BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN
NGUYỄN BÙI KHIÊM
PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ
CỦA NGƠ TẤT TỐ
Ngành:
Báo chí học
Mã số:
9.32.01.01
TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC
HÀ NỘI 2019
Cơng trình được hồn thành tại Học viện Báo chí và Tun truyền
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Tạ Ngọc Tấn
Cơng trình được hồn thành tại Học viện Báo chí và Tun truyền
Cơng trình được hồn thành tại:
Học viện Báo chí và Tun truyền
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Tạ Ngọc Tấn
Chủ tịch Hội đồng:
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Báo chí và Tun truyền
vào hồi …. giờ …. ngày …. tháng ….. năm 2019
Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia, Hà Nội
Trung tâm Thơng tin Thư viện, Học viện Báo chí và Tun truyền.
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngơ Tất Tố là một trong những nhà văn, nhà báo xuất sắc từ trước
Cách mạng tháng Tám. Thân thế và sự nghiệp sáng tác của ơng đã thu hút sự
chú ý của nhiều đồng nghiệp, nhà nghiên cứu, phê bình và các thế hệ học
viên, sinh viên. Với khoảng 400 cơng trình, có thể nói, việc nghiên cứu về
Ngơ Tất Tố khá đồ sộ. Tuy nhiên, hầu hết các cơng trình nghiên cứu đều về
lĩnh vực văn học, riêng các nghiên cứu về sự nghiệp báo chí của ơng cịn khá
khiêm tốn và vẫn cịn những khoảng trống nhất định, như: (1) Vấn đề thể
loại tác phẩm báo chí của Ngơ Tất Tố cịn nhiều cách gọi khác nhau như bút
chiến, tiểu phẩm, tạp văn, tản văn; (2) Vấn đề phong cách của Ngơ Tất Tố
trong lao động sáng tạo; (3) Từ trước đến nay, phần lớn các cơng trình nghiên
cứu về sự nghiệp báo chí của Ngơ Tất Tố đều trên dựa cơ sở khảo sát hơn
100 tác phẩm báo chí của Ngơ Tất Tố được cơng bố từ năm 1975. Từ năm
2005 đến 2011, các nhà nghiên cứu đã cơng bố khoảng 13 50 tác phẩm báo chí
được xác định là của Ngơ Tất Tố. Từ thực tế đó cho thấy, việc tổ chức
nghiên cứu dựa trên cơ sở khảo sát tổng thể di sản báo chí của Ngơ Tất Tố là
cần thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa và phát triển lý thuyết về tản văn báo chí và
phong cách tản văn báo chí, luận án đi sâu phân tích để có thể nhận diện được
phong cách tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố thể hiện qua nội dung, hình thức
kết cấu và ngơn ngữ; đánh giá được ý nghĩa của vấn đề này trong lịch sử báo
chí Việt Nam; rút ra một số bài học đối với hoạt động nghề báo.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án thực hiện các nhiệm vụ:
xác lập cơ sở lý thuyết về đối tượng nghiên cứu; nhận diện các đặc trưng về
2
phong cách tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố thể hiện qua các bình diện như
nội dung, hình thức và ngơn ngữ; đánh giá ý nghĩa lịch sử của tản văn báo chí
của Ngơ Tất Tố và bài học đối với người làm báo hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là phong cách tản văn báo chí của
Ngơ Tất Tố được thể hiện thơng qua các tư liệu, tài liệu liên quan đến sự
nghiệp của Ngơ Tất Tố nói chung và các tác phẩm tản văn báo chí của ơng
nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu của luận án là khảo sát những tác phẩm tản văn báo
chí của Ngơ Tất Tố đã được in trong: “Tổng tập tản văn Ngơ Tất Tố”; “Ngơ
Tất Tố tiểu phẩm báo chí”; “Ngơ Tất Tố tác phẩm”… và một số tác phẩm báo
chí của Ngơ Tất Tố đăng báo trước năm 1945 có thể tiếp cận được từ các nguồn
khác.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được xây dựng trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí; vận dụng lý luận báo chí, lý
luận văn học; một số kết quả nghiên cứu về lịch sử báo chí; thể loại tác
phẩm báo chí; hoạt động sáng tạo báo chí.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của luận án được dựa trên nền tảng của hệ thống lý
luận về báo chí học. Đồng thời luận án cũng sử dụng các phương pháp cụ
thể như: phương pháp nghiên cứu lịch sử; phân tích và tổng hợp, thống kê,
phân loại văn bản học và khái qt hóa để phân tích, đánh giá về phong cách
tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố.
5. Giả thuyết nghiên cứu
3
5.1. Những tìm tịi thể nghiệm về tản văn báo chí là những đóng góp
của Ngơ Tất Tố trong tiến trình vận động và phát triển của báo chí Việt Nam.
5.2. Là một nhà cựu học, làm báo trong bối cảnh giao thời Đơng Tây
với những biến động chính trị xã hội trước Cách mạng tháng Tám… đó là
những nhân tố hình thành phong cách tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố.
5.3. Phong cách tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố có ý nghĩa trong lịch sử
báo chí Việt Nam và những bài học đối với lao động nghề báo hiện nay.
6. Đóng góp mới của luận án
Luận án nhấn mạnh một số phương pháp mới về lý luận như:
Giới thuyết về tản văn báo chí, một số đặc trưng về thể loại; các yếu
tố chi phối, ảnh hưởng đến phong cách tác giả và tác phẩm tản văn báo chí.
Nhận diện về phong cách của Ngơ Tất Tố qua các bình diện nội dung,
hình thức và ngơn ngữ.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cần
thiết cho việc giảng dạy, nghiên cứu và lao động nghề báo.
7. Kết cấu của luận án
Ngồi phần Mở đầu, Tổng quan nghiên cứu, Kết luận, Tài liệu tham
khảo và Phụ lục, luận án được kết cấu gồm có 5 chương: Chương 1. Lý luận
chung về phong cách tản văn báo chí; Chương 2. Phong cách tản văn báo chí
của Ngơ Tất Tố qua bình diện nội dung tác phẩm; Chương 3. Phong cách tản
văn báo chí của Ngơ Tất Tố qua bình diện hình thức và kết cấu tác phẩm;
Chương 4. Phong cách ngơn ngữ tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố; Chương 5.
