành dịch vụ
trong hệ thống ngành nghề quốc gia, một chức danh tư pháp độc lập. Trong giới hạn
luận văn cao học “sự tham gia của luật sư trong TTDS” thì khái niệm luật sư cần
nghiên cứu dưới bình diện là danh từ chỉ người.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm luật sư được giải thích trong các từ điển luật học.
Theo Từ điển Luật học Việt Nam, luật sư là thành viên của một đoàn luật sư, làm nghề
giúp đỡ về mặt pháp lý cho cá nhân hoặc các tổ chức theo hợp đồng hoặc theo chỉ định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong một số trường hợp do pháp luật quy định.
[1] Trong Từ điển Pháp - Việt, luật sư (avocat) là nghề bổ trợ tư pháp có chức năng tư
vấn, đại diện và bào chữa cho quyền lợi của các đương sự trước Tòa án [30]. Theo từ
điển luật học của Mỹ thì luật sư (Lawyer) là người được cấp phép hành nghề luật. Như
vậy, qua tìm hiểu khái niệm luật sư trong các từ điển luật học cho thấy, mặc dù cách
giải thích về luật sư là không hoàn toàn giống nhau nhưng nhìn chung luật sư đều là
người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận được tiến hành các hoạt động
nghề nghiệp giúp đỡ về mặt pháp lý cho cá nhân hoặc các tổ chức [50].Ở Việt Nam,
các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý cũng đưa ra những quan điểm khác nhau về luật
sư.
Theo quan điểm của GS.TS Lê Hồng Hạnh thì luật sư là “chuyên gia pháp luật,
là cố vấn pháp luật mà họ có kỹ năng nghề nghiệp thực thụ” [14]. Khái niệm này đã
chỉ ra được hai đặc trưng cần có của luật sư, đó là am hiểu pháp luật và kỹ năng nghề

nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm này chưa đề cập đến một đặc điểm riêng biệt, quan trọng
7


đó là phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của luật sư.
Theo quan điểm của tác giả Phan Trung Hoài thì luật sư là “Một chức danh tư
pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy
định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện ủy quyền, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước Tòa án và thực
hiện các dịch vụ pháp lý khác”[18]. Khái niệm này không chỉ khẳng định tư cách độc
lập và bình đẳng của luật sư mà còn chỉ ra phạm vi hành nghề và mục đích hành nghề
của luật sư.
Ngoài ra, tại Điều 2 Luật luật sư năm 2006 đưa ra định nghĩa về luật sư như sau:
“Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này,
thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi
chung là khách hàng)”. So với cách định nghĩa về luật sư trong Pháp lệnh luật sư năm
2001 thì khái niệm luật sư trong Luật luật sư năm 2006 không mang tính liệt kê và có
tính khái quát hóa hơn; tuy nhiên khái niệm này cũng có hạn chế như chưa đề cập
được mục đích hành nghề của luật sư... Qua phân tích các khái niệm về luật sư, có thể
thấy luật sư có các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề của luật sưthì để trở thành luật sư, một
người cần hội tụ các điều kiện sau đây:
Có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp,tiêu chuẩn này được xác định dựa trên các
quy tắc đạo đức nghề luật sư. Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư quy định
những chuẩn mực về đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, là thước đo phẩm chất đạo đức
và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư. Mỗi luật sư phải lấy quy tắc đạo đức và ứng
xử nghề nghiệp này làm khuôn mẫu cho sự tu dưỡng, rền luyện để giữ gìn uy tín nghề
nghiệp, thanh danh của luật sư, xứng đáng với sự tôn vinh của xã hội.
Có sự am hiểu pháp luật: tiêu chuẩn này thông thường được đánh giá qua bằng
cử nhân luật. Hay nói cách khác, những người muốn trở thành luật sư phải theo học tại

các trường đào tạo luật. Mỗi nước khác nhau có quy định về thời gian, nội dung và
phương pháp đào tạo khác nhau, song nhìn chung lại có mục đích giống nhau ở chỗ là
nhằm trang bị cho những người sẽ trở thành luật sư những kiến thức cơ bản về pháp
luật [21, tr. 16].
Có kỹ năng nghề nghiệp: Đây đều là các điều kiện bắt buộc đối với một người
muốn trở thành luật sư. Điều này xuất phát từ tính chất đặc thù của nghề luật sư là một
8


