Tải bản đầy đủ (.pdf) (216 trang)

Luận án tiến sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lãnh đạo phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao từ năm 2004 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 216 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án là công trình nghiên cứu độc  
lập của riêng tác giả. Các tài liệu, số liệu trong luận án là  
trung  thực,  chính  xác  và   có  nguồn  gốc  xuất  xứ   rõ  ràng, 
không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công  
bố.
  
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

NCS Nguyễn Quang Nam

 

                                    

                            



MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG   QUAN   TÌNH   HÌNH   NGHIÊN   CỨU   CÓ   LIÊN 
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.
1.2.


Chương 2
2.1.
2.2.
Chương 3
3.1.
3.2.
Chương 4
4.1.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã được 
công bố và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải 
quyết

CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH 
LÂM ĐỒNG VỀ  PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP  ỨNG 
DỤNG CÔNG NGHỆ CAO (2004 ­ 2010)

Những yếu tố  tác động và chủ  trương của Đảng bộ 
tỉnh Lâm Đồng về  phát triển nông nghiệp  ứng dụng 
công nghệ cao (2004 ­ 2010)
Đảng   bộ   tỉnh   Lâm   Đồng   chỉ   đạo  phát   triển   nông 
nghiệp ứng dụng công nghệ cao (2004 ­ 2010)
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH 
LÂM   ĐỒNG   VỀ   ĐẨY   MẠNH   PHÁT   TRIỂN   NÔNG 
NGHIỆP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ CAO (2010 ­ 2015)

Yêu cầu mới và chủ  trương của Đảng bộ  tỉnh Lâm 
Đồng về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ứng dụng  
công nghệ cao (2010 ­ 2015)

Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng chỉ đạo đẩy mạnh phát triển 
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (2010 ­ 2015)
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

5
11
11
23
30
30
49
84
84
98
132

Nhận xét quá trình Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lãnh đạo phát  
triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (2004 ­ 2015)
132
4.2. Những kinh nghiệm chủ  yếu  từ  quá trình Đảng bộ 
tỉnh Lâm Đồng lãnh đạo phát triển nông nghiệp  ứng 
dụng công nghệ cao (2004 ­ 2015)
153
KẾT LUẬN 
167
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐàCÔNG BỐ CÓ 
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
170
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
171



194

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Số TT
01
02
03
04
05
06
07
08

Chữ viết đầy đủ

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghệ sinh học
Hợp tác xã
Khoa học ­ công nghệ
Khoa học ­ kỹ thuật
Kinh tế ­ xã hội
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Ủy ban nhân dân

Chữ viết tắt


CNH,HĐH
CNSH
HTX
KH­CN
KH­KT
KT­XH
NN&PTNT
UBND


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nông   nghiệp,   nông   dân   và   nông   thôn   đóng   vai   trò   to   lớn   trong   sự 
nghiệp  đấu tranh gi ải phóng dân tộc và kiến thiết đất nướ c. Đả ng ta 
khẳng định: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lượ c trong 
sự  nghiệp CNH,HĐH, xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc, là cơ  sở  và lực 
lượ ng  quan  trọng   để   phát  triển  KT­XH   bền  vững,  gi ữ  v ững  ổn  đị nh 
chính trị, đảm bảo an ninh ­ quốc phòng, giữ  gìn, phát huy bản sắc dân 
tộc và bảo vệ môi trườ ng sinh thái của đất nướ c. Dướ i ánh sáng  đường 
lối đổi mới của Đảng, nền nông nghiệp nước ta đã có sự chuyển biến sâu  
sắc và toàn diện từ  sản xuất đến chuyển dịch cơ  cấu cây trồng, vật nuôi, 
đưa Việt Nam từ  một nước thiếu lương thực, phải nhập khẩu hàng năm 
trở  thành quốc gia có nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu hàng đầu thế 
giới. Nhờ  đó, đời sống của ngườ i nông dân từng bướ c đượ c  ổ n đị nh và 
không ngừng đượ c cải thiện, diện mạo nông thôn từng bướ c đượ c thay  
đổi theo hướ ng tích cực, góp phần quan tr ọng vào sự   ổn đị nh và phát  
triển  đất nướ c. Tuy vậy, n ền nông nghiệp nướ c ta vẫn còn tiềm  ẩn  
nhiều yếu tố chưa  bền vững; năng suất, chất lượng nông sản và hiệu quả 
sản xuất vẫn còn nhiều hạn chế; sản xuất manh mún với cách thức tổ 
chức sản xuất  lạc hậu vẫn là gam màu chủ   đạo trong bức tranh  nông 

nghiệp Việt Nam.  Vì thế, ngành nông nghiệp nước ta đang đứng trước 
những khó khăn, thách thức trong thời đại kinh tế tri thức và hội nhập kinh  
tế quốc tế sâu rộng. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với ngành nông 
nghiệp Việt Nam cần phải điều chỉnh và lựa chọn hướng phát triển mới 
nhằm tăng khả  năng cạnh tranh, đồng thời đáp  ứng được yêu cầu của thị 


trường và phù hợp với xu thế  phát triển của thời đại. Đứng trước thực 
trạng trên, cùng với thường xuyên đổi mới cơ chế quản lý, Đảng ta đã chủ 
trương đẩy mạnh  CNH,HĐH  nông nghiệp, nông thôn và tăng cường  ứng 
dụng KH­CN, nhất là các công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới vào sản  
xuất nhằm từng bước chuyển đổi nền nông nghiệp nước ta theo hướng công  
nghệ cao. 
Lâm Đồng là tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, nằm ở vị trí chiến lược 
quan trọng về  kinh tế, chính trị, quốc phòng ­ an ninh của cả  nước. Điều  
kiện tự  nhiên đặc thù của Lâm Đồng rất thuận lợi cho phát triển kinh tế 
nông nghiệp và du lịch nhưng không thuận lợi cho sự phát triển của ngành  
công nghiệp. Vì thế, con đường thoát nghèo của tỉnh Lâm Đồng chỉ  có thể 
dựa vào phát huy tiềm năng nông nghiệp và du lịch sinh thái, nghỉ  dưỡng, 
trong đó lấy nông nghiệp làm ngành kinh tế chủ đạo. Song, cách nào để tạo  
nên bước phát triển đột phá mà vẫn đảm bảo yếu tố bền vững luôn là câu 
hỏi lớn đối với Đảng bộ và chính quyền tỉnh Lâm Đồng. Vận dụng sáng tạo 
chủ trương của Đảng và thực tiễn bước đầu từ những mô hình sản xuất nông 
nghiệp ở địa phương, Tỉnh ủy Lâm Đồng đã tìm ra được “đáp án” cho câu hỏi 
lớn trăn trở suốt nhiều nhiệm kỳ là đưa ngành kinh tế nông nghiệp phát triển  
nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, đồng thời xác định đó là chương trình 
trọng tâm, khâu then chốt tạo nên bước phát triển đột phá về KT­XH của  địa 
phươ ng.  
Sau hơn 10 năm thực hiện phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ 
cao (2004 ­ 2015), nền nông nghiệp của tỉnh Lâm Đồng đã có bước phát  

