BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BỘ VĂN HĨA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM
NGUN THI LOAN
̃
̣
BỔ SUNG MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM HỊA ÂM THẾ KỶ XX
VÀO CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY TẠI HỌC VIỆN ÂM
NHẠC
QUỐC GIA VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ ÂM NHẠC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS.Phạm Tú Hương
Hà Nội 03/2019
Cơng trình được hồn thành tại Học viện âm nhạc Quốc gia Việt
Nam
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Phạm Tú Hương
Phản biện 1: …………………………………………………
………………………………………………...
Phản biện 2: …………………………………………………
………………………………………………...
Phản biện 3: …………………………………………………
………………………………………………...
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện
họp tại
Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, 77 Hào Nam, Đống Đa, Hà Nội.
Vào hồi…….. giờ ……… ngày ……. tháng ……. năm ………….
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
Thư viện Học viện âm nhạc Quốc gia Việt Nam
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
HVANQGVN là trung tâm đào tạo hàng đầu về âm nhạc chun nghiệp
trong tồn quốc có trách nhiệm bổ sung, cập nhật những kiến thức khoa học
mới vào cơng việc đào tạo giảng dạy cũng như nghiên cứu. Trong một vài
năm trở lại đây, sinh viên cũng đã được tiếp cận với nhiều tác phẩm âm
nhạc thế kỷ XX trong những bài học chuyên ngành như Piano, Guitar,
Accordeon, các nhạc cụ bộ gỗ v.v… và nhiều tác phẩm viết cho dàn nhạc
cũng như các tác phẩm hịa tấu thính phịng. Một số nhạc sĩ và các trào lưu
âm nhạc sáng tác thuộc thế kỷ XX cũng đã được bổ sung vào chương trình
giảng dạy mơn lịch sử âm nhạc thế giới, mà vẫn chưa được cập nhật vào
mơn Hồ âm.
Luận án chúng tơi sẽ đề cập đến một số nội dung hồ âm thế kỷ XX
và tìm hiểu xem các cơ sở đào tạo âm nhạc trên thế giới đã đưa hồ âm thế
kỷ XX áp dụng vào giảng dạy ở các trường âm nhạc như thế nào? Và tiếp
đến việc làm sao cập nhật bổ sung chương trình hồ âm thế kỷ XX đưa vào
giảng dạy tại HVANQGVN trong thời gian sớm nhất.
Hiện nay bộ mơn Lý luận đã được đổi tên thành Âm nhạc học, trong
luận án này chúng tơi dùng theo cách gọi Âm nhạc học.
Mơn Hoa âm đa va đang đ
̀
̃ ̀
ược day
̣ ở HVANQGVN, được goi la phân
̣ ̀ ̀
“Hoa âm cơ điên”.
̀
̉
̉ Qua tìm hiểu chương trình hịa âm cho sinh viên các
chun ngành tại HVANQGVN cho thấy, mặc dù từ năm 2013 đã có chủ
trương đưa phần hịa âm thế kỷ XX vào giảng dạy cho một số chun
ngành. Tuy nhiên do nhiều lý do, phần kiến thức này cho đến nay vẫn chưa
được triển khai khiến cho sinh viên gặp rất nhiều khó khăn khi chơi những
tác phẩm hiện đại và càng bỡ ngỡ hơn khi tham gia vào chương trình biểu
diễn hịa tấu giao lưu với nhiều trường bạn trên thế giới. Sinh viên khoa
Sáng tác Chỉ huy Âm nhạc học cũng khơng dễ dàng khi thực hiện các bài
viết chun ngành liên quan đến ngơn ngữ âm nhạc thế kỷ XX.
Hồ âm thế kỷ XX là một phần khơng thể thiếu trong mơn hồ âm
giảng dạy tại HVANQGVN. Nhận thức được u cầu cấp bách của việc đưa
một số kiến thức hịa âm ở thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy mơn hịa âm
ở HVANQGVN, và với trách nhiệm của những người thầy thuộc thế hệ
sau, chúng tơi thấy có nghĩa vụ phải cập nhật kiến thức mới cho chương
trình giảng dạy âm nhạc nói chung và hồ âm nói riêng. Đây cũng chính là lý
do khiến chúng tơi lựa chọn lĩnh vực nghiên cứu này. Đề tài luận án có tiêu
đề “Bổ sung một số đặc điểm hồ âm thế kỷ XX vào chương trình giảng
dạy tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam”.
Đây la mơt đê tai mang tinh câp thiêt nh
̀ ̣ ̀ ̀
́
́
́ ưng đơng th
̀
ời cung la mơt đê tai
̃
̀ ̣ ̀ ̀
kho. Hy vong se đ
́
̣
̃ ược sự ung hô va giup đ
̉
̣ ̀ ́ ỡ cua nh
̉
ưng bâc thây đi tr
̃
̣
̀
ước và
2
cac đơng nghiêp đê b
́ ̀
̣
̉ ổ sung vao ch
̀ ương trình giang day mơn Ly thut hoa
̉
̣
́
́
̀
âm của HVANQGVN nhằm giup sinh viên co thê tiêp cân v
́
́ ̉ ́ ̣ ới ngơn ngữ âm
nhac m
̣
ơi trong các tác ph
́
ẩm đương đại cung nh
̃
ư phân tích và thưởng thưć
nhưng tac phâm m
̃
́
̉
ơi.
́
2. Lịch sử đề tài
Vấn đề nghiên cứu để làm sao có thể đưa những đặc điểm, những
thành tựu của âm nhạc thế kỷ XX vào giảng dạy tại HVANQGVN đã được
thể hiện ở nhiều cơng trình nghiên cứu cũng như trong các luận án tiến sĩ,
luận văn thạc sĩ.
Luận án tiến sĩ của Vũ Đình Thạch bảo vệ năm 2009 có tiêu đề: Âm nhạc
thế kỷ XX và vai trị của nó trong việc đào tạo kèn Clarinette tại Nhạc viện Hà
Nội.
Luận án tiến sĩ của Phạm Phương Hoa Những thủ pháp sáng tác trong
một số trường phái âm nhạc thế kỷ XX bản bảo vệ năm 2010.
Luận án tiến sĩ của Ngơ Phương Đơng Đào tạo âm nhạc thế kỷ XX cho
kèn Hautbois tại HVANQGVN được bảo vệ năm 2011.
Luận án tiến sĩ của Cao Sĩ Anh Tùng Nghệ thuật Guitar đương đại nửa
sau thế kỷ XX trong đào tạo Guitar chun nghiệp tại Việt Nam bảo vệ năm
2015.
Các thủ pháp hồ âm thế kỷ XX đã được trình bày rất phong phú và đa
dạng trong các tài liệu của nước ngồi. Chúng tơi sẽ trình bày một số cơng trình
tiêu biểu trong mục Tổng quan tình hình nghiên cứu ở chương 1 của luận án.
Ở Việt Nam, những cơng trình nghiên cứu về hồ âm thế kỷ XX của
Phương Tây, cũng như hồ âm trong các tác phẩm âm nhạc mới Việt Nam
khơng có nhiều và cũng chỉ giới hạn trong một vài giáo trình, luận án hay
luận văn trong lĩnh vực Âm nhạc học.
Cuốn Giáo trình hồ thanh (Bậc đại học) của Phạm Minh Khang
(2005), có giới thiệu chương IV “Sơ khảo sự hình thành và phát triển một
số thủ pháp hồ âm trong âm nhạc TKXX”, do Trung tâm thơng tin Thư
viện âm nhạc xuất bản.
Ngồi cuốn giáo trình này, trong một số luận án, luận văn thuộc chun
ngành Âm nhạc học đã bảo vệ tại HVANQGVN có đề cập đến lĩnh vực hồ
âm trong các tác phẩm âm nhạc phương Tây cũng như tác phẩm của các
nhạc sĩ Việt Nam có liên quan đến hồ âm thế kỷ XX mà chúng tơi đã giới
thiệu ở phần lịch sử đề tài.
Vấn đề này sẽ được chúng tơi phân tích sâu trong phần Tổng quan tình
hình nghiên cứu ở chương một luận án.
Tại Việt Nam cho đến thời điểm này, chúng tơi chưa thấy một cơng
trình nghiên cứu khoa học nào đề cập tới vấn đề Bổ sung một số đặc điểm
hồ âm thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy tại Học viện Âm nhạc Quốc
3
gia Việt Nam hay một cơ sở đào tạo âm nhạc chun nghiệp nào ở Việt
Nam. Vì thế, đề tài luận án khơng trùng lặp với các cơng trình đã cơng bố.
3. Muc đich nghiên c
̣
́
ưu
́
Mục đích nghiên cứu của luận án hướng tới việc bổ sung một số kiến
thức hồ âm thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy, sau khi đã kết thúc phần
hồ âm cổ điển cho sinh viên các chun ngành âm nhạc, nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu địi hỏi của xã hội trong giai đoạn
hiện nay. Qua đó có thể giúp sinh viên cập nhật được những kiến thức mới khi
biểu diễn hoặc phân tích các tác phẩm đương đại.
