BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN HOÀNG HƯNG
NÂNG CAO NĂNG LỰC TỔ CHỨC THỰC TIỄN CHO
CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP HUYỆN LÀ NGƯỜI
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH HÀ GIANG HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 9229001
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Hoàng Đình Cúc 2. PGS.TS Hoàng Anh
HÀ NỘI 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc
xuất xứ rõ ràng và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình khoa học nào.
Tác giả luận án
Nguyễn Hoàng Hưng
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu luận án tiến sĩ với đề tài: “Nâng cao năng lực tổ
chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện là người dân tộc thiểu số ở
tỉnh Hà Giang hiện nay” tác giả luận án xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với hai
thầy cô PGS. TS. Hoàng Đình Cúc và PGS.TS Hoàng Anh đã trực tiếp hướng
dẫn, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận
án này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, Khoa Triết học, cảm ơn tập thể các nhà khoa học tại Khoa
Triết học đã đóng góp những ý kiến quý báu để tôi hoàn thiện luận án này,
cảm ơn Phòng Quan ly khoa h
̉
́
ọc và Phòng Đào tạo sau Đại học đã giúp đỡ tôi
về thủ tục hành chính trong quá trình tôi học tập và bảo vệ luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả
Nguyễn Hoàng Hưng
MUC LUC
̣
̣
1. Lý do chọn đề tài
........................................................................................................................
1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
..........................................................................................
3
2.1. Mục đích nghiên cứu
..............................................................................................................................
3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
............................................................................
4
Trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử khi nghiên cứu vấn đề nâng
cao năng lực tổ chức thực tiễn, luận án đã tiếp cận về lý luận năng lực và năng
lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện nói chung và cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS tỉnh Hà Giang nói riêng. Năng lực tổ
chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS là tổng hòa
các yếu tố hợp thành khả năng hoạt động theo chức trách, nhiệm vụ của họ,…;
góp phần xây dựng đảng và chính quyền cấp huyện trong sạch, vững mạnh toàn
diện trong bối cảnh hiện nay.
...............................................................................
59
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LĐ, QL
DTTS
CNXH
BCH
BTV
TDLL
DVBC
Lãnh đạo, quản lý
Dân tộc thiểu số
Chủ nghĩa xã hội
Ban chấp hành
Ban Thường vụ
Tư duy lý luận
Duy vật biện chứng
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề nâng cao năng lực tổ chức thức tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
huyện người DTTS trong những năm qua đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan
tâm, đã có nhiều chính sách, dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội đối với miền
núi biên giới phía Bắc nói chung và tỉnh Hà Giang nói riêng. Các chính sách, dự án
đó đã từng bước đem lại những kết quả tích cực, làm chuyển biến nhiều mặt kinh
tế xã hội tại địa phương. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, tỉnh Hà Giang vẫn
còn là một tỉnh nghèo, chậm phát triển, chưa tương xứng với yêu cầu của thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giữa DTTS và đa số. Từ đó đã ảnh hưởng tiêu cực
không chỉ đối với bản thân các dân tộc tỉnh Hà Giang mà còn tác động tới cục diện
của cả nước nơi có vị trí chiến lược rất quan trọng trên các mặt kinh tế, chính trị,
xã hội, an ninh, quốc phòng. Do vậy tôi chọn đề tài: "Nâng cao năng lực tổ chức
thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện là người dân tộc thiểu số ở
tỉnh Hà Giang hiện nay” nghiên cứu trong luận án, xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo đã và đang đạt được những thành tựu quan trọng, tạo tiền đề đưa đất
nước bước sang thời kỳ mới đầy triển vọng. Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đã
chứng minh sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Song bên cạnh đó, cũng cho thấy việc tổ chức thực tiễn và thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vẫn còn nhiều hạn chế khiến cho
đường lối, nghị quyết của Đảng chậm đi vào cuộc sống. Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ:“Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược
cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thể chế hóa
các nguyên tắc về… quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ.”[42, tr
205]. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác cán bộ, nhất là cán bộ DTTS,
những năm qua, Đảng, Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp để tạo
nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ DTTS
phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mỗi giai đoạn. Đó là những bước đi tích cực góp
phần mang lại hiệu quả thiết thực cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS.
Bên cạnh đó, đường lối, chủ trương đúng đắn đến mấy cũng khó đi vào
cuộc sống và triển khai trong thực tiễn nếu thiếu một đội ngũ cán bộ có phẩm
chất, năng lực, biết tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương hiệu quả và sáng
tạo. Vì vậy, nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý có vai trò vô cùng quan trọng đối với tiến trình phát triển của đất nước nói
chung, tỉnh Hà Giang nói riêng. Trong điều kiện hiện nay, vấn đề nâng cao năng lực
tổ chức thực tiễn là một đòi hỏi khách quan đối với cán bộ lãnh đạo ở các cấp, trong
2
đó có trách nhiệm của cấp huyện. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới và phát triển,
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang còn
nhiều hạn chế, bất cập.
Thứ hai, công tác cán bộ luôn được Đảng ta coi trọng, trong văn kiện các kỳ
Đại hội Đảng toàn quốc, Đảng ta luôn xác định đây là một nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu. Xuất phát quan điểm tư tưởng cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng, là gốc của mọi công việc. Công việc thành hay bại đều do cán bộ tốt hay
kém, đây là chân lý, là kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân
ta. Tuy nhiên, chất lượng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện nói
chung, cán bộ người DTTS nói riêng còn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của
thời kỳ mới. Thực tế chỉ ra rằng, cho dù các huyện vùng cao biên giới đã được
Đảng và Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế xã hội, nhưng đội ngũ cán bộ
không đủ khả năng tổ chức thực hiện dự án, hiệu quả chưa đạt được như mong
muốn, thậm chí có nơi còn bị biến dạng trong quá trình vận hành. Chính vì vậy,
việc xây dựng một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS, nhất
là nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn, có một ý nghĩa quan trọng trên cả phương
diện lý luận và thực tiễn.
Thứ ba, Hà Giang là một tỉnh mà người DTTS chiếm đa số, năng lực tổ chức
thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý người địa phương có những hạn chế nhất định;
nhiều chỉ thị, nghị quyết, kết luận đã quán triệt nhưng khi triển khai thực hiện chưa đạt
mục tiêu, còn lúng túng, chậm trễ trong khâu triển khai, một số dự án cấp huyện, cấp
tỉnh thiếu tính khả thi dẫn đến kém hiệu quả, chưa vận dụng sáng tạo các chủ trương,
chính sách của Đảng vào quản lý xã hội, thiếu hướng đi và giải pháp then chốt trong
phát triển kinh tế xã hội; phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu của thời
kỳ đổi mới, chưa đảm bảo rút ngắn trình độ phát triển giữa miền xuôi và miền ngược,
giữa người DTTS và đa số.
