Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NÂNG CAO TRÌNH độ lý LUẬN CHÍNH TRỊ CHO đội NGŨ cán bộ LÃNH đạo, QUẢN lý cấp HUYỆN ở TỈNH CAO BẰNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.1 KB, 110 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã và
đang thu được những thành tựu quan trọng, tạo tiền đề vững chắc để đưa
đất nước bước sang một thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa
xã hội. Trước mắt chúng ta thuận lợi có nhiều, song khó khăn thách thức
cũng còn rất lớn. Những biến động lớn về tình hình chính trị, kinh tế, tài
chính trên thế giới và khu vực cùng với sự non kém của nền kinh tế đất
nước đã và đang làm nảy sinh nhiều vấn đề mới phức tạp. Có vấn đề có thể
cảm nhận được bằng trực giác, nhưng có những vấn đề đòi hỏi phải có sự
khái quát, phân tích bằng tư duy lý luận thì mới có thể nhận thức được.
Điều đó đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có một trình độ lý luận
chính trị nhất định.
Từ những yêu cầu đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên không
ngừng vươn lên về mọi mặt, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp huyện của tỉnh miền núi Cao Bằng. Đội ngũ này được hình thành từ
nhiều nguồn khác nhau, trưởng thành chủ yếu thông qua thực tiễn, chưa
được đào tạo về lý luận một cách có hệ thống, nên ở họ thiếu những kiến
thức lý luận cần thiết, thiếu trình độ tư duy lý luận. Bởi vậy, trong nhận
thức và chỉ đạo thực tiễn họ thường mắc các căn bệnh giáo điều, kinh
nghiệm, điều hành công tác lãnh đạo, quản lý cũng như xử lý các công việc
một cách máy móc kém hiệu quả.
Để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới đội ngũ này
phải không ngừng rèn luyện, nâng cao trình độ về mọi mặt, trong đó cần
chú ý nâng cao trình độ lý luận chính trị . Để từ đó đội ngũ này mới có thể
nắm bắt, phản ánh đúng đắn các khả năng, các xu hướng, các giai đoạn vận
động của thực tiễn. Trên cơ sở đó vận dụng những chủ trương, đường lối




2

của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước một cách có hiệu quả, đề
ra được những giải pháp sát với tình hình và điều kiện thực tế của địa phương.
Như vậy, yêu cầu nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp là vô cùng quan trọng. Đây phải được coi
là một nhiệm vụ vừa cấp thiết, vừa lâu dài với những con đường và biện
pháp vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù. Đặc biệt đối với đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện của tỉnh Cao Bằng do tính đặc thù
của nó, nên việc nâng cao trình độ lý luận chính trị là việc làm cấp thiết và
cần có những biện pháp cụ thể thích hợp. Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu,
đánh giá đúng thực trạng và đề ra những giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm
nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ này có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn to lớn, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới kinh tế - xã hội
miền núi theo hướng phát triển toàn diện và vững chắc.
Với tính cấp thiết đó, tôi chọn đề tài: "Nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện của tỉnh Cao
Bằng trong giai đoạn hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ khoa học
Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta đã có
những kết luận khoa học quan trọng, đưa ra những quy định về trình độ lý
luận chính trị đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đó là
những định hướng quan trọng góp phần nâng cao trình độ lý luận chính trị
cho cán bộ, đảng viên nói chung.
Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu của
nhiều tác giả đề cập ở nhiều góc độ khác nhau với những hình thức thể hiện
khác nhau được đăng tải trên sách, báo, tạp chí cả Trung ương và địa

phương, có nội dung liên quan đến đề tài này như: "Quan hệ giữa lý luận
và chính trị" của Nguyễn Thế Phấn, Tạp chí Cộng sản, số 8/1992; "Mấy


3

vấn đề trong công tác lý luận" của Đỗ Nguyên Phương, Tạp chí Công tác
tư tưởng văn hóa, số 7/1992; "Góp phần bàn thêm về khái niệm chính trị"
của Hồ Tấn Sáng, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 5/1995; "Nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho giảng viên Mác - Lênin ở các Trường chính trị tỉnh" của Nguyễn Đình
Trãi, Tạp chí Triết học, số 1/1993; "Nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ
chủ chốt cơ sở miền núi Hòa bình" của Bùi Văn Tính, Luận văn thạc sĩ
Triết học năm 1995; "Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã miền núi hiện nay" của Đỗ Cao Quang, Luận văn thạc sĩ
Triết học năm 1996; "Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ quản lý sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt
Nam hiện nay" của Trần Thị Yên Ninh, Luận văn thạc sĩ Triết học năm
1998; "Nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho
cán bộ, đảng viên trong công cuộc đổi mới hiện nay" của Hoàng Thị Xuân
Thanh, Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1998; "Nâng cao năng lực tư duy
lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện
nay" của Vũ Đình Chuyên, Luận văn thạc sĩ Triết học năm 2000...
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu, đặt ra những vấn đề rất
cơ bản cả về lý luận lẫn thực tiễn, đề ra những phương hướng và giải pháp
để nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
ở cấp này cấp khác. Tuy nhiên, có thể nói rằng, cho tới nay nhưng chưa có
công trình nghiên cứu một cách chi tiết, đầy đủ, có hệ thống và chuyên sâu
về thực trạng cũng như nêu ra những chủ trương, giải pháp để nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên miền núi, nhất là đội ngũ

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở tỉnh Cao Bằng. Vì vậy, nghiên cứu đề
tài này sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong sự nghiệp đổi mới ở các tỉnh miền núi nói chung, từng bước khắc
phục tình trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhất là cấp huyện vừa
thiếu lại vừa yếu như hiện nay.


4

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm rõ bản chất, đặc trưng và
vai trò của lý luận chính trị, cũng như đánh giá đúng thực trạng về trình độ
lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở tỉnh Cao
Bằng, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ này.
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Làm rõ vai trò của lý luận chính trị đối với đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp huyện.
- Phân tích, đánh giá thực trạng yếu kém về trình độ lý luận chính
trị của độ ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở tỉnh Cao Bằng và
những nguyên nhân của thực trạng đó.
- Nêu ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện trong điều kiện
hiện nay.
4. Phạm vi đối tượng nghiên cứu
Luận văn không đi sâu vào vấn đề lý luận nói chung mà trong mối
liên hệ với chính trị, phân tích vai trò của lý luận chính trị, nhất là đối với
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở tỉnh Cao Bằng trong giai
đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng về công tác giáo dục lý luận
chính trị, về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Luận văn được trình bày dưới góc độ triết học với phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.