triển vượt bậc, năng suất, chất lượng và hiệu quả  kinh tế  trong sản xuất  
nông nghiệp tăng gấp nhiều lần so với phương pháp canh tác truyền thống, 
đưa Lâm Đồng trở  thành một trong những địa phương dẫn đầu về  nông 
nghiệp ứng dụng công nghệ cao của cả nước. Thành tựu từ  quá trình phát 


triển nông nghiệp  ứng dụng công nghệ  cao đã tạo nên bước “đột phá” 
trong phát triển kinh tế, “lan tỏa” sâu rộng đến các lĩnh vực chính trị, xã 
hội, quốc phòng, an ninh và làm thay đổi tập quán canh tác của người nông  
dân; là nhân tố  cơ  bản đưa Lâm Đồng thoát nghèo và trở  thành một tỉnh 
giàu   mạnh   ở   khu   vực   Tây   Nguyên.   Tuy   vậy,   quá   trình   phát   triển   nông  
nghiệp theo hướng  ứng dụng công nghệ  cao  ở  Lâm Đồng vẫn còn nhiều  
hạn chế, thách thức đến tính bền vững trong phát triển kinh tế  của địa 
phương.
Do đó, nghiên cứu về  quá trình lãnh đạo phát triển nông nghiệp  ứng 
dụng công nghệ cao của Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng, làm rõ những thành tựu 
cũng như những hạn chế trong hoạch định chủ trương và chỉ đạo thực tiễn 
của Đảng bộ  về  phát triển nông nghiệp  ứng dụng công nghệ  cao, tìm ra 
những nguyên nhân và đúc kết những kinh nghiệm để  vận dụng vào hiện 
tại là rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận và mang tính thực tiễn sâu sắc.
Với những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề  tài   Đảng bộ  tỉnh Lâm  
Đồng lãnh đạo phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao từ năm 2004  
đến năm 2015 làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt 
Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ  quá trình Đảng bộ  tỉnh Lâm Đồng lãnh đạo phát triển 
nông nghiệp  ứng dụng công nghệ  cao từ  năm 2004 đến năm 2015; trên 
cơ  sở  đó, đúc kết những kinh nghiệm chủ  yếu có giá trị  tham khảo, vận 
dụng vào quá trình lãnh đạo của Đảng bộ hiện nay.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.


Làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình  lãnh đạo phát triển nông 
nghiệp  ứng dụng công nghệ  cao   của Đảng bộ  tỉnh Lâm Đồng (200 4  ­ 
2015).
Hệ thống, luận giải chủ trương và quá trình Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng chỉ 
đạo phát triển nông nghiệp  ứng dụng công nghệ  cao từ  năm 2004 đến năm 
2015.
Rút ra những nhận xét khoa học và đúc kết   những kinh nghiệm t ừ 
quá trình Đảng bộ  tỉnh Lâm Đồng lãnh đạo phát triển nông nghiệp  ứng  
dụng công nghệ cao (2004 ­ 2015).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ  tỉnh Lâm Đồng (qua 
hoạch định chủ  trương và chỉ  đạo thực hiện)  về  phát triển nông nghiệp 
ứng dụng công nghệ cao từ năm 2004 đến năm 2015.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Luận án làm rõ chủ  trương và quá trình Đảng bộ 
tỉnh Lâm Đồng chỉ  đạo phát triển nông nghiệp  ứng dụng  công  nghệ  cao 
trên các mặt: Công tác tuyên truyền, vận động; công tác quy hoạch   khu, 
vùng  sản xuất nông nghiệp; chuyển đổi cơ  cấu giống và  ứng dụng kỹ 
thuật ­ công nghệ  hiện đại đối với cây trồng, vật nuôi; thực hiện cơ  chế, 
chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Phạm vi không gian: Trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng hiện nay. 
Phạm vi thời gian: Luận án nghiên cứu từ  năm 2004  đến năm 2015. 
Năm 2004 là năm bắt đầu triển khai thực hiện  Chương trình nông nghiệp  
công nghệ cao tỉnh Lâm Đồng thời kỳ 2004 ­ 2010. Năm 2015 là năm sơ kết 
5 năm  lãnh đạo thực hiện Nghị  quyết số  05­NQ/TU ,  Về  đẩy mạnh phát  

triển nông nghiệp  ứng dụng công nghệ cao giai đoạn 2011 ­ 2015 trên địa  


10
bàn tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hệ thống và đạt được mục 
đích nghiên cứu, luận án có đề cập những vấn đề cơ bản liên quan đến quá 
trình ứng dụng KH­CN vào sản xuất nông nghiệp trước năm 2004.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ  sở  lý luận  là  chủ  nghĩa Mác  ­ 
Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh; quan điểm, chủ  trương của Đảng về  phát 
triển kinh tế nông nghiệp và ứng dụng KH­CN vào sản xuất nông nghiệp.
Cơ sở thực tiễn 
Luận án dựa vào thực tiễn hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Lâm  
Đồng về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ  cao và kết quả quan 
sát, khảo sát thực tế ở một số địa phương, cơ sở sản xuất nông nghiệp ứng 
dụng công nghệ  cao trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Ngoài ra, luận án còn sử 
dụng kết quả nghiên cứu thực tế của một số công trình, đề tài khoa học có 
liên quan  ở  tỉnh Lâm Đồng cũng như  một số  địa phương trên phạm vi cả 
nước.
Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic,  
ngoài ra còn sử  dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp,  
khảo sát thực tế để làm rõ các nội dung của luận án. 
Phương pháp lịch sử  được sử  dụng trong toàn bộ  luận án  nhằm phân 
kỳ  thời gian, làm rõ bối cảnh lịch sử  tác động, trình bày quá trình hoạch 
định chủ trương và chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng về phát triển nông 
nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo diễn tiến thời gian.
Trên   cơ   sở   phươ ng   pháp   lịch   sử,   luận   án   sử   dụng   kết   hợp   với  
phươ ng pháp logic để  làm rõ bướ c phát triển tư  duy trong nhận th ức và  