Để chăm lo đời sống cho đồng bào, xây dựng biên giới vững mạnh, đủ khả năng
làm “phên dậu” vững chắc của tổ quốc, mở rộng quan hệ với nước láng giềng trong
tình hình mới…thì cần phải tổ chức tốt bộ máy tốt, có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
người DTTS vững mạnh, đủ phẩm chất và năng lực tương xứng, đáp ứng yêu cầu thực
tiễn đặt ra, đồng thời nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho họ có ý nghĩa then chốt,
bởi lẽ nghị quyết của Đảng có đi vào cuộc sống và trở thành hiện thực hay không, một
phần rất quan trọng tùy thuộc vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý DTTS cấp huyện.
Vai trò của họ to lớn trong việc tổ chức, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc, huy động tối
đa mọi nguồn lực, phát huy khả năng phát triển kinh tế xã hội, tổ chức cuộc sống của
đồng bào các dân tộc.
3
Thứ tư, công tác cán bộ nói chung và từng khâu của công tác cán bộ DTTS
còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đạt mục tiêu đề ra và chưa đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tổ chức thực tiễn của tình hình mới, tình trạng mang tính phổ biến
là chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ dẫn tới yếu kém trong lãnh đạo, quản lý; tổ
chức và phối hợp hoạt động, chưa tận dụng và phát huy hết vai trò, trách nhiệm của
mình; hoạt động còn quan liêu, nặng về hình thức, bỡ ngỡ, lúng túng, thiếu chủ động;
năng lực điều hành, trình độ tổ chức thực tiễn nhìn chung còn chưa đáp ứng được yêu
cầu. Có lúc, có nơi còn buông lỏng sự lãnh đạo, vi phạm dân chủ, làm trái, hiểu sai
chính sách, pháp luật của Nhà nước, khiến cho đồng bào các dân tộc bức xúc…; thực
tế trên và giai đoạn phát triển mới đòi hỏi cần có những thay đổi rõ nét hơn và đặt ra
yêu cầu cấp bách về nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang.
Do vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng, tổng kết một cách sâu sắc, từ đó
rút ra những vấn đề cần giải quyết, đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng
cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS
phù hợp với yêu cầu quá trình đổi mới ở tỉnh Hà Giang góp phần trực tiếp thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, hiệu quả công tác xây
dựng đảng và quản lý nhà nước ở tỉnh Hà Giang hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và phân tích thực trạng năng lực tổ
chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà
Giang, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực tổ
chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS ở tỉnh Hà Giang, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý, phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà
Giang trong giai đoạn hiện nay.
2.1. Nhiệm vụ
Tổng quan tình hình nghiên cứu và trình bày những vấn vấn đề mà luận án
tiếp tục nghiên cứu.
Làm rõ một số vấn đề lý luận về năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS.
Khảo sát, đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân của những thành tựu, hạn
chế và những vấn đề đặt ra đối với năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang hiện nay.
Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực tổ chức
thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang
trong giai đoạn hiện nay.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
huyện là người DTTS ở tỉnh Hà Giang.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang trong thời gian từ năm 2005 đến 2016
(1).
Phạm vi, địa bàn để khảo sát thực tế là các huyện của tỉnh Hà Giang (Thành
phố Hà Giang, huyện Bắc Quang, Vị Xuyên, Quang Bình, Xín Mần, Hoàng Su Phì,
Bắc Mê, Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc và các ban, ngành tương
tương).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận án là những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con
người, về chính sách dân tộc, về năng lực tổ chức thực tiễn của người cán bộ nói
chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS nói riêng. Luận án cũng
kế thừa kết quả của các công trình đã nghiên cứu về vấn đề này.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích và tổng hợp,
lịch sử và lôgíc, phương pháp chuyên gia, thống kê, khảo sát, điều tra xã hội học…
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học
Nghiên cứu lý luận và làm sáng tỏ thêm một số nội dung cơ bản về năng lực
và năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS.
Trình bày những vấn đề đặt ra trong quá trình năng lực tổ chức thực tiễn của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang hiện nay.
Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực tổ chức thực
tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang hiện
nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Góp phần làm rõ hơn vấn đề liên quan năng lực tổ chức thực tiễn và vấn
đề liên quan đến nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp huyện người DTTS.
Lý do chúng tôi chọn mốc thời gian năm 2005 đến 2016 vì: (Tính theo thời điểm hai nhiệm kỳ Đại hội lần thứ
XIV đến Đại hội lần thứ XV của Đảng bộ tỉnh để căn cứ khảo sát đánh giá thực trạng).
1
5
Đặc điểm việc nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp huyện người DTTS và các nhân tố tác động đến năng lực tổ chức thực tiễn ở họ.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chiến
lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện nói chung,
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang nói riêng; làm tài
liệu phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy tại các Trung tâm Bồi dưỡng chính trị
huyện, Trường Chính trị tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt là ở tỉnh Hà Giang.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, tài liệu tham
khảo, phụ lục, luận án gồm 3 chương 10 tiết.
6
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Vấn đề nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý
luôn dành được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, trong đó coi công tác cán bộ là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu với mục tiêu phấn đấu để đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng hiện nay, đồng thời nội dung
này cũng được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều góc độ.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về năng lực tổ
chức thực tiễn và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS nói riêng, các công trình khoa
học này đề cập trên các phương diện cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp đối với
nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người
DTTS.
1. Các công trình nghiên cứu về năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ
lãnh đạo, quản lý
1.1. Các công trình liên quan đến năng lực
Trong cuốn: Khái niệm lãnh đạo và quản lý của X.V.Angesle và Thietart
[193] và cuốn: Lao động của người lãnh đạo, quản lý của tác giả V.G.A Phana
xép [187]. Cuốn: Mấy vấn đề về tổ chức thực tiễn của Nguyễn Đức Bình [8]. Nội
dung phản ánh và phân tích một số mặt trọng yếu trong công tác tổ chức thực tiễn
như ra quyết định, xây dựng phong trào cách mạng của quần chúng, phong cách làm
việc Lêninnít, tổng kết kinh nghiệm và sử dụng kinh nghiệm.
Tâm lý học quản lý dành cho người lãnh đạo của tác giả Nguyễn Bá Dương
(chủ biên) [21], trình bày khá đầy đủ và sâu sắc về ý nghĩa và tầm quan trọng của
tâm lý học quản lý, khẳng định đây là một nội dung cơ bản của năng lực lãnh đạo,
quản lý của người cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay.
