Thanh toán quốc tế trong ngoại thương
I. Một số vấn đề chung về thanh toán quốc tế trong ngoại thương ở nước ta:
1. Khái niệm:
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả cà quyền hưởng
lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ
chức, cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác hay giữa một quốc gia
với một tổ chức quốc tế , có thể thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các
nước có liên quan.
2. Các nhân tố chủ quan tác động tới thanh toán quốc tế của các doanh
nghiệp Việt Nam:
2.1. Tổ chức mạng lưới thanh toán quốc tế:
Trong thanh toán quốc tế luôn có vai trò của các ngân hàng tham gia cung
ứng dịch vụ, trong thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ, thực tế có
nhiều ngân hàng tham gia vào quá trình luân chuyển chứng từ có giao dịch. Với
đặc thù là hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, các ngân hàng thương mại ngày nay
được tổ chức thành mạng lưới các chi nhánh, văn phòng giao dịch, văn phòng
đại diện rộng khắp không chỉ trong nước mà còn ra thế giới.
Theo cam kết WTO về mở cửa dịch vụ ngân hàng, từ 1-4-2007, ngân
hàng nước ngoài sẽ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài
tại Việt Nam, được đối xử bình đẳng so với ngân hàng trong nước, được kinh
doanh tiền đồng và phát hành thẻ tín dụng. Điều này sẽ gây ra ảnh hưởng không
nhỏ tới hệ thống ngân hàng trong nước. Một mặt sẽ giúp các ngân hàng trong
nước đa dạng các loại hình dịch vụ và nâng cao năng lực cạnh tranh hơn. Khi
các Ngân hàng nước ngoài vào thì sẽ kích thích hoặc sẽ tạo sức ép lên các ngân
hàng trong nước đổi mới, đa dạng và phục vụ tốt hơn các loại dịch vụ ngân
hàng. Nhưng mặt khác, các ngân hàng trong nước lại phải đối mặt với việc bị
1
mất đi một phần hoạt động kinh doanh vốn trước kia là độc quyền của mình.
Theo như một điều tra của Chương trình phát triển Liên hợp quốc tiến hành hồi
cuối năm 2005 cho thấy trong số khách hàng được hỏi, 45% trả lời sẽ chuyển
sang vay vốn ngân hàng nước ngoài, 50% sẽ lựa chọn dịch vụ ngân hàng nước
ngoài thay thế, 50 % lựa chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền (đặc biệt là gửi
ngoại tệ). Nếu căn cứ vào điều tra này thì hệ thống ngân hàng trong nước sẽ mất
đi một nửa hoạt động kinh doanh của mình. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng
nước ngoài thì các ngân hàng Việt Nam sẽ huy động vốn được ít hơn. Nếu vậy,
có thể ngân hàng Việt Nam sẽ phải vay vốn trên thị trường tiền tệ với chi phí đắt
hơn để đáp ứng nhu cầu cho vay. Tuy nhiên có thể nói điều đó là khó tránh khỏi
nhưng dù gì thì lợi nhiều hơn là hại.
Theo Tiến sỹ Lê Quốc Lý - Vụ trưởng Vụ Tài chính - tiền tệ (Bộ Kế hoạch
và Đầu tư) nhận xét về chất lượng của các ngân hàng trong nước: “Hệ thống
dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định
hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ truyền thống. Các dịch vụ
hiện có là huy động vốn, cho vay tín dụng, dịch vụ thanh toán, và các dịch vụ
khác như dịch vụ ngoại hối (mua bán ngoại tệ, dịch vụ kiều hối, thu đổi ngoại
tệ), các dịch vụ ngân hàng điện tử. Khả năng huy động vốn còn nhiều hạn chế
do sản phẩm huy động vốn chưa thực sự hấp dẫn. Điều này làm hạn chế khả
năng khai thác lợi ích của dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của ngân
hàng. Thời gian qua, tổng nguồn tiền gửi của hệ thống tăng là do sự phát triển
của các ngân hàng cổ phần. Tuy nhiên, tình hình này có thể thay đổi khi Việt
Nam phải thực hiện các cam kết song phương với Mỹ từ tháng 4 năm 2007.