11
chỉ   đạo   thực   tiễn   của   Đả ng   bộ   tỉnh   Lâm   Đồ ng   về   phát   triển   nông 
nghiệp  ứng dụng công nghệ  cao trên cơ  sở  xâu chuỗi các sự  kiện lịch  
sử và liên kết nội dung của các văn bản có tính chất lãnh đạo của Đả ng  
bộ; đánh giá những  ưu điểm, hạn chế  và đúc kết những kinh nghi ệm t ừ 
thực tiễn quá trình lãnh đạo của Đảng bộ  về  vấn đề  trên trong những 
năm 2004 ­ 2015. 
Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê được sử  dụng nhằm phân 
tích làm rõ chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng về phát triển 
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; phân tích, tổng hợp các mặt chỉ đạo 
của Đảng bộ  tỉnh về  vấn đề  trên qua hai giai đoạn 2004 ­ 2010 và 2010 ­ 
2015.
Phương pháp so sánh được sử  dụng trong luận án nhằm so sánh kết  
quả  trên các mặt chỉ  đạo của Đảng bộ  tỉnh Lâm Đồng về  phát triển nông 
nghiệp  ứng dụng công nghệ  cao giữa hai giai đoạn 2004 ­ 2010 và 2010 ­ 
2015; so sánh kết quả phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên  
địa bàn tỉnh Lâm Đồng với bình quân chung của cả nước và các địa phương 
khác.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án hệ thống, khái quát hóa chủ trương của Đảng Cộng sản Việt 
Nam và quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng về phát triển nông 
nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong những năm 2004 ­ 2015.
Bước đầu dựng lại bức tranh chân thực về phát triển nông nghiệp ứng 
dụng công nghệ  cao trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong những năm 2004 ­  
2015.
Đưa ra những nhận xét, đánh giá có cơ sở khoa học về quá trình Đảng 
bộ  tỉnh Lâm Đồng lãnh đạo phát triển nông nghiệp  ứng dụng công nghệ 



12
cao từ năm 2004 đến năm 2015; làm rõ nguyên nhân và đúc kết những kinh  
nghiệm để vận dụng vào hiện tại.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận
Luận   án   góp   phần   tổng   k ết,   làm   sáng   tỏ   tính   tất   y ếu   và  chủ 
tr ươ ng c ủa Đả ng  về  phát tri ển nông nghi ệp  ứng d ụng công nghệ  cao 
(qua th ực t ế  ở t ỉnh Lâm Đồ ng).
Kết quả  nghiên cứu của luận án  sẽ  góp  thêm luận cứ  khoa học  cho 
việc bổ  sung, phát triển chủ  trương của Đảng về  phát triển nông nghiệp 
ứng dụng công nghệ cao trong thời kỳ mới.
Ý nghĩa thực tiễn 
Luận án cung cấp cho Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng những kinh nghiệm đối với 
quá trình đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong thời kỳ 
mới. 
Góp thêm những kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển nông nghiệp ứng 
dụng công nghệ cao ở Lâm Đồng ­ “điểm sáng” về nông nghiệp ứng dụng 
công nghệ cao của cả nước để các địa phương tham khảo.
Luận án là tài liệu tham khảo cho công tác tuyên truyền, nghiên cứu, 
giáo dục lịch sử  Đảng  Cộng sản Việt Nam cũng như  lịch sử  địa phương 
(tỉnh Lâm Đồng) trong thời kỳ đổi mới.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở  đầu,  4  chương (8  tiết), kết luận, danh mục các 
công trình nghiên cứu của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

Chương 1


13

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 
1.1.1. Các nghiên cứu về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ  
cao ở nước ngoài 
1.1.1.1. Các nghiên cứu của tác giả nước ngoài về nông nghiệp ứng dụng  
công nghệ cao ở một số nước trên thế giới
Ngô Quý Tùng (2001), Kinh tế tri thức ­ xu thế mới của xã hội thế kỷ  
XXI (La Phong dịch) [137]. Trên cơ sở nghiên cứu nền kinh tế Trung Qu ốc 
và xu thế  phát triển của nền kinh tế  toàn cầu, tác giả  cho rằng, trong  
tươ ng lai “ai chiếm đượ c điểm cao về  công nghệ  sinh học thì có quyền 
phát ngôn lớn hơn trong vi ệc gi ải quy ết các vấn đề  trọng đại của thế 
giới” [137, tr.111]. Vì vậy, phát triển CNSH trong nông nghiệp là xu thế 
và cũng là đòi hỏi cấp thiết nhằm đáp  ứng nhu cầu lương thực trước sự 
gia tăng của dân số  thế  giới. Với xu th ế  đó, tác giả  dự  đoán: đến năm 
2008, ngành nông nghiệp dùng kỹ  thuật gen để  tạo ra cây trồng cho sản  
lượ ng cao, có khả  năng kháng bệnh và giàu dinh dưỡng sẽ  đượ c  ứng  
dụng  ở  các nướ c đang phát triển và đến năm 2015, “kỹ  thuật canh tác 
nông nghiệp bằng máy móc sẽ  thay thế  kỹ  thuật canh tác nông nghiệp  
truyền thống” [137, tr.112], các kỹ  thuật nông nghiệp như  gieo mạ, tưới 
tiêu, bón phân và sát trùng đượ c điều khiển bằng máy vi tính, các phươ ng  
pháp nuôi trồng cây không có đất đều sẽ đượ c áp dụng. 
Dan Senor và Saul Singer (2015), Quốc gia khởi nghiệp [17]. Cuốn sách 
mô tả về những câu chuyện thần kỳ, những thành tựu nổi bật trên nhiều lĩnh 
vực của đất nước Israel, trong đó thành tựu trên lĩnh vực nông nghiệp được  
coi là hết sức kỳ diệu. Diện tích hạn hẹp với 95% đất đai bị xếp vào nhóm 
bán khô hạn, khô hạn và rất khô hạn nhưng “Israel vẫn trở thành một trong 