Phát huy tính tích cực đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước của tác giả Nguyễn Văn Tài [137]. Xác lập hệ thống
các khái niệm cơ bản, phân tích nội dung và những động lực cơ bản phát huy tính
tích cực xã hội của năng lực ở đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay.
Bản lĩnh chính trị với năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống
chính trị ở nước ta hiện nay của các tác giả: Hoàng Hải Bằng, Nguyễn Văn Huyên,
Nguyễn Ngọc Long, Trần Phúc Thăng, Trần Thành [7]. Các tác giả đã tập trung vào
những vấn đề như: Phân tích quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa xã hội và con
7
người với tính cách là nguyên tắc phương pháp luận và vai trò nền tảng của việc
xem xét những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong xây dựng con người
mới nói chung và con người Việt Nam nói riêng; về định hướng con đường và biện
pháp xây dựng con người mới; tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức người cán bộ
lãnh đạo, quản lý; phân tích tính tất yếu khách quan của việc tăng cường tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn cách mạng
mới. Đồng thời, cuốn sách trên còn trình bày khái quát cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ
Chí Minh về phát triển con người toàn diện, những vấn đề đặt ra trong thực tiễn phát
triển con người Việt Nam thời kỳ mới; hệ thống hóa các khái niệm con người. Phân
tích bản chất và những đặc điểm tư duy biện chứng, vai trò của nó đối với cán bộ lãnh
đạo, quản lý kinh tế ở nước ta; thực trạng, yêu cầu và một số giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao năng lực trình độ tư duy biện chứng của cán bộ lãnh đạo quản lý; làm rõ vai
trò mối quan hệ biện chứng giữa tư duy lý luận và năng lực tổ chức thực tiễn đối với
hoạt động lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; phân tích nhân tố chủ quan
và vai trò của nó trong hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở.
Các tạp chí đã đăng tải nội dung liên quan đến năng lực tổ chức thực tiễn:
Bài viết “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, trước hết là người đứng đầu”,
[77] của Chu Văn Ky; bài viết “Nâng cao trình độ năng lực quản lý của cán bộ chủ
chốt hiện nay”[189] của Hồ Văn Vĩnh; bài viết: “Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất
lượng đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu cách mạng mới” [82]
của Vũ Nhật Khải ; bài viết “Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp tỉnh” [121] của Trần Văn Phòng; bài viết “Vị trí,
vai trò của cán bộ, công chức nhà nước trong sự nghiệp đổi mới”[98] của Nguyễn
Đức Mạnh.
Những công trình khoa học trên đây đã nêu quan niệm năng lực của người
lãnh đạo, quản lý trên lập trường duy vật biện chứng, chỉ rõ năng lực tổ chức thực
tiễn bao gồm những yếu tố như: Năng lực tổ chức, kết quả công việc của người
cán bộ, mức độ hoàn thành nhiệm vụ…; năng lực còn thể hiện trên phương diện
như: Tiết kiệm thời gian, hao phí ít sức lực, của cải, lực lượng vật chất và đem lại
kết quả cao, năng lực tổ chức, cá nhân cần phải có kinh nghiệm quản lý, điều hành
một công việc cụ thể. Năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý thể hiện tri thức, trí
tuệ đã được lĩnh hội trong học tập, thực tiễn, có tư duy sáng tạo và khả năng hoàn
thành tốt nhiệm vụ, hội tụ những phẩm chất thông minh, khả năng “nhìn xa, trông
rộng” dự báo và phân tích được tình hình, thực trạng sự vật, hiện tượng để hoạch
định cho mình các bước đi trong tương lai, khả năng phản ứng nhanh nhạy “khôn
8
ngoan” trước các diễn biến của tình hình, nhạy bén trong nắm bắt và khai thác cơ hội;
khả năng ứng phó linh hoạt, sáng tạo, dám đương đầu với những đòi hỏi cấp bách nảy
sinh trong lãnh đạo, quản lý; phát hiện kịp thời xử lý các tình huống tại cơ quan, đơn
vị, địa phương.
C. Mác và Ph. Ăngghen rất coi trọng các giá trị thực tiễn, chính nhờ thực tiễn mà
con người mới trưởng thành, tư tưởng cách mạng của con người phải gắn với thực
tiễn, không thể tách rời thực tiễn, C. Mác đã viết: “ Muốn thực hiện tư tưởng thì cần
có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn”[14] .
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng của của mình, V.I. Lênin thường xuyên
coi việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là công việc quan trọng của Đảng, công tác cán
bộ cần chú ý đến khâu đào tạo, bố trí, bồi dưỡng và rèn luyện cán bộ trong thực
tiễn. Người đã coi trọng tiêu chuẩn hàng đầu trong xây dựng đội ngũ cán bộ cách
mạng là rất cần thiết như: Coi trọng năng lực chuyên môn, giác ngộ chính trị, có
kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý, gần gũi, gắn bó, chia sẻ với cấp dưới và công việc
của tập thể. Khi đề cập đến những yêu cầu quan trọng không thể thiếu của người
lãnh đạo, quản lý chính là năng lực chuyên môn, Lênin cho rằng: “Không phải bẩm
sinh ra là con người đã có được nghệ thuật quản lý rồi, mà phải trải qua kinh
nghiệm mới có được” [185,tr 216]. Đề cao đánh giá năng lực thực tế của cán bộ
không được chủ quan, cảm tính mà phải dựa vào thực tiễn lãnh đạo, quản lý của
họ. Đây chính là tư tưởng đúng đắn và khoa học về đạo tạo, bồi dưỡng, rèn luyện
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của V.I. Lênin áp dụng trong xây dựng Nhà nước
Xôviết.
Những quan điểm của V.I.Lênin đối với việc lựa chọn về năng lực cán bộ
cách mạng rất cần chặt chẽ, phải có sự lựa chọn, kiểm tra cán bộ và xây dựng đội
ngũ cán bộ cho Nhà nước chuyên chính vô sản, đấu tranh chống tệ quan liêu, tham
nhũng trong cán bộ để làm trong sạch bộ máy Nhà nước là một tất yếu khách quan.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” nội dung viết nhiều về cán bộ cách
mạng, trong đó Hồ Chí Minh nêu rõ các yêu cầu về phẩm chất, năng lực của cán
bộ. Người căn dặn và nhấn mạnh trong nội dung của chữ Tài: Một là, phải có trình
độ hiểu biết lý luận của chủ nghĩa MácLênin; hai là, nghiên cứu, học tập chủ
nghĩa Mác Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi công việc, phải cụ thể hóa chủ
nghĩa Mác Lênin cho phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh từng nơi, từng lúc, không
được rập khuôn máy móc, giáo điều; ba là, sử dụng nhân lực vào đúng việc, phù
hợp khả năng và sở trường, xuất phát từ công việc, chức năng nhiệm vụ mà đặt
người chứ không phải từ người mà đặt việc; bốn là, cần phải có trình độ văn hóa,
9
trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý và tổ chức.