Phong cách tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố ý nghĩa lịch sử báo chí và bài
học nghề báo.
4
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Theo tổng hợp chưa đầy đủ, đến nay đã có khoảng 400 cơng trình nghiên
cứu về Ngơ Tất Tố nhưng hầu hết là nghiên cứu về sự nghiệp văn học của ơng.
Năm 1939, trong một số bài báo giới thiệu tác phẩm “Tắt đèn” đã có
những nhận xét đầu tiên về phong cách làm báo của Ngơ Tất Tố. Trên báo
Thời vụ, ngày 31/01/1939, Vũ Trọng Phụng giới thiệu: “Ngơ Tất Tố là một
nhà báo về phái nho học và là một tay ngơn luận xuất sắc trong đám nhà
Nho”; trên báo Mới, số ra ngày 15/6/1939, Trần Minh Tước cũng cho rằng, ở
Ngơ Tất Tố là một nhà Nho, nhưng ơng đã “vượt khỏi cả thế hệ của mình.
Người mơn đồ của Khổng Mạnh này đã thở hít cái khơng khí xã hội của K.
Marx như tất cả những thiếu niên văn sĩ ở hàng tranh đấu”; Vũ Ngọc Phan
trong Nhà văn hiện đại đã nhận xét, Ngơ Tất Tố là tay kỳ cựu trong làng văn,
làng báo: “… vào số những nhà Hán học đã chịu ảnh hưởng văn học Âu Tây
và được người ta kể vào hạng nhà Nho có óc phê bình, có trí xét đốn, có tư
tưởng mới”, đọc văn của ơng “người ta có cái cảm tưởng như đọc những câu
văn dịch ở tiếng Pháp”.
Năm 1954, sau khi Ngơ Tất Tố mất, đã có nhiều bài báo giới thiệu về
Ngơ Tất Tố với niềm tiếc thương và kính trọng tài năng, đức độ của ơng; tuy
nhiên, trong những bài báo đó đó chỉ gần như khơng đề cập đến sự nghiệp
báo chí của Ngơ Tất Tố. Năm 1959, trong cuốn “Những nhà văn tiền chiến
1930 1945”, tác giả Thế Phong đã cho rằng, Ngơ Tất Tố “là nhà văn, nhà
báo của bình cũ rượu mới, có lối văn sáng sủa, hấp dẫn, quan sát tận tường,
với những rung cảm phong phú”.
Năm 1962, Nguyễn Đức Đàn và Phan Cự Đệ đã báo cáo kết quả nghiên
cứu chung về Ngơ Tất Tố. Trong cơng trình này, các tác giả đi sâu nghiên cứu
về loại văn “nói mà chơi” và nội dung tư tưởng, nghệ thuật viết báo của Ngơ
Tất Tố. Theo đó, loại văn trong chun mục “Nói mà chơi” do Ngơ Tất Tố
chủ trì được gọi là tiểu phẩm, là “những bài bình luận ngắn, gọn về xã hội,
5
chính trị, thời sự, văn nghệ, giáo dục…” và nhận xét “ngịi bút của Ngơ Tất
Tố ln ln biểu hiện một tinh thần chiến đấu sắc bén và mạnh mẽ”.
Cũng trong năm 1962, trong bài “Ngơ Tất Tố như tơi đã biết” trên tạp
chí Văn nghệ, Nguyễn Đức Bính có nhận định, Ngơ Tất Tố “ là nhà báo viết
tạp văn, cái mà Âu Tây gọi là tiểu phẩm, thời bình, một loại văn trên có nhiều
nhà văn có tài như Lỗ Tấn chẳng hạn đã xây dựng cả một sự nghiệp”; Ngơ
Tất Tố “có một lối viết mới, độc đáo nữa là khác, khơng chút gì nhắc lại lối văn
biền ngẫu của các cụ đồ, giọng văn khi thì đậm đà, khi thì dun dáng, nhưng
đặc biệt là dí dỏm; câu văn sắc cạnh, trong sáng, ngắn gọn, chữ dùng thường
mạnh dạn và ý nhị”.
Năm 1973, trong cuốn “Lịch sử văn học Việt Nam”, Nguyễn Đăng
Mạnh đã nhận định, Ngơ Tất Tố, là người đã phát huy được những yếu tố
tích cực của Nho giáo và của các học thuyết cổ đại Trung Hoa nói chung; là
người có tài năng nhiều mặt, có sức sáng tạo phong phú, bền bỉ. Ơng có đầy
đủ điều kiện cốt yếu về đức và tài để có thể trở thành một nhà báo, một nhà
văn xuất sắc.
Năm 1975, Nhà xuất bản Văn học phát hành bộ “Ngơ Tất Tố tác
phẩm” do của Phan Cự Đệ chủ biên. Sau những kết quả đã cơng bố năm
1962, đây là cơng trình tiếp tục giới thiệu tồn diện về sự nghiệp của Ngơ
Tất Tố. Về lĩnh vực báo chí, lần đầu tiên Phan Cự Đệ cơng bố 110 bài báo
của Ngơ Tất Tố được viết trong khoảng thời gian 1929 1943.
Năm 1983, trong bài “Đặc sắc trong tiểu phẩm của Ngơ Tất Tố” trên
tạp chí Văn học, Lê Thị Đức Hạnh cho rằng, những tiểu phẩm báo chí của
Ngơ Tất Tố “rất giàu tính nghệ thuật, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý trí
và hình tượng, thơng qua những sự kiện, những tài liệu cụ thể, tạo nên một
sức thuyết phục mạnh”. Lối viết báo của Ngơ Tất Tố giản dị, tự nhiên; sử
dụng nhiều hình ảnh sinh động, cụ thể, châm biếm, song vẫn giữ vững tính
nghiêm túc và tính chiến đấu mạnh mẽ.
