Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Giải quyết tranh chấp về hai quần đảo hoàng sa và trường sa trước tòa án công lý quốc tế của liên hiệp quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.21 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HUỆ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HAI QUẦN ĐẢO
HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TRƯỚC TÒA ÁN
CÔNG LÝ QUỐC TẾ CỦA LIÊN HIỆP QUỐC

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HUỆ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HAI QUẦN ĐẢO
HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TRƯỚC TÒA ÁN
CÔNG LÝ QUỐC TẾ CỦA LIÊN HIỆP QUỐC

Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số
: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TSKH NGUYỄN BÁ DIẾN


Hà Nội – 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU...........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài. ......................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu:............................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: ......................................... 3
4. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu của đề tài: ............................. 3
5. Những đóng góp của Luận văn: .............................................................. 4
6. Kết cấu của luận văn: ............................................................................. 4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TRANH CHẤP HAI QUẦN ĐẢO
HOÀNG SA, TRƯỜNG SA VÀ TÒA ÁN CÔNG LÝ QUỐC TẾ ........................ 5
1.1. Vị trí, vai trò của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa....................... 5

1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ..................................................... 5
1.1.2. Vai trò......................................................................................... 10
1.2. Tổng quan về tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ............ 13
1.2.1. Quần đảo Hoàng Sa .................................................................... 13
1.2.2. Quần đảo Trường Sa ................................................................... 15
1.3. Tổng quan về Tòa án Công lý Quốc tế ............................................... 17
1.3.1. Lịch sử hình thành ...................................................................... 17
1.3.3. Thẩm quyền của Tòa................................................................... 24
CHƯƠNG 2. TÒA ÁN CÔNG LÝ QUỐC TẾ VÀ VIỆC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA ................. 29
2.1. Yêu sách của các bên tranh chấp ....................................................... 29
2.1.1 Yêu sách của Trung Quốc ............................................................ 29
2.1.2. Yêu sách của Đài Loan ............................................................... 37
2.1.3 Yêu sách của Phillippines ............................................................ 39
2.1.4. Yêu sách của Malaysia ............................................................... 41
2.1.5. Yêu sách của Brunei ................................................................... 42
2.2. Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ... 43


2.2.1. Hoạt động xác lập chủ quyền của nhà nước quân chủ Việt Nam...... 43
2.2.2. Khẳng định chủ quyền dưới thời Pháp thuộc .............................. 49
2.2.3. Khẳng định chủ quyền từ năm 1945 đến năm 1954..................... 52
2.2.4 Khẳng định chủ quyền giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975 ...... 54
2.2.5. Khẳng định chủ quyền giai đoạn từ năm 1975 đến nay ............... 56
2.3. Trình tự thủ tục khi giải quyết tranh chấp tại Tòa án Công lý Quốc tế ..... 58
2.3.1. Thủ tục tranh chấp ...................................................................... 58
2.3.1.2. Nộp đơn kiện ........................................................................... 59
2.3.2. Thủ tục kết luận tư vấn ............................................................... 69
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP CỦA VIỆT NAM KHI GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TRƯỚC TÒA ÁN CÔNG LÝ

QUỐC TẾ .................................................................................................................70
3.1. Tổng quan về các phương thức giải quyết tranh chấp biển đảo .......... 70
3.2. Điều kiện tiên quyết cho việc giải quyết tranh chấp Hoàng Sa,
Trường Sa bằng Tòa án Công lý Quốc tế .................................................. 73
3.3. Thuận lợi và thách thức đối với Việt Nam trong việc đưa vụ tranh
chấp Hoàng Sa và Trường Sa ra trước Tòa án Công lý Quốc tế. ............... 75
3.3.1 Thách thức. .................................................................................. 75
3.3.2. Thuận lợi .................................................................................... 78
3.4. Các giải pháp ..................................................................................... 80
3.4.1. Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện ............................................................ 80
3.4.2. Đào tạo chuyên gia nghiên cứu về biển đảo .............................. 103
3.4.3. Đấu tranh chính trị, ngoại giao .................................................. 106
3.4.4. Tuyên truyền, giáo dục ý thức chủ quyền biển đảo ................... 108
3.4.5. Tăng cường tiềm lực kinh tế, an ninh quốc phòng..................... 110
3.4.6. Tăng cường hợp tác quốc tế ...................................................... 111
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 113
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 114


LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Biển và đảo Việt Nam nằm ở khoảng giao điểm của các luồng đường, luồng
hàng từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc, có nhiều thuận lợi cho giao thương, cho
tiếp xúc, hội nhập về kinh tế, về văn hóa, nhất là trong cách mạng thương
nghiệp, cách mạng công nghiệp, thời đại mà chủ nghĩa tư bản phương Tây đang
tìm đường bành trướng sang phương Đông.
Thế nhưng, biển và đảo trong hoàn cảnh đổi thay của thế giới, lại trở thành
mối nguy hiểm thường xuyên cho đất nước trước nguy cơ xâm lược và thôn tính
của kẻ thù cả ở phương Đông và phương Tây, ở cả phía Nam và phía Bắc. Trong

bối cảnh lịch sử đó, việc tiến ra Biển Đông, không chỉ là nhu cầu phát triển của
đất nước, mở mang kinh tế, giao lưu văn hóa, mà còn là bảo vệ nền độc lập dân
tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.
Trước nguy cơ nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày càng cạn kiệt, các
quốc gia đang từng bước dịch chuyển, tăng cường hướng quan tâm của mình ra
biển và đại dương. Xu thế tiến ra biển, chiếm lĩnh và khống chế biển, sử dụng và
khai thác biển đang trở thành xu thế chung của cả nhân loại. Khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương và khu vực Biển Đông cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Mặc khác, phân tích trên khía cạnh lợi ích nhiều mặt có thể đạt được từ việc làm
chủ được hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bất kỳ quốc gia nào ven bờ Biển
Đông đều mong muốn thiết lập được chủ quyền của mình trên hai quần đảo này.
Từ những lý do nêu trên, trong vùng Biển Đông đã và đang tồn tại những
tranh chấp về chủ quyền rất phức tạp và kéo dài. Tình hình tranh chấp này không
chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh, quốc phòng, sự phát triển của Việt Nam mà
còn ảnh hưởng đến cả hòa bình, ổn định và phát triển của toàn khu vực.
Vấn đề tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa hiện nay đang là vấn đề nóng, nhạy cảm đối với Việt Nam và khu vực. Yêu
cầu chứng minh và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo

1


này là phù hợp với thực tế lịch sử và luật pháp quốc tế đã và đang được đặt ra hết
sức cấp thiết. Với tất cả các tài liệu liên hệ về lịch sử, địa lý, tài nguyên...thuộc
chủ quyền của nhà nước Việt Nam trên hai quần đảo đó đã chứng minh được tính
pháp lý về chủ quyền của nhà nước Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Thế
nhưng, hiện nay vẫn có một số thế lực tìm mọi cách xuyên tạc sự thật những chứng
cứ do lịch sử để lại để vi phạm chủ quyền trên hai quần đảo này của Việt Nam.
Mặc dù vấn đề này đã được Việt Nam và các quốc gia hữu quan, quan tâm
giải quyết, song do quan điểm, lập trường của các bên còn khác nhau quá xa nên

việc đưa ra được những phương hướng, giải pháp thích hợp và được các bên hữu
quan cùng chấp thuận luôn gặp rất nhiều khó khăn. Tranh chấp chủ quyền đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tiếp tục tồn tại và nguy cơ xung đột
tiềm tàng xuất phát từ những tranh chấp này có thể gây những ảnh hưởng xấu
đến hòa bình, ổn định trong khu vực.
2. Tình hình nghiên cứu:
Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đã và đang trở thành một vần đề hết
sức nóng bỏng, có liên quan đến nhiều nước và thu hút được sự quan tâm của
nhiều quốc gia, nhiều học giả, giới nghiên cứu trên toàn thế giới.
Hàng loạt các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, nhà sử học
trong và ngoài nước đã được ấn hành xuất bản có liên quan đến hai quần đảo
này. Trong đó có nhiều công trình nghiên cứu của các học giả uy tín nổi tiếng thế
giới, đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này cả về
phương diện lịch sử và luật pháp quốc tế. Đã có một số công trình nghiên cứu
tiêu biểu, đó là: “Cuộc tranh chấp Việt – Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa” của tác giả Lưu Văn Lợi, NXB Công an nhân dân Hà Nội, năm 1995;
Luận án Phó tiến sỹ Luật học của tác giả Hoàng Trọng Lập về “Tranh chấp hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa và luật pháp quốc tế” năm 1996…Các tác giả nước
ngoài cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này như: “Cuộc tranh chấp
quần đảo Trường Sa – Ai là chủ sở hữu đầu tiên” của tác giả Daniel J.Drurek, năm