Đối với cán bộ cấp cơ sở, là đội ngũ cán bộ triển khai, thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng đến tận nông thôn, miền núi là cán bộ sống ở địa phương đó,
gần gũi và gắn bó với nhân dân thì Hồ Chí Minh luôn nêu cao vai trò quan trọng của
họ và nhắc nhở họ làm việc cho thật tốt, hiệu quả, phải xứng đáng với niềm tin yêu
của quần chúng nhân dân.
Về năng lực của cán bộ, Hồ Chí Minh luôn coi đó là điều kiện rất cần thiết
khi Đảng tuyển chọn và sử dụng cán bộ. Theo Người: “Năng lực của con người
không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do công tác, do tập luyện
mà có” [103, tr280]. Quá trình nhận thức, đánh giá cất nhắc cán bộ theo tư tưởng
Hồ Chí Minh là rất khách quan và biện chứng, Người nhấn mạnh việc đánh giá, cất
nhắc cán bộ phải dựa trên tiêu chí dân chủ hóa, vì chỉ có dân chủ trong đánh giá
đúng tài năng, phẩm chất đạo đức thì mới có thể phục vụ được lợi ích cho Đảng và
lợi ích của quần chúng nhân dân. Người cũng luôn nhắc nhở Đảng phải động viên
khuyến khích những người có tài, có đức tham gia lãnh đạo chính quyền một cách
tốt nhất để những người có đức và có tài phát huy hết khả năng của mình, từ đó
làm cho Đảng ta ngày càng thu hút được nhiều nhân tài tham gia lãnh đạo chính
quyền. Lựa chọn và sử dụng cán bộ, sử dụng người tài giỏi trong lãnh đạo, quản lý
luôn là tư tưởng chỉ đạo thiết thực đối với Đảng ta trong công tác tuyển chọn và sử
dụng cán bộ. Người coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trước hết là lý
luận chính trị, học tập nâng cao trình độ lý luận để tránh những thất bại có thể xẩy
ra, cán bộ, đảng viên phải học lý luận chính trị, văn hóa và trau dồi năng lực chuyên
môn, học phải gắn với hành và tránh bệnh lý luận suông, Người căn dặn: “Cần
phải dạy bảo lý luận cho cán bộ. Chỉ thực hành mà không có lý luận cũng như có
một mắt mắt sáng, một mắt mù”[103, tr510]. Như vậy, thể hiện qua sự lãnh đạo
của Đảng về cán bộ,...Qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc đã chứng minh tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng,
sử dụng cán bộ là đúng đắn, tư tưởng đó thể hiện ở các nội dung chính sau đây:
Một là, cán bộ là gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém; hai là, coi công tác cán bộ phải đứng vững trên lập trường của
giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động; thứ ba, tiêu chuẩn của người cán
bộ phải dựa trên 2 mặt chính đó là Đức và Tài, hai tiêu chuẩn biện chứng với gắn
kết với nhau; bốn là, đánh giá cán bộ phải toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm
chất đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn.
10
V.I. Lênin với vấn đề nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của người
cộng sản [167] của tác giả Nguyễn Đức Thắng đề cập đến những vấn đề lý luận đồ
sộ, trong đó vấn đề rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị , trình độ trí tuệ và năng lực
tổ chức thực tiễn của người cộng sản trong điều kiện Đảng cộng sản cầm quyền lãnh
đạo đất nước. Nhấn mạnh việc đẩy mạnh nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư
tưởng, quan điểm của V.I. Lênin về nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ và
năng lực người cộng sản có ý nghĩa cần thiết về lý luận và thực tiễn đối với Đảng ta
trong quá trình xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh.
Tư tưởng của V.I. Lênin về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây
dựng Đảng [24] của tác giả Nguyễn Đức Diện nhấn mạnh nguyên tắc tập dân chủ
trong mọi hoạt động của chính đảng cách mạng vô sản, sau này là Đảng Cộng sản
Nga. Phân tích, vận dụng quan điểm của V.I. Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
thực hiện triệt để nguyên tắc này thực sự phát huy dân chủ, xây dựng Đảng vững
mạnh, đoàn kết thống nhất ý chí, hành động trong tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh
đạo, quản lý hiện nay.
Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị [113] của Trần
Quang Nhiếp nhấn mạnh biện pháp tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị, nâng cao
nhận thức khách quan, công tâm trong công tác cán bộ, trách hiện tượng bè phái, chạy
chức, chạy quyền,…; chống mọi biểu hiện suy thoái, tham nhũng, làm hư hỏng cán bộ,
làm mất lòng tin đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đề xuất một số biện pháp tích
cực, hiệu quả nhằm đáp ứng sự kỳ vọng của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân
hiện nay, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra đáp ứng công tác xây dựng đảng hiện nay
[56] của tác giả Nguyễn Quỳnh Giao đề cập đến nội dung công tác kiểm tra, nhất là
năng lực của cán bộ kiểm tra, giám sát, coi đây là một bộ phận trong công tác xây dựng
Đảng, chuyên trách về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Đội ngũ cán
bộ kiểm tra là lực lượng nòng cốt, là nhân tố quyết định việc thực hiện nhiệm vụ của
Ủy ban Kiểm tra các cấp trong đó có cấp huyện.
Trách nhiệm người đứng đầu [190] của tác giả Lương Ngọc Vĩnh nhấn mạnh
đến vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, đặt sự kỳ vọng của nhân dân, mong
muốn họ làm được nhiều việc có ích cho Đảng, cho đất nước và nhân dân, đóng góp
sức mình, trí tuệ vào nhiệm vụ làm trong sạch Đảng hiện nay.
Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn cách mạng mới
[158]của tác giả Cao Văn Thông Đỗ Xuân Tuất nghiên cứu trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chăm lo đội ngũ đảng viên;
gắn xây dựng, củng cố tổ chức đảng với xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
11
viên, nhất là đối với đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành, các
lĩnh vực. Để xây dựng đội ngũ đảng viên “đủ đức, đủ tài, đủ tâm, đủ tầm, đủ tín” có
cơ cấu và phân bố hợp lý, phù hợp, tương xứng, ngang tầm, đảm bảo năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn hiện nay; phải thường xuyên liên tục,
đồng bộ nhiều chủ trương, giải pháp ở các cấp, các loại hình tổ chức đảng và cần một
chiến lược phát triển xây dựng đội ngũ đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý
nói riêng.