5

6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của lý luận chính trị đối với
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện nhất là cấp huyện miền núi ở
nước ta. Đồng thời đánh giá được thực trạng trình độ lý luận và năng lực
thực tiễn của đội ngũ này. Trên cơ sở đó, để xuất với tỉnh một số giải pháp
chủ yếu để từng bước nâng cao trình độ cả lý luận lẫn thực tiễn cho họ, đáp
ứng với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.
7. Ý nghĩa của luận văn
Những kết luận được rút ra qua nghiên cứu và những chủ trương,
giải pháp trình bày trong luận văn sẽ góp phần nâng cao trình độ cả lý luận
lẫn thực tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện miền núi nói
chung, của tỉnh Cao Bằng nói riêng. Đồng thời đây cũng là tài liệu để tham
khảo phục vụ cho việc hoạch định chiến lược, xây dựng, quy hoạch đội ngũ
cán bộ cho tỉnh Cao Bằng cũng như công tác đào tạo lý luận chính trị của
Trường chính trị tỉnh.
Luận văn cũng có thể dùng để làm tài liệu tham khảo trong việc
nghiên cứu, giảng dạy lý luận Mác - Lênin trong các Trường chính trị,
Trường chuyên nghiệp.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 4 tiết.



6

Chương 1
TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP HUYỆN
Ở TỈNH CAO BẰNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN

1.1. LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP HUYỆN

1.1.1. Bản chất và đặc trưng của lý luận chính trị
Trong xã hội có giai cấp, bất cứ một giai cấp nào muốn vươn lên
thống trị xã hội cũng đều xây dựng, phát triển hệ thống lý luận để đấu tranh
và bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình. Để hiểu bản chất của lý luận chính
trị trước hết chúng ta tìm hiểu một số khái niệm có liên quan.
Theo tiếng Hy lạp "Theorie" với nghĩa sơ khai của nó là quan sát,
nghiên cứu. Cùng với sự phát triển của xã hội, của tri thức con người, khái
niệm lý luận càng ngày càng được hiểu đầy đủ hơn. Ngày nay, lý luận được
hiểu là "tập hợp các khái niệm, phạm trù, quy luật được khái quát từ việc
đúc rút kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của con người, từ nhận thức chủ
quan của con người đối với những hiện tượng khách quan của thế giới tự
nhiên và xã hội. Nói cách khác, lý luận là hệ thống các quan điểm, tư tưởng
đã được khái quát từ thực tiễn, từ thế giới khách quan" [36, tr. 54]. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng đưa ra định nghĩa về lý luận như sau: "Lý luận là sự
tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về
tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử [32, tr. 497]. Đây là
một định nghĩa khoa học, hoàn toàn chính xác và đầy đủ về lý luận. Định

nghĩa đó không những làm sáng tỏ quan niệm triết học về lý luận mà còn
làm sáng tỏ nguồn gốc, cách thức hình thành lý luận. Lý luận được hình
thành từ thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn, đa dạng, phong phú của con người,
loài người. Để tồn tại và phát triển buộc con người phải tìm hiểu thế giới


7

xung quanh, phải có tri thức nhất định về nó. Nhưng những tri thức đó
không phải có sẵn mà phải thông qua hoạt động thực tiễn đấu tranh, hoạt
động chính trị - xã hội mà chủ yếu là lao động sản xuất. Trong quá trình lao
động sản xuất con người dần dần đúc rút được kinh nghiệm, tích lũy những
kinh nghiệm đó lại. Và lý luận chính là sự khái quát hóa, trừu tượng hóa từ
những kinh nghiệm thực tiễn đó.
Quá trình nhận thức của con người có thể khái quát lại dưới hai cấp
độ, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận. Tri thức kinh nghiệm là những
tri thức được chủ thể thu nhận trực tiếp trong quá trình hoạt động thực tiễn.
Tri thức kinh nghiệm giữ vai trò hết sức quan trọng trong quá trình con
người nhận thức và cải tạo thế giới. Nó giúp cho con người kịp thời điều
chỉnh hoạt động của mình, làm cho con người có được những quyết định
nhanh chóng và đáng tin cậy trong một phạm vi nhất định, trong một hoàn
cảnh cụ thể nhất định. Nhưng tri thức kinh nghiệm thường mới chỉ dừng lại
ở sự khái quát ban đầu, mới chỉ là sự phản ánh sự vật trong những hoàn
cảnh cụ thể cục bộ, riêng biệt cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên mà chưa đi sâu
vào bản chất và qui luật của sự vật, chưa tạo thành một hệ thống tri thức
chặt chẽ. Do vậy, phạm vi áp dụng cũng như tính hướng dẫn, chỉ đạo của
tri thức kinh nghiệm thường bị hạn chế trong phạm vi hẹp. Khẳng định điều
đó Ph. Ăngghen viết: "Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao
giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu" [27, tr. 718]. Cho nên,
biện chứng của quá trình nhận thức tất yếu vươn tới một tri thức sâu sắc

hơn, bản chất hơn, đó là tri thức lý luận.
Tri thức lý luận ở trình độ cao hơn so với tri thức kinh nghiệm.
Trình độ tri thức lý luận đã vượt ra ngoài giới hạn của những tri thức kinh
nghiệm. Tri thức lý luận phản ánh hiện thực trong tính bản chất của sự vật.
Nó có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa cao, đem lại sự hiểu biết sâu
sắc về bản chất và qui luật của sự vật. Chính vì vậy, phạm vi áp dụng cũng
như tính hướng dẫn, chỉ đạo của tri thức lý luận rộng lớn hơn so với tri thức