2


1996; “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” của tác giả Monique
Chemiilier – Grendreau năm 1997…
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trong nước chỉ đưa ra những giải pháp
chung chung cho Việt Nam khi giải quyết tranh chấp hai quần đảo. Chưa có tài
liệu nào đi sâu, nghiên cứu tìm giải pháp cho Việt Nam khi đưa vụ kiện ra cơ quan
tài phán quốc tế. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài cũng chỉ mang tính

tham khảo, khuyến cáo Việt Nam nên giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa
bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
- Trình bày, phân tích và đánh giá các bằng chứng lịch sử để từ đó chứng
minh quá trình xác lập và thực hiện chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa là phù hợp với thực tế lịch sử cũng như luật pháp quốc tế.
- Tìm hiểu về lịch sử hình thành, thành phần và cơ cấu tổ chức, thẩm quyền
xét xử, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp của Tòa án Công lý Quốc tế, từ đó
xác định hướng đi cho Việt Nam khi khởi kiện đòi lại Hoàng Sa, Trường Sa.
- Đề xuất các phương hướng và lộ trình khi Việt Nam khởi kiện các nước
liên quan tại Tòa án Công lý Quốc tế để giải quyết tranh chấp đối với quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa.
4. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu của đề tài:
Cơ sở lý luận của đề tài là quan điểm, lập trường chính thức của Nhà nước
Việt Nam về chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa.
Dựa trên cơ sở lý luận, các căn cứ pháp lý về xác lập chủ quyền lãnh thổ trong
những quy định của luật pháp và thực tiễn quốc tế.
Để giải quyết đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau đây:
Phương pháp luận sử học
Phương pháp logic học
Phương pháp so sánh, đánh giá, phân tích, tổng hợp và thống kê từ nhiều
nguồn tư liệu khác nhau.

3


Cùng với các phương pháp trên thì tôi đã dựa và quan điểm sử học Macxit
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng để tôi tìm hiểu nghiên cứu vấn
đề này.

5. Những đóng góp của Luận văn:
- Đưa ra những căn cứ pháp lý, chứng cứ lịch sử khẳng định chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Phân tích những thuận lợi khó khăn, đưa ra giải pháp về việc chuẩn bị
khởi kiện và khởi kiện những bên liên quan trong tranh chấp hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa đối Việt Nam tại Tòa án Công lý Quốc tế.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn được cơ cấu thành 03 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa và Tòa án Công lý Quốc tế
Chương 2: Tòa án Công lý Quốc tế và việc giải quyết tranh chấp hai
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Chương 3: Giải pháp của Việt Nam khi giải quyết tranh chấp Hoàng
Sa và Trường Sa trước Tòa án Công lý Quốc tế

4


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TRANH CHẤP HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA,
TRƯỜNG SA VÀ TÒA ÁN CÔNG LÝ QUỐC TẾ
1.1. Vị trí, vai trò của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Trước đây, người Việt và người phương Tây đều tưởng ở giữa biển Đông
chỉ có một quần đảo dài, người Việt gọi là Bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng hoặc
Hoàng Sa, hoặc có khi gọi là Đại Trường Sa hay Vạn Lý Trường Sa.
Người Bồ Đào Nha, Hà Lan gọi quần đảo là Parcel hay Pracel, có nghĩa là
đá ngầm - ám tiêu. Người Pháp, Anh gọi là Paracel vào thế kỷ XVII, XVIII trên
các bản đồ hàng hải. Mãi đến năm 1787-1788, khi đoàn khảo sát Kergariou

