BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
ĐỀ TÀI
CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH ĐẾN PHÂN CẤP CHI TIÊU:
DẪN CHỨNG TỪ TRUNG QUỐC
GVHD: PGS. TS: Sử Đình Thành
Nhóm 2 CH K24 – Lớp Chủ nhật –
P309
TPHCM, Tháng 08 / 2015
DANH SÁCH NHÓM (NHÓM 2)
1.
LÊ THANH TUẤN( NT)
2.
NGUYỄN THỊ THƠM
3.
TRẦN THỊ THÚY
4.
NGUYỄN THỊ THÙY VÂN
5.
VÕ THỊ NGỌC HUYỀN
6.
NGUYỄN ĐÌNH CƯỜNG
7.
PHẠM HUYỀN TRÂN
MỤC LỤC
2.1. Giải thích về sự ràng buộc giữa sự lệ thuộc chuyển giao và phân cấp
tài khóa ..................................................................................................................
5
2.2. Các yếu tố tác động khác của sự phân cấp tài khóa ....................................
7
(i) Sự phát triển kinh tế ....................................................................................
7
(ii) Quy mô và mật độ dân số ..........................................................................
8
(iii) Mở rộng thương mại và FDI ....................................................................
8
3.1. Định nghĩa các biến .......................................................................................
9
(i) Biến phụ thuộc ..........................................................................................
10
(ii) Biến độc lập .............................................................................................
11
3.2. Phương pháp ước lượng .............................................................................
13
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
Tóm tắt: Nghiên cứu này là nỗ lực đầu tiên để kiểm tra các yếu tố quyết
định vấn đềphân cấp chi tiêu ở các cấp dưới cấp tỉnh tại Trung Quốc. Chính
quyền trung ương Trung Quốc đưa ra hướng dẫn chi tiết đến các chính quyền
địa phương trên phương diện tài chính công, nhưng việc phân bổ chi tiêu không
đuợc kiểm soát tốt. Sự khác biệt trong phân cấp tài khóa trên phương diện chi
tiêu là rất lớn giữa các chính quyền địa phương. Sử dụng bảng dữ liệu từ 1995
2006, tác giả muốn cung cấp bằng chứng thực nghiệm rằng sự lệ thuộc chuyển
giao có tác động âm đến phân cấp chi tiêu trong các chính quyền địa phương
Trung Quốc. Điều này cho thấy chính quyền trung gian, tức là chính quyền
cấp tỉnh, có thể "nắm lấy" nguồn tài trợ trung ương cho lợi ích riêng của nó.
1.GIỚI THIỆU
Bài viết này nhằm mục đích khám phá những yếu tố quyết định phân cấp
chi tiêu ở Trung Quốc, nước lớn thứ ba thế giới về tổng diện tích đất đai, và để
kiểm tra những hệ quả chính sách của họ trên diện rộng. Mặc dù Trung Quốc là
một quốc gia có hiến pháp thống nhất, sự phân cấp tài khóa ở các cấp dưới tỉnh
khác nhau rất nhiều giữa các tỉnh, đặc biệt là về mảng chi tiêu. Trong khi có một
hướng nghiên cứu đang hướng đến các yếu tố giải thích mức độ phân cấp tài
khóa, nhưng chúng ta vẫn biết rất ít về những gì dẫn đến sự phân cấp tài khóa ở
những nơi khác nhau (Bodman & Hodge, 2010). Tận dụng lợi thế về sự thay đổi
đáng kể trong phân cấp chi tiêu các cấp dưới tỉnh ở Trung Quốc, bài nghiên cứu
này sẽ kiểm tra các giả thuyết liên quan đến một số yếu tố tiềm năng quyết
định của phân cấp tài khóa được báo cáo trong bài nghiên cứu. Điều tra các tác
nhân của sự phân cấp phải có ý nghĩa như hầu hết các nghiên cứu đánh giá ảnh
hưởng của sự phân cấp mà không cần nhìn vào sự phức tạp của nó. Nếu không
có
một
sự
hiểu
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
biết
sâu
sắc
về
sự
1
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
phân cấp tài khóa thì có nguy cơ sẽ cường điệu hóa khi đưa ra kết luận về các
lợi ích hoặc tác hại của phân cấp.
Phân cấp "thường được xem như một sự chuyển giao về quyền hành đi từ
trung ương đến chính quyền địa phương, với quyền hành tổng thể của cơ quan
chính phủ đối với xã hội và nền kinh tế đã từng được hình dung là cố định"
(Rodden, 2004, p. 482). Phân cấp tài khóa đề cập đến sự chuyển giao về trách
nhiệm tài chính cho cấp dưới của chính phủ, đồng thời là cơ sở cho quản trị
công trong thực tế. Các nghiên cứu về phân cấp tài khóa đã và đang được phát
triển trong cộng đồng quốc tế; Tuy nhiên, các tác nhân điều khiển phân cấp tài
khóa cho đến nay vẫn ít được biết đến. Các nghiên cứu trước đây về sự phân
cấp tài khóa hầu như thường tập trung vào việc chuyển giao quyền lực trong
khu
vực
công
(Tiebout, 1956; Oates, 2005). Phần lớn các tài liệu trong những thập kỷ gần đây
đã điều tra về tác động của phân cấp tài khóa trong quản trị công
(Prud'homme,1995; Rodden & Wibbels, 2002; Uchimura & Jutting, 2009). Phần
lớn các tác nhân điều khiển phân cấp đã bị bỏ qua, ngoại trừ một số nỗ lực gần
đây như của Bodman và Hodge (2010) và Panizza (1999).
So với các nghiên cứu về tác động của phân cấp tài khóa, việc khám phá
những yếu tố làm cơ sở phân cấp tài khóa sẽ là công cụ trong việc tạo ra một sự
hiểu biết tốt hơn về sự phức tạp và động lực của phân cấp trong các nền kinh
tếchính trị khác nhau. Trong nhiều trường hợp, sự phân cấp tài khóa thực chất
không phải là vấn đề, nhưng phân cấp có thể được thực hiện trong một môi
trường không phù hợp. Khi tác nhân điều khiển phân cấp/tập trung được tìm ra,
việc đánh giá phân cấp/tập trung sẽ trọng điểm hơn và sắc thái của mối quan hệ
giữa trung ươngvà địa phương sẽ được tiết lộ nhiều hơn.