8

kinh nghiệm. Tri thức lý luận làm cho hoạt động của con người trở nên chủ
động, tự giác hơn, tránh được tình trạng mò mẫm, tự phát trong quá trình
nhận thức, cũng như cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Tri thức lý luận là tri
thức khái quát từ tri thức kinh nghiệm.
Tri thức lý luận và tri thức kinh nghiệm có những đặc điểm khác
nhau nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời.
Kinh nghiệm thực tiễn có vai trò rất quan trọng đối với lý luận, nó là cơ sở
để tổng kết, khái quát thành lý luận. Kinh nghiệm còn là căn cứ để con
người xem xét, bổ sung, sửa đổi và không ngừng phát triển lý luận. Tri thức
lý luận được hình thành từ sự tổng kết - khái quát kinh nghiệm nhưng lại
phải thông qua sự trừu tượng hóa, khái quát hóa của tư duy, cho nên nó
cũng có thể chứa đựng khả năng không chính xác hoặc xa rời thực tiễn. Vì
vậy tri thức lý luận phải được thử nghiệm trong thực tiễn để khẳng định, bổ
sung hoàn thiện. Nhưng lý luận một khi đã được hình thành thì nó không
phải thụ động mà có sự độc lập tương đối của nó. Lý luận tác động trở lại
đối với thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, dự báo, dự đoán tương lai,
định hướng cho thực tiễn của con người.
Như vậy, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận là hai cấp độ khác
nhau trong quá trình nhận thức của con người, trong đó tri thức kinh

nghiệm là căn cứ, là cơ sở để hình thành và phát triển của tri thức lý luận.
Do đó, nếu tri thức kinh nghiệm càng được tích lũy nhiều thì càng có cơ sở
vững chắc, độ tin cậy càng cao cho sự khái quát về lý luận. Và lý luận chỉ
thực sự là lý luận khoa học khi nó được khái quát từ những kinh nghiệm
của thực tiễn.
Đến đây chúng ta có thể hiểu lý luận theo một nghĩa chung nhất: Lý
luận là một hệ thống tri thức được khái quát từ những kinh nghiệm thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, tính qui luật của sự
vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực.


9

Trong đời sống xã hội có nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoạt động cụ
thể khác nhau, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực cụ thể đó đều có lý luận riêng nhất
định. Còn lý luận chúng ta đề cập ở luận văn này là lý luận chính trị.
Theo quan niệm mác-xít thì chính trị là mối quan hệ giữa các giai
cấp, dân tộc, quốc gia đối với quyền lực nhà nước.
Chính trị là một hiện tượng xã hội đặc biệt, nó xuất hiện cùng với
sự phân chia xã hội thành giai cấp và nhà nước. Từ khi xuất hiện đến nay
chính trị luôn là lĩnh vực hoạt động phức tạp và quan trọng nhất. Những
bước thăng trầm của lịch sử nhân loại, xét đến cùng đều có nguồn gốc sâu
xa của nó là những thay đổi trong lĩnh vực chính trị. Bởi tính phức tạp của
nó mà cho đến nay vẫn còn nhiều tranh luận xung quanh khái niệm chính
trị. Theo tiếng Hy lạp "Politica" có nghĩa là những công việc liên quan tới
nhà nước, là nghệ thuật cai trị đất nước, đó còn là một tổ chức xã hội nằm
dưới một quyền lực nhất định, quyền lực nhà nước.
C. Mác và Ph. Ăngghen, những nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội
khoa học, khi đề cập đến chính trị, các ông xem xét chính trị với tư cách là
một hiện tượng xã hội - chính trị mang tính lịch sử, chỉ ra vai trò to lớn của

nó trong đời sống xã hội. Kế thừa những tư tưởng của Mác, Ăngghen,
Lênin cho rằng, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là tham gia vào
việc nhà nước, định hướng cho sự phát triển của đất nước, xác định hình
thức, nhiệm vụ và nội dung hoạt động của nhà nước. Chính trị phản ánh
cuộc đấu tranh của các giai cấp xung quanh vấn đề giành, giữ, sử dụng
chính quyền và cuối cùng do địa vị kinh tế của những giai cấp đó qui định.
Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế có nghĩa là: các tổ chức chính
trị, các hình thức nhà nước thay đổi và phát triển dựa trên cơ sở kinh tế của
xã hội. Nhưng như vậy không có nghĩa chính trị là biểu hiện thụ động của
kinh tế. Những quan hệ chính trị, những vấn đề chính trị có ảnh hưởng trở
lại mạnh mẽ đối với kinh tế hoặc là thúc đẩy hoặc là cản trở sự phát triển
kinh tế. Chính trị biểu hiện trên các tri thức được tích lũy trong quá trình


10

lịch sử và những quan hệ thực tế gắn với con người, với giai cấp với dân
tộc và với thời đại. Với tư cách là hệ thống các quan hệ xã hội hiện thực,
chính trị có tính khách quan, không thuần túy phụ thuộc vào ý chí chủ quan
của cá nhân hoặc của đảng này đảng khác. Với tư cách là một thiết chế xã
hội, chính trị luôn luôn tìm cách dẫn dắt xã hội theo tư tưởng của giai cấp
nắm quyền thống trị xã hội.
Như vậy, có thể hiểu chính trị theo một khái niệm tổng quát như
sau: Chính trị là những vấn đề về điều hành bộ máy nhà nước hoặc những
hoạt động của giai cấp, chính đảng nhằm giành hoặc duy trì quyền điều
hành nhà nước.
Ngoài ra, còn có các định nghĩa khác về chính trị như: chính trị là
một hoạt động, hoạt động cai trị con người, của một tập đoàn hoặc của một
cá nhân nhất định triển khai xung quanh quyền lực nhà nước, hoặc chính trị
là một loại quan hệ, quan hệ giữa các giai cấp, trước hết là các quan hệ kinh

tế; chính trị là hệ thống các chính sách và sách lược hành động của các giai
cấp và các chính đảng để giành và giữ chính quyền nhằm phục vụ cho lợi
ích của giai cấp mình; chính trị là chủ thể của kiến trúc thượng tầng có
chức năng xử lý và điều tiết các mối quan hệ qua lại giữa các giai cấp, các
dân tộc và các quốc gia...
Từ sự hiểu biết về lý luận, chính trị như đã trình bày ở trên có thể
nêu lên một khái niệm lý luận chính trị như sau: Lý luận chính trị là lý luận
trong lĩnh vực chính trị. Đối với Đảng ta đó là lý luận về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về
sở hữu và các thành phần kinh tế, về đấu tranh giai cấp, về xây dựng Đảng
và xây dựng Nhà nước... Nền tảng, cơ sở của lý luận chính trị của Đảng ta
là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó được Đảng ta
khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII:
"Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động [6, tr. 21].