Locmaria xác định rõ ràng và chính xác vị trí của quần đảo Paracel như hiện nay,
người phương Tây mới bắt đầu phân biệt quần đảo Paracel ở phía Bắc với quần
đảo ở phía Nam mà sau này đến thập niên 40 trong thế kỷ XX người Pháp mới
gọi là Spratly chỉ chung cho quần đảo Trường Sa.
1.1.1.1. Quần đảo Hoàng Sa
Quần đảo Hoàng Sa nằm ngang bờ biển các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên,
Quảng Nam và một phần Quảng Ngãi. Quần đảo Hoàng Sa nằm trong khoảng
15045 đến 17015 bắc; 1110 đến 1130 đông, án ngữ cửa vịnh Bắc bộ, cách đảo Lý
Sơn (Cù Lao Ré) – Quảng Ngãi hơn 120 hải lý (1 hải lý = 1,853 km), cách đảo
Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 140 hải lý. Trong khoảng 30 đảo, đá, bãi, cồn, hòn,
hiện có 23 đã được đặt tên, gồm 15 đảo, 3 bãi, 3 đá, 1 cồn, 1 hòn. Các đảo chính
gồm hai nhóm:
-

Nhóm Lưỡi Liềm ở Tây Nam

-

Nhóm An Vĩnh ở Đông Bắc

a. Nhóm Lưỡi Liềm
Nhóm Lưỡi Liềm còn gọi là Trăng Khuyết hay Nguyệt Thiềm. Nhóm này
có 5 đảo chính và vô số các mỏm đá nhỏ khác:

5


Đảo Hoàng Sa: Tuy là đảo chính nhưng không phải là đảo lớn nhất, có vị
trí quân sự quan trọng nhất cho việc phòng thủ bờ biển Việt Nam, hơn cả đảo
Phú Lâm. Đảo nằm trên tọa độ 16032’ vĩ B, 111035’ kinh Đ, hình bầu dục, dài

khoảng hơn 900m, rộng khoảng 700m, diện tích gồm cả vòng san hô bao quanh.
Đảo Hữu Nhật nằm ở phía nam đảo Hoàng Sa cách độ 3 hải lý, đường kính
800m, chu vi 2000m, diện tích khoảng 0,32 km2, có vòng đai san hô bao ngoài, giữa
là vùng biển lặng. Nằm ở tọa độ 111034’ kinh Đ, 16030’ vĩ B. Chung quanh đảo cây
cối um tùm, biển quanh đảo có nhiều dong biển, phủ kín cả mặt nước.
Đảo Duy Mộng nằm ở đông nam đảo Hữu Nhật, phía Đông Bắc là đảo
Quang Hòa nằm trên tọa độ 111044’kinh Đ, 16028’ vĩ B, cũng do san hô cấu tạo
thành, bãi san hô ra xa đảo, nhô lên khỏi mặt nước khoảng 4m [11,tr.8]. Đảo
hình bầu dục, diện tích khoảng 0,41km2 (41ha). Giữa đảo là vùng đất trống, có
thể định cư được. Đảo có một con lạch nhỏ, có thể dùng ghe đi vào trong nội địa.
Tàu có thể neo cách đảo 200m.
Đảo Quang Hòa nằm trên tọa độ 111042’ kinh Đ, 16026’ vĩ B cũng do san
hô tạo thành, là đảo lớn nhất trong nhóm đảo Lưỡi Liềm, chung quanh đảo là bãi
cát màu vàng. Vòng san hô lan ra rất xa khỏi bìa đảo. Cạnh đảo lớn có những
hòn đảo nhỏ nối liền nhau bằng bãi cát dài. Một vài bản đồ địa chất ghi Quang
Hòa thành hai đảo Quang Hòa Đông và Quang Hòa Tây.
- Quang Hòa Đông có rừng cây nhàu, một loại cây dùng để làm thuốc thường
thấy nhiều ở vùng Nam Bộ Việt Nam và cây phosphorite mọc ở phía Tây của đảo,
nhiều cây cao tới 5m. Phía đông là những mảnh vụn san hô với đá, có một khu đất
chỉ có dây leo bò sát mặt đất. Chu vi đảo 2.700m, diện tích khoảng 0,48km2.
- Quang Hòa Tây là một đảo nhỏ, gần hình tròn, chu vi 1000m chỉ bằng
1/10 Đảo Quang Hòa Đông, khoảng 0,09km2, cũng có những loại cây như ở đảo
Quang Hòa Đông nhưng chỉ cao hơn 3m.
Đảo Quang Ảnh nằm trên tọa độ 111036’ kinh Đ, 160027’ vĩ B do san hô tạo
thành, nhô lên mặt nước độ 6m, nơi cao nhất trong nhóm đảo Lưỡi Liềm. Chung
quang đảo, bờ biển có nhiều đá ngầm sắc nhọn rất nguy hiểm, tàu lớn không thể