nghề đòi hỏi sự đúc kết kinh nghiệm và thông qua thực tế rất lớn nên đòi hỏi người
luật sư phải có sự học hỏi từ nhiều nguồn khác nhau, có thời gian thực hành khá nhuần
nhuyễn mới hình thành nên những kỹ năng hành nghề chuyên nghiệp. Bên cạnh đó
luật sư còn phải là người có đạo đức nghề nghiệp tốt. Trong cộng đồng xã hội nghề
nào cũng đòi hỏi người làm nghề phải có lương tâm, trách nhiệm đối với nghề của
mình trước xã hội nhưng do quy luật sinh tồn và phát triển không đồng đều nên mỗi
ngành nghề khác nhau đều có tính chất khác nhau, đòi hỏi lương tâm, trách nhiệm, đạo
đức của người làm nghề có sự khác nhau, không ai có thể đánh đồng được. Việc đại
diện theo uỷ quyền hay bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự của luật sư đều
sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các quyền, nghĩa vụ của đương sự đó và cả các đương sự
khác, đồng thời góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Vậy nên, xuất phát từ tính chất, đặc thù của nghề luật sư, nó đòi hỏi luật sư
ngoài các phẩm chất chung là Chân, Thiện, Mỹ, luật sư còn phải là người có khối óc
thông minh, tấm lòng trong sáng,dũng cảm, biết lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm
cơ sở hoạt động mới xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội. Đó chính là yêu
cầu rất cao trong đạo đức nghề nghiệp luật sư. [17]
Thứ hai là phạm vi hành nghề của luật sư.
Ngoài việc tham gia tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý
khác, luật sư được đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc
có liên quan đến pháp luật. Theo đó, khi luật sư đã giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý
với khách hàng (hoặc hợp đồng lao động với cơ quan, tổ chức) luật sư đương nhiên

được đại diện cho khách hàng để giải quyết các công việc trong phạm vi hợp đồng
(hoặc theo sự phân công của cơ quan, tổ chức), trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác. Quy định này đã làm tăng thêm đáng kể quyền của luật sư trong hành nghềgiúp
gắn kết hơn quan hệ luật sư với khách hàng, thông qua đó luật sư sẽ giúp khách hàng
một cách hiệu quả hơn rất nhiều. Điều này cũng phù hợp với xu hướng mở rộng dân
chủ, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện quyền dân chủ,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Trong Luật luật sư cũng có thêm một mục gồm 10 điều quy định về hoạt động
hành nghề của luật sư, trong đó quy định cụ thể về nội dung, quyền, nghĩa vụ của luật
sư trong từng lĩnh vực hoạt động bao gồm hoạt động tham gia tố tụng, hoạt động đại
diện ngoài tố tụng, hoạt động tư vấn pháp luật, các hoạt động dịch vụ pháp lý khác.
9


Quy định về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư được đặc biệt quan tâm, bởi quy
định này đã góp phần tháo gỡ vướng mắc, khó khăn cho các luật sư và các cơ quan tố
tụng trong việc cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng cho luật sư, từ đó tạo rất nhiều
thuận lợi cho các luật sư ngay từ đầu cũng như trong suốt quá trình thực hiện bào chữa
hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho khách hàng.
Phạm vi hành nghề của luật sư theo Luật luật sư, về cơ bản, phù hợp với nội
dung dịch vụ pháp lý theo Bảng phân loại về các lĩnh vực dịch vụ (CPC) của Tổ chức
thương mại thế giới. [24]
Thứ ba là mục đích hành nghề của luật sư
Mọi hoạt động hành nghề của luật sư hướng tới bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Đương sự tham gia tố
tụng tuy là người hiểu rõ nhất về các tình tiết, nguyên nhân vụ án hay các chứng cứ, tài
liệu có liên quan, nhưng không phải ai trong số họ cũng có những kiến thức pháp luật
cần thiết để các quyền lợi của mình không bị xâm phạm hay không đủ điều kiện để
trực tiếp tham gia tố tụng được. Vậy nên, thông qua dịch vụ pháp lý, luật sư tham gia
tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, giúp đương sự thực hiện tốt

các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật trong suốt quá trình tố tụng. Từ đó,
bằng các hoạt động tố tụng của mình, luật sư còn góp phần bảo vệ công lý, đảm bảo
công bằng xã hội, bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm về luật sư như sau: luật sư là
người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật, được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền công nhận được tiến hành các hoạt động nghề nghiệp,
thực hiện các dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức, độc lập
nhằm mục đích phụng sự công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cho cá nhân,
cơ quan, tổ chức, bảo vệ lợi ích Nhà nước trên cơ sở tuân thủ pháp luật và đạo đức,
trách nhiệm nghề nghiệp.
Thứ hai, khái niệm Tố tụng dân sự
Trong khoa học pháp lý, theo Từ điển Luật học Việt Nam, TTDS là trình tự hoạt
động do pháp luật quy định cho việc xem xét, giải quyết vụ án dân sự và thi hành án.
Trong từ điển Luật học của Anh thì tố tụng (procedure) là những bước tiến hành mang
tính hình thức mà thông qua đó vụ án được giải quyết. Trong từ điển Luật học của
Pháp thì tố tụng là toàn bộ những thể thức phải theo để đệ trình một yêu cầu trước
10