Bài nghiên cứu này sẽ tìm hiểu sự thay đổi giữa các vùng miền của phân
cấp tài khóa, đặc biệt về khía cạnh chi tiêu ở Trung Quốc. Phân cấp tài khóa ở
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
2
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
các cấp dưới tỉnh ở Trung Quốc sẽ được khảo sát một cách cận trọng trong
nghiên cứu này. Mặc dù các tài liệu về tác động của phân cấp tài khóa dựa trên
sự phát triển nền kinh tế và quản trị công đã phát sinh trong những năm gần đây
(Ví dụ Uchimura & Jutting, 2009), nghiên cứu về các yếu tố quyết định phân cấp
tài khóa là hiếm thấy. Vì khu vực địa lý nhiều tỉnh của Trung Quốc tương đương
với của các nước châu Âu, nên sự đa dạng giữa các tỉnh về chính trị, kinh tế, và
các khía cạnh xã hội là thật sự lớn. Sự phân cấp các cấp dưới tỉnh ở Trung Quốc
đa dạng hơn so với nhiều quốc gia khác (Dollar & Hofman, 2008). Việc khám
phá phân cấp tài khóa, phong cách người Trung Quốc, do đó, sẽ khả năng tạo
ra những tác động lớn cho các nước khác.
Chính quyền trung ương Trung Quốc không tạo ra một sự kiểm soát chặt
chẽ về phân cấp chi tiêu ở cấp dưới tỉnh. Chính quyền cấp tỉnh ở Trung Quốc
được hưởng quyền quyết định đáng kể trong vấn đề này. Theo Hiến pháp của
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) và Niên giám thống kê Trung Quốc
(2009), chính quyền địa phương gồm 31 chính quyền cấp tỉnh, 333 chính quyền
địa khu (thành phố trực thuộc tỉnh), 2.859 chính quyền huyện, và 40.828 chính
quyền xã (chính quyền cấp dưới tỉnh bao gồm chính quyền địa khu, huyện, và
các xã). Chính quyền địa phương cung cấp số lượng lớn các dịch vụ công ở
Trung Quốc trong đó 70% tài sản công đã được chi tiêu ở cấp địa phương với
hơn 55% được chi tiêu cho chính quyền cấp dưới tỉnh (Ngân hàng Thế giới,
2002). Do những nỗ lực để xây dựng một chính phủ định hướng dịch vụ
trong những năm gần đây, chính quyền địa phương sẽ tiếp nhận nhiều trách
nhiệm hơn cho việc cung cấp các dịch vụ công theo thời gian ở Trung Quốc.
Phân công chi tiêu cho chính quyền địa phương dù sao cũng không được kiểm
soát chặt chẽ (xem thêm MartinezVazquez & Qiao, 2011). Quốc vụ viện (2002),
cơ quan quản lý hàng đầu của chính quyền trung ương ở Trung Quốc – nơi cung
cấp các quy định về phân cấp tài khóa ở địa phương quan tâm nhiều đến doanh
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
3
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
thu của phân cấp tài khóa trong khi các quy định về vấn đề chi tiêu gần như bị
bỏ trống. Những thay đổi trong phân cấp tài khóa ở khía cạnh chi tiêu là rất lớn
giữa các địa phương ở Trung Quốc. Ví dụ, chính quyền cấp dưới tỉnh đã chi tiêu
85,32% tài sản công ở tỉnh Quảng Đông trong khi chỉ có 53,72%
đã được chi tiêu ở tỉnh Thanh Hải từ năm 1995 và 2006 (xem Bảng tóm tắt về
Thống kê tài chính cho tất cả các quận, thành phố từ 19962007). Vì vậy, tác giả
đặt ra lại câu hỏi để phân tích: tác nhân gì dẫn đến sự thay đổi trong phân cấp
chi tiêu cấp dưới tỉnh ở Trung Quốc? Dựa trên kết quả thực nghiệm phân tích,
tác giả đã cố gắng gợi ý chính sách cải thiện các hệ thống ngân sách liên chính
phủ ở Trung Quốc.
Nói chung, theo phân tích thực nghiệm của tác giả thì có một mối quan hệ
âm giữa sự lệ thuộc chuyển giao (chuyển giao trung ương xem như là một phần
của chi tiêu địaphương) và phân cấp tài khóa ở Trung Quốc. Các vùng có sự lệ
thuộc chuyển giao càng lớn có xu hướng phân cấp chi tiêu càng cao trong phạm
vi các tỉnh với các yếu tố khác không đổi. Vì những người quan sát từ lâu đã nghi
ngờ rằng chính quyền địa phương chơi trò chơi ngân sách với các chính phủ để
được trợ cấp nhiều hơn ở một số nước (Gimpelson & Treisman, 2002), kết quả
phân tích của tác giả cũng cho thấy sự lợi dụng về quyền hành tài chính bởi
chính quyền địa phương ở Trung Quốc. Ngoài ra, nghiên cứu của tác giả cung
cấp bằng chứng rằng cả mật độ dân số và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có
những mối quan hệ âm đối với phân cấp chi tiêu trong khi phát triển kinh tế hầu
như không có ý nghĩa giải thích trong mô hình của tác giả cho việc phân cấp
chi tiêu.
Phần còn lại của bài nghiên cứu được cấu trúc như sau: Phần 2 thảo luận
về các lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm của các yếu tố tiềm năng quyết
định phân cấp tài khóa với việc nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa sự lệ thuộc
chuyển giao và phân cấp chi tiêu. Phần 3 trình bày dữ liệu, mô hình cụ thể, và
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
4
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
phương pháp dự toán. Phần 4 cung cấp các kết quả thực nghiệm phân tích của
tác giả trong khi Phần 5 đưa ra thảo luận. Phần 6 kết luận.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Ở đây tác giả tổng hợp các nhân tố giải thích cho sự phân cấp tài khóa
tronglý thuyết, phần lớn xuất phát từ các bằng chứng xuyên quốc gia. Các yếu
tố quyết định đến sự phân cấp tài khóa trong lý thuyết sẽ được sử dụng làm
khung lý thuyết cơ bản trong bài nghiên cứu này.
2.1. Giải thích về sự ràng buộc giữa sự lệ thuộc chuyển giao và phân cấp
tài khóa
Những tác động của sự chuyển giao ngân sách từ chính quyền liên bang (hay
chính quyền trung ương ở các nước như Trung Quốc) đến chính quyền địa
phương lên chi tiêu địa phương đã được tìm hiểu một cách rộng rãi (ví dụ như
hiệu ứng giấy bẫy ruồi (flypaper); xem Bailey và Connolly (1998)). Tuy nhiên,
phần lớn lý thuyết đều gắn liền với các giả thiết và giả định (chẳng hạn giả
thiết cử tri trung dung)… Tác động của sự chuyển giao từ nơi có quyền lực cao
hơn đối với sự phân cấp tài khóa vẫn chưa được tìm hiểu rộng rãi.
Ở một vài nước, chính phủ không thể chuyển trợ cấp cho chính quyền cơ
sở nhưng có thể thông qua các chính quyền trung gian theo Hiến Pháp
(HernándezTrillo và JarilloRabling, 2008). Mặc dù điều này không nằm trong
thể chế nhưng Chính phủ Trung Quốc đã dần chấp nhận một hệ thống (không
chính thức) trong thực tế. Nghĩa là, trợ cấp trung ương đi qua chính quyền tỉnh
trước khi đến chính quyền địa khu và huyện. Có một rủi ro là chính quyền tỉnh
có thể giữ lại những chuyển giao liên chính phủ (the intergovernmental transfer)
này cho lợi ích riêng của họ. Do đó, mối quan hệ giữa sự lệ thuộc chuyển giao
và phân cấp chi tiêu có thể tiêu cực hay tích cực, phụ thuộc vào vai trò và chức
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
5
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
năng của chính quyền trung gian nơi có trách nhiệm chuyển giao trợ cấp trung
ương đến chính quyền địa phương.