11

Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ những năm 40 của thế kỷ XIX là
khoa học về những qui luật phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội, và tư
duy; là khoa học về cách mạng đấu tranh lật đổ ách thống trị của các giai
cấp bóc lột trong xã hội cũ và xây dựng một chế độ xã hội mới ấm no, tự
do, hạnh phúc; là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và đấu tranh cho ý
chí, lợi ích của nhân dân lao động.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là sự vận dụng
và phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc, tiếp

thu có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại, là tiêu biểu của sự kết hợp
giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người, là độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội...
Đảng ta luôn kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, coi đó là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của
Đảng, của cách mạng nên đã đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, đất
nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong những năm đất nước mới
bước vào đổi mới, chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào tình trạng khủng
hoảng và sụp đổ ở nhiều nước, chủ nghĩa Mác - Lênin bị bôi nhọ và tấn
công từ nhiều phía. Trước tình hình đó trong các nước xã hội chủ nghĩa đã
xuất hiện những tư tưởng phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin gây ra sự hoang
mang dao động về mặt tư tưởng trong các tầng lớp nhân dân. Ở nước ta
cũng đã xuất hiện những tư tưởng dao động hoài nghi, đòi xem xét lại chủ
nghĩa Mác - Lênin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước. Trên
cơ sở thấm nhuần sâu sắc bản chất cách mạng, tính khoa học chân chính
của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta vẫn kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin,
kiên trì con đường phát triển của đất nước được Đảng, Bác và cả dân tộc đã
lựa chọn và dày công vun đắp. Điều đó được thể hiện rõ trong các văn kiện


12

của Đảng trong những năm đổi mới. Trong các văn kiện đó, Đảng vạch rõ
nguồn gốc sâu xa mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong gần ba
phần tư thế kỷ vừa qua, đồng thời chỉ ra cơ sở lý luận và thực tiễn của sự
nghiệp xây dựng đất nước trong những giai đoạn tiếp theo. Đảng luôn
khẳng định vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh trong toàn bộ sự nghiệp của cách mạng Việt Nam và chỉ rõ: "Ở
những bước ngoặt của cách mạng, trước những diễn biến phức tạp của tình

hình, Đảng kịp thời có định hướng tư tưởng chính trị đúng đắn, uốn nắn
những nhận thức lệch lạc, chống những luận điệu thù địch, tạo cơ sở cho sự
thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng và trong nhân dân" [10, tr. 136] .
Đó là những định hướng chính trị quan trọng đảm bảo cho sự ổn
định và phát triển của đất nước, là điều kiện tiên quyết để chúng ta giành
được những thắng lợi to lớn trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới
và cũng là tiền đề quan trọng để đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Để công
cuộc đổi mới nhanh chóng đi đến thắng lợi, chủ nghĩa xã hội sớm trở thành
hiện thực, tại Đại hội toàn quốc lần thứ IX một lần nữa Đảng khẳng định:
"Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con
đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh" [14, tr. 83].
Xuất phát từ quan điểm đó Đảng ta nhấn mạnh việc học tập, nghiên
cứu rèn luyện và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm giải quyết
những vấn đề bức xúc do thực tiễn đất nước và thời đại đặt ra. Tại Đại hội
IX Đảng ta quy định: "Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [14, tr. 139]. Tuy nhiên, việc học tập đó
phải được gắn với việc không ngừng bổ sung phát triển trên cơ sở thực tiễn
mới để lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn
luôn sống động và có sức sống mãnh liệt trong sự nghiệp cách mạng, trong
đời sống chính trị - xã hội của dân tộc.


13

Nắm vững lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm nhuần sâu sắc
tư tưởng Hồ Chí Minh nên từ khi ra đời đến nay Đảng luôn đưa ra những
quan điểm, chủ trương đường lối phát triển đất nước một cách đúng đắn,
những chính sách hợp lòng dân. Do đó đã đưa sự nghiệp cách mạng của
dân tộc vượt qua những khó khăn thử thách để có được thắng lợi trọn vẹn

như ngày hôm nay.
Với cách hiểu như trên thì lý luận chính trị có những đặc trưng chủ
yếu như sau:
Một là: Tính trừu tượng và tính khái quát cao. Đây là đặc trưng cơ
bản của lý luận nói chung, lý luận chính trị nói riêng. Thường nói đến lý
luận người ta liên tưởng ngay đến tính trừu tượng và tính khái quát của nó.
Như chúng ta đã biết, tư duy là vấn đề cốt lõi của lý luận nhận thức, nếu
không có tư duy thì nhận thức của con người sẽ chỉ dừng lại ở nhận thức
cảm tính, mặt bề ngoài của đối tượng, không thể hiểu được bản chất, tính
qui luật của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng nói chung
trong thế giới hiện thực. Các hình thức thể hiện của lý luận như khái niệm,
phạm trù, các nguyên lý... đều là sản phẩm của quá trình khái quát hóa, trừu
tượng hóa cao của tư duy. Với trừu tượng hóa, lý luận có thể hướng con
người trong việc tìm tòi chân lý, nắm bắt những mối liên hệ khách quan,
bản chất, phát hiện ra quy luật chi phối sự vận động và phát triển của các sự
vật, hiện tượng. Còn khái quát hóa có vai trò quan trọng trong việc hình
thành các khái niệm, phạm trù, từ đó góp phần quan trọng trong việc xây
dựng các lý thuyết khoa học.
Trừu tượng hóa và khái quát hóa là hai quá trình không thể tách rời
mà chúng luôn có liên hệ chặt chẽ với nhau, xâm nhập và bổ sung lẫn nhau.
Nhờ đó mà con người có được những tri thức về các mối liên hệ bản chất,
tính qui luật trong sự vận động và phát triển của sự vật. Với đặc tính phản
ánh cái chung, cái bản chất có tính qui luật của các sự vật, hiện tượng, nên