6
Năm 1993, Hội Nhà báo Việt Nam và Viện Văn học đã tổ chức Hội thảo
khoa học nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ngơ Tất Tố với sự tham gia của
nhiều nhà văn, nhà báo. Các tham luận tại Hội thảo đã khẳng định tầm vóc của
Ngơ Tất Tố, một nhà văn, nhà báo lớn của thế kỷ XX.
Phan Quang, lúc đó là Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam đã nhận định:
“nói đến sự nghiệp báo chí Ngơ Tất Tố, khơng ít người nghĩ ngay đến tiểu
phẩm của ơng… Đó là những áng văn xuất sắc cịn lại mãi với thời gian ”.
Theo Phan Quang, phong cách viết báo của Ngơ Tất Tố ln mới mẻ về văn
phong, về cách vào đề, dẫn dắt sự việc cho đến cách kết thúc vấn đề.
Trong bài “Tiểu phẩm báo chí của Ngơ Tất Tố”, tác giả Trương Chính
cho rằng, Ngơ Tất Tố đã ln cố gắng để thay đổi từ văn phong của các nhà
Nho thường chuộng văn biền ngẫu, sang lối văn mới “ ngắn, sắc, xoay chuyển
nhanh, câu thường đặt theo lối phá cách. Đó là văn phong của báo chí
phương Tây…”. Ngơ Tất Tố khơng lạm dụng từ Hán Việt mà sử dụng rất
nhuần nhuyễn; sử dụng nhiều điển cố nhưng đúng chỗ, đúng lúc; ơng viết
như nói, khơng trau chuốt; đả kích, châm biếm khơng phải cho sướng miệng,
mà là để tố cáo, vạch trần một cách nghiêm chỉnh.
Trong chun đề “Ngơ Tất Tố một chân dung lớn, một sự nghiệp lớn”,
Phong Lê đã nhận định, Ngơ Tất Tố là một chân dung lớn và tiêu biểu, là
người thúc đẩy cho cả hai nhu cầu cách mạng và canh tân, người đáp ứng cả
hai phương diện nội dung và hình thức của văn chương theo hướng cách
mạng và hiện đại. Phong Lê khái qt, những tri thức sâu sắc về văn hóa dân
tộc và văn hóa phương Đơng cổ truyền là những nhân tố cơ bản tạo nên cốt
cách riêng của Ngơ Tất Tố.
Năm 1998, trong chun đề “Tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngơ
Tất Tố”, Hà Minh Đức gọi những tác phẩm báo chí của Ngơ Tất Tố là “tiểu
phẩm văn học và báo chí”. Đó là những tác phẩm khai thác những chuyện có
thật, những con người có địa chỉ rõ ràng… nhưng khơng phải để ca ngợi mà là
7
đấu tranh, “cho cơng bằng xã hội, cho quyền sống của con người. Phẩm chất
ấy thể trong các bài viết tạo nên linh hồn và dũng khí của ngịi bút”.
Năm 2000, trong cuốn “Tiểu phẩm báo chí Hồ Chí Minh”, tác giả Tạ
Ngọc Tấn đã đưa ra một số nhận định: Những năm 30 của thế kỷ trước, khi
mà báo chí cơng khai phát triển rầm rộ thì tiểu phẩm đã khẳng định vai trị vị
trí của mình là một thể loại báo chí có uy lực, “tác giả tiểu phẩm để lại dấu
ấn đặc biệt sâu đậm trên mặt báo trong nước là Ngơ Tất Tố”. Theo Tạ Ngọc
Tấn, dấu ấn đặc biệt ở những tác phẩm báo chí của Ngơ Tất Tố chính là sự
kết hợp giữa những phương pháp thể hiện của báo chí và thủ pháp nghệ
thuật của văn học, giữa ngơn ngữ thơng tin chính luận với ngơn ngữ hình
tượng nghệ thuật; có sự kết hợp rất linh hoạt giữa các yếu tố của chính luận,
tự sự, thơng tin và nghệ thuật truyền thống.
Năm 2004, Hội đồng Khoa học và Cơng nghệ thành phố Hà Nội đã
nghiệm thu Đề tài khoa học “Di sản báo chí Ngơ Tất Tố ý nghĩa lý luận và
thực tiễn đối với sự nghiệp phát triển báo chí Thủ đơ” do Phan Cự Đệ chủ
nhiệm. Đây là cơng trình nghiên cứu đầu tiên có quy mơ lớn, thực hiện trên cơ
sở khảo sát 1.350 tác phẩm đăng báo, phần lớn mới xác định được là của Ngơ
Tất Tố.
8
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẢN VĂN VÀ PHONG CÁCH TẢN
VĂN BÁO CHÍ CỦA NGƠ TẤT TỐ
1.1. Giới thuyết về tản văn
1.1.1. Lý luận về tản văn
Theo “Từ điển tiếng Việt”, tản văn có hai ý nghĩa, thứ nhất đó là cách
phân biệt giữa văn xi và văn vần theo cách phân loại của văn học cổ; thứ
hai là cách xác định một thể loại tác phẩm văn học ngồi thể truyện, thơ và
kịch.
Người Pháp gọi tản văn là “feuilleton”, từ này có nguồn gốc từ tiếng
Latinh có nghĩa là bài văn nhỏ.
Theo nhiều nhà nghiên cứu trong và ngồi nước, tản văn có nhiều dạng
thức phong phú với những tên gọi cụ thể khác nhau, như: tạp văn, tạp cảm,
tiểu phẩm, đặc tả, đoản văn, thời đàm, phiếm luận, nhàn đàm… Về cơ bản,
đó là những bài văn ngắn có đề tài, lập ý, kết cấu, bố cục, cách thể hiện… tự
do, qua đó thể hiện được mục đích, ý nghĩa, tình cảm của người viết.