Chính quyền cấp tỉnh ở Trung Quốc, theo Quốc vụ viện (2002), nên giữ lại
phần chi tiêu của họ và mở rộng phần chuyển giao từ trung ương đến các cấp
chính quyền thấp hơn. Tức là, các chính quyền cấp tỉnh không chỉ trao các
chuyển giao từ trung ương cho các chính quyền cấp dưới mà còn cắt giảm một
phần nguồn tài chính của mình cho các cấp chính quyền thấp hơn như là khoản
cung cấp dịch vụ công cho công dân. Trong thực tế, không có bằng chứng cho
thấy chính quyền cấp tỉnh chuyển giao nhiều tài nguyên của họ (bên cạnh các
khoản chuyển giao từ chính quyền trung ương) cho chính quyền cấp dưới. Ngân
hàng thế giới (2007) chỉ ra một cách rõ ràng là một tỉnh đóng góp rất ít trong việc
chuyển giao liên chính phủ đến các cấp thấp hơn để cân bằng khả năng tài
chính. Tệ hơn nữa, bằng chứng ở đây và nơi khác chỉ ra rằng chính quyền cấp
tỉnh sẽ giữ lại một phần chuyển giao từ trung ương để sử dụng cho các dự
án tại địa phương và cung cấp cho các dịch vụ công. Vì vậy, chúng ta cần chú ý
đặc biệt đến vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong hệ thống chuyển giao liên
chính phủ.
Giả định về mối quan hệ ngược chiều giữa sự lệ thuộc chuyển giao và sự
phân cấp tài khóa được xác định trong nghiên cứu ở Nga. Freikman và Plekhanov
(2009) nhận thấy rằng khi các điều kiện khác không đổi thì ở các khu vực lệ
thuộc chuyển giao (transferdependent) có khuynh hướng phân cấp tài khóa cao
hơn. Khi dòng trợ cấp từ trung tâm qua chính quyền khu vực, có thể họ sẽ sử
dụng các chuyển giao này hơn là phân phối cho các cấp chính quyền thấp hơn.
Khi kiểm soát tất cả các yếu tố khu vực khác, sự lệ thuộc chuyển giao càng cao
thì sự phân cấp tài khóa càng thấp.
Tuy nhiên, bằng chứng xuyên quốc gia cho thấy nhiều sự chuyển giao tài
khóa có khuynh hướng khuyến khích chi tiêu địa phương nhiều hơn do sức ép
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
6
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
ngân sách mềm (soft budget) gia tăng (Bodman và Hodge, 2010; Letelier, 2005).
Do đó, sự lệ thuộc chuyển giao càng lớn thì sự phân cấp tài khóa càng cao. Một
sự suy luận khác cũng bổ trợ cho mối quan hệ cùng chiều giữa sự lệ thuộc
chuyển giao và sự phân cấp tài khóa. Khi các chuyển giao trung gian được cung
cấp từng phần để bù đắp cho chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ
từ trung ương, việc mở rộng chuyển giao cho chính quyền địa phương nghĩa là
chính quyền địa phương chịu nhiều trách nhiệm chi trả hơn; theo đó phần chi
tiêu địa phương sẽ gia tăng. Tóm lại, mối quan hệ cùng chiều giữa sự lệ thuộc
chuyển giao và sự phân cấp tài khóa được thực hiện trong các nghiên cứu
xuyên quốc gia ở các nước phát triển (Kee, 1977; Letelier, 2005).
2.2. Các yếu tố tác động khác của sự phân cấp tài khóa
Bên cạnh các giả thuyết ở trên, tác giả kiểm tra các nhân tố sau đây có ảnh hưởng đến
các mức độ của sự phân cấp tài khóa.
(i) Sự phát triển kinh tế
Có 2 luồng ý kiến trái ngược nhau liên quan đến vai trò của sự phát triển kinh tế
đối với sự phân cấp tài khóa. Một mặt, sự phát triển kinh tế có kỳ vọng dương(cùng
chiều) đối với sự phân cấp tài khóa. Phần lớn các dịch vụ công căn bản đều được cung
cấp bởi chính quyền địa phương ở các nước như Trung Quốc. Một vài ý kiến cho rằng
chi tiêu ở cấp địa phương gia tăng như là một sự cung ứng các hàng hóa công cơ
bản sẽ trở nên đắt hơn khi các công dân giàu có hơn đòi hỏi các dịch vụ công đa
dạng và đắt đỏ hơn (MartinezVazquez và McNab, 2003; Tanzi, 2000; Wheare,
1964). Mặt khác, phát triển kinh tế có quan hệ ngược chiều với sự phân cấp tài
khóa. Theo Letelier (2005), khi có sự gia tăng đáng kể sẽ dẫn tới tái phân phối lại
thu nhập khi một địa phương hay quốc gia trở nên giàu có hơn; do đó, sự phối
hợp và đầu tư trung ương sẽ dần dần được đòi hỏi nhiều hơn. Chi tiêu ở cấp
chính quyền cao hơn sẽ tăng trưởng nhanh hơn so với các cấp thấp hơn.
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
7
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
Bằng chứng thực nghiệm về sự ảnh hưởng của phát triển kinh tế đến sự
phân cấp tài khóa thì phức hợp. Nghiên cứu ban đầu về vấn đề này cho thấy thu
nhập bình quân đầu người có tác động cùng chiều đáng kể đến sự phân cấp tài
khóa (Kee, 1977; Panizza, 1999). Nghiên cứu gần đây tìm thấy nhiều bằng chứng
về các tác động khác nhau của sự phát triển kinh tế ở các nước phát triển và
đang phát triển (Bodman và Hodge, 2010; Letelier, 2005), nghĩa là có mối quan
hệ cùng chiều ở các nước có thu nhập cao và mối quan hệ ngược chiều ở các
nước có thu nhập thấp.
(ii) Quy mô và mật độ dân số
Litvack và Oates (1971) cho rằng sự tắc nghẽn xã hội sẽ gia tăng khi quy
mô dân số tăng lên. Với điều kiện là chính quyền địa phương cung cấp phần lớn
dịch vụ công cho công dân, chi phí tắc nghẽn tăng lên sẽ làm tăng phần chi tiêu
địa phương trong tổng chi tiêu chính quyền (Bodman và Hodge, 2010). Mật độ
dân số càng cao thì chi phí dịch vụ công thấp hơn do có sự gia tăng việc hoàn lại
mức độ các khoản dịch vụ công. Mật độ dân số thấp gia tăng chi phí dịch vụ với
điều kiện các yếu tố khác cố định.