14
những quốc gia dẫn đầu về  nông nghiệp” [17, tr.12]. Cốt lõi để  làm nên  

những thành tựu “kỳ diệu” trên là do Israel đã chú trọng ứng dụng công nghệ 
trong nông nghiệp. Một trong những thành tựu nổi bật là công nghệ tưới nhỏ 
giọt của Simcha Blass. Nhờ công nghệ tưới nhỏ giọt và nhà lưới mà người 
Israel đã biến sa mạc Negev thành những cánh đồng và khu rừng xanh tươi.  
Cùng với yếu tố công nghệ, nông trang (kibbuzt) là yếu tố đặc thù và có vai 
trò quan trọng đối với sự phát triển của nông nghiệp Israel.
Danel   Walker   (2017),  Phát   triển   nông   nghiệp   công   nghệ   cao   ở 
Austraulia và một số  đề  xuất cho Việt Nam [8]. Tác giả  làm rõ vai trò của 
việc  ứng dụng tiến bộ  KH­CN  đối với thúc  đẩy tăng trưởng nền nông 
nghiệp Austraulia. Trong những thành tựu về KH­CN, tác giả đặc biệt phân 
tích về vai trò của việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong  
sản xuất nông nghiệp để dần hình thành nền “nông nghiệp kỹ thuật số” [8,  
tr.208]; vai trò của ứng dụng công nghệ di truyền trong tạo ra các giống cây  
trồng, vật nuôi có khả  năng kháng bệnh cao. Theo tác giả, để  đẩy mạnh 
nghiên cứu và  ứng dụng, chuyển giao tiến bộ  KHCN vào sản xuất nông 
nghiệp, cần phải có sự hợp tác giữa Chính phủ, các doanh nghiệp và các tổ 
chức xã hội dân sự trong đầu tư phát triển và chia sẻ chi phí.
  Phát triển nông nghiệp  ứng dụng công nghệ  cao  ở  các nước Đông 
Dương   có   bài   viết  Tăng   cường   chính   sách   phát   triển   nông   nghiệp   ở  
Campuchia  của tác giả  Chou  Chadary, bài viết  Một số  chính sách và biện  
pháp thúc đẩy phát triển nông thôn dựa vào nông nghiệp công nghệ cao ở Lào 
của tác giả  Bounthong Bouahom được in trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo quốc  
tế  về đẩy mạnh phát triển nông thôn tại tiểu vùng Mê­Kông dựa trên nông  
nghiệp công nghệ  cao và du lịch bền vững  [201]  do Viện Hàn lâm Khoa 
học xã hội Việt Nam tổ chức tại tỉnh Lâm Đồng vào năm 2015. Các tác giả 
đã khẳng định, nông nghiệp có vai trò “chủ đạo” trong quá trình phát triển KT­


15
XH của Lào và Campuchia. Trên cơ sở nhận thức vai trò của ứng dụng công 

nghệ  cao trong nông nghiệp, các tác giả  đều nhấn mạnh tính tất yếu phát 
triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nhằm đem lại hiệu quả  KT­XH 
cho đất nước của họ. Theo Chou Chadary, “đẩy mạnh ứng dụng công nghệ 
cao trong sản xuất nông nghiệp và sản xuất quy mô lớn là con đường duy  
nhất để  hiện đại hóa, tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả  và giá trị  nông 
sản” [201, tr.114].  
1.1.1.2. Các nghiên cứu của tác giả trong nước về nông nghiệp ứng dụng  
công nghệ cao ở một số nước trên thế giới
Phạm S (2014), Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là yêu cầu tất yếu  
để hội nhập quốc tế [67]. Cuốn sách đã khái lược những thành tựu nổi bật về 
công nghệ, sản phẩm chủ lực và hiệu quả kinh tế từ mô hình nông nghiệp ứng 
dụng công nghệ cao của các nước có nền nông nghiệp hiện đại trên thế giới. 
Cụ thể: 
Nông nghiệp Hà Lan: Mặc dù là nước có diện tích đất canh tác thuộc 
nhóm thấp nhất của thế  giới, lao động nông nghiệp ít (chỉ  chiếm 3,6% lao  
động xã hội), nhưng nhờ ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp đã đưa 
Hà Lan trở thành một trong những nước có nền nông nghiệp phát triển bậc  
nhất thế  giới, với nhiều mặt hàng xuất khẩu đứng đầu thế  giới. Nền nông 
nghiệp Hà Lan được ứng dụng cơ giới hóa hoàn toàn các khâu canh tác cùng 
với công nghệ nhà kính hiện đại. Bên cạnh yếu tố ứng dụng công nghệ, sự 
phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Hà Lan còn nhờ vai trò của các doanh 
nghiệp trong việc chú trọng hoạt động nghiên cứu. Theo tác giả, đây là một 
yếu tố quan trọng để “công nghệ cao trong nông nghiệp của Hà Lan luôn đổi 
mới, sáng tạo không ngừng” [67, tr.81]. 
Nông nghiệp Bỉ: Nhờ  chính sách phát triển nông nghiệp ứng dụng công 
nghệ cao nên chỉ trong vòng 10 năm (2003 ­ 2013) giá trị sản phẩm nông nghiệp 


16
tăng 20% trong khi số lượng nông dân giảm 30%. Thành tựu về phát triển nông 

nghiệp ở Bỉ có vai trò rất lớn các cơ quan và viện nghiên cứu nông nghiệp. Đặc  
biệt, sản xuất nông nghiệp của Bỉ có tính chuyên canh cao và chỉ tập trung sản 
xuất các loại cây trồng mang tính đặc trưng, có thế mạnh để hướng đến xuất 
khẩu như hoa thu hải đường, đỗ quyên, azaleas.
Nông nghiệp Hàn Quốc và Đài Loan đã có bước phát triển vượt bậc nhờ 
Chính phủ  đẩy mạnh  ứng dụng công nghệ  cao, nhất là CNSH. Chính phủ 
Hàn Quốc lựa chọn phát triển CNSH “làm khâu đột phá” [67, tr.84]. Nét nổi 
bật mang tính đặc thù trong tổ chức sản xuất nông nghiệp ở Hàn Quốc là chú 
trọng phát triển mô hình  HTX  đa mục tiêu. Ngoài yếu tố  công nghệ, thành 
công của nông nghiệp công nghệ cao Đài Loan có vai trò đặc biệt quan trọng 
của Nhà nước thông qua công tác xây dựng và quản lý quy hoạch. Nhà nước  
không chỉ quy hoạch mang tầm chiến lược mà còn chú ý đến từng việc nhỏ 
như: nhà lưới cao cấp trồng các loại hoa có giá trị cao thì dựng nhà kính màu 
đen, cây ăn trái thì màu xanh, rau thì nhà màng phủ ni lông màu trắng. Thống  
nhất quy  ước như  trên đã tạo nên sự  dễ  dàng trong điều tra, quy hoạch các  
loại cây trồng.
Nông nghiệp Nhật Bản: Mặc dù là một quốc gia có diện tích bình quân 
đầu người thấp nhất thế  giới (0,036 ha/người) nhưng Nhật Bản trở thành 
nước có nền nông nghiệp phát triển cao với nhiều cây trồng, vật nuôi có giá 
trị. Để có kỳ tích trên, Nhật Bản đã chú trọng đầu tư, ứng dụng công nghệ 
cao trong nông nghiệp, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin. Nhật Bản 
coi “công nghệ thông tin là khâu đột phá ứng dụng công nghệ cao” [67, tr.92] 
và đã áp dụng nó trong rất nhiều các công đoạn của sản xuất nông nghiệp. 
Nông  nghiệp Thái  Lan: Nhờ  chính  sách của Chính  phủ  về  khuyến 
khích hỗ trợ thành lập các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ về  KH­
KT trong nông nghiệp và đầu tư CNSH trong chọn, tạo giống cây trồng vật 