1.1.2. Lý luận về tản văn báo chí
Theo “Thuật ngữ báo chí truyền thơng”, tản văn là văn xi nghệ thuật
nói chung, bao gồm nhiều thể: tạp văn, tùy bút, tiểu phẩm, tiểu luận; hay
gồm thể được định danh khá ngẫu hứng, như: nhàn đàm, phiếm đàm, thời
đàm, tạp trở, đoản văn.. Theo Phạm Thành Hưng, tác giả cuốn “Thuật ngữ
báo chí truyền thơng”, thuật ngữ tản văn sẽ trở nên đặc dụng và đơn giản
hơn khi người làm báo “khơng ý thức được”, hoặc “khơng quan tâm” tới tác
phẩm của mình được viết theo thể loại nào, bởi đó là thể loại báo chí tự do,
ngẫu hứng theo những đặc trưng riêng về loại hình. Các nhà nghiên cứu
khơng đưa ra đánh giá về sự khác nhau giữa tản văn văn học và tản văn báo
chí. Tản văn báo chí là thể văn trữ tình nhưng phát triển mạnh nhờ báo chí.
9
Trên thực tế, hai khái niệm này khơng có sự khác nhau. Có chăng là các cách
gọi tên khác nhau của các nhà nghiên cứu mà thơi.
Từ quan điểm của các nhà nghiên cứu trong và ngồi nước, tác giả luận
án cho rằng: Tản văn báo chí là một thể loại tác phẩm báo chí đặc thù. Tản
văn báo chí cơ bản thể hiện những đặc trưng chủ yếu của tản văn. Tản văn
báo chí thuộc nhóm chính luận nghệ thuật với kết cấu ngắn gọn và linh hoạt,
có nội dung phê phán, đả kích sâu cay bằng tư duy lý tính về những mặt trái
trong cuộc sống đương đại mang hơi thở thời sự dưới một thủ pháp uyển
chuyển và hình tượng rất gần với văn học. Đặc điểm phổ qt của tản văn
báo chí là sự hiện diện trực tiếp của cái tơi tác giả, là sự ưu tiên quan điểm,
cách cảm, cách nhìn của thơng tin lý lẽ trước thơng tin sự kiện, là sự linh
hoạt, phóng túng trong cách hành văn, trong tổ chức hình ảnh, liên hội các chi
tiết.
1.2. Lý luận về phong cách và phong cách báo chí
1.2.1. Quan điểm về phong cách của phương Tây và Trung Quốc
Người HiLa đã dùng chữ stylos (Hi Lạp), stylus (La Mã) để chỉ dụng
cụ viết, về sau người Pháp thay đổi dùng chữ style để chỉ nét chữ, rồi chỉ đặc
điểm về mặt hình thức như ngơn ngữ và văn thể của tác phẩm văn học.
Viện sỹ M.B. Khrapchenkơ (Liên Xơ) trong cuốn “Cá tính sáng tạo của
nhà văn và sự phát triển văn học” đã cho rằng: “Phong cách được hiểu như
những thủ pháp biểu hiện, cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống , như
thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả”.
Theo tác giả Lưu Hiệp (Trung Quốc) trong cuốn “Văn tâm điêu long”
cái quan trọng của phong cách của mỗi tác giả là cá tính sáng tạo, cá tính sáng
tạo khác nhau thì dẫn đến phong cách khác nhau; Lỗ Tấn, nhà tạp văn nổi
tiếng Trung Quốc thì cho rằng, phong cách một mặt là nơi hội tụ, biểu hiện
cá tính sáng tạo của nhà văn.
10
1.2.2. Quan điểm về phong cách ở Việt Nam
Ở Việt Nam, thuật ngữ phong cách trong báo chí, văn học đã xuất hiện
từ đầu thế kỷ XX với ý nghĩa là “lối văn”, “giọng văn”, “bút pháp”…
Trong cơng trình nghiên cứu “Dẫn luận phong cách học”, Nguyễn Thái
Hịa đã định nghĩa: “Phong cách là những đặc trưng trong hoạt động lời nói
được lặp đi lặp lại ở một người nào đó, ở một mơi trường ngơn ngữ hay một
cộng đồng, có khả năng khu biệt với những kiểu biểu đạt ngơn ngữ khác”.
Theo đó, nhà báo nổi tiếng và thành cơng nhờ tạo cho mình một phong cách
viết riêng. Mặc dù bản chất của báo chí là sự thật, thơng tin sự thật nhưng
việc tạo nên một cách viết, một giọng văn ấn tượng cũng là một điều hết sức
cần thiết.
Từ quan điểm của các nhà nghiên cứu trong và ngồi nước, tác giả luận
án cho rằng: Phong cách là nét độc đáo gắn liền với con người nhà báo, có thể
nhận diện từ tồn bộ sáng tác của họ thơng qua các yếu tố nội dung, hình
thức, ngơn ngữ của tác phẩm và khơng phải nhà báo nào cũng có phong cách.
Chỉ những nhà báo có tài năng nghệ thuật, có bản lĩnh, biết sử dụng các
phương tiện hình thức trong một thể thống nhất theo một kiểu riêng để thể
hiện đạt hiệu quả điều mình muốn nói mới tạo ra phong cách riêng.
1.3. Một số nhân tố chi phối, ảnh hưởng tới phong cách tản văn
báo chí của Ngơ Tất Tố
1.3.1. Những nhân tố chủ quan
Ngơ Tất Tố sinh năm 1894 trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng
Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Mai Lâm, huyện
Đơng Anh, Hà Nội. Dưới thời Pháp thuộc làng q của Ngơ Tất Tố tồn tại
nhiều hủ tục nặng nề. Sau này, tuy Ngơ Tất Tố rời q ra Hà Nội viết báo,
viết văn nhưng ơng thường xun trở về q. Chính việc gần gũi với làng q
như vậy đã giúp cho Ngơ Tất Tố có dịp tìm hiểu rất nhiều phong tục, tập
11
qn, văn hóa làng q, đồng thời thấy rõ sự bóc lột đè nén của thực dân,
phong kiến, địa chủ, cường hào đối với người nơng dân cũng như những hủ
tục sau những lũy tre làng.
Ngơ Tất Tố là người có lịng u nước thiết tha . Trong thời kỳ Mặt
trận dân chủ, Ngơ Tất Tố đã tiếp thu ảnh hưởng của cách mạng, đứng trên
lập trường dân chủ, tố cáo áp bức bóc lột của bọn thực dân, phong kiến và
tha thiết địi cải thiện đời sống cho nhân dân lao động.