14

qui luật có tính chính xác, chặt chẽ, lôgíc và độ tin cậy cao, nó là một hệ
thống chỉnh thể thống nhất. Mặc dù các khái niệm, phạm trù, nguyên lý...
biểu đạt những khía cạnh, những yếu tố khác nhau nhưng chúng lại có quan

hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung, hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Lý
luận Mác - Lênin chính là một điển hình về tính thống nhất, chặt chẽ và
tính lô gíc. Do đó nó là khoa học về những qui luật chung, phổ biến đang
vận động trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Nhờ có tính trừu tượng hóa, khái quát hóa của lý luận mà tư duy
con người không ngừng tìm tòi, sáng tạo ra những cái mới khoa học đáp
ứng những nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn.
Hai là: Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đây là nguyên tắc
cơ bản của lý luận khoa học nói chung và của chủ nghĩa Mác - Lênin nói
riêng. Lý luận xét đến cùng là thuộc về lĩnh vực hoạt động tinh thần của xã
hội, còn thực tiễn thuộc về hoạt động vật chất. Theo lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin thì vật chất quyết định ý thức, hoạt động vật chất đóng vai trò
quyết định đối với hoạt động tinh thần. Khẳng định điều đó, Lênin viết:
"Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm không những của
tính phổ biến mà cả của tính hiện thực trực tiếp" [21, tr. 230]. Tuy nhiên, lý
luận cũng đóng vai trò tác động trở lại tích cực đối với thực tiễn, đặc biệt
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa: "Không có lý luận cách mạng thì cũng
không thể có phong trào cách mạng" [20, tr. 30]. Lý luận chính là kết quả
nhận thức của con người, nó có vai trò chỉ đạo, hướng dẫn thực tiễn do đó
nếu không có nhận thức đúng thì cũng không thể có hành động đúng.
Chính vì vậy, Đảng luôn nhấn mạnh đến vai trò kim chỉ nam của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng của đất
nước.
Lý luận và thực tiễn luôn có mối quan hệ biện chứng, là điều kiện,
là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của nhau. Điều đó được Chủ tịch Hồ


15

Chí Minh nhấn mạnh: "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên

tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng
dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là
lý luận suông" [32, tr. 496]. Với tư tưởng chỉ đạo đó, trong suốt quá trình
chỉ đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ,
đảng viên không ngừng học tập lý luận cách mạng và vận dụng sáng tạo lý
luận đó vào thực tiễn. Người nói, hoạt động thực tiễn mà không có lý luận
thì không khác gì đi trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp, phải có
lý luận thì mới hiểu được mọi việc trong xã hội, trong phong trào, để từ đó
đề ra được chủ trương và hành động đúng.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, nhờ nắm vững
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng một cách
sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, nên Đảng ta đã lãnh đạo cách
mạng vượt qua mọi khó khăn thử thách, giành được nhiều thắng lợi to lớn
trong mỗi chặng đường lịch sử. Đảng luôn quan tâm đến công tác bồi
dưỡng, giáo dục lý luận cho cán bộ Đảng viên, coi đó là yêu cầu cơ bản, là
điều kiện không thể thiếu được trong công tác xây dựng Đảng.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, trước thực trạng: "Năng lực và
phẩm chất của đội ngũ cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ...
không ít cán bộ đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất,
đạo đức; sức chiến đấu của một bộ phận tổ chức cơ sở đảng suy yếu [10, tr.
67]. Đảng càng phải quan tâm hơn đến công tác này. Thực tế cho thấy, để
có bản lĩnh chính trị vững vàng và khả năng phân tích một cách sâu sắc
những diễn biến của thực tiễn, từ đó đưa ra được những quyết sách đúng
đắn đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải
tăng cường học tập, nâng cao nhận thức lý luận chính trị cùng với việc
không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn. Để làm được việc đó, một
trong những nhiệm vụ cấp thiết hiện nay là: "Đổi mới công tác giáo dục


16


trong Đảng và trong xã hội về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước" [12, tr. 27].
Việc học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên còn
có một ý nghĩa quan trọng là góp phần không ngừng nâng cao trí tuệ cho
Đảng. Hơn lúc nào hết, để lãnh đạo công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi
Đảng phải có trí tuệ, không ngừng nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn, từ
việc phát hiện và nắm vững qui luật về sự vận động của đời sống xã hội,
cho đến việc hiểu biết về thế giới và thời đại.
Những thắng lợi to lớn mà công cuộc đổi mới ở nước ta đem lại và
sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới thời gian qua cho thấy
khi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được xây
dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự vận dụng sáng tạo
lý luận ấy phù hợp với điều kiện cụ thể của thực tiễn đất nước thì cách
mạng sẽ giành được thắng lợi. Còn ngược lại mọi sự giáo điều, rập khuôn
máy móc trái với những nguyên lý cơ bản của lý luận đó thì không tránh
được hậu quả là kinh tế trì trệ không phát triển, khủng hoảng kinh tế - xã
hội tất yếu xảy ra làm nguy hại đến sự tồn vong của chế độ xã hội.
Ba là: Sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học. Trong xã hội
có giai cấp, lý luận chính trị bao giờ cũng do một giai cấp nhất định trong
xã hội xây dựng nên xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của giai cấp đó. Lý
luận chính trị của Đảng hiện nay là xuất phát từ nhu cầu và hoàn toàn phù
hợp với lợi ích của nhân dân lao động, cho nên lý luận đó luôn đảm bảo sự
thống nhất chặt chẽ giữa tính đảng và tính khoa học.
Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
lý luận chính trị của Đảng ta hiện nay có vai trò to lớn trong việc tìm tòi,
sáng tạo, xây dựng các luận cứ khoa học cho việc đề ra và tổ chức thực
hiện thắng lợi những mục tiêu, đường lối chính trị mà Đảng đề ra. Lý luận
đó là sự tổng hợp những tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của thời đại, là sự
khái quát những thành tựu khoa học tiên tiến nhất của nhân loại, đồng thời



17

nó còn là sự đúc kết kinh nghiệm của thực tiễn đấu tranh dựng nước và giữ
nước của dân tộc. Lý luận đó là sản phẩm của sự tổng kết phong trào cách
mạng của dân tộc và trên thế giới, một điển hình về sự vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, về sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học,
giữa tính khoa học và tính cách mạng.
Trong lý luận chính trị không có sự tách rời giữa tính đảng và tính
khoa học, mà là sự thống nhất chặt chẽ, là điều kiện là tiền đề thúc đẩy
nhau cùng phát triển, trong đó tính đảng càng cao thì tính khoa học càng
sâu sắc. Khẳng định tính thống nhất đó, Ăngghen viết: "Khoa học càng
được tiến hành một cách dũng cảm và kiên quyết thì nó càng phù hợp với
lợi ích và nguyện vọng của giai cấp công nhân" [28, tr. 451]. Vì vậy, tại Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã khẳng định: "Phát triển và kết
hợp chặt chẽ các ngành khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và
công nghệ... làm chỗ dựa khoa học cho việc triển khai thực hiện Cương
lĩnh, Hiến pháp, xác định phương hướng, bước đi của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xây dựng pháp luật, các chính sách, kế hoạch và chương trình
kinh tế - xã hội" [10, tr. 104].
Sự thống nhất chặt chẽ giữa tính đảng và tính khoa học trong lý
luận chính trị tạo nên đặc trưng cơ bản, vừa cách mạng, vừa khoa học. Lý
luận chính trị có nhiệm vụ quan trọng là định hướng cho con người trong
việc cải biến tự nhiên và cải tạo xã hội. Tính khoa học là cơ sở, là tiền đề
còn tính đảng, là định hướng cách mạng để xóa bỏ cái cũ, xây dựng cái mới
phù hợp với quy luật chung của sự phát triển. Lênin nói: "Sức hấp dẫn
không gì cưỡng nổi, đã lôi cuốn những người xã hội chủ nghĩa của tất cả các
nước theo lý luận đó chính là ở chỗ nó kết hợp tính khoa học chặt chẽ và
cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa học xã hội), với tinh thần cách mạng"