Các yếu tố tác động và yêu cầu mới trong công tác nghiên cứu lý luận tổng kết
thực tiễn [67] của tác giả Vũ Văn Hiền khái quát những thành quả và kinh nghiệm bài
học thành công, chưa thành công trong quá trình đổi mới, đồng thời coi đây là tiền đề
để tổng kết thực tiễn khi triển khai các nhiệm vụ trong tương lai.
Bản chất cách mạng của Đảng và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân
dân [124] của tác giả Nguyễn Trọng Phúc chỉ ra một trong những nguy cơ đối với
Đảng Cộng sản cầm quyền, khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân của không ít tổ
chức đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên cần
tự giác phê bình và phê bình, quyết tâm ngăn chặn đẩy lùi tình trạng quan liêu, xa dân,
vô cảm với cuộc sống của họ. Luôn đề cao lợi ích chính đáng của nhân dân và có
những giải pháp căn bản, thực hiện quyết liệt và thiết thực.
Để tiếp tục thực hiện chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới [30] của tác giả
Phạm Văn Định nhấn mạnh đến những nội dung tiếp tục thực hiện chiến lược cán bộ
trong thời kỳ mới bao gồm: Hoàn thiện các quy chế, quy định, quy trình trong công tác
cán bộ; về mở rộng dân chủ trong công tác cán bộ; về tăng cường trách nhiệm của tập
thể lãnh đạo, nhất là người đứng đầu trong công tác cán bộ và tiếp tục chỉnh đốn tổ
chức bộ máy làm công tác cán bộ trong thời gian tới.
1.2. Các công trình liên quan đến năng lực thực tiễn
Khái niệm thực tiễn trong lí luận nhận thức một số vấn đề cần quan tâm của
các tác giả: Lê Văn Mười, Nguyễn Ngọc Hà, các tác giả chỉ ra rằng thực tiễn là hoạt
động vật chất của con người, là sự tác động qua lại giữa chủ thể hoạt động với các
đối tượng vật chất. Công trình khoa học này đã có cách nhìn rõ hơn về năng lực thực
tiễn, vai trò của tổ chức thực tiễn với tư cách mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn
của chân lý. Khi thực tiễn được hiểu với nghĩa là hoạt động vật chất, thì thực tiễn là
hoạt động có tư duy, có văn hóa, mục đích, tính xã hội và có thể cải tạo được thế giới,
trình độ tư duy con người càng cao thì càng có khả năng hiện thực được những hoạt
động vật chất phức tạp. Hoạt động thực tiễn là quá trình hiện thực hóa tư tưởng,
không thể nhìn thấy tư tưởng, nhưng cũng có thể suy xét sự việc theo phương châm,
nguyên tắc “nói đi đôi với làm” để nhận thấy kết quả của sự hiện thực hóa tư tưởng,
12
của hoạt động thực tiễn, đồng thời còn phụ thuộc vào năng lực chủ quan của chủ thể
hoạt động và điều kiện khách quan của hoạt động.
Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về lý luận chính trị theo quan điểm
Hồ Chí Minh [166] của tác giả Mạnh Quang Thắng đã giới thiệu khái quát cuộc đời và
sự nghiệp của Hồ Chí Minh như một minh chứng thuyết phục về năng lực tổ chức thực
tiễn, làm rõ những cống hiến nổi bật của Người về tư duy lý luận gắn liền với cương
lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và cách mạng Việt Nam đã mang lại độc
lập, tự do cho dân tộc Việt Nam, từ đó cho thấy năng lực thực tiễn đấu tranh cách mạng
được huy động vào hoạt động chỉ đạo, lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Năng
lực tổ chức thực tiễn của Người thể hiện ở việc nhìn nhận, đánh giá trên cơ sở xây
dựng được lý luận cách mạng ở các nước thuộc địa, đồng thời thể hiện trực tiếp bằng
việc chuyển hóa lý luận cách mạng vào thực tiễn lãnh đạo cách mạng. Trong quá trình
xây dựng nội dung, phương pháp tổ chức, sử dụng lực lượng xây dựng phong trào cách
mạng Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo ra những bước ngoặt căn bản nâng
cao chất lượng, hiệu quả ngày càng cao về đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân và
toàn thể dân tộc; là sự sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng lãnh đạo cách
mạng Việt Nam trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, xã hội nhất định.
Vận dụng quan điểm hoạt động vào nghiên cứu năng lực tổ chức thực tiễn của
cán bộ chủ chốt cấp xã của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Mai chủ biên [94] đã phản
ánh khá sinh động, rõ nét về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã cần sự phù hợp với yêu
cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cuốn: Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh của tác giả Phạm Văn Bính chủ
biên [9] nêu nội dung nghiên cứu về phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh và áp
dụng trong điều kiện hiện nay, nhằm xác định và làm rõ những vấn đề cơ bản trong
phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh như: Khái niệm, cơ sở hình thành và hệ thống
phương pháp dân chủ nói chung, năng lực tổ chức thực tiễn nói riêng. Trên cơ sở đó,
đề xuất hướng áp dụng phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh trong hoàn thiện phương
pháp lãnh đạo dân chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
Cuốn : Công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý
ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn hiện nay của tác giả Thân Minh Quế [127] đã
nêu bản chất vấn đề quy hoạch cán bộ, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về
nội dung này, công tác quy hoạch cán bộ đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần
từng bước đổi mới, nâng cao chất lượng công tác cán bộ nói chung. Tuy nhiên, đứng
trước bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, yêu
cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước thì công tác quy hoạch cán bộ vẫn
là một khâu yếu, thiếu tầm chiến lược, chất lượng và hiệu quả hạn chế. Có nhiều
13
cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa chủ động xây dựng chiến lược
quy hoạch cán bộ, chưa chuẩn bị tích cực, chu đáo đối với người kế nhiệm, tạo ra sự
hụt hẫng trong công tác quy hoạch cán bộ.