Tố chất của một nhà văn, nhà Nho viết báo đã tạo cho Ngơ Tất Tố
phong cách tiếp cận hiện thực ở những góc nhìn khác nhau, từ đó có cách lý
giải, đánh giá vấn đề theo quan điểm tiến bộ. Điều này tạo nên một Ngơ Tất
Tố nhà văn nhà Nho nhà báo khơng thể trộn lẫn với các nhà văn, nhà báo là
trí thức Tây học cùng thời.
Ngơ Tất Tố đã cộng tác và viết bài cho 27 tờ báo, tạp chí, sáng tạo hơn
1.350 tác phẩm báo chí với nhiều bút danh khác nhau đã được xác định là của
Ngơ Tất Tố. Số lượng tác phẩm báo chí đồ sộ ấy được chưng cất từ q
trình trải nghiệm hoạt động báo chí đầy nhiệt huyết, nên người đọc dễ dàng
cảm nhận được phong cách sáng tạo rất riêng biệt của Ngơ Tất Tố qua
những tản văn của ơng.
1.3.2. Những nhân tố khách quan
Ngơ Tất Tố bước chân vào làng báo trong bối cảnh Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất kết thúc. Hậu quả để lại đối với tất cả các nước tham
chiến, trong đó có nước Pháp bị thiệt hại nặng nề về người và của với hàng
chục triệu người chết, hàng trăm tỷ đơla bị ngốn vào chi phí chiến tranh
[119]. Bối cảnh đó cùng với thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười
Nga… đã mở ra một cục diện thế giới mới với sự ra đời và phát triển mạnh
mẽ của phong trào cộng sản, phong trào cơng nhân và phong trào giải phóng
dân tộc.
12
Sự ra đời của các đảng cộng sản Pháp, Trung Quốc và các nước trên
thế giới vừa là nguồn cổ vũ động viên các chiến sĩ cộng sản Việt Nam, vừa
tạo ra những thuận lợi cho sự du nhập chủ nghĩa Mác Lênin và những tư
tưởng tiến bộ vào Việt Nam. Từng bước, phong trào cách mạng Việt Nam
hội nhập và trở thành một bộ phận không thể tách rời của phong trào cộng
sản thế giới dưới sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản. Đây cũng là thời kỳ
phong trào đấu tranh u nước và cách mạng của nhân dân ta diễn ra sơi nổi,
dưới nhiều hình thức khác nhau và in đậm dấu ấn của những giai cấp, những
tầng lớp xã hội tiến hành những cuộc đấu tranh đó.
Cũng trong giai đoạn này, phải kể đến những hoạt động xuất sắc và
cơng lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp, tại Liên Xơ cũng như tại các
nước láng giềng: Trung Quốc, Lào, Miên, Xiêm... Người tiếp cận chủ nghĩa
Mác Lênin, lý luận cách mạng tiên tiến truyền bá về Việt Nam và chuẩn bị
về tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập một đảng cộng sản chân chính ở
Việt Nam cũng như đưa phong trào cách mạng Việt Nam hội nhập và trở
thành một bộ phận khơng thể tách rời của phong trào cộng sản thế giới, dưới
sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản.
Trong thời kỳ này, báo chí có sự thay đổi rõ rệt về nội dung và hình
thức. Sự phát triển của chữ quốc ngữ là một tiền đề rất quan trọng cho sự
phát triển của văn hóa, xã hội. Việc giao lưu, học hỏi với phương Tây cùng
với sự phát triển của đơ thị đã đem lại một luồng khơng khí mới cho văn
chương, học thuật, sự thay đổi rõ rệt về báo chí, sinh hoạt văn học cũng như
cơng chúng. Đây cũng là một giai đoạn sơi động trong lịch sử báo chí và văn
học Việt Nam với những cách tân về thể loại, ngơn ngữ, hình thức và quan
niệm về sáng tác. Từ những tác phẩm báo chí, văn học cịn in đậm dấu ấn
của phong cách cổ, tính quy phạm và ước lệ trong phương thức biểu hiện,
những tác phẩm báo chí và văn chương đã chuyển nhanh vào thời kỳ hiện đại
13
với sự đóng góp của đơng đảo các cây bút với nhiều khuynh hướng sáng tác
khác nhau.
Tiểu kết Chương 1
Trong Chương 1, luận án đã phân tích, làm rõ một số nội dung sau đây:
(1) Tản văn là văn xi nghệ thuật nói chung, bao gồm nhiều thể: tạp
văn, tùy bút, tiểu phẩm... và các tiểu thể loại được định danh khá phong phú,
đa dạng, như: nhàn đàm, phiếm đàm, thời đàm, tạp trở...
Tản văn báo chí là thể loại báo chí thuộc nhóm chính luận nghệ thuật, có
kết cấu ngắn gọn, dung lượng nhỏ, tự do, có thủ pháp đa dạng, linh hoạt. Đặc
trưng loại hình của tản văn báo chí là sự hiện diện trực tiếp của cái tơi tác giả;
là sự ưu tiên quan điểm, cách cảm, cách nhìn trước thơng tin sự kiện; là sự linh
hoạt, phóng túng trong cách hành văn, trong tổ chức thơng tin, liên kết các chi
tiết.
(2) Phong cách là nét độc đáo gắn liền với con người nhà báo, có thể
nhận diện từ tồn bộ sáng tác của họ thơng qua các yếu tố nội dung, hình
thức, ngơn ngữ của tác phẩm và khơng phải nhà báo nào cũng có phong cách.
(3) Một số nhân tố có tính chi phối tới việc hình thành phong cách tản
văn báo chí của Ngơ Tất Tố như: truyền thống văn hóa q hương và gia đình
tinh thần u nước, tư tưởng tiến bộ và sự nỗ lực, cố gắng để thích ứng với
thời cuộc; bối cảnh chính trị, xã hội và báo chí trong nửa đầu thế kỷ XX.