thẩm phán. Như vậy đa số các nước đều thừa nhận TTDS là trình tự, thủ tục mà pháp
luật quy định để Tòa án giải quyết một vụ kiện dân sự [6]. Ở Việt Nam vẫn còn nhiều
quan điểm khác nhau về việc xác định thi hành án dân sự có phải là một giai đoạn của
TTDS hay không. Tuy nhiên, ở giai đoạn thi hành án dân sự, nhiệm vụ của cơ quan thi
hành án và chấp hành viên là tổ chức, thi hành bản án, quyết định của Tòa án, quyết
định của cơ quan, tổ chức khác chứ không giải quyết về nội dung VADS, nên TTDS
chỉ là quá trình Toà án giải quyết VADS, quyết định quyền và nghĩa vụ dân sự của các
đương sự. Như vậy, TTDS là trình tự, thủ tục được pháp luật quy định mà các chủ thể
tham gia phải tuân thủ một cách chặt chẽ nhằm mục đích tối cao là giải quyết vụ việc
một cách chính xác, đúng đắn, nhanh chóng và hiệu quả.
Thứ ba, khái niệm sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự

Với tư cách là người đại diện bảo vệ quyền và nghĩa vụ hợp pháp của đương sự
trong vụ án dân sự, luật sư ở các quốc gia trên thế giới có sự tham gia vào các phạm vi
công việc phụ thuộc vào quy định cho phép của hệ thống pháp luật đó, tuy nhiên, sự
tham gia của luật sư trong TTDS của các nước và Việt Nam không có nhiều sự khác
biệt mà chỉ dưới hai tư cách: người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
hoặc người đại diện theo ủy quyền của đương sự.
Có thể thấy, việc tham gia của luật sư trong TTDS mang tính chất là người có
hiểu biết pháp luật hỗ trợ hoặc đại diện cho đương sự việc giải quyết VADS tại cơ
quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Điều này hỗ trợ cho tiến trình tiệm
cận công lý và đảm bảo cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đúng các quy định của
pháp luật trong việc giải quyết yêu cầu và tuân thủ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự trong thời hạn cho phép hoặc có thể nhanh hơn.
Theo quy định chung của một số nước trên thế giới như Nhật Bản hay Pháp thì
các quốc gia này quy định luật sư có thể là người đại diện theo uỷ quyền hay người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Do đó, việc lựa chọn luật sư tham gia
vụ việc với tư cách nào thì hoàn toàn là do sự lựa chọn của đương sự. Điều 19
BLTTDS Pháp quy định: Các đương sự tự do lựa chọn người bào chữa để họ đại diện
cho mình hoặc giúp đỡ mình trừ trường hợp bắt buộc phải có luật sư. Đó là, tại Toà
sơ thẩm thẩm quyền rộng thì các đương sự phải cử luật sư tham gia trừ trường hợp có
quy định khác (Điều 751 BLTTDS Pháp).
Khác với pháp luật Nhật Bản hay Pháp, tại Anh và Mỹ là những quốc gia mà đề
11


cao vai trò của luật sư cũng như vị trí hay chức danh nghề nghiệp này rất danh dự thì
thường luật sư được tham gia vào vị trí người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự vì quá trình hay chi phí để thuê một luật sư với chi phí rất đắt đỏ nhưng pháp
luật của các quốc gia này cũng quy định rất mở, tuy nhiên, luật sư chỉ được tham gia
chỉ với một tư cách trong một phiên tòa cụ thể [52].
Có thể thấy điểm khác nhau căn bản được các học giả đưa ra là sự khác nhau