17
nuôi có ưu thế, nông nghiệp Thái Lan đã cho ra đời nhiều nông sản có chất  

lượng cao, được thị trường thế giới ưa chuộng như gạo, hoa ôn đới và các 
giống cây ăn quả có đặc tính trái ngược với bản chất giống (me ngọt, xoài  
ngọt, chôm chôm tróc, sầu riêng hạt lép,…). 
Nguyễn Văn Toàn (2016), Phát triển nông nghiệp công nghệ cao: Một  
số gợi ý cho Việt Nam [133]. Tác giả đã chỉ ra các giải pháp công nghệ cũng 
như chính sách cốt lõi của mỗi nước trong  ứng dụng công nghệ  cao để  tạo  
ra những thành tựu mang tính đột phá trong phát triển nông nghiệp như: 
phương thức chìa khóa trao tay của chính phủ  Isreal; sử  dụng thiết bị  tưới 
tiêu công nghệ cao, sử dụng máy kéo tự lái kết hợp với công nghệ GPS trong 
bón phân, thu hoạch của Mỹ;  ứng dụng công nghệ  thông tin trong sản xuất 
nông nghiệp của Ấn Độ; xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao với 3 
đặc trưng cơ bản và 5 chức năng chủ yếu của Trung Quốc. Từ những thành  
tựu tiêu biểu của các nước có nền nông nghiệp tiên tiến, tác giả  đã rút ra 
một số bài học đối với Việt Nam trong định hướng phát triển nông nghiệp 
ứng dụng công nghệ cao.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về phát triển nông nghiệp ứng dụng  
công nghệ cao ở trong nước 
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về nông nghiệp ứng dụng công nghệ  
cao trên phạm vi cả nước
Nghiên   cứu   về   lý   luận   nông   nghiệp   ứng   dụng   công   nghệ   cao   có 
Nguyễn Văn Bộ (2007), Phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam  
[203]. Trên cơ sở khẳng định:  Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất là yêu 
cầu tất yếu nhằm phát triển nông nghiệp  ở  nước ta trong giai đoạn hiện  
nay, tác giả đã đưa ra khái niệm và những đặc trưng của nông nghiệp  ứng  
dụng công nghệ cao. Theo tác giả, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là 


18
“nền nông nghiệp mà ở đó các loại hình công nghệ cao (cơ giới hóa, tự động  
hóa, công nghệ  thông tin, vật liệu mới và  công nghệ  sinh học) được  ứng 

dụng tổng hợp theo một quy trình khép kín, hoàn chỉnh, nhằm khai thác hiệu  
quả nhất tài nguyên tự  nhiên (đất đai, khí hậu) và tiềm năng của giống để 
đạt năng suất và chất lượng sản phẩm cao nhất một cách bền vững” [203, 
tr.111]. 
Nghiên cứu về thực trạng và giải pháp phát triển nông nghiệp ứng dụng 
công nghệ  cao  ở  Việt Nam còn có  Phạm Văn Hiển (2014),  Phát triển nông  
nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam: Kết quả ban đầu và những khó khăn cần  
tháo gỡ [30]; Trần Thanh Quang (2016), Về phát triển nông nghiệp công nghệ  
cao ở nước ta [64]. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả từ các mô hình sản xuất và  
vai trò “đầu tàu” của khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao [64, tr.84], tác 
giả  Trần Thanh Quang đã đề  xuất các giải pháp về công tác quy hoạch, bồi 
dưỡng nguồn nhân lực, tăng cường đầu tư cho hoạt động KH­CN trong nông 
nghiệp, hoàn thiện cơ chế, chính sách, đẩy mạnh cải cách hành chính, mở rộng 
liên kết hợp tác quốc tế, phát triển thị  trường và thực hiện chính sách “dồn 
điền, đổi thửa” nhằm thúc đẩy tích tụ ruộng đất, tăng cường xây dựng kết cấu  
hạ tầng nông thôn.
Bàn về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nông 
nghiệp ứng dụng công nghệ cao có các công trình tiêu biểu của Đỗ  Phú Hải 
(2015), Đánh giá chính sách quốc gia nhằm thúc đẩy nông nghiệp công nghệ  
cao và du lịch dựa vào nông nghiệp Việt Nam [201]; Đỗ Phú Hải (2016), Về 
chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở  nước ta [29]. Các công 
trình trên đã khái quát chính sách của Nhà nước về  phát triển nông nghiệp 
ứng dụng công nghệ  cao. Đánh giá tổng thể  chính sách quốc gia về  nông  
nghiệp  ứng dụng công nghệ  cao, tác giả  cho rằng: quan điểm phát triển 