4. Đơi t
́ ượng va pham vi nghiên c
̀
̣
ưu
́
4.1 Đối tượng nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu: Thứ nhất là sinh viên hệ đại học của
HVANQGVN chun ngành biểu diễn và Sáng tác Chỉ huy Âm nhạc học
là đối tượng nghiên cứu của luận án. Thứ hai là nghiên cứu chương trình,
giáo trình, phương pháp giảng dạy mơn Hồ âm tại HVANQGVN, để cập
nhật một số kiến thức hồ âm thế kỷ XX vào giảng dạy cho sinh viên tại
Học viện. Thứ ba là chọn một số tác phẩm âm nhạc Phương Tây và Việt Nam ưa
sử dụng ngơn ngữ hồ âm thế kỷ XX để đưa vào phần nghiên cứu và bài tập phân
tích mơn Hồ âm. Thứ tư là chọn một số nội dung tiêu biểu về hồ âm thế kỷ
XX để đưa vào chương trình giảng dạy tại HVANQGVN trong thời kỳ này.
4.2 Phạm vi nghiên cứu: Giảng dạy hồ âm thế kỷ XX cho sinh viên
đại học tại HVANQGVN.; Tác phẩm âm nhạc thế giới và Việt Nam tiêu
biểu sử dụng ngơn ngữ hồ âm thế kỷ XX.
5. Phương phap nghiên c
́
ưu
́
5.1 Phương pháp nghiên cứ u lý thuy ết : Phương pháp phân tích, so
sánh, qui nạp, đối chiếu, tổng hợp v.v... các kiến thức hồ âm ở thế kỷ XX
nhằm tìm ra những vấn đề cốt lõi để bổ sung vào chương trình giảng dạy
mơn Hồ âm bậc đại học tại HVANQGVN.
Xem xét chương trinh, giao trinh đã có, cũng nh
̀
́ ̀
ư đuc kêt lai nh
́ ́ ̣
ưng kinh
̃
nghiêm, ph
̣
ương phap giang day hoa âm cua cac thê hê giang viên, cac giao s
́
̉
̣
̀
̉
́
́ ̣ ̉
́
́ ư,
tiên si đâu nganh; kê th
́ ̃ ̀
̀
́ ưa, tiêp thu cac thanh t
̀
́
́
̀ ựu khoa hoc co liên quan đên đê tai
̣
́
́ ̀ ̀
nghiên cưu đê xây d
́ ̉
ựng phân
̀ ưng dung n
́
̣
ội dung mới thực hanh.
̀
5.2 Ph ươ ng pháp nghiên cứ u th ực nghi ệm : Tổ ch ức d ạy th ực
nghiệm m ột s ố n ội dung hoà âm thế k ỷ XX cho sinh viên các chuyên
ngành khác nhau đ ể kiể m ch ứng tính kh ả thi c ủa nh ững ki ến th ức đư a
vào ch ươ ng trình giảng dạy, ph ươ ng pháp dạy h ọc và khả năng tiế p
thu c ủa sinh viên.
Ngồi ra, chúng tơi cịn sử dụng phương pháp lấy ý kiến chun gia,
phỏng vấn những người có liên quan để xem kiến thức hồ âm thế kỷ XX
được tiếp cận như thế nào trong các cơ sở đào tạo âm nhạc trên thế giới.
4
6. Đóng góp của luận án
6.1 Về mặt lý luận: Tổng kết ngơn ngữ hồ âm thế kỷ XX thơng qua
một số dạng điệu thức, cấu trúc hợp âm chồng âm, các thủ pháp hịa âm
v.v... Đề xuất đưa nội dung hồ âm thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy
cho sinh viên đại học tại HVANQGVN đáp ứng nhu cầu đào tạo sinh viên
âm nhạc chun nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
6.2 Về mặt thực tiễn: Đưa phần kiến thức hồ âm tiêu biểu của thế kỷ
XX vào giảng dạy hệ đại học tại HVANQGVN. Xây dựng chương trình và
nội dung phần hồ âm thế kỷ XX cho bậc đại học, góp phần hồn thiện
chương trình mơn học hồ âm nói chung. Đề xuất một số phương pháp dạy
phần hịa âm thế kỷ XX.
Ngồi ra, thơng qua luận án này có thể gợi mở phần nào về tư duy, ý
tưởng kết hợp những nhân tố âm nhạc truyền thống dân tộc với các thủ
pháp hiện đại cho sinh viên sáng tác, nhằm tạo ra các tác phẩm vừa có tính
dân tộc vừa phù hợp với hơi thở cuộc sống, thẩm mỹ thời đại. Với sinh
viên thuộc các chun ngành khác, kiến thức hồ âm thế kỷ XX giúp các em
có thể tiếp cận thuận lợi hơn, sâu sắc hơn với các tác phẩm âm nhạc
đương đại khi phân tích, tìm hiểu phong cách tác giả hoặc thể hiện các tác
phẩm âm nhạc này.
7. Bố cục của luận án
Luận án dài 148 trang gồm Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Nội dung
luận án gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN
CỨU VÀ THỰC TRẠNG DẠY HỒ ÂM Ở HỌC VIỆN ÂM NHẠC
QUỐC GIA VIỆT NAM
1.1 Cơ sở lý luận
Hịa âm là một mơn học quan trọng trong chương trình đào tạo âm nhạc
chun nghiệp tại các Học viện âm nhac, Nhạc viện. Từ trình độ trung cấp
đến đại học, từ các chun ngành biểu diễn đến các chun ngành Sáng tác
Chỉ huy Âm nhạc học, ở mỗi cấp học, mỗi chun ngành, học sinh sinh
viên được tiếp cận với các kiến thức, các kỹ năng thực hành hịa âm khác
nhau.
Mơn hịa âm giúp cho học sinh sinh viên có thể hiểu về cấu trúc hình
thức của tác phẩm, sự sắp xếp các dạng hợp âm trong các điệu thức khác
nhau và những ngun lý kết hợp các hợp âm theo chiều dọc và chiều ngang
cũng như vị trí các hợp âm trong tác phẩm âm nhạc v.v… Qua đó có thể
hiểu thêm về quan điểm thẩm mỹ, phong cách sáng tác của tác giả.
5
Trong lịch sử phát triển của hịa âm, kể từ khi nhạc sĩ J.P. Rameau
(16831764) đúc kết thành những ngun lý mang tính khoa học cho đến
nay, ngơn ngữ hịa âm đã có rất nhiều thay đổi. Do ở mỗi giai đoạn, mỗi
trường phái âm nhạc, ln địi hỏi cần có sự đổi mới về các phương tiện
thể hiện nghệ thuật âm nhạc cho phù hợp với nội dung, với yêu cầu của
xã hội đương thời.
Đặc biệt, từ cuối thế kỷ XIX đến thế kỷ XX đã có nhiều trào lưu,
nhiều trường phái, nhiều khuynh hướng sáng tác cũng như quan điểm nghệ
thuật, quan điểm thẩm mỹ xuất hiện. Các nhà soạn nhạc ở giai đoạn này
đều lao vào để tìm kiếm mọi khả năng biểu hiện ở mức độ tối đa của ngơn
ngữ hịa âm. [24/tr.121]
Hịa âm ở thế kỷ XX có nhiều khuynh hướng mới, nhiều thủ pháp mới
hồn tồn xa rời những ngun tắc hịa âm của những thế kỷ trước. Vì lý do
đó, chúng tơi cho rằng việc đưa những kiến thức hịa âm ở thế kỷ XX vào
chương trình giảng dạy mơn Hịa âm trong HVANQGVN là rất cần thiết.
Việc làm này sẽ giúp cho sinh viên có những kiến thức cơ bản về hịa âm
trong giai đoạn hiện nay. Giúp các em có thể hiểu và sử lý các tác phẩm âm
nhạc thế kỷ XX có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, như trên chúng tơi đã trình bày, ngơn ngữ hịa âm ở thế
kỷ XX rất phức tạp và phong phú vì có nhiều trường phái, nhiều khuynh
hướng sáng tác khác nhau, dẫn đến có rất nhiều thủ pháp phát triển mới,
kết hợp cùng lúc các dạng điệu thức với nhau và ra đời nhiều dạng cấu tạo
hợp âm khơng sắp xếp theo qui luật qng ba như cấu tạo hợp âm chồng
qng bốn, cấu tạo hợp âm chồng qng hai và nhiều dạng hợp âm thêm
nốt v.v…Với thời lượng dành cho mơn hịa âm rất khiêm tốn, mặt bằng
chung về kiến thức hịa âm của sinh viên cịn thấp, vì vậy chúng tơi khi viết
luận án này đã phải lựa chọn trong những phần kiến thức hịa âm thế kỷ
XX những nội dung nổi bật vừa đơn giản, dễ hiểu, nhưng thể hiện được
những điểm đặc trưng của hịa âm ở giai đoạn này để đưa vào chương trình
giảng dạy. Chúng tơi hy vọng những nghiên cứu và thử nghiệm của mình
sẽ góp phần vào việc đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo mơn Hịa âm
trong HVANQG VN.
1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu về hồ âm Thế kỷ XX
1.2.1 Sách và các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi
Trong q trình nghiên cứu, chúng tơi đã tìm được chín cuốn sách đã
được xuất bản dưới dạng sách giáo khoa hịa âm thế kỷ XX bằng tiếng
Anh và tiếng Đức, trong đó phải kể đến:
Cuốn “TwentiethCentury Harmony” do Vincent Persichetti biên soạn
(Nhà xuất bản W.W.Norton &Company, 1961) dày 279 trang. Đây là một
trong những cuốn hịa âm được dùng nhiều ở các trường nhạc trên thế giới.
