PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
I/ Cơ sơ suất phát :
Trước kia, tôi giảng dạy ở một trường tiểu học thuộc vùng nông thôn Tư
Nghĩa. Ở nơi ấy một làng quê nghèo khó, cơ sở vật chất còn thiếu thón mọi bề
nên học sinh không được học 2 buổi trên ngày. Đây là một thiệt thòi lớn cho các
em ở nông thôn. Từ ngày được chuyển công tác về trường mới và nhất là được
phân công giảng dạy ở l ớp 2 buổi trên ngày. Tôi vô cùng bỡ ngỡ và lo lắng
“ không biết mình có gánh vác nổi không?”. Thế rồi .... với lòng yêu nghề mến
trẻ, với vốn liếng kinh nghiệm ít ỏi được học hỏi, tích lũy ở những năm tháng
dạy ở tiểu học; cộng với một số kiến thức về tâm lý giáo dục được học ở trường
Sư phạm, tôi đã cố gắng đem hết nhiệt tình của một giáo viên trẻ để dạy các em.
Và rồi tôi đã thành công.
Đến nay, tôi thật sự cuốn hút với chương trình dạy 2 buổi/ ngày. Tôi thấy
có rất nhiều mặt tích cực ở chương trình này.
Nếu người giáo viên dạy 2 buổi/ ngày biết hướng khai thác chương trình
biết áp dụng đổi mới về về mục tiêu giáo dục hiên nay vào thực tế lớp mình
giảng dạy thì chắc chắc chất lượng 2 buổi/ ngày càng được nâng lên.
Bản thân tôi đã trực tiếp giảng dạy chương trình 2 buổi/ ngày trong 5 năm
liền, tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm quý báu. Vì thế chất lượng của lớp
tôi ngày càng phát triển.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn chon đề tài này nhằm giúp
đồng nghiệp đưa chất lượng 2 buổi/ ngày càng phát triển- góp phần đem lại sự
thành công cho giáo viên tiểu học. đây cũng là một số bí quyết để nâng cao chất
lượng 2 buổi/ ngày.
II/ Nhiệm vụ của đề tài : bao gồm
1/ Xác định chương trình dạy 2 buổi/ ngày là tích cực hay không tích
cực:
Điều này có nhiều câu trả lời không hoàn toàn giống nhau : một số giáo
viên chưa tâm huyết lắm thì cho là rườm rà, không tích cực.
Một số phụ huynh chưa hiểu sâu về nguyên lí giáo dục của Đảng thì cũng
cho là như vậy.
Nhưng ngược lại, một số giáo viên có kinh nghiệm và một số phụ huynh
tâm đắc với sự nghiệp giáo dục thì cho là hay và tích cực.
Đối với tôi, một giáo viên trực tiếp giảng dạy chương trình này , tôi thấy rất
hay và tích cực.Vì thế, ta phải phát huy tính tích cực ấy để đưa chất lượng ngày
càng cao hơn.
a/ Tích cực ở chỗ:
a-1 Về kiến thức:- Các em được trao dồi kĩ hơn .Thời lượng nhiều, nên
giáo viên không những chuyển tải hết kiến thức trong sách giáo khoa mà còn
nâng cao hơn những điều đã học ở các giờ ôn tập buổi chiều.
- Các em còn được học thêm các giờ: Luyện tâp, viết chữ , rèn đọc,kĩ
năng tập diễn đạt, tập nói trước lớp, kĩ năng tính toán chuẩn xác.
2
- Thật ra chương trình một buổi giáo viên cũng đã rèn cho học sinh những
khâu này. Riêng 2 buổi/ngày vì thời gian nhiều nên học sinh được rèn kĩ hơn,
sâu hơn.
Mặt khác, học sinh có giờ tự học dưới sự dẫn dắt, gợi mở của giáo viên
-học sinh tự hoàn thành bài tập ngay trên lớp.Những điều thắc mắc học sinh có
thể trực tiếp hỏi giáo viên hoặc bạn bè để hiểu bài.Ở điểm này, phát huy được
tính độc lập, sáng tạo của học sinh.
a.2 /Về giáo dục thẩm mĩ, giáo dục thể chất:
- Học sinh có giờ sinh hoạt tập thể -các em tự do vui chơi múa hát, tự
phát biểu những điều cần biết .Vì vây: giáo dục được con người phát triển toàn
diện.