6



cặp neo được. Các tàu lớn phải neo ở ngoài khơi, muốn vào được phải neo thuyền
nhỏ. Vì địa thế hiểm trở và trên đảo không có nước ngọt nên trên đảo ít vết chân
người lui tới.
Đảo mang tên Phạm Quang Ảnh, một đội trưởng Hoàng Sa được vua Gia
Long sai đo đạc thủy trình ở Trường Sa năm 1815, hiện có hậu duệ và nhà thờ họ
ở Cù Lao Ré. Đảo hình bầu dục, hơi tròn, diện tích khoảng 3ha [theo 11].
Nhóm đảo Lưỡi Liềm ngoài 5 đảo trên còn có 4 đảo nhỏ như đảo Ba Ba,
đảo Xà Cừ và các đá như Hải Sâm, đá Lồi, đá Chim Yến, đá Bạch Quy.
b. Nhóm An Vĩnh
Nhóm đảo An Vĩnh bao gồm các đảo tương đối lớn và cao nhất thuộc quần
đảo Hoàng Sa, cũng là các đảo san hô lớn nhất của Biển Đông. Đảo lớn nhất là
đảo Phú Lâm.
Đảo Phú Lâm nằm trên tọa độ 112020’ kinh Đ, 16050’ vĩ B, là đảo lớn nhất
trong quần đảo, bề dài 3.700m, bề rộng 2.800m. Đảo có nhiều cây cối tươi tốt
nên mang tên Phú Lâm. Đây là đảo quan trọng nhất của nhóm đảo An Vĩnh và
quần đảo Hoàng Sa, là đảo duy nhất từ xa có thể nhìn thấy được.
Ngoài đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm, nhóm An Vĩnh còn có nhiều các đảo,
bãi khác như: Đảo Bắc (North Island), Đảo Nam (South Island); Đảo giữa
(Midle Island); Đảo Đá (Rocky Island); Cồn Cát Tây (West Sand) [11,tr.10].
c. Nhóm Linh Côn
Nằm về phía cực Đông của quần đảo Hoàng Sa. Đảo nằm vào kinh độ
112044’ kinh Đ, 16040’ vĩ B. Các đảo thuộc nhóm này chỉ là những mỏm san hô
nhấp nhô trên mặt nước biển. Lớn nhất là đảo Linh Côn, diện tích khoảng
1,62km2. Vùng san hô bao quanh kéo dài về phía Nam tới 15 hải lý. Phía Tây
nhóm đảo Linh Côn còn có Đá Tháp. Phía Nam, Tây Nam còn có bãi Quảng
Nghĩa, bãi Tân Mê, Châu Nhai, Bồng Bay, Ốc Tai Voi, La Mác. Ngoài ra ở cực
Nam còn có đảo Tri Tôn [theo 11]. Đây là hòn đảo đơn độc ít người lui tới nhưng
rất nhiều hải sản, san hô đủ màu.