Chương 2. PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGƠ TẤT TỐ
QUA BÌNH DIỆN NỘI DUNG TÁC PHẨM
2.1. Đề tài trong tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố
2.1.1. Đề tài chính trị
Những năm đầu thập niên 1930, Ngơ Tất Tố dùng ngịi bút của mình để
viết nhiều các vấn đề liên quan đến nghị trường, như bầu cử nghị viện, bầu
14
viện trưởng Viện dân biểu…; đấu tranh với những thủ đoạn của chính quyền
thực dân và bọn tay sai với những vấn đề “bảo hộ” và “trực trị”; truyền bá
mê tín dị đoan; bảo tồn quốc túy; phong trào Âu hóa, “vui vẻ trẻ trung”…
Những năm 1936 1939, nhờ ảnh hưởng của phong trào quần chúng thời
Mặt trận dân chủ, Ngơ Tất Tố đề cập trực tiếp đến những sự kiện chính trị
quan trọng trong nước và thế giới, như: phong trào Đơng Dương đại hội; phong
trào Mặt trận Dân chủ của báo giới địi tự do ngơn luận, tự do hội họp; những
cuộc đình cơng khổng lồ của “lao động Đơng Dương”; những cuộc biểu tình
của nơng dân Thanh Hóa; những cuộc nổi dậy phá kho thóc địa chủ của nơng
dân Bạc Liêu…
2.1.2. Đề tài văn hóa, xã hội
Hầu hết các tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố có đề tài về các vấn đề
văn hóa, xã hội. Đó là những vấn đề liên quan đến bản chất của những kẻ
danh trí thức, thầy lang, bọn bồi bút, tay sai của chế độ thực dân; về những
vấn đề liên quan đến đạo đức xã hội, ln thường đạo lý, gia phong, gia pháp;
về vai trị của người phụ nữ trong gia đình, phẩm hạnh, tiết nghĩa trong quan
hệ vợ chồng… về những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, vạch mặt bọn lợi
dụng tơn giáo, tín ngưỡng để trục lợi; đả kích những thói hư tật xấu trong đời
sống xã hội.
2.1.3. Đề tài quốc tế
Ngay khi bắt đầu bước chân vào làng báo và hoạt động báo chí chun
nghiệp, ngịi bút của Ngơ Tất Tố ln bám sát và phản ánh kịp thời tình hình
thời sự quốc tế, những sự kiện lớn trên thế giới như: tình hình Trung Quốc
sau chiến tranh “nha phiến”; tình hình cách mạng ở Đài Loan; tình hình qn
sự của Nhật Bản vào năm 1927; tình hình Xiêm La và mối quan hệ giữa Xiêm
La với Trung Quốc; tình hình Hồi giáo, Gia Tô giáo và Do Thái giáo ở
Palestine, nơi phát nguyên của đạo Hồi và đạo Gia Tô…
15
2.2. Chi tiết trong tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố
Với nguồn tin phong phú, nhưng điểm quan trọng tạo nên phong cách
riêng của Ngơ Tất Tố thể hiện qua những tản văn báo chí của ơng chính là ở
chỗ ơng khai thác, lựa chọn và sử dụng được rất nhiều chi tiết. Những chi
tiết đó có thể tựu chung lại theo ba nhóm chính:
Nhóm chi tiết về nhân vật: những nhân vật trong tản văn báo chí của
ơng thường được phản ánh ở những mặt tiêu cực, chính vì vậy từ ngoại hình,
diện mạo đến tính cách được miêu tả với những chi tiết cũng rất tiêu cực với
ngơn ngữ châm biếm, đả kích.
Nhóm chi tiết về sự kiện: Những sự kiện là linh hồn được thể hiện tản
văn báo chí của Ngơ Tất Tố, là những yếu tố quan trọng được miêu tả chi tiết
nhằm thu hút sự quan tâm của người đọc. Do vậy, sự kiện nào cũng được
Ngơ Tất Tố phản ánh với những chi tiết sống động nhất, đầy đủ nhất, phù
hợp với mục đích, u cầu của nội dung tác phẩm.
Nhóm chi tiết về sự việc: sự việc hướng người đọc quan tâm tới bản
chất của sự kiện, hiện tượng bằng cách miêu tả, phân tích, diễn giả, trong đó
có những chi tiết mang tính chất cụ thể và thực chứng. Do vậy, Ngơ Tất Tố
đã khai thác có hiệu quả những chi tiết rất cụ thể có tính chất minh họa và
làm rõ bản chất của sự việc, hiện tượng được phản ánh.
2.3. Những nhân vật trong tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố
Tồn bộ tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố làm thành một bức tranh rộng
lớn và chân thực về xã hội thực dân phong kiến Việt Nam trước cách mạng
tháng Tám với những biếm họa sinh động, sâu sắc về rất nhiều nhân vật
trong xã hội. Có thể khu biệt các nhân vật đó theo ba nhóm:
Những “ơng Tây” thực dân: từ các quan thống sứ, tồn quyền, bộ
trưởng thuộc địa… đến những ơng Tây “nhà đoan”, anh lính lê dương mạt
hạng…
16
Những nhân vật trong chính quyền tay sai, bộ máy phong kiến: đó là
những vị “dân biểu”, “cụ thượng”, “ơng phó Quỳnh”, “chú Khán ngốc”…
Những nhân vật của bình dân trong xã hội: cơ Tây Ht, cụ lang bần,
những anh “nho” phủ huyện, những người lao động bình dị và nghèo khổ ở
làng q hoặc nơi phố phường…
2.4. Dự báo và hướng nhận thức trong tản văn của báo chí Ngơ Tất
Tố
2.4.1. Dự báo về những vấn đề chính trị
Ngơ Tất Tố đã dành một số lượng đáng kể những tản văn báo chí của
mình để lên án, vạch trần nạn tham ơ, hối lộ, nhũng nhiễu của các tầng lớp
quan lại trong chính quyền thực dân trước Cách mạng tháng Tám; đồng thời
ơng cũng đề ra một số giải pháp nhằm cần thực hiện với mong muốn làm cho
xã hội tốt đẹp hơn.