* Đối với phụ huynh có con học 2 buổi / ngày:
- Phụ huynh an tâm làm việc, không sợ trẻ ở nhà đi chơi, phơi nắng,
không ai quản lí.Trẻ khỏi sa vào trò chơi điện tử nguy hiểm, tốn tiền mà không
được học kiến thức.
2) Chương trình học 2 buổi/ ngày thực sự có hạn chế hay không?
Thiết nghĩ, một vân đề cụ thể nào, bên cạnh những mặt tích cực cũng
tồn tại một vài hạn chế.
Chương trình 2 buổi/ ngày cũng vậy.Mặc dù chương trình này có nhiều
cái hay, cái tốt đáng áp dụng phát huy.Nhưng theo tôi cũng còn một vài hạn chế
nhỏ.Nhưng nếu ta biết khắc phục nó thì sẽ đem lại kết quả tốt.
Đối với những phụ huynh vùng nông thôn, con đông thì gặp khó khăn là;
học sinh đi học ngày nên không giúp đỡ được bố mẹ công việc vào buổi
chiều.Ví dụ như: trông em, trông nhà.Thêm vào đó là phải nộp một khoản học
phí nhỏ để bồi dưỡng công tác giảng dạy cho giáo viên.
Theo tôi, điều này có thể khắc phục được nếu giáo viên trực tiếp giảng dạy
có sự phối hợp chặt chẽ giữa Gia đình- Nhà trường- Xã hội.
Mặt khác: Có nhiều phụ huynh kinh tế còn khó khăn nhưng vẫn thi đua
nhau cho con ăn học bằng người.
Tôi nhận thấy: Đây là mặt tốt đáng khích lệ và phát huy.
Bởi vậy: Mình là giáo viên trực tiếp giảng dạy , được Đảng giao cho sứ
mệnh nặng nề “ươm mầm xanh cho đất nước” thì mình phải càng tự hỏi” phải
làm sao cho các em học sinh của mình ngày càng hoàn hảo hơn, giỏi giang hơn
để đáp ứng kịp thời với thời đại công nghệ thông tin hiện nay?”.Đây là một câu
hỏi mà mỗi nhà giáo tự trả lời và hành động cho đúng với 2 chữ : “ Nhà giáo”.
III/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
1- Đối tượng:
- Học sinh các lớp: 1; 2; 3; 4; 5.
- Phụ huynh học sinh.
- Đồng nghiệp.
2- Phạm vi:
- Chương trình giảng dạy lớp 3, 4, 5 mới.
IV/ Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Khi nói đến đề tài khoa học, dù lớn hay nhỏ thì nhất thiết đề tài nghiên
cứu phải thể hiện những phương pháp sau:
3
1- Phương pháp sư phạm.
Nghiên cứu kĩ chương trình dạy 2buổi/ngày của lớp 5 tham khảo thêm
chương trình các lớp: 2, 3, 4 để rút ra kinh nghiệm áp dụng vào việc giảng dạy
cho học sinh lớp mình.
2- Phương pháp trao đổi với đồng nghiệp.
Thường trao đổi với giáo viên dạy 2 buổi/ngày ở các lớp khác để tìm ra
những khó khăn trong giảng dạy để tìm hướng giải quyết. học hỏi những kinh
nghiệm của các giáo viên giỏi đem áp dụng vào đối tượng lớp mình.
3- Phương pháp điều tra.
Phát phiếu điều tra thông tin xem các em có thấy chương trình học 2
buổi/ngày là quá tải không? Các em nắm được thêm các kiến thức gì? Có hay
không. Có thích thú không? Em có thích học 2 buổi/ngày không.
4- Phương pháp thực hiện giáo dục.
Là phương pháp xem xét việc áp dụng khoa học giáo dục vào thực tiễn đã
phù hợp chưa? Có đủ chưa? Và hiệu quả mang lại ở từng học sinh.
5- Phương pháp phân tích lý luận.
Nhằm mục đích so sánh đối chiếu tư liệu phân tích, tổng hợp, phán đoán ở
hàng loạt các hoạt động thực tiễn của trường, từ đó giúp chúng ta thấy được việc
áp dụng kinh nghiệm gióa dục, việc áp dụng khoa học giáo dục vào thực tiễn
cuộc sống.
6- Phương pháp trò chuyện và phỏng vấn.
Tôi thường trao đổi thông tin với một số đồng nghiệp giảng dạy chương
trình 2 buổi/ngày để rút ra điểm giống và khác nhau của từng đối tượng học sinh
để học hỏi kinh nghiệm từ trường bạn.