7



1.1.1.2. Quần đảo Trường Sa
Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa tính đến đảo gần nhất là
khoảng 350 hải lý, đảo xa nhất là khoảng 500 hải lý, cách Vũng Tàu 305 và cách
Cam Ranh 250 hải lý, cách đảo Phú Quốc 240 hải lý, cách Bình Thuận (Phan
Thiết) 270 hải lý. Quần đảo trải dài từ 6o2’ đến 120 vĩ bắc, 111030’ đến 117030’
đông, trong vùng biển chiếm khoảng 160.000 đến 180.000 km2. Biển rộng nhưng
diện tích các đảo, đá, bãi nổi trên mặt nước lại rất ít, tổng cộng chỉ khoảng 11km2.
Quần đảo Trường Sa bao gồm 137 đảo, đá, bãi, không kể 5 bãi ngầm thuộc
thềm lục địa Việt Nam (gồm bãi Phúc Trần, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc
Nguyên, Tứ Chính). Căn cứ vào hải đồ vẽ năm 1979 của Cục Bản đồ Quân sự Bộ
Tổng Tham Mưu (Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam), quần đảo Trường Sa
có thể chia ra làm chín cụm chính kể từ bắc xuống nam:
a. Cụm Song Tử: gồm 2 đảo, 2 đá, 2 bãi nổi
Song Tử Đông (11025’ vĩ bắc, 114020’ kinh đông), Song Tử Tây (11025’ vĩ
B, 1140 kinh Đ). Hai hòn đảo này như sinh đôi nằm ở cực bắc của quần đảo
Trường Sa, ngang vĩ độ với Phan Rang (Ninh Thuận). Trên đảo có những cây cao
trung bình, nhiều phân chim có thể chế biến thành phân bón. Vòng quanh hai đảo
này, về phía Đông và Nam chừng năm hải lý có nhiều mỏm đá ngầm, rong biển
mọc nhiều ở đây.
- Song Tử Đông có hình dạng hơi tròn, diện tích 0,225km2, dài 900m, rộng
250m, cao độ 3m, có nhiều bãi cát và san hô xung quanh, nhiều cây cối. Năm
1963, Việt Nam Cộng Hòa có dựng một bia chủ quyền. Philippines cho quân
chiếm đóng từ năm 1968.
- Song Tử Tây có hình lưỡi liềm, diện tích nhỏ hơn Song Tử Đông, dài
700m, rộng 300m, có nước ngọt, có một vườn dừa và nhiều cây nhỏ. Có tháp
rada thời Việt Nam Cộng Hòa. Hiện Quân đội nhân dân Việt Nam đang trấn giữ
cả hòn đảo.
b. Cụm đảo Thị Tứ nằm ở phía nam cụm Song Tử, gồm đảo Thị Tứ và

các bãi đá.

8


Đảo Thị Tứ (11002’ vĩ B, 114017 kinh Đ). Đảo nằm ở phía Đông Bắc của
đảo Trường Sa (Spratley) do san hô tạo thành lẫn với cát trắng và đá vôi. Đảo
hình bầu dục, bề ngang 550m, dài 700m. Phía Bắc Đảo Thị Tứ gồm Đá Hoài An,
đá Tri Lễ, đá Vĩnh Hảo, đá Cái Vung. Phía nam đảo Thị Tứ là đá Xu Bi, cách đảo
Thị Tứ chừng 14 hải lý. Đảo này đã bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1988.
c. Cụm Loại Ta nằm ở phía Đông cụm Thị Tứ gồm đảo Loại Ta phía dưới
và cồn San Hô Lancan hay An Nhơ ở phía Đông. Phía Bắc là cụm đảo Loại Ta.
Đảo hình tròn, đường kính 300m, cao chừng 2m, có nhiều cây lớn mọc quanh
đảo. Cụm còn có đá An Lão, bãi Đường, bãi An Nhơn Bắc (đá cuội), bãi Lọai Ta
Bắc, bãi Lọai Ta Nam. Phía Đông cụm Loại Ta có đảo Dừa và đá Cá Nhám.
d. Cụm đảo Nam Yết hay còn gọi là đảo TiGia nằm ở phía Nam cụm
Loại Ta, nằm kết một vòng san hô Tizart Bank, gồm đảo Nam Yết, đảo Sơn Ca,
cùng bãi Bàn Than, đá Núi Thị, đá Én Đất, đá Lạc, đá Gaven, đá Lớn, đá Nhỏ,
đá Đền Cây Cỏ. Cụm này có đảo rộng nhất của Trường Sa là Ba Bình và cao
nhất là đảo Nam Yết.
- Đảo Nam Yết là đảo lớn thứ hai sau Ba Bình, song là hòn đảo cao nhất của
quần đảo, ở phía Nam của cụm, hình chữ C, dài khoảng 700m, rộng 250m cao 4,7m.
- Đảo Sơn Ca có hình giống chữ C, dài 391m, rộng 156m, cao 3m (so với
mực nước trung bình). Trước năm 1975 đều có quân đội Việt Nam Cộng Hòa
chiếm đóng và sau đó được Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp quản.
- Đảo Ba Bình được xem là đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa, thấp
hơn Nam Yết một chút; theo niên giám Đài Loan 1993, đảo dài 1360m, rộng
khoảng 350m, diện tích 489.600m2 (gần 50 ha), độ cao chừng 4m.
Phía Tây Nam cụm Nam Yết có đá Chữ Thập. Đá chữ Thập là chỗ cao nhất
của một bãi cạn dài 25km, rộng tối đa 6 km, bị quân Trung Quốc chiếm đóng,

biến nơi đây thành cơ sở quân sự quan trọng.
e. Cụm đảo Sinh Tồn nằm ở phía Nam quần đảo Nam Yết. Gồm có đảo
Sinh Tồn và các đá: đá Sinh Tồn Đông, Nhạn Gia, Bình Khê, Ken Nan, Tư