Tăng trưởng tín dụng của hệ thống có xu hướng giảm dần do quy mô thị trường
tín dụng đã được mở rộng do các doanh nghiệp đẩy mạnh huy động vốn từ thị
trường trong và ngoài nước thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu; do quá
trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đã làm giảm tỷ trọng vốn cho vay của
các ngân hàng thương mại quốc doanh đối với khối các doanh nghiệp này. Đồng
thời, tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm lại cũng nhằm kiềm chế lạm phát trong
2
những năm gần đây. Trong dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, mặc dù khả năng
thanh toán đã được mở rộng so với trước đây nhưng vẫn có nhiều hạn chế.
Các quy định về séc du lịch, hối phiếu ngân hàng hoặc tiêu chuẩn an toàn
trong thanh toán điện tử chưa được quy định rõ, dẫn đến tâm lý e ngại của các
ngân hàng khi mở rộng dịch vụ này. Các sản phẩm trên thị trường tiền tệ hiện
cũng có những hạn chế nhất định như chưa có quy định về chứng chỉ tiền gửi
được giao dịch trên thị trường thứ cấp dẫn đến hạn chế về khối lượng giao dịch.
Đối với các sản phẩm ngoại hối và nghiệp vụ phát sinh, mặc dù một số ngân
hàng đã thử nghiệm nhưng trên thực tế việc cung cấp rộng rãi dịch vụ này còn
nhiều hạn chế do chưa có quy định pháp lý cụ thể về tỉ giá và lãi suất đối với
công cụ phát sinh. Các công cụ chuyển nhượng cũng có tình hình tương tự. Mặc
dù gần đây, Chính phủ đã nỗ lực rất lớn trong việc ban hành pháp lệnh về công
cụ chuyển nhượng trong đó đưa ra một số hình thức hối phiếu và séc nhưng một
trong những công cụ rất quan trọng là công cụ nợ dài hạn để huy động vốn lại
chưa có khuôn khổ pháp lý để thực hiện.”
Cũng theo bài báo “Vạ lây” trong thanh toán quốc tế chúng ta cũng
thấy được một lỗ hổng trong hệ thống ngân hàng trong nước khi thâm nhập vào
các thị trường mới:
Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ cả
nước năm 2007 ước 109,21 tỷ USD và dự kiến năm 2008 là 133 tỷ USD.Giao
thương những năm tới sẽ không dừng ở những thị trường truyền thống mà sẽ
được mở rộng sang các nước châu Phi, Mỹ Latin hay Trung Đông. Một vấn đề
đặt ra là nếu không khơi thông hệ thống thanh toán tại các thị trường mới thì cả
doanh nghiệp và ngân hàng rất dễ bị “vạ lây”…
Lâu nay, khi mở đơn hàng tại các thị trường truyền thống như Trung
Quốc, Hồng Kông, Singapore, Nga... doanh nghiệp và ngân hàng đều yên tâm vì
đã có một quá trình giao dịch trước đó. Những thị trường này, do môi trường
pháp lý minh bạch, cầu hàng hóa cao, hệ thống thanh toán tốt nên nhiều nước
3
đẩy mạnh xuất khẩu vào đây, dẫn đến cạnh tranh hàng hóa gay gắt. Thực tế này
buộc các nhà xuất khẩu Việt Nam phải chuyển hướng sang thị trường các nước
châu Phi, Mỹ Latin và Trung Đông. Tuy vậy, những thị trường mới này cũng
không hoàn toàn dễ đối với doanh nghiệp xuất khẩu và ngân hàng thanh toán bởi
những rủi ro muôn hình vạn trạng.