Đổi mới tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả yêu cầu từ
thực tiễn[119] của tác giả Xuân Phong phân tích ý nghĩa trong đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị những năm qua. Tổ chức bộ máy các
cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội tiếp
tục được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ và
mối quan hệ của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định và sự điều
chỉnh từng bước phù hợp hơn. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra những hạn chế như:
Việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các tổ
chức chính trị xã hội còn chậm, tổ chức bộ máy của Hệ thống chính trị cồng kềnh,
nhiều tầng nấc, chức năng và nhiệm vụ ở một số tổ chức chồng chéo. Hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ,…
Để tiếp tục thực hiện chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới của tác giả Phạm
Văn Định và bài viết: Đổi mới tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
yêu cầu từ thực tiễn [30] nhấn mạnh: Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ mà Nghị
quyết Trung ương 3 khóa VIII của Đảng sau gần 20 năm qua đánh giá lại kết quả đã
đạt được và đề ra những việc cần tiếp tục thực hiện. Đồng thời , tổng kết 10 năm thực
hiện Chiến lược cán bộ, Hội nghị Trung ương 9 (khóa X) đã tán thành những nội dung
cơ bản về ưu điểm, hạn chế và nhiệm vụ cần tiến hành. Để tiếp tục thực hiện Chiến
lược cán bộ nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong thời gian tới.
Nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị hành chính cho cán bộ dân tộc
thiểu số cơ sở khu vực Tây Nguyên [22] của tác giả Đỗ Văn Dương khái quát thực
trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị hành chính chưa gắn với công tác
quy hoạch và bố trí sử dụng cán bộ. Đề xuất các nhóm giải pháp để nâng cao chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ DTTS cơ sở vùng Tây Nguyên.
Một số kinh nghiệm công tác dân vận ở vùng dân tộc thiểu số qua thực hiện
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng của tác giả Thào Xuân Sùng [135] nhấn mạnh trong
những năm qua, công tác dân vận ở vùng DTTS đã tạo được chuyển biến tích cực, góp
phần phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc, củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước
và chế độ xã hội chủ nghĩa. Có nhiều phương pháp, cách làm hay trong chỉ đạo cần
14
tiếp tục phát huy, nhân rộng ở điều kiện hiện nay và tương lai.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong giai
đoạn hiện nay [58] của tác giả Nguyễn Văn Giang nêu rõ phương thức lãnh đạo của
Đảng trong giai đoạn hiện nay đối với công tác dân vận và từng bước được đổi mới, tuy
nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém về năng lực tổ chức thực tiễn trong công
tác vận động quần chúng. Thực tiễn đòi hỏi Đảng tiếp tục tăng cường và đổi mới sự lãnh
đạo đối với công tác dân vận, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân, tăng cường mối
liên hệ giữa Đảng với dân cũng như khối đại đoàn kết toàn dân; tiếp tục phát huy sức
mạnh to lớn của toàn dân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Những nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân vận trong nhiệm kỳ đại hội XII
của Đảng [95] của tác giả Trương Thị Mai nhấn mạnh công tác dân vận là “cốt tử”
của Đảng, bởi đây là nhân tố quan trọng góp phần củng cố mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng với nhân dân; những phẩm chất cao quý, tốt đẹp, cốt lõi thể hiện bản chất và
sức sống của Đảng. Từ đó liên hệ và đặt ra những nhiệm vụ với đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý người DTTS làm công tác dân vận đạt hiệu quả.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo vị trí việc làm [2] của tác giả Đoàn
Duy Anh đề cập những vấn đề cơ bản để thực hiện các mục tiêu trong chiến lược
cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo, phân bổ nguồn nhân lực, ngân sách cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức theo vị trí việc làm để phát huy năng lực thực tiễn của họ.
Khâu đột phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước ta trong thời kỳ mới [122]
của tác giả Tòng Thị Phóng khái quát một số thành tựu quan trọng trong quá trình phát
huy dân chủ ở nước ta hiện nay. Đồng thời lưu ý đến việc xây dựng và thực hiện Quy
chế Dân chủ ở cơ sở hiệu quả, thực sự trở thành khâu đột phá trong quá trình dân chủ
hóa đời sống xã hội ở nước ta, các ngành, các cấp tập trung vào những nhiệm vụ trọng
tâm của Quy chế.
Đây là hướng nghiên cứu của các tác giả về tổ chức thực tiễn và vai trò của
nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn dưới góc độ triết học. Nghiên cứu về năng lực tư
duy của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, tác giả Hồ Bá Thâm khẳng định: “Năng lực tư duy
là khả năng biến tri thức thành phương pháp và sử dụng thành thạo chúng để tiếp tục
nhận thức, tìm ra bản chất, quy luật, xu hướng tất yếu của sự vật và vận dụng đúng
đắn các quy luật đó trong cuộc sống ”, theo tác giả năng lực là khả năng, điều kiện
chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó, năng lực là tổng
hợp những phẩm chất tâm sinh lý, tạo cơ sở và khả năng hoàn thành một hoạt động
nào đó ở mức độ cao. Tác giả cũng đi đến kết luận: Năng lực thực tiễn có mối quan
hệ đến năng lực tư duy, vì năng lực tư duy có vai trò quan trọng đối với người lãnh
15
đạo, quản lý và là yếu tố cơ bản quan trọng nhất trong năng lực của người lãnh đạo.
Tuy nhiên, năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở (Nam bộ) trong tình hình
hiện nay đang tồn tại những mâu thuẫn. Đó là sự yếu kém, bất cập về trình độ, năng
lực tư duy của cán bộ với yêu cầu đang đặt ra của thời kỳ đổi mới nông nghiệp, nông
thôn hiện nay.
Những công trình nghiên cứu khác về năng lực và năng lực tổ chức thực tiễn
của các tác giả: Lê Hữu Nghĩa, Phạm Văn Hai, Nguyễn Xuân Phương,…đã khái quát
được một số năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, những tác giả đi
sâu nghiên cứu đặc điểm năng lực cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp hành chính ở nước
ta như cấp tỉnh, huyện và cấp cơ sở, đồng thời , nêu lên các yếu tố chủ quan và khách
quan ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến năng lực tổ chức thực tiễn như: Yếu tố
môi trường xã hội, yếu tố tâm lý cá nhân (đặc điểm tâm lý, phẩm chất, tác phong,
phong cách lãnh đạo…) và một số tình huống trong lãnh đạo, quản lý,…cũng là những
nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu nghiên cứu về năng lực tổ chức thực
tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cơ sở nước ta yêu
cầu nâng cao năng lực trong hoạt động thực tiễn. Các khái niệm, quan điểm và giải
pháp đóng góp của tác giả đều có ý nghĩa lý luận và thực tiễn công tác tổ chức Đảng
và Nhà nước ta, đặc biệt những đóng góp đó là cơ sở lý luận quan trọng cho việc xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ
sở nói riêng của Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Bên cạnh đó, còn có một số công trình nghiên cứu về cán bộ và năng lực tổ
chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý dưới góc độ tâm lý học. Từ những nghiên
cứu đó, có thể khái quát các hướng nghiên cứu khác nhau: Hướng nghiên cứu của các
nhà tâm lý học về năng lực tổ chức thực tiễn biểu hiện qua “ đặc điểm nhân cách
người lãnh đạo, quản lý” gồm các tác giả: Mai Khuê với công trình: Những khía cạnh
tâm lý của quản lý [86]; Nguyễn Hữu Khoát: Những khía cạnh tâm lý trong công tác
tổ chức cán bộ [84].
Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở các tỉnh Tây Nguyên [78] của tác giả Điêu Kré
nhấn mạnh ở các tỉnh Tây Nguyên, trong đó ban hành một số chính sách thu hút cán bộ,
công chức về công tác tại địa phương; về đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc cho cán bộ
người kinh được coi trọng. Các tỉnh đưa vào giảng dạy tám thứ tiếng DTTS cho cán bộ
người kinh. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở là người DTTS, ngoài việc
truyền đạt kiến thức chung, còn tạo điều kiện cho họ phát triển năng lực tổ chức thực
tiễn.
Các tác giả đã thành công trong quá trình phân tích đặc điểm nhân cách người
16
lãnh đạo, quản lý và các hiện tượng tâm lý như: Nhu cầu, lợi ích, uy tín, phong cách là
những yếu tố ảnh hưởng đến nhân cách người lãnh đạo, quản lý. Từ đó , nhấn mạnh
đến yêu cầu của phẩm chất, năng lực người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong tình hình
mới và coi đây là những yêu cầu cần và đủ ở người lãnh đạo. Các tác giả đi sâu phân
tích vai trò, vị trí và chức năng người lãnh đạo đảng và chính quyền các cấp trong hệ
thống chính trị nước ta, coi đây là nhiệm vụ của họ với vai trò, trọng trách lớn được
Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Cán bộ lãnh đạo, quản lý muốn thành công
trong công tác của mình thì cần thiết phải luôn học tập lý luận chính trị, nâng cao năng
lực chuyên môn, bên cạnh đó, phải tự rèn luyện tư tưởng, đạo đức, tác phong của bản
thân. Do vậy, yêu cầu của người cán bộ lãnh đạo, quản lý là học phải đi đôi với hành,
lý luận gắn với thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm, phải “vừa hồng vừa chuyên”
như Hồ Chí Minh từng căn dặn. Hướng nghiên cứu gần đây của các tác giả Đinh
Phương Duy, Vũ Duy Yên, Hoàng Gia Trang dưới góc độ tâm lý học về năng lực tổ
chức thực tiễn biểu hiện qua những đặc điểm, phong cách lãnh đạo của người lãnh
đạo, quản lý, những nghiên cứu theo hướng này đi sâu phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa các yếu tố nhân cách, phẩm chất người lãnh đạo với sự biểu hiện hành vi,
phong cách, tác phong lãnh đạo là sự thống nhất chặt chẽ với nhau.
Vũ Duy Yên Luận tiến sĩ tâm lý học:Nghiên cứu phong cách lãnh đạo của
người chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện trong giai đoạn hiện nay. Theo tác giả, hiểu
phong cách lãnh đạo là biểu hiện của năng lực người lãnh đạo. Phong cách lãnh đạo có
mối quan hệ biện chứng với nhân cách người lãnh đạo, quản lý; dù họ có tài giỏi bao
giờ cũng là người có phong cách lãnh đạo khoa học và đạt hiệu quả cao. Về yêu cầu
phong cách lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ đổi mới hiện nay, các
tác giả cho rằng: Cán bộ lãnh đạo phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nói đi đôi với làm.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cần phải bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, đi
sâu nắm tình hình nhân dân và hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của cấp dưới trong tập thể,
tăng cường phê bình và tự phê bình, giữ gìn và nâng cao những đức tính, phẩm chất cần,
kiệm, liêm chính, chí công vô tư,… nội dung này là những yêu cầu căn bản, cốt lõi nhất
đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Hướng nghiên cứu các năng lực chuyên biệt của người lãnh đạo, quản lý gồm
các tác giả: Nguyễn Hải Khoát:“Năng lực tổ chức và rèn luyện năng lực tổ chức”
[83]; Lê Thị Phương Thảo:“ Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp huyện biên giới phía Bắc nước ta trong tình hình hiện nay” [159]. Các tác
giả theo hướng này đi sâu nghiên cứu năng lực chuyên biệt của người lãnh đạo, quản
17
lý, mỗi loại năng lực quản lý, lãnh đạo như năng lực tư duy, năng lực tổ chức, năng
lực ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định,…coi đây là một khâu trong hoạt
động lãnh đạo, quản lý. Tập hợp các năng lực đều rất quan trọng và biện chứng với
nhau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất thể hiện năng lực lãnh đạo, quản lý.
2. Các công trình đề cập đến năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp huyện người DTTS Việt Nam nói chung và ở tỉnh Hà Giang nói
riêng
Vấn đề nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ là một vấn đề quan
trọng được các nhà nghiên cứu quan tâm ở những góc độ khác nhau tiêu biểu ở một
số công trình như:
Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện
người các dân tộc ở Tây Nguyên [109] của tác giả Lê Hữu Nghĩa (chủ biên); các đề
tài cấp bộ: Về những yêu cầu của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ngoại thành
Hà Nội của Nguyễn Văn Sáu (chủ nhiệm) khẳng định vai trò, tầm quan trọng cũng
như đánh giá khách quan thực trạng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp
về năng lực, phẩm chất cách mạng, bản lĩnh, trí tuệ của cán bộ trong giai đoạn
cách mạng mới hiện nay.
Miền núi Việt Nam thành tựu và phát triển những năm đổi mới của các tác giả
Bế Trường Thành, Nguyễn Quốc Phẩm; cuốn sách: Nhận thức của Đảng ta về vấn đề
dân tộc, chính sách dân tộc trong thời kỳ mới và cuốn: Quá trình đổi mới tư duy lý luận
của Đảng từ năm 1986 đến nay của các tác giả Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Lê Hữu
Nghĩa [130]. Các tác giả đã hệ thống hóa định hướng cơ bản, thành tựu và bài học kinh
nghiệm trong đổi mới tư duy và năng lực tổ chức thực tiễn, đồng thời cũng chỉ ra hạn
chế và nguyên nhân trong quá trình tổ chức thực tiễn trong thời gian qua để tìm kiếm
giải pháp cho tương lai.