PHẦN HAI
NỘI DUNG
A- Nhà trường chúng ta là nhà trường XHCN, công tác giáo dục đang được
phát triển, cải tiến ngày một mang lại hiệu quả cao. Vì vậy: Trong quá trình
giảng dạy đòi hỏi người giáo viên phải biết phân tích sâu sắc toàn bộ tình hình,
phải nhìn trước được sự phát triển, phải xây dựng được mục tiêu phương hướng
để thực hiện, phải tranh thủ ý kiến chỉ đạo, góp ý của các cấp có liên quan, các
thành viên trong nhà trường nhằm tạo nên một sức mạnh tổng hợp để hoàn thành
mọi nhiệm vụ được giao. Vì vậy, người giáo viên dạy học sinh phải làm tốt các
khâu sau đây.
I. Xây dựng hệ thống kế hoạch: Bao gồm:
- Kế hoạch dài hạn, trong đó kế hoạch năm được chia cụ thể từng tuần,
tháng và học kỳ.
- Kế hoạch cá nhân.
- Kế hoạch chuyên đề.
1. Nội dung hình thức kế hoạch.
4
Dựa vào kết quả năm trước, đồng thời dựa vào nhiệm vụ năm học, vào
thực tế địa phương với nội dung nhằm:
- Nâng cao chất lượng dạy học
- Chỉ tiêu về biện pháp thực hiện.
2. Thực hiện kế hoạch.
- Kiểm tra mức độ thực hiện so với kế hoạch.
- Đánh giá mức độ phấn đấu bản thân.
- Rút kinh nghiệm, uốn nắn kịp thời những mặt còn yếu kém.
- Phối hợp với các đoàn thể trong trường phát động phong trào thi đua, tổ
chức các đợt thi đua để hoàn thành nhiệm vụ.
- Tham gia đóng góp ý kiến về chương trình hành động của nhà trường.
- Thông báo kết quả học tập của học sinh cho phụ huynh, để có sự hổ trợ
mạnh mẽ, tạo điều kiện để học sinh được học tập tốt.
II/ Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm để dạy dỗ học sinh.
Thật vậy: Nghề của chúng ta không thể chỉ dạy cho các em hiểu kiến thức
mà phải dỗ dành, giáo dục các em trở thành người có nhân cách, có đạo đức tốt.
Nhất là giáo dục tiểu học thì phần nầy lại quan trọng hàng đầu. Điều nầy buộc
người giáo viên phải thực hiện các điều kiện sau đây:
1. Phải sự thật gần gũi với học sinh – tôn trọng ý kiến của học sinh.
Tuyệt đối không được sĩ nhục các em, mà phải biết khích lệ động viên các
em khi các em làm điều tốt. Ân cần, nhẹ nhàng khuyên bảo các em khi các em
mắc khuyết điểm. Có như vậy các em mới thấy dược tình cảm của người giáo
viên như người anh , người cha. Từ đó, các em sẽ mạnh dạn thổ lộ những điều
mà các em chưa hiểu hoặc các em muốn hiểu thêm về một điều gì đó cần nhờ
giáo viên giúp đỡ.
Trong quá trình giảng dạy: Khi giáo viên hỏi học sinh- nếu các em trả lời
sai thì người giáo viên phải nhận xét thật tế nhị để không đụng chạm đến tự ái
của các em. Nếu người giáo viên nhận xét không tế nhị. Ví dụ như:
- Dốt
- Không tập trung.
- Không hiểu bài.
Nếu giáo viên nhận xét như vậy thì lần sau không bao giờ các em giơ tay
phát biểu xây dựng bài. Mà phải động viên gợi mở dẫn dắt để các em phát triển
tư duy, các em mạnh dạn phát biểu.Điều này tôi luôn áp dụng vào các tiết dạy
của mình. Ví dụ:
Khi dạy bài tập đọc: Thái sư Trần Thủ Độ. Tôi đặt câu hỏi: Khi có người
muốn xin làm chức câu đương, Trần Thủ Độ dã làm gì?
Một HS trả lời: ‘’ Khi có người muốn xin làm chức cầu đường Trần Thủ
Đọ bảo người ấy: Ngươi có phu nhân xin cho làm chức cầu đường không thể ví
như những cầu đường khác,vì vậy phải chặt một ngón chân để phân biệt.