Các nghiên cứu trước đều chỉ có mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô dân
số với sự phân cấp tài khóa và mối quan hệ ngược chiều giữa mật độ dân số và
sự phân cấp tài khóa (Bodman và Hodge, 2010; Cerniglia, 2003; Freinkman và
Plekhanov, 2005).Vì vậy, tác giả kỳ vọng một quy mô dân số lớn hơn và mật độ
thấp hơn sẽ liên quan đến mức độ phân cấp tài khóa cao hơn ở địa phương
Trung Quốc.
(iii) Mở rộng thương mại và FDI
So với thu nhập và quy mô dân số thì cả yếu tố mở rộng thương mại lẫn
FDI đều ít được chú ý trong các lý thuyết. Một vài nghiên cứu (Kimakova, 2009;
Rodrik, 1998) cho thấy nền kinh tế định hướng theo thị trường bị ảnh hưởng bởi
các cú sốc từ nền kinh tế bên ngoài; do đó sự hợp tác kinh tế giữa các chính
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
8
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
quyền trung ương trở nên cấp bách ở nền kinh tế mở. Hội nhập trên thị trường
thế giới cải thiện sự phân cấp tài khóa khi tất cả các điều khác được giữ nguyên
không đổi (Garrett và Rodden, 2003; Stegarescu, 2009).
Mối quan hệ giữa mở rộng ngoại thương với sự phân cấp tài khóa được
kiểm tra rộng rãi với dữ liệu xuyên quốc gia. Giả sử FDI đại diện cho sự mở
cửa của một nền kinh tế. Vậy điều gì sẽ là sự tác động của cả mở rộng kinh tế
và ngoại thương đến phân cấp tài khóa trong một quốc gia? Một học thuyết xác
nhận rằng cả mở rộng ngoại thương và FDI có thể được dùng để cải thiện việc
quản lý tốt hơn (xem Malesky, 2004; Wu và Lin, 2012). Người nước ngoài, đặc
biệt là người ở các nước phát triển mua hàng hóa và đầu tư vào các nước đang
phát triển, sẽ thúc đẩy các chính phủ tiếp nhận đầu tư cải thiện dịch vụ công
của họ hoặc làm “rò rỉ” những gợi ý của chính sách công dự định cho thương
mại và đầu tư. Khi quản lý tài khóa được sử dụng như là một công cụ hiệu
quả để cải thiện quản lý công ở nhiều nước công nghiệp, giả định của tác giả là
cả mở rộng ngoại thương và FDI có thể làm tăng phân cấp tài khóa ở các nước
đang phát triển như Trung Quốc thông qua mô phỏng và khuếch tán chính sách.
Do đó, tác giảgiả thiết rằng cả mở rộng ngoại thương và FDI có tác động
dương đến phân cấp tài khóa ở Trung Quốc.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, MẪU VÀ DỮ LIỆU
Tác giảtiến hành phân tích thực nghiệm bằng cách sử dụng một bộ dữ liệu
bảng với 30 tỉnh của Trung Quốc từ năm 1995 đến năm 2006 (Tibet được loại ra
vì dữ liệu không phù hợp). Dữ liệu được sử dụng trong phân tích này được lấy
từ bảng trích yếu thống kê tài khóa cho tất cả các tỉnh, thành phố và quận huyện,
Niên giám tài chính của Trung Quốc và Trích yếu thống kê Trung Quốc từ năm
19492008.
3.1. Định nghĩa các biến
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
9
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
Dựa vào tổng quan tài liệu ở phần trước, tác giảthiết lập mô hình nghiên
cứu thực nghiệm bao gồm các biến phụ thuộc và các biến độc lập trong phân
tích này.
(i) Biến phụ thuộc
Biến phụ thuộc biến phân cấp tài khóa được đo lường bởi tỷ lệ chi tiêu
công dưới tỉnh trong tổng số chi tiêu công ở toàn bộ tỉnh và dưới tỉnh. Điều này
nghĩa là các chi tiêu của địa khu, huyện, xã trong một tỉnh được tổng hợp lại và
sau đó con số này được chia cho tổng số chi tiêu chính phủ trên toàn bộ tỉnh và
dưới tỉnh. Đo lường phân cấp tài khóa là một thách thức lớn, thu hút phần lớn
các cuộc tranh luận học thuật (xem Yeung, 2009). Bởi vì việc phân cấp tài khóa
là đa chiều, nên một biến duy nhất khó có thể nắm bắt hết các động thái phân
công quyền lực từ chính phủ. Nhận thức được sự không hoàn hảo khi đo lường
phân cấp tài khóa bằng tỷ lệ chi tiêu, tuy nhiên tác giảcó một số lý do mạnh mẽ
để sử dụng phân cấp tài khóa dưới tỉnh là biến phụ thuộc. Đầu tiên, các phép đo
phân cấp tài khóa có xu hướng khó giải quyết hơn trong các nghiên cứu
xuyên quốc gia bởi vì bối cảnh lịch sử và pháp lý của tài chính công là rất khác
nhau giữa các nước khác nhau (Stegarescu, 2005). Việc so sánh trong phạm vi
quốc gia dù sao cũng có thể tránh được vấn đề này. Mặc dù mức độ phân cấp
chi tiêu khác nhau giữa các tỉnh, và các giai đoạn ở Trung Quốc nhưng việc phân
cấp thường được điều chỉnh bởi cùng một bộ khung pháp lý. Thứ hai, các lỗi đo
lường phân cấp tài khóa khá rắc rối trong các mô hình mà biến phân cấp được
sử dụng như là một biến độc lập. Phân cấp tài khóa được sử dụng như là một
biến phụ thuộc gây ra ít lo ngại hơn (Stegarescu, 2005).
Tác giả hướng đến sự thay đổi về mặt chi tiêu và cho rằng phần chi tiêu ở cấp
dưới tỉnh có thể đại diện hiệu quả cho phân cấp tài khóa ở địa phương Trung
Quốc. Bởi vì chi tiêu công đại diện cho sự tham gia của chính phủ trong xã hội,
dữ liệu chi tiêu này cho thấy những giải thích về sự thay đổi trong chính quyền
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
10
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
địa phương; Do đó các gợi ý chính sách được rút ra từ điều này sẽ trở nên hấp
dẫn. Ngoài ra, phía doanh thu của phân cấp tài khóa cũng được kiểm tra, mặc dù
kết quả thực nghiệm của nó không được báo cáo trong nghiên cứu này. Các hàm
ý chính sách phân cấp doanh thu thì không rõ ràng vì chính quyền địa phương
thực tế chưa được giao quyền vay mượn và xác lập cơ sở tính thuế và thuế suất
của họ ở Trung Quốc.