19
chưa khai thác lợi thế so sánh của từng vùng sinh thái; chưa xây dựng được  
các khu nông nghiệp  ứng dụng công nghệ  cao làm hạt nhân công nghệ  để 
nhân rộng; chưa xã hội hóa tối đa đầu tư  xây dựng các khu và vùng nông 

nghiệp ứng dụng công nghệ cao; quy hoạch phát triển khu nông nghiệp ứng 
dụng công nghệ cao đang bị chi phối bởi tính cục bộ địa phương. Trên cơ sở 
đó, tác giả  đề  xuất các giải pháp về  phân loại và xác định tiêu chuẩn kỹ 
thuật, xây dựng quy hoạch; phát triển nguồn nhân lực; thu hút đầu tư và đa 
dạng hóa nguồn vốn đầu tư, nghiên cứu, ứng dụng công nghệ và tăng cường  
hợp tác quốc tế.
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu về  phát triển nông nghiệp  ứng dụng  
công nghệ cao tại các vùng, miền, địa phương
Nghiên cứu về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở các tỉnh 
miền núi phía Bắc có Lê Quốc Doanh (2007), Bước đầu ứng dụng công nghệ  
cao trong xây dựng mô hình phát triển nông nghiệp tại vùng miền núi phía Bắc  
[203]. Tác giả đã khái quát những kết quả bước đầu từ các mô hình ứng dụng 
công nghệ cao vào sản xuất đối với một số cây trồng ở khu vực miền núi phía 
Bắc, đồng thời chỉ ra hạn chế về quy mô sản xuất nông nghiệp ứng dụng công 
nghệ cao ở đây khi “chỉ mới xây dựng mô hình thử nghiệm” [203, tr.61]. Trên 
cơ sở đó, tác giả kiến nghị 4 giải pháp gồm: ứng dụng CNSH trong chọn tạo,  
nhân giống; kết hợp ứng dụng công nghệ tiên tiến với kỹ thuật truyền thống; 
xây dựng các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và thu hút nguồn lực  
đầu tư.
Nghiên cứu về  nông nghiệp  ứng dụng công nghệ  cao  ở  khu vực Đồng  
bằng sông Cửu Long có đề  tài khoa học cấp bộ  của Nguyễn Thành Hưng 
(2017),  Các giải pháp phát triển nông nghiệp công nghệ  cao  ở  vùng Đồng  
bằng sông Cửu Long [45]. Công trình đã luận giải những vấn đề  lý luận và 


20
thực tiễn về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đánh giá những 
thành tựu, hạn chế về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở vùng  
Đồng bằng sông Cửu Long trên các mặt: xây dựng khu nông nghiệp ứng dụng 
công nghệ  cao, phát triển vùng, doanh nghiệp nông nghiệp  ứng dụng công 

nghệ cao và sản phẩm nông nghiệp chủ đạo của vùng như  sản xuất lúa, rau 
màu, cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản. Trong đó, thành tựu nổi bật trong phát  
triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long 
là đã phát huy vai trò của các Viện, Trung tâm nghiên cứu, ứng dụng và chuyển 
giao KH­CN ở các địa phương trong vùng. Nhờ thế, đã thu hút ngày càng nhiều 
người nông dân và doanh nghiệp đầu tư phát triển nông nghiệp ứng dụng công 
nghệ cao. Tuy vậy, sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ  cao vẫn còn 
nhiều yếu tố hạn chế và chưa bền vững. Từ thực trạng trên, công trình đã đề 
ra 8 giải pháp đồng bộ nhằm đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ứng dụng công 
nghệ cao của vùng trong giai đoạn tiếp theo. 
Nghiên cứu về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ  cao trên địa 
bàn Tây Nguyên có công trình của Phạm Đức Nghiệm (2011), Đổi mới phương  
thức chuyển giao công nghệ phát triển nông, lâm nghiệp vùng Tây Nguyên  [57]. 
Tác giả đã làm rõ vị trí kinh tế mũi nhọn của ngành nông nghiệp, phác họa thực 
trạng việc ứng dụng và chuyển giao KH­CN cũng như giá trị sản xuất các loại  
cây trồng, vật nuôi chủ yếu ở Tây Nguyên. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất 
những giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình ứng dụng khoa học vào sản xuất  
nông nghiệp, trong đó đặc biệt nhấn mạnh giải pháp “từng bước hình thành các 
cụm, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với các vùng chuyên canh” 
[57, tr.154]. Tác giả  Nguyễn Duy Mậu (2016),  Tiềm năng phát triển du lịch  
nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn Tây Nguyên ­ Việt Nam [54] đã đánh 
giá tiềm năng, thế mạnh phát triển kinh tế du lịch nói chung, loại hình du lịch 


21
nông nghiệp công nghệ  cao nói riêng của khu vực Tây Nguyên, nhất là tỉnh  
Lâm Đồng. Theo tác giả, trong điều kiện hội nhập “phát triển du lịch nông 
nghiệp công nghệ cao là hình thức xuất khẩu nông sản tại chỗ hiệu quả nhất, 
đồng thời quảng bá nông sản qua con đường du lịch là con đường ngắn nhất  
để vào thị trường thế giới” [54, tr.54]. 

Nghiên cứu về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở Hà Nội 
có bài viết của tác giả  Bùi Thanh Tuấn (2016), Phát triển nông nghiệp ngoại  
thành Hà Nội hiện đại và bền vững [136]; Luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng của 
Ngô Thị Lan Hương (2017), Đảng bộ  thành phố Hà Nội lãnh đạo phát triển  
nông nghiệp theo hướng bền vững từ năm 2001 đến năm 2013 [46]. Các tác giả 
đã đánh giá thành tựu đạt được từ thực hiện mô hình nông nghiệp công nghệ 
cao trên địa bàn thành phố  Hà Nội dưới sự  lãnh đạo của Đảng bộ  và chính 
quyền Thành phố, đồng thời đúc rút một số kinh nghiệm nhằm phát triển nền 
nông nghiệp Thủ đô theo hướng bền vững trên cơ sở ứng dụng công nghệ cao.  
Để  phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng hiện đại và bền  
vững, tác giả Bùi Thanh Tuấn đã đề xuất 5 giải pháp, trong đó nhấn mạnh giải 
pháp “chú trọng đầu tư vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp chất lượng cao, 
từng bước hình thành tổ hợp nông nghiệp ­ công nghiệp ­ dịch vụ công nghệ 
cao theo lợi thế và đặc thù riêng của từng khu vực ngoại thành Hà Nội” [ 136, 
tr.59]. 
Nghiên cứu về nông nghiệp công nghệ cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, 
có các công trình tiêu biểu của Phạm Hữu Nhượng (2007),  Khu nông nghiệp  
công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh: Kết quả và những kiến nghị [203]; 
Trung Thành (2016), Bước phát triển nông nghiệp công nghệ  cao  ở  Thành  
phố  Hồ Chí Minh [81]. Các tác giả khẳng định sự  cần thiết đẩy mạnh ứng  
dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp và thành lập khu nông nghiệp 
công nghệ cao nhằm mở đường cho nông nghiệp Thành phố phát triển theo  


22
hướng hiện đại. Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển nền nông nghiệp 
Thành phố  gắn với vai trò “đầu tàu” của khu nông nghiệp  ứng dụng công 
nghệ cao, tác giả Phạm Hữu Nhượng đã kiến nghị 3 giải pháp đối với công 
tác quản lý nhà nước nhằm phát triển nông nghiệp  ứng dụng công nghệ cao 
nói chung và khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nói riêng.