6
Và tác giả Vincent Persichtti cịn được nhiều người biết đến là cuốn lý
thuyết hịa âm thế kỷ XX của ơng với tiêu đề “TwentiethCentury Harmony
Creative Aspects and Practice”. Tác giả nghiên cứu sẽ trình bày nội dung chi
tiết hơn trong chương 2 cuả luận án.
Ngồi ra có thể tham khảo thêm chín đầu sách khác mà chúng tơi trình
bày trong luận án chương I mục 1.2.1.
1.2.2 Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Mơn hoa âm đa va đang đ
̀
̃ ̀
ược day
̣ ở HVANQGVN, được goi la phân
̣ ̀ ̀
“Hoa âm cơ điên”, chu u d
̀
̉
̉
̉ ́ ựa theo sach giao khoa Hoa âm c
́
́
̀
ủa bơn tac gia
́ ́
̉
Nga I.Đubơpxki, X.Epxeep, I.Xpaxobin, V.Xơcolop.
Chúng tơi nhận thấy về sách giáo khoa hồ âm ở Việt Nam chủ yếu
vẫn đề cập các kiến thức hồ âm cổ điển, thiếu hẳn phần hồ âm thế kỷ
XX.
Ở Viẹt̂ Nam nói chung và HVANQGVN nói riêng, chua̛ áp dụng
chương trình giảng dạy hồ âm thế kỷ XX cho sinh viên đại học. Do vạy,
̂
viẹc nghiên c
̂
ưu
́ “Bổ sung một số đặc điểm hồ âm thế kỷ XX vào chương
trình giảng dạy tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam” đươc đ
̣ ạt ra là
̆
mọt vân đê câp thiêt và có hu
̂ ́ ̀ ́
́
̛ơng
́ ưng dung thiêt th
́
̣
́ ực.
1.3 Thực trạng dạy hồ âm ở HVANQGVN
1.3.1 Mơn Hồ âm trong q trình phát triển từ Trường Âm nhạc
Việt Nam đến HVANQGVN ngày nay
Cách đây hơn 60 năm, Trường Âm nhạc Việt Nam đã ra đời (1956)
đánh dấu một sự kiện lớn trong đời sống âm nhạc Việt Nam lúc bấy giờ.
Những ngày đầu mới thành lập, với đội ngũ giảng viên cịn q ít ỏi,
trình độ chun mơn của họ phần lớn là tự học, khơng được đào tạo một
cách chính quy, bài bản. Với số giảng viên khơng đầy đủ các chun ngành,
cơ sở vật chất từ trường, lớp đến các nhạc cụ và sách giáo khoa âm nhạc
cịn rất nghèo nàn, thiếu thốn nhưng với lịng u nghề và ý chí quyết tâm
cao, các giảng viên của trường đã bắt đầu khai giảng khố trung cấp đầu
tiên.
Chương trình dạy hồ âm lúc bấy giờ chủ yếu là những kiến thức hồ
âm cổ điển Phương Tây và đưa vào giảng dạy ở trình độ trung cấp. 1
Phải kể đến nhạc sĩ Ca Lê Thuần Là người được đào tạo chun sâu về
chun ngành Hồ âm Phức điêụ, ơng đã có cơng rất lớn trong việc xây dựng
chương trình của hai mơn học này ở Trường Âm nhạc Việt Nam lúc bấy giờ.
Chương trình mơn hồ âm do nhạc sĩ Ca Lê Thuần biên soạn chủ yếu
dựa vào chương trình của các nhạc viện ở Liên Xơ (cũ) thời bấy giờ.
Nội dung chương trình chủ yếu trình bày các kiến thức của hồ âm thời
1
Cuộc trao đổi với nhạc sĩ Hồng Đăng ngày 28 tháng 1 năm 2018 tại nhà riêng của nhạc sĩ.
7
kỳ cổ điển. Phần hồ âm thế kỷ XX chưa được đưa vào chương trình.
Thầy Ca Lê Thuần chỉ đưa vào dạy một số nét khái qt về hồ âm giai
đoạn nửa sau thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX như một dạng Semine. 2
Do vậy, cho đến nay các kiến thức hoà âm được dạy trong
HVANQGVN vẫn chủ yếu là hồ âm Phương Tây ở giai đoạn cổ điển.
Đến phần cao học, các khố đào tạo trước đây được học mơn Lịch sử
hồ âm thế kỷ XX do nhạc sĩ Phạm Minh Khang giảng dạy có giới thiệu
đơi nét về phong cách hồ âm của một số nhạc sĩ thuộc trường phái âm
nhạc nửa đầu thế kỷ XX.
Sau này trường có mời một số chun gia nước ngồi sang giảng dạy
cho các lớp cao học giới thiệu về ngơn ngữ hồ âm thế kỷ XX.
Hiện tại tổ Hịa âm Lý thuyết Phức điệu có năm giảng viên cơ hữu
và hai cộng tác viên với việc giảng dạy ba mơn: Lý thuyết âm nhạc, Hồ âm
và Phức điệu, ở cả hệ trung cấp và đại học.
Hiện nay việc giảng dạy mơn Hồ âm tại HVANQGVN được phân
chia theo chương trình và giáo trình giảng dạy dưới đây.
1.3.2 Chương trình và giáo trình
1.3.2.1 Chương trình
Đối với trình độ trung cấp
Chia làm hai nhóm ngành đào tạo phù hợp với các đối tượng học: Lớp
hồ âm trung cấp biểu diễn và lớp hồ âm trung cấp Sáng tác Chỉ huy Âm
nhạc học. Chương trình hồ âm trung cấp đều được bắt đầu học từ năm
trung cấp hai (gọi theo cách phân hệ đào tạo trước đây) và được học lý
thuyết hồ âm trong một năm, bao gồm hai học kỳ, tương đương hai tiết/1
tuần/90 phút, với tổng số là 28 tuần học và thi, tương đương 56 tiết. Riêng
lớp hồ âm trung cấp Sáng tác Chỉ huy Âm nhạc học, được chia thành hai
mơn học: Hồ âm lý thuyết kéo dài bốn học kỳ, học năm thứ hai và thứ ba,
tương đương 112 tiết/1 năm và hồ âm trên đàn hai học kỳ, học năm thứ ba,
tương đương 84 tiết/1 năm.[PL2.1 và 2.2]
Đối với trình độ đại học
Đối với chương trình hồ âm đại học cũng được phân theo hai dạng
đối tượng đào tạo giống ở bậc trung cấp, đó là chun ngành biểu diễn và
chun ngành Sáng tác Chỉ huy Âm nhạc học, nhưng số tiết học được
kéo dài hơn một tuần / cho mỗi kỳ. Vậy tổng số là 60 tiết trong một năm.
* Chương trình hồ âm đại học chun ngành biểu diễn được học hai
học kỳ trong năm thứ nhất, nội dung được học hết phần chuyển điệu cấp I.
[Xem PL2.2]
2
Trao đổi với giảng viên PGS.TS.Phạm Tú Hương
8
* Chương trình hồ âm đại học chun ngành Sáng tác Chỉ huy Âm
nhạc học, cũng được chia thành hai mơn học là Hồ âm lý thuyết (Học ba
học kỳ, bao gồm hai học kỳ năm thứ nhất và học kỳ I năm thứ hai, tương
đương 90 tiết / 1 năm) và mơn Hồ âm trên đàn học hai học kỳ vào năm thứ
hai, tương đương 60 tiết/1 năm). [Xem PL2.3]
Hiện nay Học viện vẫn đang sử dụng “Sách giáo khoa hồ âm” của
bốn tác giả Nga và “Sách hợp tuyển để phân tích hồ âm” để làm giáo trình
giảng dạy cho học sinh và sinh viên trong nhiều năm qua.
Ngồi ra, cịn có một số sách dưới đây dùng tham khảo thêm trong
chương trình giảng dạy:
“Sách giáo khoa hồ âm” của Phạm Tú Hương và Vũ Nhật Thăng
(1993), nhà xuất bản âm nhạc.
“Sách Đáp án và bài tập hồ âm phần Diatonic” của Hồng Hoa.
“Sách Tuyển chọn bài tập phân tích hồ thanh” của Hồng Hoa &
Trương Ngọc Bích v.v…
Tất cả các sách hịa âm nói trên đều được chọn là tài liệu giảng dạy và
tham khảo ở mơi trường âm nhạc chun nghiệp của Việt Nam, chủ yếu
vẫn là kiến thức hịa âm cổ điển, chưa có sách giáo khoa hịa âm nào bổ
sung những kiến thức hịa âm thế kỷ XX vào chương trình đào tạo đại học
tại HVANQGVN.
1.3.3 Phương pháp giảng dạy và phương pháp kiểm tra đánh giá
1.3.3.1 Phương pháp giảng dạy
Tại HVANQGVN cũng như một số cơ sở đào tạo âm nhạc chun
nghiệp khác, khi giảng dạy mơn Hịa âm các giảng viên thường dùng ba
phương pháp chính, đó là: phương pháp thuyết trình, phương pháp trực quan
và phương pháp thực hành.