[19, tr. 421].
Tính đảng đòi hỏi việc nghiên cứu lý luận chính trị phải xuất phát
từ tình hình, đặc điểm cụ thể của đất nước, từ thực tiễn chính trị của mỗi


18

nước, của thế giới, đưa ra những dự báo khoa học về sự phát triển của tình
hình, trên cơ sở đó đề ra được những giải pháp khoa học đúng đắn để giải
quyết, kịp thời bổ sung những vấn đề mới làm cho chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước ngày càng hoàn thiện, sát với thực tiễn cuộc sống.
Ngày nay, trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, Đảng phải luôn đổi mới và tự
chỉnh đốn, trước hết phải không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ, tính tiền
phong về lý luận bởi: "Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng
dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong" [20, tr. 32].
Tóm lại: Để làm tròn vai trò lãnh đạo cách mạng trong giai đoạn
mới hiện nay, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đảng phải không ngừng phát triển lý luận chính trị. Lý luận chính trị
đó phải thể hiện được trí tuệ của Đảng, của dân tộc và của thời đại, phải hội
tụ đầy đủ các đặc trưng, không chỉ mang tính khái quát, tính trừu tượng,
tính chính xác, chặt chẽ lô gíc mà còn phải đảm bảo sự thống nhất chặt chẽ
giữa lý luận và thực tiễn, giữa tính đảng và tính khoa học... Đó chính là lý
luận chính trị mác-xít, được xây dựng trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, được trải nghiệm và khẳng định trong thực tiễn
cách mạng. Lý luận đó đã, đang và sẽ được những người cộng sản trên thế
giới bổ sung, phát triển bằng những luận cứ khoa học mới để không ngừng
hoàn thiện và luôn có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của xã hội.
1.1.2. Hoạt động lãnh đạo, quản lý của người cán bộ và vai trò
của lý luận chính trị đối với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp huyện

1.1.2.1. Thực chất của hoạt động lãnh đạo, quản lý cấp huyện
Hoạt động lãnh đạo, quản lý là nhu cầu khách quan hình thành
trong xã hội loài người. Mỗi chế độ xã hội sẽ sản sinh ra một đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý và có những đòi hỏi về trình độ, năng lực và phẩm
chất nhất định.


19

Hoạt động lãnh đạo, quản lý là sự tác động có định hướng, sự điều
hành, điều chỉnh hoạt động của con người nhằm vươn tới những mục tiêu
nhất định, trong đó:
- Hoạt động lãnh đạo là hoạt động tác động điều khiển mang tính
chất định hướng của chủ thể lãnh đạo đến đối tượng bằng các phương pháp
động viên, giáo dục, thuyết phục... nhằm đạt được mục đích nhất định.
Theo từ điển tiếng Việt thì lãnh đạo là: "Đề ra chủ trương, đường lối và tổ
chức, động viên thực hiện" [23, tr. 524].
- Hoạt động quản lý là quá trình điều khiển trực tiếp thông qua sự sắp
xếp, tổ chức, chỉ huy của chủ thể quản lý đối với hoạt động của từng đối
tượng theo những yêu cầu nhất định. Theo từ điển tiếng Việt thì quản lý là:
"Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định" [23,
tr. 772].
Giữa hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý có những đặc trưng
chung giống nhau, đều là sự tác động của chủ thể, những người có quyền
uy đối với đối tượng là những người dưới quyền để thực hiện một nhiệm vụ
nào đó theo những yêu cầu, mục tiêu đã định.
Tuy nhiên giữa hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý cũng có sự
khác nhau nhất định. Về mục tiêu, hoạt động lãnh đạo là định hướng
chung, còn hoạt động quản lý là tổ chức sắp xếp các vấn đề theo một trật tự
nhất định để thực hiện có hiệu quả cao nhất các quyết định của lãnh đạo; về

nội dung, hoạt động lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối chung, phương
pháp triển khai, biện pháp thực hiện, còn hoạt động quản lý là xây dựng các
phương án, chỉ tiêu kế hoạch cụ thể, tổ chức lực lượng để thực thi nhiệm
vụ; về phương pháp, hoạt động lãnh đạo thường dùng phương pháp động
viên, giáo dục, thuyết phục nhằm phát huy tính tự giác của đối tượng, còn
hoạt động quản lý phương pháp là dùng mệnh lệnh có tính bắt buộc với
những chế tài biện pháp hành chính nhất định.


20

Do hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý có những nội dung và
tính chất gần giống nhau nên người ta thường dùng cụm từ chung là lãnh
đạo, quản lý. Và như vậy hoạt động lãnh đạo đồng thời cũng thực hiện
chức năng quản lý và ngược lại hoạt động quản lý cũng thực hiện luôn
chức năng lãnh đạo. Đó là ở một số lĩnh vực và phạm vi tổ chức nhỏ hay
còn gọi là cấp cơ sở, cấp "vi mô"; còn ở những cấp cao như Trung ương
Đảng, Nhà nước, Chính phủ... hay còn gọi là cấp "vĩ mô" thì sự phân biệt
giữa hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý trở nên rõ ràng hơn. Chẳng
hạn, đối với nước ta hiện nay đang thực hiện theo cơ chế: Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trong đó Đảng lãnh đạo bằng Cương
lĩnh, quan điểm, chủ trương đường lối; Nhà nước quản lý các lĩnh vực của
đời sống xã hội bằng hệ thống chính sách và pháp luật; còn nhân dân làm
chủ theo phương thức: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Tuy nhiên
giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước không có sự tách
biệt mà luôn thống nhất với nhau, bổ sung lẫn nhau. Trong đó hoạt động
lãnh đạo là cơ sở, là tiền đề cho hoạt động quản lý, còn hoạt động quản lý
là bước tiếp theo của hoạt động lãnh đạo nhằm hiện thực hóa chủ trương
đường lối của Đảng thành chính sách và pháp luật của Nhà nước, trên cơ sở
đó triển khai và tổ chức quần chúng nhân dân thực hiện. Còn ở cấp cơ sở