trong thủ tục tố tụng của các nước theo truyền thống dân luật, tiêu biểu là Đức và các
quốc gia theo truyền thống thông luật dẫn đến sự khác nhau trong việc luật sư của các
bên có các nhiệm vụ chính ra sao trong việc thu thập chứng cứ và chứng minh mặc dù
luật sư được quyền theo dõi toàn bộ công việc của tòa án [50]. Việc này đi từ vị trí của
tòa án theo quan điểm của từng hệ thống vì trong hệ thống Châu Âu lục địa, vai trò của
người thẩm phán rất lớn dẫn đến vụ việc được điều khiển trực tiếp bởi tòa án và vai trò
tham gia của luật sư chỉ mang tính chất hỗ trợ giúp tòa án giải quyết vụ việc nhanh
hơn. Trong hệ thống này, luật sư đưa ra các quan ngại (concerning) về chứng cứ như
đưa ra các đề xuất với các vấn đề cần kiểm tra hay đặt câu hỏi tại phiên tòa cũng như
đưa ra các nhận định liên quan đến các vấn đề pháp lý cơ bản của vụ án. Về cơ bản thì
thẩm phán trong TTDS của truyền thống dân luật giữ vai trò chính trong việc giải
quyết vụ án và vị trí của luật sư ở đây chỉ mang tính chất bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp cho đương sự [49]. Điều này trái ngược hoàn toàn đối với vai trò của luật sư
trong hệ thống thông luật, luật sư ở đây giữ vị trí như những người trực tiếp đưa ra các
chứng cứ và chứng minh nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự mà
mình bảo vệ, thẩm phán ở trong vụ án thì giữ vai trò là người ở giữa lắng nghe luật sư
hai bên trình bày quan điểm cũng như đưa ra các chứng cứ do luật sư thu thập để
chứng minh cho yêu cầu của mình. Luật sư ở đây sẽ được ví von như là “người chiến
đấu” (combatants) tham gia một trận bóng tennis hay trận đấu vật và thẩm phán như
một người trọng tài (umpire) trong một cuộc tranh luận truyền thống”. [48] Theo như
luật sư trong các nước theo truyền thống pháp luật thông luật thì quá trình thực hiện tố
tụng dân sự được chia thành nhiều bước cụ thể bao gồm như điều tra, bào chữa, thu
thập thông tin, thủ tục tiền tố tụng, giải quyết theo phương thức khác (hòa giải, trọng
tài,…) hay tiến tới phiên tòa xét xử và có thể là kháng cáo giải quyết phúc thẩm vụ án
dân sự. Không phải tất cả các vụ án đều diễn ra tất cả các bước cụ thể trên, tuy nhiên,
luật sư trong trường hợp này được cho phép tham gia đại diện cho người có quyền,
12


người có nghĩa vụ nhằm thực hiện các hoạt động tham gia tố tụng tốt nhất nhằm đảm

bảo quyền và lợi ích không thể xâm phạm. Vị trí của luật sư trong hệ thống thông luật
đã có sự chủ động hơn trong quá trình giải quyết vụ việc nhưng tính chất cũng không
có sự khác biệt nhiều trong mục tiêu cuối cùng là bảo vệ quyền và lợi ích của đương
sự và hỗ trợ tìm ra sự thật khách quan để giải quyết tranh chấp. Từ đó, có thể thấy luật
sư không khác nhau trong các vị trí mà chỉ khác nhau trong quan điểm về vai trò của
họ trong lý thuyết và thực tiễn của hoạt động TTDS theo các hệ thống pháp luật khác
nhau.
Theo quy định của luật TTDS Việt Nam năm 2015, luật sư có thể tham gia vào TTDS
với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc với tư cách
người đại diện theo ủy quyền của đương sự. Đối với mỗi tư cách, quyền của luật sư
trong TTDS có sự khác biệt và tương ứng theo đó, luật sư tiến hành các công việc
nhằm bảo đảm lợi ích cho khách hàng của mình.
Như vậy, sự tham gia của luật sư trong TTDS là “hoạt động tố tụng của luật sư khi có
yêu cầu của đương sự, người đại diện theo pháp luật của đương sự trong quá trình
Toà án giải quyết vụ án dân sự với một trong hai tư cách là người đại diện theo ủy
quyền hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự đểthay mặt hoặc hỗ
trợ đương sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi trên cơ sở tuân
thủ pháp luật”.
1.1.2. Đặc điểm sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
Trong TTDS, mỗi đương sự đề có quyền được bảo vệ, đó là quyền của chủ thể trong
việc chống lại các hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Vì thế,
việc bảo đảm cho các đương sự thực hiện được các quyền TTDS hay nói cách khác là
phải đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự trong TTDS là rất cần thiết để các quyền, lợi
ích hợp pháp của họ được bảo vệ trước Tòa án. Do vậy, pháp luật TTDS đã quy định
về vấn đề bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự. Luật sư trong TTDS thuộc nhóm
những người tham gia tố tụng, cho nên họ có đầy đủ những đặc điểm, vai trò, chức
năng của người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, mục đích tham gia quá trình tố tụng của
họ là khác so với những người tham gia tố tụng khác, sự tham gia của họ là nhằm để
hỗ trợ pháp lý cho đương sự nên có những đặc điểm riêng biệt sau đây:


13


Thứ nhất, sự tham gia của luật sư trong TTDS dựa trên yêu cầu của đương sự, người
đại diện theo pháp luật của đương sự để hỗ trợ họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
trước Tòa án.
Đương sự có thể lựa chọn nhiều cách thức khác nhau để thực hiện quyền bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, họ có thể tự mình thực hiện nhưng cũng có thể thông
qua người bảo vệ. Tôn trọng quyền định đoạt của đương sự là một nguyên tắc đặc thù
của pháp luật TTDS, vì vậy việc đương sự có lựa chọn luật sư hay không hoàn toàn
phụ thuộc vào ý chí của bản thân hoặc người đại diện theo pháp luật của họ. Ngoài ra,
TTDS là quá trình phức tạp gồm nhiều giai đoạn, vì vậy có thể trong những giai đoạn
đầu đương sự chưa nhận thấy sự cần thiết của người bảo vệ nhưng càng về sau, nhất là
ở giai đoạn xét xử tại tòa, hay tại cấp xét xử cao hơn thì nhu cầu này xuất hiện. Bởi
những lẽ đó, việc tham gia tố tụng của luật sư của đương sự hoàn toàn phụ thuộc vào ý
chí của đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự. [13]
Điều này có phần khác với các quy định trong tố tụng hình sự. Theo pháp luật tố tụng
hình sự hiện hành, sự tham gia tố tụng hình sự của luật sư cũng phụ thuộc vào ý chí
của bị can, bị cáo và người đại diện theo pháp luật của họ, nhưng cũng có một số
trường hợp cụ thể mà sự tham gia của luật sư là bắt buộc theo yêu cầu của cơ quan tiến
hành tố tụng. Theo đó, các trường hợp bị can, bị cáo phạm các tội mà Bộ luật hình sự
quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình,
người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi thì cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức như Đoàn luật sư, Trung tâm trợ
giúp pháp lý nhà nước, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
sẽ cử người bào chữa cho các bị can, bị cáo này. Quy định này nhằm giúp bị can, bị
cáo được bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của mình, góp phần trong việc xác
định sự thật khách quan của vụ án, giúp việc điều tra, truy tố và xét xử được nhanh
chóng, chính xác, tránh làm oan người vô tội, để lọt tội phạm.

Thứ hai, luật sư tham gia TTDS với tư cách người đại diện theo uỷ quyền hoặc
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Như đã phân tích ở trên, trong vụ án dân sự luật sư có thể tham gia tố tụng với tư
cách người đại diện theo uỷ quyền hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự.
14


Luật sư tham gia tố tụng với tư cách người đại diện do đương sự uỷ quyền khi
được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự uỷ quyền. Khi đó,
luật sư sẽ là người thay mặt cho đương sự trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp, thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS của đương sự trong phạm vi uỷ quyền
trước Tòa án. Về bản chất, quyền và nghĩa vụ tố tụng của luật sư với tư cách người đại
diện theo uỷ quyền chính là quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự mà họ đại diện.
Họ có thể có toàn bộ quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự hoặc có một phần quyền
và nghĩa vụ tố tụng của đương sự tuỳ thuộc vào sự uỷ quyền của đương sự hoặc người
đại diện theo pháp luật. Để trở thành người đại diện theo uỷ quyền của đương sự thì
luật sư không thuộc những trường hợp pháp luật cấm không được làm người đại diện
theo uỷ quyền. Đó là, trong cùng một vụ án, luật sư với tư cách người đại diện theo uỷ
quyền của đương sự không thể đồng thời tham gia tố tụng với một tư cách khác như
không thể đồng thời là đương sự khác, người đại diện theo pháp luật, người đại diện
theo uỷ quyền hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự khác mà
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền, lợi ích hợp pháp của người
được đại diện trong cùng một vụ ánhoặc họ không thể đồng thời tham gia tố tụng với
tư cách người phiên dịch, người giám định, người làm chứng. Bởi vì, việc luật sư tham
gia tố tụng với nhiều tư cách trong cùng một vụ ánsẽ không đảm bảo yếu tố khách
quan.
Tuy nhiên, trong trường hợp quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không đối
lập nhau thì luật sư có đồng thời là người đại diện do đương sự này uỷ quyền đồng
thời là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự khác, ví dụ: A, B đều là

nguyên đơn trong vụ ántranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. A
uỷ quyền cho luật sư D làm người đại diện trong vụ án. B nhờ luật sư D làm người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Vậy luật sư D có được tham gia với hai tư
cách vừa là người đại diện do A uỷ quyền vừa là người bảo vệ quyền lợi cho B có phù
hợp với các quy định pháp luật.
Về vấn đề này, có ý kiến cho rằng, do quyền và lợi ích hợp pháp của các đương
sự không đối lập nhau nên luật sư D có thể tham gia với hai tư cách. Ý kiến khác cho
rằng, vì người đại diện do đương sự uỷ quyền và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự có quyền và nghĩa vụ khác nhau nên luật sư D không thể vừa là
người bảo vệ quyền lợi cho một đương sự vừa là người đại diện do đương sự khác uỷ
quyền được.
15