2.4.2. Dự báo về những vấn đề xã hội
Trong những tản văn báo chí của mình, Ngơ Tất Tố đã có những đề
xuất, dự báo về các vấn đề văn hóa, giáo dục và y tế; trong đó có việc đi sâu
phân tích những giá trị, những nét đẹp về truyền thống văn hóa của dân tộc
như các lễ hội, các nghi thức tín ngưỡng, các sinh hoạt văn hóa của nhiều
vùng miền…
Tiểu kết Chương 2
Trong Chương 2, luận án đã đi sâu phân tích và làm rõ, các nội dung:
1. Đề tài tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố có thể tập trung theo 3 nhóm:
chính trị, xã hội và quốc tế. Ngồi ra, Ngơ Tất Tố cịn có một số đề tài khác
như luận bàn về nghiệp vụ báo chí, văn chương, về đạo đức và phẩm chất
của người làm báo…
2. Tồn bộ tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố làm thành một bức tranh
rộng lớn và chân thực về xã hội thực dân phong kiến Việt Nam trước cách
mạng tháng Tám với những chi tiết biếm họa sinh động, sâu sắc, đề cập đến
17
khơng ít nhân vật trong xã hội, những kẻ thực dân phong kiến, bọn tay sai,
bọn làm giàu bất chính…
3. Ngơ Tất Tố có những dự báo mang tính nhận thức cao: (1) Dự báo
về những vấn đề chính trị, về chế độ quản lý như phịng chống tham nhũng,
tham ơ hối lộ; (2) Dự báo về những vấn đề xã hội như tệ nạn xã hội, giáo
dục, y tế…
Chương 3. PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ NGƠ TẤT TỐ QUA
BÌNH DIỆN HÌNH THỨC VÀ KẾT CẤU TÁC PHẨM
3.1. Phong cách đặt đầu đề tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố
Đa số đầu đề tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố được đặt theo hướng
khơi gợi người đọc nhu cầu tìm hiểu thực chất của sự kiện, hiện tượng mà
ơng đề cập.
Có những đầu đề mạnh mẽ, đánh vỗ mặt vào đối thủ, như: Bãi nước
bọt trên mặt ơng tuần phủ; Cớ sao mình lại lạt lẽo với cái mặt của mình.
Có những đầu đề bình dị, chỉ thơng báo một tin tức, một sự kiện,
mang tính chất thơng tin, như: Bắc Ninh cầu cứu; Biểu tình ở Thanh Hóa…
Một số đầu đề được đặt theo tình thế tương phản của đối tượng với
cảnh ngộ hoặc những người trong cuộc, như: Chúa trùm đảng áo nâu sẽ
xuống địa ngục; Dạ dày Nam khơng tốt bằng dạ dày Bắc…
Nhìn chung, cách đặt đầu đề tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố thu hút
người đọc, gợi trí tị mị để tìm hiểu chuyện nhưng khơng mang tính giật gân.
Cho dù chỉ ra những sự tương phản nhưng đều phù hợp với sự kiện, hiện
tượng mà tác phẩm phản ánh; phù hợp với bản chất của đối tượng.
3.2. Sức sáng tạo trong kết cấu tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố
Nội dung của một tác phẩm báo chí thường có ba phần: Phần mở đầu
vào đề, diễn giải và kết luận. Tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố cũng tn thủ
theo bố cục này.
18
3.2.1. Phần mở đầu
Ngơ Tất Tố có khả năng linh hoạt trong việc vào đề, có khi ơng vào đề
một các thân mật, bằng cách các cách xưng hơ khác nhau; có khi lơi kéo sự
chú ý của người đọc bằng những động từ hết sức bình dị. Ngơ Tất Tố sử
dụng những từ ngữ cảm thán, châm biếm hoặc bộc lộ thái độ hài hước tạo
được sự thích thú ở người đọc ngay từ những câu đầu tiên của tác phẩm.
Trong một số tác phẩm, Ngơ Tất Tố có cách vào đề gián tiếp giàu chất
văn học, khiến người đọc cảm thấy thú vị với những thành ngữ, tục ngữ,
phong dao được Ngơ Tất Tố sử dụng đúng lúc, đúng chỗ.
3.2.2. Diễn giải
Trong phần này, bao giờ Ngơ Tất Tố cũng có những cách lập luận chặt
chẽ, xốy sâu vào vấn đề và đẩy vấn đề lên cao, qua đó bộc lộ thái độ của
mình; bằng cách thắt nút, gỡ nút, bằng đặt tình huống và giải quyết tình
huống quyết đốn, linh hoạt Ngơ Tất Tố đã đưa người đọc đến những vấn
đề hết sức thời sự và thú vị.
3.2.3. Kết luận
Phần kết luận mỗi tản văn của Ngơ Tất Tố là những lời bình vừa sâu
sắc, vừa mang tính chất định hướng, mở ra một lối giải quyết nào đó, tản văn
của ơng khơng bao giờ có cái nhìn tuyệt vọng. Mục đích của nó khơng chỉ là
sự cơng kích những cái xấu mà cịn muốn cải tạo những cái xấu đó để góp
phần làm đẹp cho xã hội.
3.3. Sức thuyết phục logic của tản văn báo chí Ngơ Tất Tố
Ngơ Tất Tố đã sử dụng một số phương pháp để thực hiện việc liên kết
về nội dung trong các tác phẩm báo chí của mình.
3.3.1. Diễn dịch
Để liên kết các yếu tố nội dung và hình thức trong các tản văn báo chí
của mình, Ngơ Tất Tố thường dùng phương pháp diễn dịch. Theo đó, Ngơ Tất
19
Tố đưa ra một nhận định chung nhất, rồi từng bước dẫn ra những trường hợp
cụ thể để chứng minh cho nhận định chung, nhằm nâng cao sức thuyết phục
logic những thơng tin mà mình phản ánh trong tác phẩm đó.
3.3.2. Quy nạp
Đây là phương pháp người ta thường đưa ra những trường hợp cụ thể
trước, sau đó mới rút ra một kết luận có tính chất phổ qt. Tuy nhiên, qua
nghiên cứu cho thấy, Ngơ Tất Tố rất ít khi sử dụng phương pháp này.
3.3.3. Loại suy
Phương pháp lập luận loại suy là phương pháp tác giả sử dụng để so
sánh, đối chiếu hai sự kiện xa cách nhau trong khơng gian và thời gian nhưng
lại giống nhau về hiện tượng hoặc về bản chất. Đây là phương pháp mà Ngơ
Tất Tố sử dụng khá phổ biến trong các tác phẩm báo chí của mình.