không có sự phân biệt rõ ràng, cụ thể giữa hoạt động lãnh đạo và hoạt động
quản lý. Do tính chất công việc, cơ cấu tổ chức và hoạt động, nên chủ thể
lãnh đạo đồng thời cũng thực hiện luôn chức năng quản lý và ngược lại.
Ở nước ta hiện nay cơ cấu tổ chức của hệ thống chính trị được cấu
thành bởi 4 cấp hành chính, đó là: Trung ương, tỉnh, huyện và xã. Ở mỗi
cấp, Đảng và Nhà nước có những qui định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và tính chất hoạt động nhất định. Cương vị phụ trách của cán bộ
lớn có qui mô rộng thì chức năng, quyền hạn nhiệm vụ lớn, tính chất hoạt
động có vị trí quan trọng và ảnh hưởng, tác động lớn. Ngược lại chức năng,
nhiệm vụ quyền hạn nhỏ, tính chất hoạt động ít quan trọng hơn thì ảnh


21

hưởng tác động cũng nhỏ hơn. Dựa trên căn cứ này mà phân cấp cán bộ
thành ba cấp là: Cán bộ cao cấp, cán bộ trung cấp, và cán bộ cơ sở.
Cán bộ cao cấp: là cán bộ ở tầm chiến lược có chức năng, nhiệm vụ
đề ra chủ trương đường lối, chính sách, lãnh đạo và quản lý ở tầm vĩ mô.
Cán bộ trung cấp: là cán bộ ở tầm chiến thuật có chức năng, nhiệm
vụ vận dụng đường lối chính sách của Trung ương và ngành, đề ra phương
hướng, kế hoạch cho phù hợp với đặc điểm của địa phương, cơ quan mình
và chỉ đạo, kiểm tra việc tổ chức thực hiện phương hướng, kế hoạch đó.
Cán bộ cơ sở: là cán bộ có chức năng nhiệm vụ tổ chức thực hiện
các đường lối, chính sách, phương hướng kế hoạch của Trung ương, ngành,
địa phương... phù hợp với điều kiện, đặc điểm của cơ sở xã, phường, xí
nghiệp, trường học, bệnh viện...
Ba cấp cán bộ đó tuy có chức năng, nhiệm vụ, vị trí và tính chất
hoạt động khác nhau, nhưng đều là cán bộ và tạo thành đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước được bố trí ở khắp mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, ở khắp các khu vực, các vùng lãnh thổ của đất nước.

Trên cơ sở xác định vị trí, vai trò của cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp như trên thì đối với cấp huyện luận văn này xác định cán bộ lãnh đạo,
quản lý bao gồm: Bí thư, Phó Bí thư huyện ủy, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện, Trưởng các ban của Đảng; các
tổ chức đoàn thể và Trưởng các phòng chức năng thuộc khối chính quyền.
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện đóng vai trò là khâu
trung gian, là cầu nối trong quy trình lãnh đạo, quản lý thống nhất từ Trung
ương đến cơ sở. Với vị trí ấy, hoạt động lãnh đạo, quản lý nhất là của cán
bộ chủ chốt cấp huyện vừa mang tính chất định hướng chung, vừa mang
tính thực tiễn - cụ thể.
Cán bộ chủ chốt cấp huyện là những người nòng cốt, giữ những
chức vụ cao nhất, quan trọng nhất trong những tổ chức của hệ thống chính


22

trị. Họ là những người xây dựng chủ trương, đề ra chính sách, quyết định
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao.
Hoạt động lãnh đạo, quản lý cấp huyện là nhằm định hướng cho cấp
xã, cũng như các phòng, ban chuyên môn: nông - lâm nghiệp và phát triển
nông thôn, tài chính kế hoạch, giáo dục, văn hóa, y tế, quốc phòng, an ninh,
tư pháp... tiếp thu, triển khai thực hiện đúng đắn, kịp thời và có hiệu quả
những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước, những chỉ thị, nghị quyết, quyết định... của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, huyện trên địa bàn của huyện. Thông qua đó
phát hiện ra những cái được và chưa được trong chủ trương đường lối,
chính sách, kiến nghị cấp trên kịp thời điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện chủ
trương đường lối, chính sách về mọi mặt, ngày càng đáp ứng được với yêu
cầu và nguyện vọng của nhân dân. Như vậy, hoạt động lãnh đạo, quản lý
cấp huyện nếu được thực hiện tốt sẽ góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo,

quản lý ở tầm vĩ mô, ngược lại cấp huyện không thực hiện tốt vai trò của
mình thì hiệu quả lãnh đạo, quản lý ở tầm vĩ mô sẽ hạn chế, kém hiệu quả.
Và như vậy sự vận hành của quy trình lãnh đạo từ Trung ương - tỉnh huyện - xã sẽ bất ổn, làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước.
Đối với cán bộ chủ chốt cấp huyện, hoạt động lãnh đạo, quản lý còn
đòi hỏi phải ra được những văn bản, quyết định đúng đắn nhằm chỉ đạo kịp
thời các lĩnh vực phát triển theo đúng đòi hỏi của thực tiễn. Để làm được
điều đó người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện phải thực sự có kiến
thức, có trình độ, nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của cấp trên,
am hiểu tình hình thực tế của địa phương và xu hướng vận động của tình
hình. Đồng thời còn phải biết phát huy sức mạnh tổng hợp, tiềm năng, thế
mạnh của từng vùng, từng lĩnh vực cho sự phát triển. Đó cũng là những
điều kiện để người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện xây dựng được các
quyết định, các chương trình kế hoạch vừa phù hợp với thực tế địa phương,