(ii) Biến độc lập
Sự lệ thuộc chuyển giao đề cập đến mức độ chi tiêu của tỉnh được tài trợ
bởi sự chuyển giao từ Trung ương. Tử số của biến là chuyển giao trung ương
đến tỉnh, bao gồm cả các cấp tỉnh, địa khu, huyện, xã, trong khi mẫu đề cập đến
tổng chi tiêu của bốn cấp chính quyền trong một tỉnh ở Trung Quốc. Đây là số
tiền chuyển giao của Trung ương cho tất cả các cấp trong phạm vi tỉnh chia cho
tổng chi tiêu của các cấp trong tỉnh. Phát triển kinh tế được đo lường bởi GDP
thực tế bình quân đầu người ở cấp tỉnh, trong đó năm 1992 được sử dụng là năm
cơ sở. GDP thực tế bình quân đầu người được tính bằng GDP danh nghĩa bình
quân đầu người chia cho chỉ số khử lạm phát GDP của tỉnh (tính theo logarit tự
nhiên). Mật độ dân số được đo bằng số lượng dân cư (Changzhu renkou) trên
mỗi km vuông diện tích đất ở một tỉnh nhất định (tính theo logarit tự nhiên).
Mở cửa thương mại được đo như tỷ lệ nhập khẩu cộng với xuất khẩu (nhân
dân tệ) trên tổng GDP của tỉnh. FDI biểu thị khối lượng đầu tư trực tiếp nước
ngoài (nhân dân tệ) như là một tỷ lệ trong GDP của tỉnh.
Ngoài ra, cơ cấu ngành công nghiệp và kinh tế ở một tỉnh có thể có ảnh
hưởng tiềm năng đến các mô hình chi tiêu của địa phương. Trong một số mô
hình, chúng ta thêm việc làm ở các doanh nghiệp nhà nước và cơ cấu kinh tế như
là biến điều khiển để cải thiện sự vững mạnh của các mô hình thực nghiệm.
Việc làm ở doanh nghiệp nhà nước đề cập đến số lượng nhân viên doanh
nghiệp nhà nước như là một tỷ lệ của tổng dân số. Cơ cấu kinh tế được đo
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
11
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
lường như khối lượng của khu vực thứ cấp trong GDP của địa phương. Bảng 1
cung cấp các nguồn dữ liệu và đo lường, và bảng 2 trình bày số liệu thống kê
mô tả của tất cả các biến được sử dụng trong phân tích thực nghiệm này.
Bảng 1: các nguồn dữ liệu và đo lường
Biến
Phân cấp tài khóa
Đo lường
Tỷ lệ chi tiêu dưới tỉnh trên
Nguồn dữ liệu
Bảng trích yếu thống kê tài
tổng chi tiêu tỉnh và dưới tỉnh khóa cho tất cả các tỉnh,
thành phố và quận huyện
Niên giám tài chính Trung
Sự phụ thuộc
Tỷ lệ chuyển giao tài khóa
chuyển giao
Trung ương trên tổng chi tiêu Quốc
Phát triển kinh tế
tỉnh và dưới tỉnh
GDP thực bình quân đầu
Mật độ dân số
người (theo Logarit tự nhiên) Quốc 19492008
Cư dân trên 1 Km vuông
Trích yếu thống kê Trung
Tỷ lệ FDI trong
(theo Logarit tự nhiên)
Tỷ lệ FDI trong GDP
Quốc 19492008
Trích yếu thống kê Trung
GDP
Tỷ lệ thương mại
Tỷ lệ của xuất nhập khẩu
Quốc 19492008
Trích yếu thống kê Trung
trong GDP
Tỷ lệ việc làm ở
trong GDP
Tỷ lệ việc làm ở SOE trong
Quốc 19492008
Trích yếu thống kê Trung
SOE trong dân số
Tỷ lệ khu vực thứ
tổng dân số
Thu nhập của khu vực thứ
Quốc 19492008
Trích yếu thống kê Trung
cấp trong GDP
cấp trong GDP
Quốc 19492008
Trích yếu thống kê Trung
Bảng 2. Thống kê mô tả.
Biến
Phân cấp tài khóa
Sự phụ thuộc chuyển giao
Phát triển kinh tế
Mật độ dân số
Tỷ lệ FDI trong GDP
Tỷ lệ thương mại trong
Trung bình
0.71
0.51
8.18
5.34
0.04
0.27
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
Độ lệch
chuẩn
0.10
0.14
0.49
1.23
0.04
0.34
Min
0.44
0.18
7.32
1.93
0.00
0.03
Max
0.89
0.93
9.65
7.73
0.24
1.75
Quan sát
360
359
360
360
360
360
12
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
GDP
Tỷ lệ việc làm ở SOE trong 0.08
0.04
0.03
0.29
360
dân số
Tỷ lệ khu vực thứ cấp
0.07
0.20
0.62
360
0.45
trong GDP
3.2. Phương pháp ước lượng
Mô hình dữ liệu bảng thường được ước lượng hoặc với mô hình tác động
cố định hoặc mô hình tác động ngẫu nhiên. Mô hình tác động ngẫu nhiên giả
định rằng những tác động ngẫu nhiên là không tương quan với các sai số ngẫu
nhiên. Nếu giả định này là sai, ước lượng của tác động ngẫu nhiên sẽ không phù
hợp (Greene, 2002). Bởi vì tác động ngẫu nhiên là một ước lượng hiệu quả hơn
so với tác động cố định, chúng ta nên chạy tác động ngẫu nhiên nếu nó có hợp lý
về mặt thống kê. Tuy nhiên, kiểm định thống kê Hausman của tác giả có được
cho ý nghĩa thống kê lớn, cho thấy một mô hình tác động cố định phải được
thông qua. Để nghiên cứu các yếu tố quyết định phân cấp tài khóa ở
Trung Quốc, trước hết, tác giả ước tính mô hình tác động cố định tuyến tính sau
đây:
Yit = α0 + Xitβ + αi + γt + εit (1)
trong đó Y là biến phụ thuộc, phân cấp tài khóa, bằng tỷ trọng của chi tiêu
cấp dưới tỉnh trong tổng chi tiêu địa phương cho tỉnh i trong năm t. Như đã thảo
luận ở trên, X là một ma trận của các biến độc lập chính của chúng ta, bao gồm
cả sự lệ thuộc chuyển giao, phát triển kinh tế, mật độ dân số, sự cởi mở thương
mại và FDI. Trong mô hình, i đại diện cho các tác động cố định ở tỉnh và γt đại
diện cho tác động cố định năm t, trong khi εitlà sai số ngẫu nhiên. Ngoài ra, để
kiểm soát cho sự khác biệt trong cơ cấu kinh tế và công nghiệp ở mỗi tỉnh, tác
giả cũng ước tính các mô hình thay thế bao gồm hai biến kiểm soát việc làm
tại doanh nghiệp nhà nước và cơ cấu kinh tế.