Ý kiến thứ hai là hợp lý hơn bởi vì luật sư D với tư cách người đại diện theo uỷ
quyền sẽ thay mặt cho đương sự, thực hiện các quyền, nghĩa vụ TTDS trong phạm vi
ủy quyền. Còn luật sư D với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự có vị trí pháp lý độc lập với đương sự, không bị ràng buộc bởi việc thực hiện
các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự như người đại diện. Do đó, nếu luật sư D
vừa là người bảo vệ quyền lợi cho một đương sự nhưng đồng thời là người đại diện do
đương sự khác uỷ quyền thì luật sư D sẽ vừa có quyền và nghĩa vụ của đương sự uỷ
quyền vừa có quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Điều này tạo nên sự không công bằng, khách quan giữa các đương sự với
nhau.
Ngoài ra, luật sư sẽ không được tham gia trong vụ án ly hôn với tư cách người
đại diện theo uỷ quyền (đại diện uỷ quyền trong giải quyết tranh chấp về quan hệ nhân
thân). Hay nói cách khác, đối với việc ly hôn, do gắn liền với yếu tố nhân thân của
đương sự nên đương sự cũng không được ủy quyền cho luật sư tham gia tố tụng.
Còn khi luật sư tham gia TTDS với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự thì sự tham gia của luật sư sẽ song song cùng với đương sự, hỗ trợ

giúp đỡ đương sự về nhận thức pháp luật và bằng việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình trong quá trình tham gia tố tụng. Luật sư với tư cách người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự có vị trí pháp lý độc lập với đương sự, không bị ràng
buộc bởi việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự như khi tham gia
với tư cách là người đại diện theo uỷ quyền. Luật sư có quyền và nghĩa vụ riêng để có
thể hỗ trợ cho đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp như quyền thu
thập và cung cấp chứng cứ, quyền ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ
VADS, nghiên cứu hồ sơ, tham gia phiên họp xét chứng cứ và hoà giải, tranh tụng tại
phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, có nghĩa vụ có mặt theo giấy
triệu tập của Toà án. Để đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quyền tự do ý chí của đương sự
khi tham gia TTDS để bảo vệ quyền lợi của mình, pháp luật TTDS có quy định một
yếu tố xác lập nên tư cách bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự của luật sư
là ý chí của đương sự cần phải được thể hiện dưới dạng văn bản và phải làm thủ tục
đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Bên cạnh đó, cũng
tương tự như khi tham gia với tư cách là người đại diện theo uỷ quyền thì còn có các
điều kiện như luật sư không được là đương sự khác, người đại diện theo pháp luật,
người đại diện theo uỷ quyền hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương
16


sự khác mà quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền, lợi ích hợp
pháp của người được đại diện trong cùng một vụ án.
Như vậy, đối với mỗi tư cách, quyền và điều kiện tham gia của luật sư
trong TTDS có sự khác biệt và tương ứng theo đó, luật sư tiến hành các công việc
nhằm bảo đảm lợi ích cho đương sự của mình.
Thứ ba, sự tham gia của luật sư được thực hiện thông qua các hoạt động tố tụng
khác nhau để hỗ trợ đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
TTDS bao gồm rất nhiều các giai đoạn tố tụng khác nhau, do đó ở mỗi giai đoạn
tố tụng thì luật sư sẽ thực hiện các hoạt động tố tụng khác nhau tuỳ vào tính chất, đặc
điểm hay hoạt động trong từng giai đoạn tố tụng để hỗ trợ đương sự trong việc bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Phụ thuộc vào vai trò của luật sư khi tham
gia TTDS là người đại diện theo uỷ quyền hay người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho đương sự mà luật sư sẽ có những hoạt động tố tụng khác nhau.
Với tư cách người đại diện theo uỷ quyền, luật sư thực hiện các hoạt động tố tụng
dựa trên sự uỷ quyền của đương sự như thực hiện quyền khởi kiện, yêu cầu giải quyết
VADS, thực hiện hoạt động thu thập và cung cấp chứng cứ cho Toà án để chứng minh
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hoặc tranh chấp. Ở giai đoạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm, luật sư tiếp tục thực hiện các hoạt động thu thập, cung cấp, nghiên cứu và
đánh giá chứng cứ, thực hiện các biện pháp theo pháp luật quy định để chuẩn bị tranh
tụng tại phiên toà. Tại phiên toà sơ thẩm, luật sư sẽ thay mặt đương thực hiện hoạt
động tranh tụng tại phiên toà thông qua việc trình bày yêu cầu, chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu, đặt câu hỏi và tranh luận với đương sự phía bên kia dựa trên các chứng
cứ và quy định của pháp luật. Sau khi HĐXX tuyên án, nếu đương sự không đồng ý
với bản án, quyết định sơ thẩm và uỷ quyền cho luật sư làm người đại diện tham gia ở
giai đoạn phúc thẩm thì luật sư tiếp tục thay mặt đương sự thực hiện các hoạt động để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ở giai đoạn phúc thẩm như kháng cáo,
tiếp tục hoạt động thu thập, cung cấp chứng cứ, tranh tụng tại phiên toà... Nếu bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật mà đương sự uỷ quyền cho luật sư tham gia với tư
cách người đại diện theo uỷ quyền thì luật sư với tư cách người đại diện theo uỷ quyền
sẽ thực hiện quyền đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm,
cung cấp chứng cứ, tranh tụng tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm nếu được triệu tập
tham gia phiên toà.
17