Thực hành phối hồ âm trên giấy: Ở HVANQGVN phần thực hành
phối hồ âm trên giấy có ba dạng chính:
Phối hịa âm cho một giai điệu (bè Soprano)
- Phối hịa âm cho một bè trầm (bè Basse)
- Phối hịa âm theo các cơng năng cho trước.
Riêng đối với các sinh viên các chun ngành Sáng tác Chỉ huy Âm
nhạc học đơi khi sử dụng dạng bài tập: tự sáng tác một đoạn nhạc có
chuyển điệu theo u cầu của giảng viên. Dạng bài tập này thường áp dụng
cho phần thi kết thúc mơn học hịa âm.
Thực hành phân tích hịa âm
Phần thực hành phân tích này quan trong đối với tất cả các chun ngành,
đặc biệt cần thiết đối với các sinh viên chun ngành biểu diễn, giúp họ có thể
nhận biết được hịa âm trong các tác phẩm chun ngành của mình. Các vịng
9
hịa âm kết sẽ giúp họ xử lý phân câu, phân đoạn trong các tác phẩm hợp lý
hơn.
Thực hành hịa âm trên đàn piano
Ở HVANQGVN phần hịa âm trên đàn mới chỉ áp dụng đối với các
sinh viên chun ngành Sáng tác Chỉ huy Âm nhạc học. Giáo viên có thể
đưa ra ví dụ một vịng nối tiếp hồ âm và hướng dẫn sinh viên cách nối tiếp
vịng hồ âm đó trên đàn, sau đó u cầu sinh viên có thể thực hành nhưng ở
điệu tính khác v.v.... Đây là phần thực hành sinh viên gặp nhiều khó khăn
nhất vì hạn chế bởi tay đàn.
1.3.3.2 Phương pháp kiểm tra đánh giá
Mơn Hịa âm cũng như các môn kiến thức âm nhạc khác trong
HVANQGVN, mỗi học kỳ có hai lần kiểm tra. Kiểm tra giữa học kỳ và kiểm
tra cuối học kỳ. Học kỳ cuối của chương trình sẽ là phần thi tốt nghiệp mơn
học.
Hiện nay phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của mơn Hịa
âm trong HVAN chủ yếu là hình thức kiểm tra viết. Nội dung của các bài
kiểm tra thường là phối hịa âm cho một giai điệu hay phối hịa âm cho các
cơng năng cho trước. Độ khó, dễ của đề thi phụ thuộc vào nội dung chương
trình của học kỳ đó. Ngồi bài viết phối hịa âm trên giấy, sinh viên cịn làm một
bài phân tích hịa âm.
Ngồi ra, cịn phần thi hồ âm trên đàn đối với lớp chun ngành Sáng
tác Chỉ huy Âm nhạc học.
1.3.4 Đánh giá kết quả giảng dạy
Đánh giá kết quả và tình hình giảng dạy mơn Hồ âm chúng tơi nhận
thấy có một số ưu và nhược điểm sau:
Về ưu điểm: Các giảng viên đã giảng dạy theo đúng nội dung chương
trình đã được qui định. Hàng năm thường chú ý rà sốt chương trình học, bổ
sung những kiến thức mới nhằm làm cho mơn học phong phú, hấp dẫn hơn.
Cố gắng tìm các dạng bài tập cho phù hợp với từng đối tượng sinh viên là
chun ngành biểu diễn hay chun ngành Sáng tác Chỉ huy Âm nhạc học
v.v... nhằm đưa mơn Hồ âm góp phần hỗ trợ cho các em khi học chun
ngành hay học các mơn học khác như: Phân tích tác phẩm, Hình thức âm
nhạc, Phối khí hay Hồ tấu dàn nhạc v.v... Đa dạng các hình thức kiểm tra
đánh giá sau mỗi buổi học, mỗi học trình nhằm một mặt đánh giá đúng trình
độ, sự hiểu biết của sinh viên, một mặt tạo sự hứng thú, say mê khi học
mơn Hồ âm.
Về nhược điểm: Chưa tích cực bổ sung những kiến thức hồ âm mới ở
thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy. Do vậy, chưa cập nhật được những
kiến thức mới làm cho sinh viên cịn bỡ ngỡ nhiều khi tiếp xúc với các tác
phẩm âm nhạc đương đại. Giảng viên khi lên lớp chủ yếu dạy theo các
10
phương pháp truyền thống như: phương pháp thuyết trình, phương pháp
trực quan hay phương pháp thực hành mà cịn ít sử dụng các phương pháp
giảng dạy mới được phát triển trong giai đoạn hiện nay. Do điều kiện thời
gian có hạn, phần thực hành nghe hồ âm trên đàn hay phân tích hồ âm
trong các tác phẩm cịn chưa được coi trọng đúng mức. Sinh viên nhiều em
cịn lười học, lười làm bài tập, nghỉ học nhiều do vậy dẫn đến kết quả học
khơng tốt, phải thi lại và học lại nhiều.
Tiểu kết chương 1
Thơng qua nội dung chương 1, giới thiệu tổng quan tình hình nghiên
cứu và thực trạng dạy hồ âm ở HVANQGVN từ những ngày mới thành lập
trường cho đến ngày nay. Trải qua nhiều thế thệ các thầy cơ giáo cùng
chung tay xây dựng bộ mơn ngày càng phát triển.
Mơn Hồ âm nói chung và các mơn kiến thức âm nhạc nói riêng cũng đã
hình thành rõ nét trong đào tạo âm nhạc các cấp học ở HVANQGVN.
Trong phần lịch sử đề tài, giới thiệu một cách tóm lược các cơng trình
nghiên cứu có liên quan đến ngơn ngữ âm nhạc thế kỷ XX.
Trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu về hồ âm thế kỷ XX, giới
thiệu chín đầu sách có liên quan đến kiến thức hồ âm thế kỷ XX, bao gồm
cả sách giáo khoa hồ âm thế kỷ XX, sách bài tập bằng tiếng Anh và tiếng
Đức.
Đây là những tư liệu vơ cùng q giá giúp chúng tơi trong q trình
nghiên cứu viết luận án và thực hành giảng dạy phần hồ âm thế kỷ XX.
Trình bày thực trạng về mơn Hồ âm đã và đang được dạy tại
HVANQGVN, chủ yếu vẫn là giảng dạy phần hồ âm cổ điển.
Trong mục này chúng tơi giới thiệu khái qt về chương trình, giáo
trình giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá, đội ngũ giảng viên và
sinh viên, cũng như đánh giá kết quả giảng dạy, nêu những ưu điểm và
nhược điểm cần khắc phục trong việc giảng d ạy mơn Hồ âm tại
HVANQGVN.
Nhìn chung qua nội dung trình bày ở chương 1 chúng ta thấy vẫn
thiếu vắng phần hồ âm thế kỷ XX chưa được đưa vào giảng dạy cho
sinh viên đại học tại HVANQGVN. Thực tế đó dẫn đến những khó khăn
cho việc tiếp cận với âm nhạc ở thế kỷ XX trong cả đào tạo, s áng tác,
biểu diễn và nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu và bổ sung những kiến
thức cần thiết cho phần giảng dạy về hoà âm thế kỷ XX tại
HVANQGVN là rất cần thiết.
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ HOÀ ÂM THẾ KỶ XX
VÀ VIỆC GIẢNG DẠY HOÀ ÂM THẾ KỶ XX Ở
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
11
2.1 Khái qt về hồ âm thế kỷ XX
Âm nhạc thế giới từ những năm đầu thế kỷ XX đến nay có rất nhiều
biến động theo tình hình chính trị, xã hội và văn hóa ở nhiều quốc gia khác
nhau. Trong âm nhạc phải kể đến vai trị của hịa âm đã góp phần quan
trọng trong việc phản ánh sự thay đổi về cách nhìn, cách xây dựng nội
dung, chủ đề hình tượng âm nhạc và thay đổi về thẩm mỹ âm thanh cũng
như phản ánh bút pháp riêng của từng tác giả, từng trường phái âm nhạc
khác nhau. Trong đó âm nhạc Việt Nam cũng khơng nằm ngồi dịng chảy
đó, nhiều nhạc sĩ đã vận dụng những ngơn ngữ hịa âm mới vào trong sáng
tác của mình.
Trong lịch sử phát triển âm nhạc trên thế giới nói chung và các dân tộc
nói riêng đã cho chúng ta thấy thẩm mỹ “Hịa âm” được thay đổi theo chiều
dài thời gian và thay đổi theo quan niệm thẩm mỹ của từng thời đại, từng
trường phái và từng văn hóa của các dân tộc khác nhau. Đã có nhiều nhà
khoa học âm nhạc đưa ra những tổng kết về phong cách hịa âm của từng
trường phái từ Tiền cổ điển, Cổ điển, Lãng mạn. Sang đến nửa đầu thế kỷ
XX, hình thành nhiều ý tưởng hịa âm được thay đổi, mở rộng quan niệm
về màu sắc trong âm nhạc, cơ cấu hịa âm sinh động. Các nhà soạn nhạc đã
sáng tạo ra những phương thức và kỹ thuật sáng tác âm nhạc mới, đưa ra
những thực nghiệm táo bạo cùng với sự phát triển khơng có biên giới, đồng
hành cùng lúc nhiều phong cách sáng tác âm nhạc khác nhau.