Thế là cả lớp cười ồ.Vì em HS này đã nhầm lẫn giữa từ cầu đường và từ
câu đương. Nên tôi nhận xét tế nhị bằng cách nêu câu hỏi gợi mở để các em tiếp
tục suy nghĩ. Tôi nói: Bạn trả lời có ý đúng nhưng bạn nhầm lẫn giữa 2 từ : Em
nào phát hiện 2 từ đó?
5
Thế là cả lớp giơ tay sôi nổi: ‘’Thưa cô bạn nhầm lẫn chức câu đương chứ
không phải cầu đường. Tôi nói tiếp Rất đúng đấy các em ạ.
Lúc bấy giờ tôi mới giải thích : chức câu đương là một chức vụ nhỏ ở xã
phường giữ việc bắt bớ áp giải người có tội.Giống như công an xã công an
phường bấy giờ. Còn cầu đường là từ chỉ chung cho cầu cống, đường sá nói
chung.Người làm cầu cống đường sá là công nhân cầu đường.
Thế là tất cả HS đều hiểu ra.Vì vậy các câu hỏi sau các em thảo luận và phát
biểu sôi nổi. Vì khi trả lời sai thì không bị la mà còn được khích lệ động viên
.Nếu trả lời đúng thì được tuyên dương được điẻm tốt. Nhờ vậy mà trong tất cả
các giờ học lớp tôi rất sinh động.Các em không thấy tiết học căng thẳng.Ngược
lại các em thích học để được nghe giáo viên hỏi để được trả lời.
III/ Xây dựng kế hoạch cho từng tiết dạy cụ thể.
- Điều này đòi hỏi người giáo viên phải soạn bài kỹ trước khi lên lớp.
Từng bài dạy phải có hướng tổ chức thế nào để đạt được mục tiêu bài dạy, phù
hợp với đặt trưng bộ môn. Đặt biệt: Phải xây dựng tiết dạy theo phương pháp
dạy học mới: Lấy học sinh làm trung tâm.
Ví dụ: Dạy bài Châu Mĩ.( Địa lí lớp 5)
Để đạt được mục tiêu bài học:
-Học sinh biết vị trí địa lí giới hạn của châu Mĩ.
- Nắm được đặc điễm tự nhiên phong phú đa dạng của Châu Mĩ.
- Biết chỉ trên bản đồ các dãy núi, cao nguyên , đồng bằng lớn ở châu Mĩ.
Với mục tiêu trên tôi phải xây dựng kế hoạch là :
* Chuẩn bị Đồ dùng dạy học ( quả địa cầu, bản đồ thé giới.Tranh minh họa
rừng Ama zôn ).Nếu tiết học này mà giáo viên không sử dụng bản đồ thì tiết học
sẽ không có kết quả,các em không hình dung ra châu Mĩ.
* Lên kế hoach:
Phần 1:Vị trí địa lí giới hạn
GV cho HS quan sát bản đồ và trả lời từng câu hỏi của GV Phần này là
hoạt động cả lớp.Trường hợp HS không trả lời được thì GV gợi mở lần để tự HS
phát hiện kiến thức mới.
Phần 2: Đặc điểm tự nhiên:
Phần này tôi xây dựng kế hoach cho các em hoạt động nhóm trong thời gian
2 phút.Tôi viết 3 phiếu học tập dưới hình thức các phiếu thăm, cho từng nhóm
đọc thăm , thảo luận trong nhóm, đại diện nhóm trình bày.Nếu nhóm trình bày
còn thiếu thì các nhóm khác bổ sung.Cuối cùng GV chốt ý, HS tự rút ra bài học.
Bước tiếp theo là cho HS chỉ trên bản đồ các kiến thức vừa học. Dạy học
theo phương pháp này,HS rất thích thú, giúp các em luôn tư duy.
Kế tiếp là phần chơi trò chơi: Mục đích là kiểm tra lại mục tiêu bài học để
xem HS có hiểu bài không.Tôi áp dụng trò chơi Rung chuông vàng: Tôi nêu luật
chơi, cách chơi sau đó nêu từng câu hỏi ngắn gọn HS trả lời nhanh trên bảng con
Nếu HS nào trả lời sai sẽ ra khỏi chỗ ngồi HS nào trả lời đúng hết các câu hỏi sẽ
được Rung chuông vàng.Tất nhiên nếu ít HS trả lời sai thì tiết học đạt kết quả.
Trong giờ Tập làm văn cũng vậy: Tôi luôn áp dụng phương pháp dạy học
mới là gợi mở, dẫn dắt, đàm thoại thuyết trình, bao quát hết các đối tưọng HS,
6