Nghiên cứu về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở tỉnh 
Nghệ  An có  bài viết của Hồ  Đức Phớc (2016), “Hướng đi mới cho nông  
nghiệp Nghệ An” [62]. Tác giả đã đánh giá thực trạng việc ứng dụng KH­
CN vào sản xuất nông nghiệp và thực hiện đề  án phát triển nông nghiệp  
công nghệ  cao trên địa bàn tỉnh Nghệ  An. Đặc biệt, nhờ   ứng dụng công 
nghệ  cao của Công ty TH, giá trị  sản xuất trên một đơn vị  diện tích đất  
nông  nghiệp   đã   tăng  gấp  10   lần  so   với  trước   đây.   Tuy   vậy,   nền   nông 
nghiệp Nghệ  An vẫn còn lạc hậu. Vì thế, theo tác giả, để phát triển nông 
nghiệp theo hướng hiện đại hóa, Nghệ An cần tăng hàm lượng công nghệ 
trong sản xuất nông nghiệp và đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài.
Nghiên cứu về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở các tỉnh 
thuộc khu vực Tây Nguyên có các tác giả Thanh Hường (2016), “Ứng dụng  
công nghệ cao để gia tăng giá trị ngành nông nghiệp ” [47]; Đức Diệu (2014), 
“Liên kết hợp tác, xu thế tất yếu để  phát triển nông nghiệp công nghệ cao” 
[19]; Dương Nương (2016), “Kon Tum: Phát triển nông nghiệp ứng dụng công  
nghệ cao gắn với chế biến” [59]. Các tác giả đã khái quát những tiềm năng, lợi 
thế  của các tỉnh Đắc Lắc, Đắc Nông và Kon Tum, khẳng định sự  cần thiết 
ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, đồng thời đề ra các giải 
pháp nhằm phát triển nông nghiệp  ở  các  địa phương theo hướng công nghệ 
cao.  
1.1.2.3. Các công trình nghiên cứu về  phát triển nông nghiệp  ứng dụng  
công nghệ cao ở tỉnh Lâm Đồng


23
Nghiên cứu về  chủ  trương và thực trạng phát triển nông nghiệp  ứng  
dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng có Huỳnh Phong Tranh (2009), 
Lâm Đồng ứng dụng công nghệ cao, phát triển nông nghiệp bền vững  [134]. 
Tác giả đã phân tích làm rõ những thành tựu bước đầu và những yếu kém 
còn tồn tại sau 5 năm thực hiện chủ  trương của Tỉnh  ủy Lâm Đồng về 

chương trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Trên cơ  sở  đó, tác giả 
đúc rút 4  bài học kinh nghiệm:  một là,  xác định chương trình phát triển 
nông nghiệp ứng dụng công nghệ  cao là nhiệm vụ  của cả  hệ thống chính  
trị; hai là, lựa chọn, xây dựng mô hình điểm sinh động, hiệu quả, đồng thời 
chú trọng việc nhân rộng mô hình, chuyển giao công nghệ cho nông dân; ba 
là,  quan tâm phát triển các hình thức liên kết, hợp tác trong nông dân và 
giữa nông dân với doanh nghiệp; bốn là, ưu tiên đầu tư đúng mức cho công 
tác nghiên cứu,  ứng dụng và chuyển giao  KH­CN  cho nông dân.  Tác giả 
Minh Châu (2016),  Lâm Đồng: Phát triển nông nghiệp công nghệ  cao là  
khâu đột phá trong nhiệm kỳ  [14]  đã khái lược  chủ  trương của Đảng bộ 
tỉnh Lâm Đồng về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, coi đó  
“là một trong những khâu đột phá nhằm phát huy lợi thế các loại nông sản 
có giá trị kinh tế cao” trong hai nhiệm kỳ qua; đánh giá những thành tựu nổi 
bật sau hơn 10 năm (2004 ­ 2015) thực hiện chương trình phát triển nông 
nghiệp  ứng dụng công nghệ  cao ở  tỉnh Lâm Đồng. Trên cơ  sở  đó, tác giả 
nhấn mạnh: Thành tựu từ  quá trình thực hiện chương trình đã đưa Lâm 
Đồng trở  thành một trong các tỉnh dẫn đầu và là “điểm sáng” về  nông  
nghiệp ứng dụng công nghệ cao của cả nước. 
Về sự  tác động phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đối với  
thu hút FDI,  tác giả  Phạm S (2016),  Nông nghiệp  ứng dụng công nghệ  
cao tạo bước đột phá thu hút FDI chủ  động hội nhập quốc tế [135] đã 
tập trung phân tích làm rõ những tiềm năng, lợi thế  của Tỉnh và những 


24
thành tựu về  thu hút đầu tư  nước ngoài vào phát triển nông nghiệp  ứng 
dụng công nghệ  cao   với nhiều dự  án đã và đang triển khai. Trên cơ  sở 
đó, đề  xuất những kiến nghị, gi ải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư 
vào lĩnh vực nông nghiệp ở địa phương. Bên cạnh thu hút đầu tư, tác giả 
Phạm S (2015), Lâm Đồng là trung tâm phát triển nông nghiệp  ứng dụng  