Với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, luật sư thực
hiện các hoạt động tố tụng nhằm hỗ trợ cho đương sự về mặt pháp lý để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đó là, luật sư tư vấn, hướng dẫn cho đương sự thực
hiện việc khởi kiện như hướng dẫn soạn đơn khởi kiện, giúp đương sự chuẩn bị hồ sơ
khởi kiện… Ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, luật sư sẽ hỗ trợ đương

sự thu thập, cung cấp, nghiên cứu, đánh giá các tài liệu, chứng cứ, hỗ trợ đương sự
trong việc đưa ra các yêu cầu Tòa án tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ, áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, đưa ra các yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập….
Sự tham gia của luật sưvới tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự được thể hiện rõ nét tại các phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm hay giám đốc thẩm, tái
thẩm. Tại đây, luật sư sẽ là người trực tiếp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự thông qua hoạt động tranh tụng tại phiên toà. Theo đó, luật sư sử dụng, đánh
giá các chứng cứ, tài liệu, tình tiết vụ án thông qua những lý lẽ, lập luận sắc bén trước
HĐXX để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Bên cạnh đó, tuỳ từng giai
đoạn để luật sư có thể có các hoạt động khác như tư vấn, hướng dẫn đương sự về thủ
tục kháng cáo và hỗ trợ đương sự tham gia tố tụng tại Toà án cấp phúc thẩm hay hỗ trợ
đương sự thu thập, phát hiện các vi phạm pháp luật nghiêm trọng, các tình tiết mới của
vụ ánđể yêu cầu những người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm.
Thứ tư, mục đích tham gia tố tụng của luật sư là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự.
Mặc dù, luật sư có thể xuất hiện trong mỗi VADS với các tư cách khác nhau,
nhưng mục đích, vai trò tham gia TTDS của luật sư đều nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho đương sự, làm sáng tỏ sự thật khách quan của VADS qua đó giúp Tòa án
giải quyết VADS một cách khách quan, công bằng và đúng pháp luật. [41]
Như đã nói ở phần trên, không phải đương sự nào khi tham gia một VADS cũng
có những kiến thức pháp luật cần thiết để các quyền lợi của mình không bị xâm phạm.
Chính vì vậy mà đương sự cần nhờ đến sự trợ giúp của luật sư – là những người am
hiểu pháp luật, có kỹ năng tham gia tố tụng. Bản chất công việc của luật sư là thực
hiện một dịch vụ pháp lý, thông qua dịch vụ này, luật sư tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Toà án.