Có thể nói giai đoạn này là bước ngoặt rất quan trọng, một sự chuyển
tiếp vơ cùng mạnh mẽ những bút pháp sáng tạo tinh t của chủ nghĩa lãng
mạn nửa cuối thế kỷ XIX sang thế kỷ XX.
Trong giai đoạn này đã nổi lên tên tuổi của một số nhạc sĩ như Claude
Debussy (18621918), Alexander Scriabin (18721915), Arnold Schưnberg (1874
1951), Maurice Ravel (18751937), Béla Bartók (18811945), Anton Webern
(18831945), Alban Berg (18851935), Sergei Prokofiev (18911953), Paul
Hindemith (18951963), Dimitri Schostakovich (19061975) v.v…
Các khuynh hướng sáng tác mới của sự phát triển hoà âm đã trở nên rõ
ràng trong các tác phẩm của các nhạc sĩ thời kỳ này. Chẳng hạn, xuất hiện
nhiều hợp âm theo lối cấu trúc chồng quãng bốn, chồng quãng hai, hợp âm
thêm nốt hay hợp âm nhiều nốt chồng qng ba v.v… Hoặc xuất hiện
nhiều thủ pháp đa điệu thức, đa điệu tính, đa hợp âm, thủ pháp hồ âm song
song v.v… Các nhạc sĩ thời này khơng ưa dùng điệu thức trưởng thứ, thay
vào đó họ đi sâu khai thác nhiều điệu thức khác nhau như: điệu thức tồn
cung, điệu thức đối xứng, điệu thức chuyển dịch có giới hạn, sử dụng
phong phú hệ thống âm nhạc 12 Chromatic v.v…
Âm nhạc thời này đi theo từng mảng màu rất đa dạng, miêu tả những
nội dung thời đại mới, phù hợp với tình hình thực tế và nhu cầu của xã hội,
12
dịng chảy âm nhạc ln chuyển động khơng ngừng. Chính vì vậy mà nhiều
nhạc sĩ đã tìm nguồn cảm hứng cho sáng tác của mình từ thiên nhiên như
nhạc sĩ Pháp Olivier Messiaen đã chìm đắm với những âm thanh của lồi
chim “Birdsong”, hay nhạc sĩ Đức Bernhard Wulft chun nghiên cứu về
tiếng chim “Leger”, hoặc đề tài biển “Ba phác thảo giao hưởng Biển”
(19031905) của Claude Debussy v.v…
Thực tiễn âm nhạc thế kỷ XX đã cho thấy, cùng với sự kế thừa, vận
dụng những chất liệu, phương thức sáng tác truyền thống, các nhạc sĩ cịn
tạo nên nhiều bút pháp hịa âm mới. Sự kế thừa, vận dụng được thể hiện
trước hết ở nguồn chất liệu hịa âm…, ở một số kỹ xảo hồ âm… Tuy nhiên,
khơng chỉ có như vậy, các nhạc sĩ thế kỷ XX cịn tạo nên nhiều sự đổi mới cả
về nguồn chất liệu cùng bút pháp sáng tác. [95/tr.44, số 4 năm 2017]
2.1.1 Một số dạng điệu thức thường gặp trong hồ âm thế kỷ XX
2.1.1.1. Điệu thức tồn cung (The WholeTone Scale)
Theo từ điển The Harvard Dictionary of Music (2003) của Don Michael
Randel, tái bản lần thứ tư [66/Tr.969], điệu thức tồn cung là dạng điệu thức
gồm sáu âm trong một qng tám và các âm cách nhau một ngun cung. Chia
làm hai hệ thống điệu thức tồn cung sau: C D E F# G# A# và C# D# F G A B.
Điệu thức tồn cung được các nhạc sĩ thế kỷ XX áp dụng khá phổ biến
trong các sáng tác của mình, nhằm tạo ra sự khơng rõ ràng về giọng điệu,
điều này khác hẳn với ngơn ngữ hồ âm cổ điển ưa dùng âm nhạc có sức
hút dẫn và hình thành điệu tính rõ ràng.
2.1.1.2 Điệu thức chuyển dịch có giới hạn (Modes of Limited
Transposition)
Nhạc sĩ người Pháp O.Messiaen được coi là người đã sáng tạo ra dạng
điệu thức này. Ơng đã thành cơng trong việc kết hợp các âm thanh tạo nên
sự chuyển động màu sắc hịa âm hết sức khác lạ. Trên cơ sở áp dụng một
mơ hình cung bậc của riêng bản thân nhạc sĩ mà ơng gọi là các Mode (Điệu
thức): Mode là một mơ hình tập hợp các cung bậc, đóng vai trị gần như
điệu tính, được sắp xếp trên nền tảng tương quan giữa cung và nửa cung
[11/tr.17].
Các điệu thức này hoạt động với phương thức chuyển dịch theo qng
chromatic. Khi được chuyển dịch, điệu thức đó sẽ xuất hiện những âm mới
dẫn đến sự biến đổi màu sắc. Điều thú vị là mỗi điệu thức chỉ xuất hiện âm
mới ở một số lần chuyển dịch nhất định, nếu tiếp tục chuyển dịch ta sẽ trở lại
dạng ban đầu . Chính vì vậy mà Messiaen gọi là sự chuyển dịch có giới hạn.
Điệu thức chuyển dịch có giới hạn này được xuất hiện trong âm nhạc
thế kỷ XX, được coi như là sự nối tiếp các mơ hình cung bậc trong đó, tạo
sự biến đổi màu sắc hồ âm mới lạ so với các tác phẩm Cổ điển.
2.1.1.3 Điệu thức đối xứng (Symmetrical scales)
13
Béla Bartok là một trong những đại biểu xuất sắc của nền âm nhạc thế
kỷ XX. Ơng là nhà soạn nhạc thiên tài, một nghệ sĩ piano lỗi lạc và là nhà
nghiên cứu sưu tầm dân ca Hungari rất nổi tiếng. Ngơn ngữ hịa âm của
Bartok là sự tổng hợp những bút pháp của Tây Âu và phương Đơng, của các
điệu thức thời Trung cổ, điệu thức nhà thờ, điệu thức năm âm với nhiều
biến dạng. Ơng đã sử dụng rất phong phú và đa dạng các dạng điệu thức
khác nhau trong tác phẩm của mình. Đặc biệt ơng đã sử dụng rất rộng rãi
trong sáng tác đó là điệu thức đối xứng.
Theo tác giả Phạm Minh Khang, lối cấu trúc đối xứng này của Béla
Bartok được đánh giá cao và coi đây là một trong đóng góp quan trọng cho
ngơn ngữ hồ âm mới. [24/tr.229]
2.1.1.4 Âm nhạc Dodecaphone
Âm nhạc Dodecaphone cũng thường gặp trong sáng tác của các nhạc sĩ
thế kỷ XX, phải kể đến tên tuổi của Arnold Schönberg, Alban Berg và
Anton Webern v.v…
Dodecaphone là một kỹ thuật sáng tác trên 12 âm thuộc hệ thống
chromatic. Nếu thang âm Chromatic được hình thành trên cơ sở một điệu
trưởng hoặc một điệu thứ và nó vẫn giữ ngun những bậc cơ bản và trung
tâm của điệu thức bảy âm, thì Dodecaphone là một hệ thống của âm nhạc
khơng có điệu tính (Atonal).
Các nhà nghiên cứu âm nhạc vẫn coi J.Matthias Hauer (1883 1959) là
người đã nghĩ ra phương pháp sáng tác âm nhạc theo Dodecaphone thì người
tổng kết về lý thuyết và phát triển kỹ thuật sáng tác này chính là nhà soạn
nhạc A. Schưnberg (1874 1951). [40/tr117]
Bước sang thế kỷ XX, xu thế đổi mới diễn ra càng mạnh mẽ hơn. Đặc
biệt khi phong cách âm nhạc 12 âm đã trở thành một trào lưu sáng tác thì
một hệ từ vựng mới của ngơn ngữ âm nhạc vẫn là vấn đề đáng quan tâm
của nhiều nhà soạn nhạc cũng như giới lý thuyết âm nhạc học. [95/số 3,
năm 2018]
2.1.1.5 Âm nhạc vơ điệu tính (Atonal)
Theo Vincent Persichetti trong cuốn Twentirth century Harmony đã định
nghĩa về âm nhạc khơng có điệu tính như sau: Âm nhạc khơng có điệu tính
là khơng xác định rõ điệu tính hoặc hồn tồn biến mất điệu tính và cũng
khơng tồn tại sự hút dẫn của điệu thức. [63/tr261]
GS.TS Phạm Minh Khang cũng viết: Âm nhạc vơ điệu tính là khơng có
sự quy định điệu tính một cách rõ ràng.[24/tr166]
Nếu như đặc điểm cơ bản của âm nhạc có điệu tính là dựa trên mối
quan hệ giữa những âm ổn định và âm khơng ổn định trong một đoạn nhạc
hay một bản nhạc, thì điều này sẽ khơng có ở âm nhạc vơ điệu tính. Việc
sử dụng âm nhạc khơng có điệu tính đã đánh dấu một khuynh hướng phát
14
triển mới trong sáng tác âm nhạc. Đồng thời nó cũng mở ra những cách nhìn
mới ở nhiều lĩnh vực sáng tác như: cách xây dựng chủ đề, cấu trúc tác
phẩm, hịa âm, phối khí.