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
13
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
Một thách thức lớn cần phải được giải quyết trong ước lượng mô hình
thực nghiệm là tính nội sinh tiềm năng của biến phát triển kinh tế GDP thực tế
bình quân đầu người. Bởi vì là biến phụ thuộc, phân cấp tài khóa, có thể có ảnh
hưởng đến phát triển kinh tế của tỉnh, các quan hệ nhân quả có thể xảy ra trong
mô hình. Nếu chúng ta bỏ qua các vấn đề trên trong ước lượng, các ước tính hệ
số có thể bị thiên lệch và không phù hợp (Wooldrige, 2006). Để đối phó với
những thách thức thực nghiệm, tác giả cũng chạy ước lượng bình phương tối
thiểu hai giai đoạn (2SLS), sử dụng độ trễ một năm và hai năm của GDP thực tế
bình quân đầu người như các biến công cụ. Một biến công cụ phải có hai thuộc
tính sau: (1) nó phải không tương quan với sai số trong mô hình; (2) nó phải
được tương quan một phần với các biến độc lập nội sinh. Để sử dụng độ trễ
của GDP là biến công cụ, tác giả phải đảm bảo rằng thứ tự thời gian của các
hiệu ứng lên biến phụ thuộc là chính xác và nó có tương quan với GDP thời
điểm hiện tại. Tác giả cũng sử dụng thủ tục ước tính NeweyWest để đối phó
với các vấn đề tương quan và phương sai thay đổi. Quá trình này ước tính bình
phương tối thiểu thông thường (OLS) với phương sai thay đổi, sự nhất quán
tương quan (HAC) và sai số chuẩn (Newey & West, 1987).
Ngoài ra, vì biến phụ thuộc của tác giả, được đo lường bằng tỷ trọng của
chi tiêu dưới tỉnh trong tổng chi tiêu cấp tỉnh nên sẽ có giới hạn giữa giá trị 0 và
1, vì vậy mô hình tuyến tính chuẩn có thể không cung cấp một bức tranh chính
xác về tác động của một số biến độc lập đối với phân cấp tài khóa trong toàn bộ
phân phối của chúng. Hơn nữa, mô hình như vậy không đảm bảo rằng giá trị dự
kiến sẽ rơi vào giữa khoảng không và một. Trong những năm gần đây, đã có một
nghiên cứu thực nghiệm mới nổi cố gắng để giải thích phản ứng phân đoạn
(Papke & ooldrige, 1996, 2008). Theo cách tiếp cận đề xuất gần đây cho dữ liệu
bảng trong Papke và Wooldrige (2008), tác giả sử dụng phương pháp ước tính
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
14
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
gộp khả năng xảy ra cao nhất MLE (QMLE) để ước tính một mô hình probit
phân đoạn theo dạng sau đây:
Trong đó là là hàm phân phối tích lũy (CDF) của một phân phối bình thường,
và sự hiện diện của t cho thấy tác giả cho phép các hệ số chặn khác nhau trong
mỗi năm. Tác giả cung cấp các ước tính về tác động từng phần trung bình trên
dân số, hoặc "hiệu ứng từng phần trung bình" (APEs), được tính dựa trên hệ số
tỷ lệ. APEs được so sánh với các ước tính trong mô hình tuyến tính. Tác giả sử
dụng phương pháp bootstrapping để có được các sai số chuẩn bootstrap cho
APEs. Cách tiếp cận này cho phép các hiệu ứng không quan sát được bất biến
theo thời gian mà chúng có thể tương quan với biến giải thích. Mô hình này được
ước tính với giả định rằng các biến giải thích là ngoại sinh. Sau đó tác giả nới
lỏng các giả định giới hạn ngoại sinh và điều chỉnh biến phát triển kinh tế thành
biến nội sinh.
4. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
Bảng 3 trình bày các kết quả ước lượng của bốn mô hình tuyến tính và hai
mô hình probit phân đoạn. Bốn mô hình tuyến tính bao gồm các mô hình cơ sở
với tất cả các biến độc lập cơ bản, mô hình này đưa vào hai biến kiểm soát bổ
sung và hai mô hình 2SLS với biến phát triển kinh tế được coi là biến nội sinh.
Tác giả cũng ước tính hai mô hình probit phân đoạn có và không có biến phát
triển kinh tế được coi là nội sinh.
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
15
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
Các mô hình cơ sở (mô hình 1) có một R2 bằng 0,52, chỉ ra rằng 52% của sự thay
đổi trong biến phụ thuộc được giải thích trong mô hình thực nghiệm. Số liệu
thống kê kiểm tra phương sai thay đổi và tự tương quan cho thấy sự hiện diện
của chúng trong mô hình, vì vậy tác giả sử dụng phương pháp ước lượng
NeweyWest để tính sai số chuẩn HAC. Các hệ số của lệ thuộc chuyển giao có ý
nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%; một phần trăm gia tăng trong tỷ lệ chuyển
giao trung ương đến chi tiêu tỉnh thành làm giảm 0,164 % tỷ phần chi tiêu của
các cấp dưới tỉnh trong tổng chi tiêu. Nói cách khác, trung bình một tỉnh với
50,69% trong lệ thuộc chuyển giao sẽ giảm 8,31% trong phân cấp chi tiêu, một
mức giảm đáng kể 11,82% từ mức tỷ lệ trung bình 70,63%. Sự phát triển kinh
tế, hoặc GDP thực bình quân đầu người, có hệ số là 6,421, nhưng không có
ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Mật độ dân số có mức ý nghĩa thống kê ở mức
10%, và sự gia tăng 1% trong mật độ dân số sẽ làm giảm 0,320% biến phụ
thuộc. 1 % gia tăng trong tỷ lệ FDI trên GDP dẫn đến giảm 0,279 % biến phụ
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
16
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
thuộc, và hệ số có mức ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Tỷ lệ của thương mại trên
GDP có hệ số dương, nhưng nó không có ý nghĩa thống kê.
Trong mô hình 2, tác giả bổ sung thêm hai biến kiểm soát tỷ lệ số người làm
việc trong doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong tổng dân số và tỷ lệ sản lượng
công nghiệp thứ cấp trong tổng GDP. Việc đưa hai biến số bổ sung không làm
thay đổi đáng kể kết quả thực nghiệm của tác giả.
Trong các mô hình 3 và 4, biến phát triển kinh tế được xem như là biến nội
sinh, và kết quả cũng tương tự như trong các mô hình 1 và 2, không có sự thay
đổi đáng kể nào trong dấu của các hệ số cũng như mức ý nghĩa. So sánh các kết
quả trong mô hình 2 và 4, hệ số của phụ thuộc chuyển giao thay đổi từ 0,156
đến 0,169. Các hệ số mật độ dân số và tỷ lệ của FDI trên GDP lần lượt giảm
tương ứng từ 0,316 xuống 0,203 và từ 0,270 xuống 0,203. Các hệ số của các
biến khác không có ý nghĩa thống kê ở mức 10%.