18



1.2. Ý NGHĨA SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN
SỰ
Trong lịch sử phát triển nghề luật trên thế giới, vai trò của luật sư trong việc bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo hay các đương sự trước Toà không phải ở
mọi lúc, mọi nơi đều được tôn trọng. Có thể kể đến như ở những nước mà mối quan hệ
giữa con người với con người bị ảnh hưởng của tâm linh, thần cảm thì nghề luật sư rất
chậm phát triển bởi ở đó họ đề cao giá trị giáo điều, đề cao các vị thánh hơn những lập
luận, phân tích logic từ các vị luật sư. Nghề luật sư thực sự được phát triển và giữ vai
trò quan trọng tại các nước mà ở đó có nền dân chủ phát triển, thượng tôn pháp luật,
tôn sùng cái đúng và sự thật khách quan. Những con người nơi ấy đề cao giá trị của
người luật sư để bảo đảm công lý các bên khi tham gia tố tụng, họ coi sự giúp đỡ từ
phía luật sư là điều tất yếu cần đến khi gặp phải bất kỳ khó khăn pháp lý nào. Có quan
điểm của luật sư phương Tây cho rằng: luật sư khi tham gia bảo vệ quyền lợi cho
khách hàng, cho cá nhân phải đặt quyền lợi của cá nhân cao hơn hoặc bằng quyền lợi
của cộng đồng xã hội.
Vai trò của luật sư có sự khác nhau trong các nền văn minh tuỳ theo quốc gia mà
pháp luật có vai trò quan trọng khác nhau dẫn đến vị thế của luật sư cũng là khác nhau
tương ứng. Trên thế giới, sự đa dạng về đặc thù lịch sử, văn hóa, cách suy nghĩ cũng
như hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia làm cho nghề luật sư được tổ chức theo nhiều
hình thức và rất đa dạng. Tuy nhiên, ở một góc độ quan điểm chung, nghề luật sư là
một nghề trong xã hội là công cụ hữu hiệu góp phần đảm bảo công lý. Tại Việt Nam,
luật sư có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và
góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong cuộc sống xã hội hàng ngày, việc công dân có nhiều mối quan hệ với nhau
và với cơ quan, tổ chức rất dễ nảy sinh những mâu thuẫn, động chạm tới quyền lợi của
mỗi bên. Khi đó, sự văn minh nhất là tìm đến việc giải quyết thông qua tòa án. Tuy
nhiên, công dân thường bị hạn chế bởi trình độ văn hóa, sự hiểu biết pháp luật nên khó
có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách đầy đủ và toàn diện. Trong
khi đó, luật sư là người am hiểu pháp luật có kinh nghiệm trong hoạt động pháp luật,
sẽ là người giúp cho công dân về mặt pháp lý có hiệu quả nhất khi có những vụ án xảy

ra liên quan đến pháp luật, nhất là những vụ án ở Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
tốt nhất cho họ.Tựu chung lại, sự tham gia của luật sư trong TTDS có ý nghĩa như sau:
19


Một là, sự tham gia của luật sư trong TTDS góp phần bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự.
Sự tham gia tố tụng của luật sư của đương sự trong TTDS là cần thiết, khách
quan và tất yếu. Sự tham gia của luật sư của đương sự đảm bảo thực hiện nguyên tắc
“Bảo đảm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS”, một
nguyên tắc cơ bản của TTDS. Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự được
đương sự yêu cầu tham gia tố tụng với nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Vì vậy, họ có nghĩa vụ phải trợ giúp cho đương sự về mọi mặt trong các vấn
đề về pháp luật. Những vấn đề này có thể là người bảo vệ giải thích cho đương sự về
các quyền và nghĩa vụ của mình, quyền và nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng
hoặc thực hiện các yêu cầu, nguyện vọng của đương sự nhằm giúp họ cung cấp thêm
những tình tiết có liên quan đến vụ ánmà có lợi cho họ, bởi với sự hỗ trợ giúp đỡ của
người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, đương sự sẽ bảo vệ hiệu quả hơn quyền,
lợi ích hợp pháp của mình. Các đương sự có cơ hội được thực hiện đầy đủ các quyền
và làm tròn nghĩa vụ trong TTDS, đồng thời đảm bảo cho các chủ thể tham gia tố tụng
có quyền bình đẳng trước pháp luật. Bởi lẽ, khi tham gia tố tụng, không phải đương sự
nào cũng có sự am hiểu về pháp luật để có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Họ thường gặp khó khăn trong việc nhận thức quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, đồng thời các quy định của pháp luật cũng khá phức tạp, dẫn đến khi thực hiện
các hoạt động tố tụng, đương sự không khỏi gặp phải những rắc rối, khó khăn trong
việc đảm bảo quyền lợi của mình. Do đó, khi có sự tham gia của luật sư của đương sự,
họ sẽ không chỉ hỗ trợ cho đương sự về mặt nội dung chuyên môn mà còn hỗ trợ về
thủ tục tố tụng cho đương sự.
Mặt khác, đối với mỗi người dân nói chung, việc xác định đúng vị trí, vai trò của
luật sư của đương sự trong TTDS sẽ giúp họ biết được ngoài cách thức tự bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì còn có thể nhờ luật sư của đương sự. Từ đó, họ
biết tìm đến luật sư của đương sự khi cần thiết và biết tin tưởng vào pháp luật và hiệu
quả hoạt động của luật sư của đương sự trong TTDS.
Với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì luật sư
nhân danh chính mình để tham gia TTDS. Do đó, luật sư sẽ có các quyền, nghĩa vụ
riêng, được pháp luật quy định cụ thể và tham gia TTDS trên cơ sở yêu cầu của đương
sự. Khi nhận trách nhiệm bảo vệ quyền lợi cho đương sự, luật sư của đương sự cùng
20


×