Tiểu kết Chương 3
Trong Chương 3, luận án đã phân tích, đánh giá về hình thức và các cách
thức liên kết trong tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố, qua đó, làm rõ một số nội
dung:
Đầu đề trong tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố khơng có sự bó buộc,
cậu nệ, có mối quan hệ chặt chẽ với nội dung của tản văn.Trong nghệ thuật
xây dựng đầu đề, Ngơ Tất Tố có sự thay đổi linh hoạt cú pháp trong cách đặt,
khiến cho đầu đề tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố vừa bảo đảm u cầu đối
với một tác phẩm báo chí vừa bảo đảm tính mới mẻ, giàu sức cuốn hút.
Các dạng thức kết cấu trong tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố với các
nội dung: Cách thức và nghệ thuật đặt vấn đề; Diễn giải nội dung; Kết luận
nội dung. Trong đó, phần kết luận, Ngơ Tất Tố thường khái qt vấn đề và
đưa ra lời bình sâu sắc, tạo được cảm nhận sâu sắc trong lịng độc giả. Sức
thuyết phục logic của tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố được thể hiện qua
phương pháp diễn dịch, quy nạp và loại suy. Trong đó, ơng chủ yếu sử dụng
phương pháp diễn dịch và loại suy.
20
Chươ ng 4. PHONG CÁCH NGƠN NGỮ TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA
NGƠ TẤT TỐ
4.1. Sử dụng từ ngữ linh hoạt
4.1.1. Sử dụng từ Hán Việt
Là một nhà Nho, Ngơ Tất Tố đã phát huy những ưu thế từ tri thức Hán
học và vốn văn hóa phương Đơng để sử dụng có hiệu quả lớp từ Hán Việt;
khai thác được tiềm năng to lớn của từ Hán Việt, sử dụng có hiệu quả trong
các tác phẩm báo chí của mình.
4.1.2. Sử dụng từ thuần Việt
Bên cạnh các từ Hán Việt, Ngơ Tất Tố khai thác và sử dụng có hiệu
quả các lớp từ thuần Việt. Trong đó, sử dụng khá nhiều lớp từ nơm na thơng
tục nhưng có chọn lọc, phù hợp với từng đối tượng cụ thế, gắn chặt với
những ngữ cảnh nhất định. Lời ăn tiếng nói hàng ngày, phương ngữ cũng
được ơng khai thác triệt để; khéo léo kết hợp ngơn ngữ dân mộc mạc, bình
dân với sự châm biếm sắc sảo tạo nên một giọng điệu trào phúng đặc sắc.
4.2. Đổi mới cách diễn đạt truyền thống
4.2.1. Sử dụng giai thoại, điển tích
Qua khảo sát “Tổng tập tản văn Ngơ Tất Tố”, chúng tơi thấy, trong số
1144 tản văn được khảo sát có tới 213 tác phẩm có sử dụng điển tích (chiếm
18%). Hầu hết các giai thoại, điển tích được được vận dụng vào các tác
phẩm báo chí của ơng với những tình huống nội dung cụ thể. Ngơ Tất Tố sử
dụng các điển tích, giai thoại đó có tác dụng soi sáng các sự kiện, thơng qua
sự đối sánh thời đại xưa và cuộc sống xã hội hiện tại.
4.2.2. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ
Ngơ Tất Tố cũng hết sức quan tâm khai thác và vận dụng những cách
diễn đạt truyền thống của dân tộc. Đây là một trong những nét đặc sắc trong
21
ngơn ngữ tản văn báo chí Ngơ Tất Tố. Đó là những thành ngữ, tục ngữ, ca
dao, những lời nói có tính châm ngơn, những áng thơ văn quen thuộc…
4.3. Sử dụng ngơn ngữ trào phúng, châm biếm, giàu tính chiến đấu.
4.3.1. Sử dụng câu hỏi tu từ như một vũ khí châm biếm lợi hại
Tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố thường có chủ đề rõ ràng và đơn giản.
Điều quan trọng đối với ơng là chủ đề ấy phải gắn được với một mâu thuẫn
mang tính trào phúng, một tình thế có tính hài hước. Sự nhạy bén đối với loại
mâu thuẫn này, chính là đặc điểm của óc quan sát, trí tưởng tượng của Ngơ Tất
Tố ln ln được lọc qua một tấm lăng kính đặc biệt, đó là thứ nhãn quan
riêng về thế giới mà Nguyễn Đăng Mạnh gọi đó là “nhãn quan trào phúng”,
giúp nhà báo nhìn đâu cũng thấy những chuyện nực cười.
4.3.2. Sử dụng lối so sánh ví von, ám chỉ
Ngơ Tất Tố thường tận dụng mọi hình thức so sánh, ví von, ám chỉ như
những thủ pháp nghệ thuật để phản ánh sự vật, hiện tượng. Hình thức so
sánh được sử dụng phổ biến nhất trong tiểu phẩm của Ngơ Tất Tố đó là việc
dùng những sự kiện, nhận vật trong q khứ để phản ánh những nhân vật sự
kiện trong hiện tại, “lấy xưa để nói nay”.
Tiểu kết Chương 4
Trong Chương 4, luận án đã đi sâu phân tích làm rõ những nội dung sau:
Ngơ Tất Tố có một phong cách ngơn ngữ riêng, một thế giới nghệ
thuật riêng giàu tinh thần sáng tạo, đó là phong cách vừa truyền thống, vừa
hiện đại.
Ngơn ngữ tản văn báo chí của Ngơ Tất Tố cịn mang dấu vết của
ngơn ngữ Nho gia, song lại đậm đà sắc thái ngơn ngữ nơng thơn; vận dụng
thành ngữ, phương ngữ, cách phối hợp các phương thức biểu đạt, cách kết
cấu câu văn...
Nghệ thuật châm biếm của Ngơ Tất Tố rất linh hoạt, phong phú, có
khi một câu hỏi tu từ cũng thể hiện thái độ châm biếm.