Các mô hình tuyến tính trình bày bên trên không đảm bảo rằng các giá trị kỳ
vọng của biến phụ thuộc nằm trên khoảng đơn vị. Tác giả đã sử dụng ước
lượng gộp khả năng xảy ra cao nhất (pool QMLE) để ước tính hai mô hình
Probit phân đoạn; một mô hình (mô hình 5) giả định rằng tất cả các biến giải
thích là ngoại sinh chặt chẽ, và mô hình khác (mô hình 6) cho rằng biến phát
triển kinh tế là nội sinh. Trong cả hai mô hình, tác giả sử dụng 1.000 lần lặp
bootstrap để có được sai số chuẩn bootstrap, để xác định tổng quát phương sai
thay đổi và tự tương quan. Biến sự lệ thuộc chuyển giao đều có ý nghĩa thống
kê cao trong cả hai mô hình. Ước tính APE trong mô hình 5 là 0,158; trong mô
hình 6 là 0,159 trong mô hình 6, giống với mức độ ước lượng của mô hình hiệu
ứng cố định và mô hình 2SLS. Vì vậy, ba phương pháp ước lượng đều cho
thấy các kết quả phù hợp với nhau: sự phụ thuộc chuyển giao có tương quan
ngược chiều và có ý nghĩa thống kê trong tác động đến sự phân cấp tài khóa.
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
17
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
5. THẢO LUẬN
Nghiên cứu thực nghiệm của tác giả về sự thay đổi trong phân cấp chi tiêu
dưới tỉnh tạo ra các kết quả sau. Trước tiên, có một mối quan hệ ngược chiều
giữa sự phụ thuộc chuyển giao và phân cấp chi tiêu. Thứ hai, cả mật độ dân số
và tỷ lệ FDI trong GDP có tác động ngược chiều đáng kể lên sự phân cấp tài
khóa, mặc dù chúng mất đi ý nghĩa thống kê trong các mô hình probit phân đoạn.
Thứ ba, các hệ số ước lượng về phát triển kinh tế và độ mở thương mại không
có ý nghĩa thống kê. Mối quan hệ ngược chiều giữa sự phụ thuộc chuyển giao
và phân cấp chi tiêu cho thấy rằng từ chính quyền trung gian chính quyền cấp
tỉnh có thể "giữ lại" tài trợ từ trung ương cho lợi ích riêng. Bởi vì dùng để bù
đắp những chi phí của địa phương trong việc cung cấp các dịch vụ công và giảm
sự biến động trong ngân sách của địa phương, sự phụ thuộc chuyển giao càng
cao tương quan với sự phân cấp chi tiêu càng lớn ở Trung Quốc khi những điều
khác không đổi. Tuy nhiên trong thực tế thì ngược lại. Tác giả cho rằng nghịch
lý này cho thấy sự tồn tại của một bàn tay “giữ lại” của chính quyền trung gian
ở Trung Quốc. Tác giả nghi ngờ rằng, ở một số vùng, trợ cấp trung ương có thể
đã bị rò rỉ và chưa được sử dụng cho các mục đích như đã dự tính. Trung
Quốc không phải là nước duy nhất trong trường hợp này. Như đã đề cập trước
đây, Freinkman và Plekhanov (2009) tìm thấy một vấn đề tương tự với các chính
quyền trung gian do các cơ chế sự bóp méo tài khóa ở Nga, dựa trên dữ liệu giữa
cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000.
Chúng ta cần phải chú ý đến vai trò của chính quyền trung gian trong việc
thiết kế một hệ thống chuyển giao liên chính phủ hoạt động tốt. Nhiều nghiên
cứu trong lĩnh vực này trước đây điều tra các vấn đề của chính quyền chuyển
giao hoặc chính quyền nhận chuyển giao trong các chuyển giao liên chính phủ.
Tuy nhiên, vai trò của chính phủ trung gian trong tài trợ liên chính phủ (chảy qua
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
18
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
chính quyền đó nhưng không phải cho chính quyền này) nhận được sự chú ý rất
ít trong các tài liệu.
Trong mối liên kết theo cấp bậc của hệ thống quản lý (World Bank, 2007),
sự trợ cấp trung ương ở Trung Quốc đi qua chính quyền địa phương trước khi
nó đến được chính quyền cấp dưới. Vì vậy, có một rủi ro rằng các chính phủ
trung gian có thể giữ lại các chuyển giao liên chính phủ cho lợi ích riêng của các
chính quyền này. Nghiên cứu của tác giả cho thấy rằng, tương tự như một số
nước đang phát triển khác, ở các vùng phụ thuộc chuyển giao, chính quyền địa
phương ở Trung Quốc có xu hướng không phân cấp nguồn tài chính cho chính
quyền cơ sở mặc dù nhu cầu cuối cùng nguồn tài chính chủ yếu là dành cho các
dịch vụ công cộng.
Sự bóc lột của chính quyền địa phương ở Trung Quốc cũng đã được báo
cáo bởi các nghiên cứu khác. Dựa trên nghiên cứu thực nghiệm về cân đối tài
khóa ở Trung Quốc của MartinezVazquez, Qiao, và Zhang (2008) lưu ý rằng
chính phủ trung gian (chính quyền tỉnh) đóng một vai trò trong việc thu hẹp
khoảng cách khu vực về khía cạnh năng lực tài chính tại Trung Quốc. Zhang
(2009) cho thấy rằng chính quyền địa phương ở Trung Quốc giữ lại một số
khoản trợ cấp trung ương một cách không hợp lý và bóc lột chính quyền cơ sở.
Cán cân chính thức (Official accounts) cũng cho thấy vai trò bóc lột của chính
quyền tỉnh trong hệ thống liên chính phủ Trung Quốc. Văn phòng Kiểm
toán Quốc gia (2004) báo cáo rằng chỉ có 22,5% số tiền chuyển giao từ trung
ương thực sự đi vào ngân sách của tỉnh trong năm 2003 mặc dù tất cả các
chuyển giao từ chính quyền cao hơn phải được đưa vào ngân sách. Li Jinhua,
cựu Tổng Kiểm toán chính phủ trung ương của Trung Quốc trước đây đã từng
đề nghị một cách ẩn dụ đầy hấp dẫn cho hệ thống chuyển giao liên chính phủ
Trung Quốc, có lẽ là một lời giải thích cho điều này: “Các hệ thống chuyển giao
liên chính phủ ở Trung Quốc giống như một kênh rất dài
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
19
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
chạy từ trung ương đến chính quyền địa phương. Tuy nhiên Các kênh này bị rò
rỉ” (Wu, 2010, p. 159).