Phát triển nguồn cán bộ DTTS ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay
[153]của tác giả Lô Quốc Toản nhấn mạnh năng lực thực tiễn người cán bộ DTTS
được thể hiện ở việc xác định mục đích hoạt động, sử dụng có hiệu quả các lực
lượng, phương tiện, phát hiện, giải quyết các mâu thuẫn; kiểm tra đánh giá kết quả,
sự gắn bó với nhân dân,v.v. Những yếu tố này có quan hệ biện chứng tác động với
nhau trong nâng cao năng lực thực tiễn của người cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Nâng cao năng lực thực tiễn cho đội ngũ cán bộ một đòi hỏi cấp bách hiện
nay [151] của tác giả Vũ Quang Tạo khảng (khẳng) định năng lực thực tiễn người
cán bộ trong giai đoạn hiện nay là tổng thể những thuộc tích hợp thành khả năng
của hoạt động thực tiễn có hiệu quả theo yêu cầu nhiệm vụ, chức trách của họ
18
trong công tác.
Các công trình khoa học trên đây đã chỉ ra nhân tố tác động, dự báo xu hướng
vận động của các vấn đề theo từng góc độ nghiên cứu. Trong đó, các công trình này
đều khẳng định tổng kết hoạt động thực tiễn có mục đích nhằm phát triển tư duy
lý luận, khả năng nghiên cứu khoa học, vận dụng các kiến thức vào giải quyết các
vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra; từ thực trạng tổ chức thực tiễn hiệu quả chưa
cao thì cần chú trọng năng cao chất lượng hoạt động thực tiễn sẽ có tác dụng thúc
đẩy trình độ năng lực của con người, từ đó đặt ra yêu cầu khách quan, nhân tố tác
động, dự báo xu hướng phát triển và đề ra các giải pháp thực hiện tốt mọi nhiệm
vụ đặt ra cho con người trong thực tiễn.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hội phụ nữ ở một số tỉnh phía Bắc [91]
của tác giả Gia Lương nêu bật vai trò của cán bộ nữ là lãnh đạo, quản lý, xác định đội
ngũ cán bộ hội phụ nữ là nhân tố quan trong quyết định sự tồn tại và phát triển của tổ
chức hội; Hội liên hiệp phụ nữ các tỉnh khu vực phía bắc đã chú trọng thực hiện nhiều
giải pháp, trong đó đặc biệt quan tâm đến công tác quy hoạch cán bộ nữ người DTTS
gắn với bố trí, sử dụng cán bộ hợp lý.
Phát huy tính tích cực xã hội của đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay [137] của
tác giả Nguyễn Văn Tài, công trình đề cập tới thực chất quá trình tích cực hóa nhân
tố con người có năng lực nhận thức, năng lực hoạt động,v.v... quan niệm mới trong
cách nhìn về thực trạng năng lực thực tiễn trong thời gian qua để thông qua khả
năng, năng lực tổ chức thực tiễn của con người nhằm quán triệt, tổ chức và giải
quyết các vấn đề thực tế ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể, …phác họa những nét cơ
bản về định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Nét mới trong xây dựng đội ngũ cán bộ vùng Tây Bắc [194] của tác giả Đặng
Xuân
đề cập đến một số giải pháp qua thực tiễn kinh nghiệm trong đó có xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS, cụ thể; một là, các cấp ủy đảng cần xác định
trách nhiệm và bảo đảm nguyên tắc Đảng trong lãnh đạo công tác cán bộ; hai là,
phương pháp đánh giá cán bộ phải toàn diện: Đức Tài; ba là, quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ phải xuất từ nhiệm vụ chính trị của tổ chức; bốn là, đổi mới trong bố
trí, sử dụng cán bộ đúng người, đúng việc, đúng sở trường, đúng lúc nhằm phát huy tài
năng, tinh thần, hăng hái, nhiệt tình ở họ.
Chương trình khoa học: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong từng thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa [172] của tác giả Nguyễn Phú Trọng,
Trần Xuân Sầm chủ nhiệm đã giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn của hệ
19
thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi mới, những mục tiêu đặt ra, chương trình
có đề cập đến thực trạng đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị ở cấp huyện, từ
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức đến trình độ lý luận, năng lực tổ chức thực
tiễn, cơ cấu, đặc điểm văn hóa,...; đồng thời, trình bày cơ sở lý luận, thực tiễn và
thực trạng cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị; đề
xuất những giải pháp lớn nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo theo cơ
cấu, tiêu chuẩn trên tinh thần đổi mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Khi thực hiện mục tiêu rộng lớn đó, đề tài cũng có đề cập đến thực trạng cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp huyện ở những vùng đặc thù (thành phố, thị xã và vùng công
nghiệp tập trung; miền núi; vùng tôn giáo tập trung) trong đó đề cập đến vùng
DTTS cần thiết phải xác định cơ cấu và tiêu chuẩn phù hợp, (như có thể châm
chước chút ít về trình độ văn hoá, lý luận, quản lý), nhưng nhất thiết phải biết
tiếng dân tộc; ưu tiên cán bộ có trình độ đại học trở lên, có chuyên môn nghiệp vụ;
không chấp nhận những cán bộ lãnh đạo chủ chốt người DTTS có tư tưởng, tâm lý
lạc hậu (dân tộc cực đoan, nghiện hút, mê tín dị đoan, gia trưởng,...). Các tác giả đã
đưa ra những luận cứ khoa học trong việc phác họa thực trạng cơ cấu, tiêu chuẩn
đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị ở nước ta.
Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý của tác giả Dương Quỳnh Hoa [70], phân tích đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp có vai trò quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định trong xây dựng và tổ chức
thực hiện đường lối, chính sách phát triển ở nước ta. Đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử
dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có hiệu quả để họ phát huy tốt nhất năng lực
trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước là vấn đề trọng yếu trong chiến lược
cán bộ của đảng trong thời kỳ mới.
Vai trò của bí thư huyện ủy trong công tác cán bộ từ thực tiễn huyện Đông
Anh Hà Nội [3] của tác giả Nguyễn Ngọc Ánh đã khái quát công tác cán bộ trong từng
giai đoạn lịch sử, nhất là người đứng đầu tổ chức đảng luôn có vai trò đặc biệt trong
tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng đảng đó. Người đứng đầu cấp ủy có vị trí
quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo; bí thư huyện ủy là người đứng đầu cấp ủy cấp
huyện, có vai trò quyết định đến đến toàn bộ hoạt động và sự phát triển trên tất cả các
lĩnh vực của địa phương.
Vài nét về công tác đào, bồi dưỡng cán bộ người DTTS ở Lâm Đồng (2010
2015) [133] của tác giả Kiều Hoài Sơn đề cập đến các giải pháp về đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ DTTS là nhiệm vụ tối quan trọng. Có kế hoạch chi tiết trong
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ DTTS. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, phù hợp với mục
tiêu sử dụng cán bộ và điều kiện đặc điểm của từng ngành, từng địa phương và tâm lý