23

vừa là sự cụ thể hóa sinh động, sáng tạo chủ trương, đường lối chính sách
của cấp trên. Những quyết định, chủ trương, kế hoạch đưa ra vừa phải
mang tính khái quát chung, phản ánh được mọi mặt đời sống xã hội của toàn
huyện, vừa mang tính chỉ đạo cụ thể đối với mọi lĩnh vực, địa bàn của
huyện.
So với hoạt động lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh thì ở cấp huyện phạm vi
tác động điều khiển hẹp hơn, tính chất, quy mô cũng nhỏ bé hơn nhưng
không kém phần quan trọng. Xét theo lĩnh vực đời sống xã hội, hoạt động
lãnh đạo, quản lý cấp huyện cũng tác động bao quát mọi vấn đề từ kinh tế,
chính trị, tư tưởng, văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng... Mỗi lĩnh
vực ấy lại còn bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau rất đa dạng phong phú
đồng thời cũng rất phức tạp. Do vậy hoạt động lãnh đạo, quản lý cấp huyện
phải tạo ra được mối liên kết giữa các lĩnh vực, các ngành nghề chuyên

môn thuộc nhiều địa bàn khác nhau thành một tổng thể các quan hệ ở tầm
khái quát cao. Song mỗi huyện đều có những đặc thù riêng, đặc biệt những
huyện vùng cao, vùng dân tộc thiểu số, địa hình phức tạp trình độ dân trí
thấp, còn nặng nề những phong tục tập quán lạc hậu... đòi hỏi người cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp huyện phải hết sức tường tận những cái riêng của địa
bàn mà mình lãnh đạo, chỉ đạo phát huy cái riêng, thế mạnh đó một cách có
trọng tâm trọng điểm.
Bản chất của hoạt động lãnh đạo, quản lý là sự điều khiển và đối
tượng của sự điều khiển đó là những con người cụ thể có trình độ tri thức,
có năng lực, có nguyện vọng, tâm tư tình cảm, mục đích riêng. Do vậy,
người lãnh đạo, quản lý cần phải có phương pháp tác động, phải có kiến
thức tâm lý nhất định thì mới tập hợp, đoàn kết và phát huy được sức mạnh
tổng hợp. Phải biết sử dụng những nguyên tắc: "Thu phục nhân tâm", biết
đặt mình vào vị trí của người khác ở địa vị cấp dưới, hiểu được tâm tư


24

nguyện vọng và thấy được những khó khăn của họ từ đó có sự cảm thông,
động viên giúp đỡ họ để hoàn thành nhiệm vụ. Đặc biệt trong điều kiện
hiện nay phải biết phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm sao để
phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra không chỉ trên lý
thuyết mà phải trở thành thực tế trong hiện thực sinh động của cuộc sống.
Có như vậy mới phát huy được trí tuệ tập thể, sức mạnh tổng hợp của nhiều
lĩnh vực trong việc xây dựng các quyết định về lãnh đạo, quản lý và đề ra
được những giải pháp tối ưu nhất để tổ chức thực hiện. Đồng thời trong
hoạt động của mình, người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện còn phải
biết thu nhận những thông tin từ đời sống thực tiễn, xử lý kịp thời những
thông tin đó một cách chính xác. Thường xuyên tạo được bầu không khí
dân chủ đoàn kết nhất trí cao trong cơ quan, đơn vị và cả địa bàn. Trên cơ

sở đó xây dựng niềm tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước nói chung vào sự lãnh đạo, quản lý ở cấp huyện nói riêng.
Do đặc điểm địa hình, dân cư dân tộc với những đặc điểm riêng của
nó nên hoạt động lãnh đạo, quản lý cấp huyện của tỉnh Cao Bằng có tính
đặc thù riêng. Để hoạt động lãnh đạo, quản lý có hiệu quả đòi hỏi người
cán bộ trước hết phải thông thạo tiếng nói, phong tục tập quán, tâm lý,
truyền thống của các dân tộc sinh sống trên địa bàn. Họ phải có khả năng
"biết nghe dân nói" và "biết nói cho dân nghe" theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa
bóng của nó. Đồng thời phải biết kết hợp nhuần nhuyễn "luật nước" với
"luật tục" trong quản lý xã hội, biết đối thoại với cán bộ, cấp xã và mọi tầng
lớp nhân dân về tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để làm được điều
đó đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện phải có trình độ.
Ngoài trình độ chuyên môn, lý luận chính trị ra còn phải có kiến thức quản
lý kinh tế, quản lý nhà nước trên các lĩnh vực cụ thể; đồng thời cũng phải
có kiến thức am hiểu về dân tộc học, về chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước; kiến thức tôn giáo, những hiểu biết về văn hóa dân tộc, về chủ


25

quyền quốc gia và an ninh biên giới... Có như vậy mới có thể giải quyết
được những vấn đề dân tộc, tôn giáo cụ thể nảy sinh trên địa bàn một cách
nhanh chóng theo đúng quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi vấn đề dân tộc, tôn giáo, chủ quyền
quốc gia và an ninh biên giới trở nên phức tạp và nhạy cảm, tiềm ẩn những
vấn đề chính trị nghiêm trọng thì càng đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản
lý ở đây phải có sự am hiểu sâu sắc, nhất quán về những vấn đề này. Có
như vậy mới kịp thời nắm bắt những hiện tượng, những tình huống chính
trị - xã hội phức tạp diễn ra và giải quyết một cách có hiệu quả đúng
nguyên tắc.

1.1.2.2. Vai trò của lý luận chính trị đối với hoạt động của người
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện
Trong điều kiện hiện nay, tình hình chính trị trong nước và trên thế
giới có nhiều diễn biến phức tạp, mặt trái của cơ chế thị trường đang tác
động mạnh đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi người cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp huyện không chỉ có trình độ chuyên môn, năng lực
lãnh đạo, quản lý mà phải được đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ lý
luận chính trị, để có bản lĩnh chính trị vững vàng thì mới có thể đảm nhiệm
được trọng trách của mình. Vai trò của lý luận chính trị đối với người cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện có thể khái quát bằng những nội dung chủ
yếu sau:
Một là, lý luận chính trị trang bị cho người cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp huyện sự hiểu biết cần thiết để nhận thức đúng đắn và tổ chức thực
hiện có hiệu quả những chủ trương đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước tại địa phương.
Như đã đề cập ở phần trên, hoạt động của người cán bộ lãnh đạo,
quản lý có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của đơn vị, cộng đồng


×