Các tác phẩm thuộc loại hình âm nhạc vơ điệu tính rất phổ biến trong
âm nhạc thế kỷ XX, chẳng hạn có thể tìm thấy trong một số sáng tác của
Alexandre Scriabine, Arnold Schưnberg, Anton Webern v.v...
2.1.2 Một số dạng cấu trúc hợp âm chồng âm thường gặp trong
hồ âm thế kỷ XX
2.1.2.1 Cấu tạo hợp âm chồng qng ba
Hợp âm chồng qng ba (Chords by Thirds): Là những hợp âm mà trong
đó các âm được sắp xếp theo qui luật qng ba, ví dụ có các hợp âm ba (ba
nốt), hợp âm bảy (bốn nốt), hợp âm chín (năm nốt), hợp âm mười một (sáu
nốt), hợp âm mười ba (bảy nốt), hợp âm mười lăm (tám nốt), hợp âm mười
bảy (chín nốt) và hợp âm mười hai nốt (11 nốt) v.v... Trong đó các hợp sáu
nốt, bảy nốt, tám nốt cho đến hợp âm 12 nốt được gặp nhiều trong các tác
phẩm sau này. Các hợp âm này làm nh mờ cơng năng và chủ âm tạo hiệu
quả âm nhạc dày đặc, rất phức tạp, đa màu sắc. Chúng khác hẳn với các
hợp âm trong âm nhạc cổ điển là rõ ràng về cơng năng hợp âm, hình thành
màu sắc trưởng thứ, tạo sức hút về chủ âm v.v...
2.1.2.2 Cấu tạo hợp âm chồng qng bốn (Chords by Fourths)
Hợp âm ba nốt chồng qng bốn (Three note chords by fourths)
Hợp âm bốn nốt chồng qng bốn (Four note chords by fourths)
Hợp âm nhiều nốt chồng qng bốn (Multi Note chords by fourths)
2.1.2.3 Cấu tạo hợp âm chồng qng hai (Chords by seconds)
Hợp âm ba nốt chồng qng hai (Three note Chords by seconds)
Hợp âm nhiều nốt chồng qng hai (Multi Note Chords by seconds)
2.1.2.4 Các dạng hợp âm thêm nốt (Added Note Chords)
Trong âm nhạc thế kỷ XX xuất hiện nhiều dạng hợp âm thêm nốt
qng hai trưởng và qng hai thứ vào các hợp âm chồng qng ba và qng
bốn nhằm làm tăng thêm độ dày hịa âm, mang hiệu quả đối nghịch với màu
sắc của các hợp âm ba trước đây.
Các hợp âm chồng qng ba thêm âm sáu, âm bốn, âm hai
Các hợp âm chồng qng bốn thêm âm chín, âm sáu, âm năm, âm ba
và âm hai
2.1.3 Một số thủ pháp hồ âm thường gặp trong âm nhạc thế kỷ XX
2.1.3.1 Hồ âm đa điệu tính (Polytonality)
Theo sách TwentiethCentury Harmony cuả Vincent Persichetti, đa điệu
tính được hiểu là một qui trình trong đó là sự kết hợp đồng thời của hai
hay nhiều điệu tính với nhau [63/tr.255].
15
Đa điệu tính là một thủ pháp phát triển quan trọng của ngơn ngữ hồ
âm, nó tạo ra nhiều khả năng biểu hiện vơ cùng phong phú trong những
sáng tác của các nhà soạn nhạc thế kỷ XX.
2.1.3.2 Hồ âm đa điệu thức (Polymodality)
Hồ âm đa điệu thức được hình thành trong quan hệ chiều dọc của các
giai điệu hoặc nhóm các giai điệu ở các hình thức khác nhau tồn tại độc
lập theo chiều ngang. [89/tr.89]
Thủ pháp hồ âm đa điệu thức được hiểu ở đây là các tác phẩm sử
dụng hai hay nhiều thang âm cùng lúc, kiểu này cũng rất hay gặp trong âm
nhạc thế kỷ XX với nhiều hình thức phong phú và đa dạng.
2.1.3.3 Đa hợp âm (Polychords)
Thủ pháp đa hợp âm được hiểu cùng lúc chồng hai hay nhiều các hợp
âm khác nhau theo chiều dọc. Hai thủ pháp đa điệu tính và đa hợp âm được
vận dụng khá linh hoạt, nhiều khi thấy xuất hiện cùng lúc trong các tác
phẩm âm nhạc của thế kỷ XX. Có lúc là chồng các hợp âm với điệu tính
khác nhau, hoặc đơi khi lại xuất hiện chồng các hợp âm khác nhau trong
cùng một điệu tính, hay các bè kết hợp nhiều thang âm, điệu tính khác nhau
cùng lúc v.v...
2.1.3.4 Thủ pháp hồ âm song song (Parallel Harmony)
Trong một số luận án, luận văn, có được đề cập đến các qng song
song, các hợp âm chồng âm song song. Đây là một trong những thủ pháp
hay gặp trong sáng tác của các nhạc sĩ thế kỷ XX.
Trong q trình nghiên cứu, chúng tơi thường gặp lối sử dụng song
song hợp âm, song song chồng âm dưới nhiều kiểu khác nhau.
2.2 Khảo sát việc dạy hồ âm thế kỷ XX ở một số cơ sở đào tạo
âm nhạc trên thế giới
Để hồn thành luận án này, chúng tơi đã tiến hành khảo sát và tìm hiểu
về chương trình và phương pháp giảng dạy hồ âm trong một số cơ sở và đào
tạo âm nhạc ở nước ngồi. Bản thân NCS cũng đã có nhiều dịp được học và
làm việc cùng với các trường âm nhạc ở Đức và Thuỵ Điển, ngồi ra cịn tìm
hiểu thêm các trường âm nhạc ở Mỹ, Nga và một số trường nhạc thuộc khu
vực châu Á. Chúng tơi nhận thấy, ở mỗi nước đều đã bổ sung chương trình
giảng dạy hồ âm thế kỷ XX theo các cách khác nhau sao cho phù hợp với nội
dung và chương trình đào tạo của trường, riêng các trường âm nhạc ở Mỹ họ
đã cập nhật phần hồ âm thế kỷ XX rất chi tiết và đa dạng. [PL8]
2.2.1 Một số nhạc viện ở Mỹ
Chúng tơi nghiên cứu chương trình dạy và học hồ âm ở hai trường của
Mỹ là: Trường đại học âm nhạc Berklee College of Music và Nhạc viện San
Francisco San Francisco Conservatory of Music. [PL3]
2.2.2 Một số nhạc viện ở Châu Âu và Châu Á
16
Qua thực tế chúng tơi đã tìm hiểu chương trình học hồ âm ở một số
nước ở châu Âu như Thuỵ Điển, Đức, Hungary, Nga, Canada và một số
nước Châu Á như Trung Quốc, Malaysia, Thailand, Hong Kong, Singapore
v.v…
Qua việc tìm hiểu về chương trình dạy hồ âm nói chung và việc bổ
sung kiến thức hồ âm thế kỷ XX nói riêng vào chương trình đào tạo âm
nhạc chun nghiệp ở một số nơi trên thế giới, chúng tơi nhận thấy rằng,
mỗi nước có một cách tiếp cận khác nhau. Có thể dùng phương pháp tích
hợp để đưa kiến thức hồ âm thế kỷ XX vào giờ học mơn Phân tích tác
phẩm, sinh viên sẽ lĩnh hội kiến thức đó thơng qua giờ học này vừa giới
thiệu lịch sử âm nhạc, phân tích cấu trúc hợp âm và thủ pháp hồ âm được
sử dụng trong đó. Nhìn chung, các nước đều rất chú ý đến việc cập nhật
kiến thức hồ âm thế kỷ XX vào chương trình đào tạo cho sinh viên âm
nhạc trong giai đoạn hiện nay. Riêng đối với sinh viên Việt Nam chúng tơi
đặt vấn đề bổ sung vào mơn Hồ âm, nghĩa là sau khi kết thúc phần hồ âm
Cổ điển, tiếp tục học nối tiếp phần hồ âm thế kỷ XX cho sinh viên đại
học, sẽ có tác dụng dẫn sang học phần mới một cách trực tiếp và có mục
tiêu rõ ràng.
Tiểu kết chương 2
Trong chương hai, chúng tơi đã giới thiệu một cách khái qt về ngơn
ngữ hồ âm thế kỷ XX, một số dạng điệu thức và cũng như một số dạng
hợp âm chồng âm thường gặp trong ngơn ngữ âm nhạc thế kỷ XX nhằm
bổ sung thêm kiến thức về quan niệm hịa thanh trong thời kỳ này.
Về điệu thức đã chọn một số điệu thức thường gặp trong hồ âm thế
kỷ XX như: điệu thức tồn cung, điệu thức chuyển dịch có giới hạn, điệu
thức đối xứng, âm nhạc Dodecaphone và âm nhạc vơ điệu tính.