Bà Phan Thị Hồng Hải, Trưởng phòng thanh toán xuất nhập khẩu
Vietinbank cho biết: “Có khi tàu về đến cảng, khách hàng đòi mở L/C lấy tiền
nhưng không có hàng, kiểm tra mới biết khi quá cảnh tại các cảng trung chuyển,
chủ tàu đã bỏ quên hàng ở cảng Đài Loan”. Bà Hải cho biết thêm một trường
hợp khác khi Vietinbank mở L/C cho một chuyến tàu nhập nguyên liệu từ nước
ngoài nhưng khi đi qua Singapore đã bị giữ lại do chủ tàu vướng phải rắc rối
pháp lý với chính quyền sở tại, bất chấp con tàu đó đang chở hàng cho doanh
nghiệp Việt Nam. Hiện tại, để xử lý các phát sinh tranh chấp trong thanh toán
quốc tế, có rất nhiều cách nhưng không phải lúc nào cũng mang lại kết quả như
mong đợi. Thông thường, cách xử lý êm thấm nhất là tự dàn xếp với nhau nhưng
cách này rất ít khi có kết quả. Cách thứ hai là khởi kiện ra tòa án nước ngoài
hoặc tòa án quốc tế nhưng ngay cả khi có phán quyết của tòa thì cũng không
đồng nghĩa với việc bán án được thực thi triệt để. “Nếu bị đơn là công dân nước
ngoài, không có tài sản tại Việt Nam thì lấy tài sản đâu để bảo đảm thực hiện
phán quyết của tòa?”, bà Thúy nói. Lúc đó, lại phải giải quyết xung đột đó thông
qua mối quan hệ với tư pháp quốc tế. Chẳng hạn như phán quyết của tổ chức
trọng tài quốc tế trên cơ sở công ước NewYork 1958, (năm 1995, Việt Nam đã
tham gia công ước này). Từ đó, nhờ các tổ chức trọng tài quốc tế ra phán quyết
và chuyển qua bộ tư pháp của quốc gia có bị đơn nhờ can thiệp. Tuy nhiên, nếu
bị đơn lại ở những quốc gia chưa tham gia vào công ước này thì chuyện kiện
tụng rơi vào bế tắc.Vậy, bài học rút ra ở đây là gì? Theo bà Hải, cách tốt nhất
trước khi đặt bút ký hợp đồng làm ăn, doanh nghiệp và ngân hàng thanh toán
phải thực sự hiểu khách hàng, hiểu bản chất hệ thống giao dịch của nhau để
4
phòng ngừa rủi ro. Trường hợp phải mang nhau ra tòa thì không khác gì “được
vạ, má sưng”.
Từ thực tế trên, một vấn đề được đặt ra ở đây là muốn mở rộng được thị
trường xuất khẩu mới, phải khơi thông được hệ thống thanh toán tin cậy mà
ngân hàng là một trong những kênh thanh toán an toàn và hiệu quả nhất. Tuy
nhiên, để làm được điều này, nhiều lãnh đạo ngân hàng có nghiệp vụ thanh toán
quốc tế đều khẳng định vai trò to lớn của các tham tán thương mại Việt Nam tại
nước ngoài trong việc cung cấp thông tin về đối tác cho doanh nghiệp và ngân
hàng thanh toán trong nước. Thế nhưng lâu nay, vai trò của tham tán trong vấn
đề này hết sức mờ nhạt. Bà Hải nói: “Có thể các tham tán có quan hệ mật thiết
với nhà xuất khẩu nhưng với ngân hàng thanh toán thì không và Vietinbank
đành phải tìm kiếm thông tin bằng cách mua nhưng không phải lúc nào cũng
mua được “hàng tốt”. Ông Trần Quốc Tuấn, Lãnh sự phụ trách thương mại Việt
Nam tại thành phố Sanfrancisco (Mỹ) chia sẻ: “Chúng tôi vẫn trả lời cho các
doanh nghiệp Việt Nam là các thông tin đối tác đưa ra có đáng tin cậy không,
doanh nghiệp đó đang tồn tại hay đã bị giải thể, còn những thông tin “sâu” hơn
thì phải mua”. Theo ông Tuấn, thông tin “sâu” ở đây bao gồm: tình hình tài
chính của đối tác, năm vừa qua có “dính” kiện tụng hay đang chịu một phán
quyết nào đó của tòa hay không..., và thương vụ sẽ chỉ cho doanh nghiệp hoặc
ngân hàng Việt Nam tìm đến những địa chỉ đáng tin cậy để mua. Đối với thị
trường Mỹ, nơi các định chế tài chính đều hoạt động trong một môi trường pháp
lý hoàn hảo nên trở ngại trong thanh toán không không thể không xử lý được
nhưng còn thị trường một số nước châu Phi như Kenia, Nigieria, Mozambique...