Tác giả cố gắng phán đoán những lý do đằng sau vai trò điều hành của
chính quyền cấp tỉnh. Tương tự như Nga và những nước đang phát triển khác,
trường hợp của Trung Quốc cho thấy sự phức tạp của trò chơi tài khóa. Sử dụng
các dữ liệu của Nga, Gimpelson và Treisman (2002) dẫn chứng trò chơi tài khóa
được sử dụng bởi chính quyền trung ương và địa phương trong đó việc làm công
và sự bảo trợ về chính trị là chìa khóa để hiểu về hệ thống chuyển giao liên
chính phủ bị bóp méo ở Nga. Mặt khác, chính quyền địa phương gia tăng việc
làm công vượt quá khả năng ngân sách của mình cho mục đích đòi hỏi chuyển
giao từ trung ương nhiều hơn. Ngoài ra, chính quyền trung ương thì sẵn lòng cứu
trợ cho một số chính quyền trên bờ vực cuộc đình công trong khu vực công có
liên quan đến việc chậm trễ thanh toán tiền lương khi các chính trị gia
ở Moscow biết đầy đủ về chi phí của cuộc đình công.
Trong trường hợp của Trung Quốc, phần lớn ngân sách đã được dùng để chi trả
việc làm trong khu vực công (Gong & Wu, 2012). Sự tập trung hóa chi tiêu trong
khu vực lệ thuộc chuyển giao trong bài nghiên cứu của tác giả có thể được giải
thích bởi sự gia tăng quan liêu ở cấp tỉnh. Tương tự như các nước đang phát
triển khác, khu vực lệ thuộc chuyển giao có thể dựa vào chuyển giao trung ương
để mở rộng số lượng công chức của họ trong khi chính quyền trung ương mua
chuộc các khu vực này vì sự ổn định chính trị thông qua việc chuyển giao đáng
kể từ trung ương. Tương tự như những gì xảy ra ở Nga, tình hình quản lý công
địa phương ở Trung Quốc có điều đáng ngờ vực.
6. KẾT LUẬN
Bài viết xem xét các yếu tố quyết định phân cấp tài khóa và đưa ra một bức
ảnh có tính động trong việc chuyển giao của trung ương ở Trung Quốc. Nghiên
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
20
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
cứu bổ sung những phát hiện của Freinkman và (2009) và Plekhanov về phân cấp
tài khóa mà những khu vực dựa nhiều vào chuyển giao của trung ương có xu
hướng có hệ thống tài chính tập trung hơn. Thay vì chỉ có báo cáo những kết
quả, tác giả đưa ra một lời giải thích dự kiến cho mối quan hệ âm giữa sự lệ
thuộc chuyển giao và phân cấp chi tiêu ở Trung Quốc. Đó là, một số chính phủ
trung gian có thể sử dụng chuyển giao trung ương để mở rộng việc làm công
phục vụ lợi ích riêng của họ. Bài nghiên cứu này cũng góp phần vào sự hiểu biết
của chúng ta về phân cấp tài khóa địa phương trong nền kinh tế đang phát triển.
Dựa trên dữ liệu ở mức độ cấp tỉnh, địa khu và huyện ở Trung Quốc đã tạo ra
một kết quả thực nghiệm giúp xác định yếu tố quyết định phân cấp chi tiêu của
Trung Quốc, cũng như cho các nước đang phát triển khác.
Nghiên cứu cho thấy rằng một cơ cấu tài khóa phù hợp với các chính quyền
địa phương là cần thiết. Quan trọng hơn, một sự giám sát chính quyền trung gian
hiệu quả là bắt buộc, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Trung Quốc.
Trong các nền dân chủ phương Tây, việc tăng cường lãnh đạo và sự liên kết
giữa các quản lý ở trung ương và địa phương có thể ngăn ngừa 1 cách hiệu quả
việc chính quyền khu vực bị bóc lột bởi chính quyền cấp cao hơn mặc dù một
số trường hợp ngoại lệ (Enikolopov & Zhuravskaya, 2007; Riker, 1964). Ngoài
ra, các tổ chức giám sát thích hợp ở nhiều nước (có nhiệm vụ độc lập) điều tiết
hệ thống liên chính phủ phải chứng tỏ chúng là công cụ trong việc bảo đảm cho
chính quyền địa phương chịu trách nhiệm trước người đứng đầu (Sato, 2007;
Shah, 2007). Ngược lại với thực tế ở các nước phương Tây, chính phủ Trung
quốc thực sự cố gắng sử dụng hệ thống đơn nhất của mình để làm cho các
thống đốc địa phương tuân theo những chỉ thị của trung ương (Huang, 1996). Hệ
thống quản lý công chức không phải lúc nào cũng hiệu quả khi mà chính quyền
địa phương trong thực tế thường tìm cách để phá vỡ sự kiểm soát từ trung ương.
Dựa trên nghiên cứu này, tác giả đề xuất một số biện pháp sơ bộ để hạn chế vai
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
21
GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành
trò áp đặt của các chính quyền trung gian và cải thiện hệ thống tài khóa liên
chính phủ ở Trung Quốc.
Đầu tiên, tính minh bạch trong hệ thống liên chính phủ phải được tăng
cường. Đây là điều quan trọng cho việc thành lập một hệ thống chuyển giao có
hiệu quả ở quốc gia. Chính quyền trung ương nên tiết lộ các thông tin về việc
chuyển giao tài chính cho công chúng. Giám sát cũng có thể được củng cố bằng
cách tận dụng các hội đồng cứng rắn để kiểm tra thật kỹ chính quyền trung
gian. Trong một nghiên cứu trách nhiệm công ở tỉnh Zhejiang Trung Quốc, Hsu
(2009) thấy rằng hội đồng địa phương có thể phát huy việc kiểm tra một cách
hiệu quả về hành vi ngân sách của chính phủ trong các lĩnh vực này. Tác giả cho
rằng thông qua việc trao quyền cho hội đồng địa phương thì cả tính minh bạch
và kỷ luật trong tài chính có thể được cải thiện trong một chừng mực nào đó.
Thứ hai, năng lực tài chính của chính quyền địa phương phải được nâng
cao. Ngân hàng Thế giới (2007) lập luận rằng " trong điều kiện căng thẳng tài
chính, sự cám dỗ ở các cấp cao hơn để “giữ lại” ngân khố quốc gia chắc chắn là
rất lớn "(tr. 42). Trong những năm gần đây, sự phát triển thần kỳ của nền kinh
tế Trung Quốc cũng khiến kho bạc tăng lên. Sự gia tăng năng lực tài chính của
chính quyền trung ương không chỉ ra được hiệu ứng thẩm thấu mạnh mẽ ở các
chính quyền cấp dưới ở Trung Quốc, đặc biệt là chính quyền huyện đang tích
cực đấu tranh để duy trì đủ ngân sách (Guo, 2008). Vì vậy nâng cao năng lực tài
chính ở cấp địa phương là bắt buộc ở Trung Quốc.
Thứ ba, vai trò của chính phủ nên thay đổi từ người cung cấp thành người
trao quyền. Thời kỳ dựa vào những nỗ lực của chính quyền trung ương để
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế đã biến mất dần. Chính quyền địa phương
phải đóng một vai trò chủ chốt trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế trên toàn
thế giới (Ebel & Yilmaz, 2003). Học thuyết quản trị công trong những năm gần
đây nhấn mạnh hơn về vai trò của chính phủ quốc gia trong việc trao quyền.
Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309
22