Về cấu trúc hợp âm chồng âm đã xuất hiện thêm nhiều cách cấu tạo
hợp âm như trong cấu trúc hợp âm ba sắp xếp theo qng ba, ngồi các hợp
âm ba, hợp âm bảy, hợp âm chín, cịn giới thiệu thêm các hợp âm 11, 13, 15,
17, 19, 21, 23 và các hợp âm sắp xếp theo qng bốn, các hợp âm chồng
qng hai, cùng với các thể đảo kèm theo chúng. Tiếp đến là các hợp âm
thêm nốt: Hợp âm chồng qng ba thêm âm sáu, âm bốn, âm hai; hợp âm
chồng qng bốn thêm âm sáu, âm năm, âm hai; hợp âm chồng qng hai
thêm âm chín, âm sáu, âm năm, âm ba, âm hai và các chùm nốt (Clusters).
Cũng như một số thủ pháp sáng tác hay gặp trong giai đoạn này.
Một số thủ pháp hồ âm thường gặp trong âm nhạc thế kỷ XX như hồ
âm đa điệu tính, đa điệu thức, đa hợp âm, thủ pháp hồ âm song song.
Và cuối cùng chúng tơi đã tiến hành khảo sát việc dạy hồ âm ở một số
cơ sở đào tạo âm nhạc trên thế giới như châu Mỹ, châu Âu và châu Á, điển
hình là ở Mỹ. Thơng qua đó để muốn tìm hiểu xem các nước tiếp cận với
17
việc học hồ âm thế kỷ XX như thế nào, nội dung chương trình dạy và học
ra sao, cũng như cách tổ chức thi và kiểm tra hết mơn v.v... Làm quen với
hệ thống ký hiệu chỉ dẫn trong tác phẩm thời kỳ này.
CHƯƠNG 3: THỬ NGHIỆM GIẢNG DẠY HỒ ÂM THẾ KỶ XX CHO
SINH VIÊN ĐẠI HỌC TẠI HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM
3.1. Cơ sở lý luận
Qua tìm hiểu khảo sát việc dạy hồ âm thế kỷ XX ở một số cơ sở đào
tạo âm nhạc trên thế giới mục 2.2, chúng tơi ưu tiên chọn phương pháp tiếp
cận với ngơn ngữ hồ âm thế kỷ XX theo một số trường nhạc ở Mỹ, với
hai lý do sau: Lý do thứ nhất là khố học cung cấp nội dung đa dạng, cập
nhật thơng tin nhanh, hiệu quả và giúp sinh viên dễ dàng chuyển tiếp từ
ngơn ngữ hồ âm cổ điển sang hồ âm hiện đại. Lý do thứ hai có thể nói đây
là mơi trường đào tạo âm nhạc hiện đại thuộc bậc nhất thế giới và cũng
thuộc khối các nước nói tiếng Anh, điều này sẽ rất thuận lợi cho sinh viên
Việt Nam nếu muốn đi du học ở nước ngồi.
Hịa âm thế kỷ XX với nhiều phong cách, nhiều kỹ thuật mới, nhiều
quan niệm sáng tác khác nhau, với một khuynh hướng chung đó là xa rời hệ
thống âm nhạc có điệu tính và hịa âm cơng năng, ưa sử dụng các loại hợp
âm chồng qng ba nhiều nốt, hợp âm sắp xếp theo qng bốn, các hợp âm
chồng qng hai, các hợp âm thêm nốt v.v…, thường kết hợp đa tầng, đa
cơng năng, đa điệu tính, sử dụng âm nhạc theo chuỗi Serie v.v... Do vậy,
việc cập nhật những kiến thức hịa âm sau này xuất hiện ở cuối thế kỷ
XIX và sang thế kỷ XX là điều rất cần thiết cho các sinh viên âm nhạc của
Việt Nam nói chung và của HVANQGVN nói riêng, để giúp các em dễ dàng
tiếp cận với các tác phẩm sáng tác ở giai đoạn này.
Đề tài nghiên cứu: Bổ sung một số đặc điểm hịa âm thế kỷ XX vào
chương trình giảng dạy đại học tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, đây
là một đề tài mang tính ứng dụng nên chúng tơi đã tiến hành dạy thử nghiệm ở
một số đối tượng là sinh viên các chun ngành khác nhau của Học viện. Việc
dạy thử nghiệm sẽ giúp chúng tơi nắm được từ thái độ cũng như khả năng tiếp
cận các kiến thức hịa âm mới với các đối tượng sinh viên khác nhau. Qua đó sẽ
định hướng cho việc hồn thành cơng trình nghiên cứu của mình.
Trong q trình thử nghiệm, một điều khó khăn mà chúng tơi gặp phải
đó là, cho đến nay ở Việt Nam các sách giáo khoa hịa âm bằng tiếng Việt
cũng như các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến phần hịa âm thế kỷ
XX chưa được đề cập đến một cách đầy đủ và có hệ thống. Do vậy, trong
18
q trình dạy thử nghiệm chúng tơi đã phải cung cấp cho các em từ phần tài
liệu học tập cũng như những tác phẩm để phân tích.
Khi tiến hành nghiên cứu và thử nghiệm giảng dạy, chủ yếu dựa trên
nguồn tài liệu nước ngồi mà chúng tơi sưu tầm được, cùng với một số tác
phẩm của các nhạc sĩ Việt Nam có sử dụng những thủ pháp hịa âm mới ở
thế kỷ XX.
Cuốn sách TwentiethCentury Harmony của Vincent Persichetti là nguồn tư
liệu chính để chúng tơi chọn lọc nội dung đưa vào chương trình thử nghiệm.
3.2. Dự kiến bổ sung một số kiến thức hồ âm thế kỷ XX vào
chương trình giảng dạy mơn Hồ âm trình độ đại học tại
HVANQGVN
3.2.1 Tiêu chí lựa chọn nội dung kiến thức để đưa vào chương
trình
Tính mới, tính thời đại: Đây là vấn đề cấp thiết trong bối cảnh hiện
nay khi mà chương trình đào tạo mơn hồ âm tại Học viện cịn thiếu vắng
những kiến thức hồ âm thế kỷ XX vào giảng dạy tại HVANQGVN.
Tính phổ biến hay tính điển hình: Thời kỳ này xuất hiện nhiều đặc điểm
mới, phong phú và đa dạng trong các tác phẩm âm nhạc thế kỷ XX, nhưng
trong phạm vị luận án chúng tơi ưu tiên chọn những nội dung điển hình theo
trình tự từ dễ đến khó và được nhiều người sử dụng để bổ sung vào chương
trình giảng dạy mơn Hoà âm sau khi kết thúc phần hồ âm Cổ điển tại
HVANQGVN.
Tính vừa sức: Phù hợp với đối tượng là sinh viên trình độ đại học của
HVANQGVN, chun ngành biểu diễn và chun ngành Sáng tác Chỉ huy
và Âm nhạc học. Biên soạn nội dung sao cho phù hợp với từng đối tượng
học giúp sinh viên nghe nhận biết tác phẩm, hiểu phong cách từng tác giả
tác phẩm v.v…
Liều lượng Tính phù hợp thời gian khung chương trình giảng dạy:
Điều này rất quan trọng, làm sao để cân đối về thời lượng và kiến thức cần
ưu tiên được bổ sung vào giai đoạn này vì liên quan đến tổng số giờ dạy
được phân đều cho mỗi đầu mơn học tại HVANQGVN.
Ngồi ra, khơng qn đề cập đến tính kế thừa và tính logic, là một
trong những tiêu chí lựa chọn cần thiết để chúng tơi sau khi kết thúc phần
hồ âm Cổ điển, sẽ bổ sung tiếp nội dung kiến thức hồ âm thế kỷ XX vào
việc thực hành giảng dạy một cách khoa học, logic. Làm sao để giúp cho
sinh viên dễ dàng hiểu được cấu trúc các hợp âm chồng qng ba, chồng
qng bốn, chồng qng hai v.v…
3.2.2 Thời lượng và nội dung chương trình bổ sung
Theo Chương trình Hồ âm trình độ đại học của HVANQGVN, đã ký
ngày 8 tháng 1 năm 2013, mã số 52210201 dành cho đối tượng Âm nhạc học
19
Sáng tác Chỉ huy [PL2.5] và mã số 52210207 dành cho đối tượng là các
chuyên ngành biểu diễn. [PL2.6].
Trong phần này, sau khi nghiên cứu về tổng số thời gian (tổng số tiết
học) đã được ghi trong Chương trình Hồ âm trình độ đại học của
HVANQGVN, nghĩa là mỗi lớp có thể kéo dài thêm 30 tiết học, tương
đương hai đơn vị học trình, tức là học thêm một học kỳ nữa, là vừa đúng
theo chương trình học hồ âm đại học đã được phê duyệt ở trên, bổ sung
vào chương trình “Dạy hồ âm thế kỷ XX cho sinh viên đại học tại Học
viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam”.