công nghệ  cao và du lịch bền vững khu vực Mê Kông [201] còn chỉ  rõ: sự 
phát triển của nông nghiệp  ứng dụng công nghệ  cao trên địa bàn Đà Lạt ­  
Lâm Đồng đã tạo ra tiềm năng phát triển loại hình du lịch mới ­ du lịch  
canh nông. Theo tác giả, với lợi thế trung tâm du lịch nổi tiếng, lại là trung  
tâm sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đứng đầu cả nước nên  
Đà Lạt ­ Lâm Đồng có tiềm năng rất lớn để  phát triển “du lịch canh nông 
có tầm cỡ khu vực và quốc tế” [201, tr.253]. 
Về sự tác động của mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ  cao đến  
thực hiện Chương trình quốc gia về xây dựng nông thôn mới, tác giả Hạ Long  
(2016), Năm cách làm mới, hiệu quả trong xây dựng nông thôn mới thực chất,  
vững chắc ở tỉnh Lâm Đồng [50] đã phân tích làm rõ những điểm sáng tạo trong 
lãnh đạo, chỉ  đạo thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới  ở  Lâm 
Đồng. Nổi bật trong những cách làm mới góp phần đưa Lâm Đồng “trở thành 
lá cờ  đầu xây dựng nông thôn mới của Tây Nguyên” [50, tr.76] là nhờ  địa 
phương đã không phát triển nông nghiệp theo phương thức sản xuất truyền 
thống mà lựa chọn nông nghiệp sạch  ứng dụng công nghệ  cao theo hướng  
hàng hóa để  phát triển. Tác giả  còn nhấn mạnh: “Ứng dụng công nghệ  cao  
trong sản xuất nông nghiệp thực sự không còn là những mô hình trình diễn nhỏ 
lẻ mà đang dần trở thành một tập quán canh tác trên diện rộng của người nông 
dân Lâm Đồng” [50, tr.73]. 
Dưới góc độ  luận giải tác động với  ứng phó biến đổi khí hậu, tác giả 
Huy Sơn (2016), Lâm Đồng: Phát triển nông nghiệp công nghệ cao ­ giải pháp  


25
chống hạn hiệu quả [77] đã phân tích làm rõ nguyên nhân cơ bản nhất mà nền 
nông nghiệp Lâm Đồng không chịu tác động bởi nạn hạn hán nghiêm trọng trên 
địa bàn Tây Nguyên năm 2015 là nhờ  địa phương đẩy mạnh  ứng dụng công 
nghệ cao vào sản xuất, đặc biệt là công nghệ nhà kính và tưới nước tiết kiệm. 
Nghiên cứu về ứng dụng công nghệ cao đối với một số cây trồng vật nuôi  

có thế  mạnh của Lâm Đồng  có các công trình tiêu biểu như: Sở  NN&PTNT 
tỉnh Lâm Đồng (2016), Hiện trạng và định hướng sản xuất rau, hoa ứng dụng  
công nghệ cao tại Lâm Đồng [135]. Bài viết đã phân tích thực trạng diện tích, 
quy mô, giá trị sản xuất rau, hoa  ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh.  
Đặc biệt, với hiệu quả  kinh tế  từ  sản xuất rau, hoa công nghệ  cao mang 
lại, việc áp dụng công nghệ  kỹ  thuật theo hướng nông nghiệp công nghệ 
cao  ở  Lâm Đồng đã “được thực hiện rộng rãi đến quy mô hộ  gia đình”  
[135, tr.40]. Bên cạnh những thành tựu nổi bật, sản xuất rau, hoa công 
nghệ  cao  ở  Lâm Đồng vẫn còn đối diện với nhiều khó khăn  về  quy mô 
diện  tích   đất   canh   tác,  nguồn  vốn   đầu   tư,   công  nghệ   ứng  dụng   và  thị 
trường tiêu thụ. Để  khắc phục những tồn tại trên, bài viết đã đề  xuất các 
giải pháp  về  công tác quy hoạch,  xúc tiến du lịch nông nghiệp, phát triển 
theo hướng tiếp cận đa ngành và đầu tư  xây dựng cơ  sở  hạ tầng kỹ thuật. 
Bài viết Phát triển đàn bò chất lượng cao ở Lâm Đồng của tác giả Đinh Văn 
Cải  và  Một số  kết quả   ứng dụng tiến bộ  kỹ  thuật trong chăn nuôi bò tại  
Lâm Đồng và Tây Nguyên  của tác giả  Trương La  trong  Kỷ  yếu hội thảo  
quốc tế về khoa học và công nghệ phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp  
công nghệ  cao tỉnh Lâm Đồng  [175]  do UBND tỉnh Lâm Đồng tổ  chức đã 
phân tích làm rõ những tiềm năng, lợi thế và thực trạng chăn nuôi bò, cũng  
như quá trình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi bò sữa, bò thịt trên 
địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Bài viết của tác giả  Võ Thế  Dũng (2013), Nuôi cá 
nước lạnh tỉnh Lâm Đồng ­ Thành tựu và triển vọng [175] đã phân tích làm 


26
rõ những thành tựu đạt được trong sản xuất cá thương phẩm, trong nghiên  
sản xuất giống cá hồi, cá tầm trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.  Theo tác giả, 
những thành công bước đầu trong nuôi cá nước lạnh là cơ  sở  để  tỉnh Lâm  
Đồng đề  ra mục tiêu đến năm 2020, sản lượng cá nước lạnh toàn tỉnh đạt 
khoảng 3.000 tấn, sản xuất được 40 ­ 45% giống cá hồi giống và 15 ­ 20% 

cá tầm giống. 
Nghiên cứu về  các doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ  cao  ở  Lâm  
Đồng có Nguyễn Đình Sơn (2016), Kết quả ứng dụng công nghệ cao tại Công  
ty cổ phần công nghệ sinh học Rừng hoa Đà Lạt và định hướng phát triển công  
nghệ cao trong thời gian tới [135]. Tác giả đã làm rõ những bước phát triển đột 
phá trong sản xuất cây giống và trồng hoa công nghệ  cao trong nhà kính của  
doanh nghiệp, nhất là từ khi ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất. Từ thành 
công của doanh nghiệp, tác giả cho rằng: Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất 
nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế rất lớn, là hướng đi mới trong sản xuất 
nông nghiệp.
Về  HTX có bài viết của HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp Anh Đào 
(2016), Kinh nghiệm sản xuất rau công nghệ cao của hợp tác xã Anh Đào ­ Đà  
Lạt [135]. Bài viết đã khái lược quá trình phát triển nhanh chóng của HTX Anh 
Đào sau hơn 10 năm hoạt động. Nhờ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào  
sản xuất và cơ chế quản lý hiệu quả nên chất lượng sản phẩm và hiệu quả 
sản   xuất   kinh   doanh   của  HTX  tăng   trưởng   cao   (bình   quân   đạt   500   triệu 
đồng/ha/năm). Trên cơ  sở  đó, bài viết đã rút ra kinh nghiệm: sản xuất công 
nghệ cao là hướng đi tích cực, song cần lựa chọn phù hợp về đối tượng cây 
trồng, công nghệ áp dụng, quy mô, khả năng đầu tư, điều kiện KT­XH của địa 
phương. 
1.2. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã được công bố 
và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết


×