thì sao? Rõ ràng, đây là một câu hỏi đang bỏ ngỏ cho không ít ngân hàng thương
mại trong nước. Để có thể triển khai mảng nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại các
thị trường xuất khẩu mới, các ngân hàng không thể thiếu vắng sự hỗ trợ của các
tham tán thương mại nước ngoài.
5
Như vậy cùng với việc phải ngày càng hoàn thiện các dịch vụ hiện có thì
hệ thống ngân hàng trong nước phải học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng trên
thế giới để có thể mở rộng triển khai và phát triển các dịch vụ mới như: Phát
hành chứng chỉ tiền gửi, đi vay trên thị trường quốc tế; nghiệp vụ thanh toán bù
trừ bằng tài sản tài chính; giữ hộ và quản lý hộ tài sản, thu hộ thuế, tư vấn tài
chính, cung cấp các kế hoạch hưu trí, mua bán nợ, phòng ngừa rủi ro ngoại tệ,
môi giới tiền tệ. Tiếp tục phát triển thẻ thanh toán nội địa. Mở rộng các phương
tiện, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt; tập trung phát triển các dịch vụ
thanh toán cho việc mua bán hàng hoá, dịch vụ tại các trung tâm thương mại
lớn, các siêu thị và cửa hàng tự chọn. Triển khai thí điểm việc quản lý chi tiêu
tài chính công bằng thẻ thương mại; phát triển các dịch vụ thanh toán mới khác
như dịch vụ ngân hàng điện tử và dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Hệ thống ngân
hàng trong nước phải nhanh chóng áp dụng đầy đủ các thông lệ và chuẩn mực
quốc tế vào hoạt động của các ngân hàng thương mại trong nước. Có như vậy hệ
thống ngân hàng mới có thể đứng vững được trong một môi trường cạnh tranh
ngày càng gay gắt và có sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài lớn có uy
tín và giàu kinh nghiệm. Việc phát triển hệ thống ngân hàng của Việt Nam sẽ
giúp ích và tạo thuận lợi rất nhiều cho việc thanh toán quốc tế của các doanh
nghiệp trong nước và nếu như có thể chúng ta có thể trở thành một trung tâm
dịch vụ tài chính uy tín thu hút được nhiều hơn nữa các doanh nghiệp trong và
ngoài nước.
2.2. Công nghệ thông tin và nhân sự:
Nhân tố công nghệ thông tin có ảnh hưởng rất lớn trong thanh toán quốc
tế vì đối với hoạt động thanh toán quốc tế thì yêu cầu phải nhanh, chính xác và
an toàn. Ngày nay cùng với sự phát triển của công nghệ, internet và dịch vụ giao
dịch trực tuyến ngày càng trở thành những công cụ quan trọng, quyết định tới
hiệu quả hoạt động kinh doanh của các tổ chức, đơn vị hoạt động trong lĩnh vực
ngân hàng, thương mại điện tử, chứng khoán, … Ngày càng có nhiều phần mềm
6