3.2.3 Nội dung chương trình chi tiết
Với 30 tiết học, chúng tơi phân chia nội dung chương trình thành 13 bài
học. Mỗi tuần sẽ dạy một bài trong hai tiết (90 phút). Tuần thứ 14 sẽ tổng
ơn lại những kiến thức của tồn chương trình học và thực hành bài tập trên
lớp. Tuần 15 sẽ dành hai tiết cuối cho phần kiểm tra, đánh giá. [Tham khảo
PL4]
3.2.4 Giáo trình
Ngồi các bài giảng do chúng tơi đã tiến hành biên soạn theo các giáo trình,
sách nghiên cứu về hồ âm thế kỷ XX của nước ngồi. Sinh viên có thể tham
khảo các tài liệu có ở trong nước cũng như ở nước ngồi:
Tài liệu tiếng Việt:
Pham Minh Khang (2005),
̣
Giao trinh Hoa thanh
́ ̀
̀
(Bâc đai hoc). Trung
̣
̣
̣
tâm thơng tin Thư viên Âm nhac. Hà N
̣
̣
ội.
Nguyễn Trọng Ánh (2015), Hồ âm phần nửa đầu thế kỷ XX (Dành
cho cao học).
Đào Trọng Minh (2013), Lịch sử Hồ âm (Học phần cao học), Thành
phố Hồ Chí Minh.
Tài liệu tiếng Anh:
Cuốn Hịa âm thế kỷ XX “TwentiethCentury Harmony” của Vincent
Persichetti được xuất bản tại Mỹ năm 1961 (Nxb.W.W.Norton & Company)
Sách Twentieth Century Harmony Creative Aspects and Practice của
Vincent Persichetti (Tài liệu học online).
Sách lý thuyết và sách bài tập hoà âm “Lear from Masters Classical
Harmony” (2010) của Sten Ingelf (Nxb.Grahns Tryckeri AB, Lund,
Swenden).
Sách hoà âm của Đức Der Musikalischer Satz 14.20.Jahrhundert
Rhythmik Harmonik Kontrapunktik Klangkomposition Jazzarrangerment
MinimalMusic của Walter Salmen und Norbert J.Schneider (Copyright
1987). Edition Helbling Inbruck.
Sách giới thiệu về âm nhạc hiện đại của Đức Das Schriftbild der
Neuen Musik (1984) của Erhard Karkoschka. Hermann Moeck Verlag.
20
Cuốn sách giới thiệu về cấu trúc hoà âm Structural Fuctions of
Harmony (1954), của Arnold Schưnberg. NXB faber
3.3. Phương pháp giảng dạy và phương pháp kiểm tra đánh giá
3.3.1 Phương pháp giảng dạy
Để tiếp cận với phần hồ âm thế kỷ XX một cách hiệu quả, chúng tơi
kết hợp một cách linh hoạt cả ba phương pháp truyền thống, nghĩa là vừa
sử dụng phương pháp thuyết trình, phương pháp trực quan và phương pháp
thực hành, đồng thời bổ sung phương pháp vấn đáp, phương pháp làm việc
nhóm và phương pháp dạy tích hợp.
+ Phương pháp vấn đáp giúp giáo viên đặt câu hỏi và u cầu sinh viên
nhớ lại nội dung bài giảng, nhằm gợi mở, củng cố các kiến thức vừa học.
+ Phương pháp làm việc nhóm là phương pháp rất phổ biến trên thế giới,
được áp dụng với nhiều ngành học khác nhau, chúng tơi được làm quen nhiều
với các thuật ngữ tiếng Anh như “group learning học nhóm”, “group
teaching dạy nhóm”, “group working làm việc nhóm”.
+ Phương pháp dạy tích hợp: nghĩa là mơn Hồ âm thế kỷ XX tích hợp với
các mơn khác như mơn phân tích tác phẩm âm nhạc, sinh viên cần tìm hiểu
nguồn gốc tác giả tác phẩm và ngơn ngữ hồ âm, hay mơn tính năng nhạc cụ
nghe hiệu quả các âm thanh khác nhau khi phối cho các nhạc cụ khác nhau và
đặc biệt phối hợp với các khoa chun ngành để có thể cập nhật thường xun
các bài biểu diễn đương đại để bổ sung vào làm bài tập phân tích và kết hợp
với các mơn hồ tấu để bài phối của sinh viên được các nhóm hồ tấu luyện
tập nghe âm vang thực tế bài sáng tác của sinh viên v.v...
3.3.2 Phương pháp kiểm tra đánh giá
Phương án kiểm tra đánh giá theo cách mới: Sau khi tham khảo các
phương thức kiểm tra đánh giá của một số Học viện Âm nhạc ở Mỹ như
Berklee College of Music và Nhạc viện San Francisco. Chúng tơi mong
muốn được áp dụng đánh giá kết quả học tập theo cách làm của các trường
bên Mỹ, nghĩa là sẽ chia thành bốn loại đánh giá được căn cứ vào việc hồn
thành bài kiểm tra tương đương bao nhiêu phần trăm, chẳn hạn:
Loại A (Giỏi): 90100% ; Loại B (Khá): 8089%
Loại C (Đạt): 7079%; Loại D (Kém): 6069%
Bài thi tốt nghiệp mơn: Có hai dạng bài cho hai lớp chun ngành Sáng
tác Chỉ huy Âm nhạc học và Lớp chun ngành biểu diễn.
Lớp chun ngành Sáng tác Chỉ huy Âm nhạc học sẽ u cầu sáng
tác một đoạn nhạc cho piano gồm 8 ơ nhịp, trong đó áp dụng những kiến
thức hồ âm thế kỷ XX đã được học và nộp bài thi vào tuần 15.
Lớp chun ngành biểu diễn sẽ viết phân tích một bài về hồ âm thế
kỷ XX với những nội dung đã học và cũng nộp bài vào tuần 15.
21
Đối với hình thức kiểm tra giữa kỳ cho cả hai lớp sẽ là viết một bài phân
tích tác phẩm, vào tuần học thứ bảy, sau khi giới thiệu xong nội dung bài giảng
về cấu tạo hợp âm bốn và tiết thực hành sẽ giành cho việc viết bài phân tích.
Điểm thi tốt nghiệp sẽ tính như sau: Nhiệm vụ học tập được tính 50%;
Bài giữa kỳ 15%; Bài cuối kỳ 25% và tham gia đầy đủ các buổi học 10%.
Phương pháp kiểm tra đánh giá theo cách truyền thống:
Phần hồ âm thế kỷ XX cũng có thể áp dụng phương pháp kiểm tra
đánh giá theo cách truyền thống, giống như đối với phần hồ âm cổ điển đã
thực hiện ở Học viện. Nghĩa là cũng vận dụng hình thức thi tập trung theo
lớp tập thể, tuỳ theo từng chun ngành mà áp dụng cách thức thi.
Áp dụng hình thức thi kiểm tra viết dưới dạng trắc nghiệm, được chia
làm hai phần: Phần I là phần câu hỏi kiến thức tổng hợp về hồ âm thế kỷ
XX và phần II là một bài phân tích hồ âm. Hình thức thi này được áp dụng
cho cả hai đối tượng (10 điểm).
Riêng đối với lớp Sáng tác Chỉ huy Âm nhạc học, sẽ có thêm bài thi
phối hồ âm viết. Và điểm thi sẽ cộng cả điểm bài thi phối hồ âm viết với
điểm bài thi trắc nghiệm, sau đó chia đơi, sẽ ra điểm tốt nghiệp mơn.
Điểm tổng dưới 5 điểm, sinh viên sẽ phải thi lại. Chia làm hai lần
kiểm tra giữa kỳ và kiểm tra cuối học kỳ. Điểm thi cuối học kỳ sẽ tính là
điểm tốt nghiệp mơn học.
3.4 Thực nghiệm sư phạm
3.4.1 Mục đích thực nghiệm sư phạm
Phần thực nghiệm sư phạm sẽ giúp chúng tơi giải quyết những vấn đề
sau: Trên cơ sở trình độ tiếp thu của sinh viên các chun ngành khác nhau
sẽ giúp chúng tơi biên soạn bài giảng phù hợp với từng chun ngành. Chọn
lựa các dạng bài tập nghe, bài tập phân tích, bài tập viết v.v…, đồng thời áp
dụng các phương pháp giảng dạy như thế nào cho phù hợp với các nội dung
khác nhau của chương trình, phù hợp với các sinh viên ở các chun ngành
khác nhau. Cân đối thời gian cho phần trình bày về lý thuyết với thực hành
phân tích trong một buổi lên lớp cho hợp lý, có hiệu quả nhất. Q trình dạy
thực nghiệm cịn giúp chúng tơi tìm hiểu được thái độ của sinh viên khi tiếp
thu những kiến thức hồ âm mới. Qua đó có thể điều chỉnh về phương pháp
giảng dạy cũng như nội dung của bài giảng cho phù hợp.
3.4.2 Đối tượng thực nghiệm và tổ chức thực nghiệm
3.4.2.1 Đối tượng thực nghiệm
Trong những năm học 2013 2014; 2014 2015; 2016 2017, chúng tơi
đã tiến hành dạy thực nghiệm ở ba lớp với các chun ngành khác nhau
như: Lớp A: Chun ngành Sáng tác Chỉ huy Âm nhạc học [Danh sách ở
PL7.3]; Lớp B: Chuyên ngành biểu diễn Kèn, Gõ, Keyboard, Guitare và
Accodeon [Danh sách PL7.2] và Lớp C: Chuyên ngành Piano Dây [Danh
sách PL7.4]