9


Nghĩa, Bãi Khung, Đức Hòa, Ba Đầu, An Bình, Bia, Văn Nguyên, Phúc Sỹ, Len
Đao, Gạc Ma, Cô Lin, Nghĩa Hành, Tam Trung, Sơn Hà.
f. Cụm đảo Trường Sa nằm ở phía nam và phía Tây Nam của cụm Sinh
Tồn, trải dài theo chiều ngang, gồm có 3 đảo, các đá, bãi: Đá Lát, Đảo Trường
Sa, Bãi Đá Tây, Đá Đông, Đá Châu Viên, Đá Tốc Khan, Đá Núi Le, Đá Tiên Nữ.
Cụm đảo Trường Sa nằm phía Đông, kế cận các bãi, đá thuộc thềm lục địa Việt
Nam như Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Nguyên, Tư Chính. Đảo lớn
nhất là đảo Trường Sa, có dạng hình tam giác cân mà đáy hơi chệch về phía Bắc.
Đáy dài 350m, hai cạnh kia, mỗi cạnh dài 450m, cao độ ở phía Bắc là 3,5m ở
phía Nam là 2,1m so với mặt nước lúc nước ròng [11,tr.19]. Ngoài ra còn có đảo
Trường Sa Đông, Đảo Phan Vinh.
g. Cụm đảo An Bang nằm ở phía Nam cụm đảo Trường Sa (Spratley) gồm
có một đảo và các bãi, đá: Đá Ba Kè, Bãi Đất, Bãi Đinh, Bãi Vũng Mây, Bãi
Thuyền Chài, Đá Hà Tần, Đá Tân Châu Đá Lục Giang, Đa Long Hải, Bãi Trăng,
Đá Công Đo, Đá Kỳ Vân, Bãi Kiệu Ngựa, Đá Hoa Lau, Đá Sắc Lôt, Đá Louisa.
Đảo duy nhất là đảo An Bang nhỏ và dài, chỉ rộng 20m so với mặt nước lúc
nước ròng.
h. Cụm đảo Bình Nguyên nằm ở phía đông gồm đảo Bình Nguyên và đảo
Vĩnh Viễn. Đảo Vĩnh Viễn dài 580m, cao khoảng 2m, Đảo Bình Nguyên thấp
hơn, rất hẹp. Phía Nam gần đảo Vĩnh Viễn có Đá Hoa, Đá Đin, Đá Hàn Sơn, Đá
Pét, Cồn san hô Giắc- xôn. Về phía Nam, xa hơn nữa có đá Vành Khăn, Bãi Cỏ
Mây, Bãi Cạn Suối Ngà, Đá Bốc Xan, Bãi Cạn Sa Bin. Phía Đông cụm đảo
Bình Nguyên là cụm đảo Vĩnh Viễn có đá Hợp Kim, Bãi Mỏ Vịt, Đá Ba Cờ, Đá

Khúc Giac, Đa Bá, Đá giò Gà và các bãi cạn: Nam, Nâu, Rạch Vang, Rạch Lấp,
Na Khoai.
1.1.2. Vai trò
1.1.2.1. Tiềm năng phát triển kinh tế
Biển Đông có diện tích khoảng 3,5 triệu km vuông, trải rộng từ vĩ độ 30 lên
đến vĩ độ 260 Bắc và từ kinh độ 1000 đến 1210 Đông. Ngoài Việt Nam, Biển Đông

10


được bao bọc bởi tám nước khác là Trung Quốc, Philippin, Indonesia, Bruney,
Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia. Biển Đông còn là nơi chứa đựng
nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế
của các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật (thuỷ sản), khoáng
sản (dầu khí), du lịch và là khu vực đang chịu sức ép lớn về bảo vệ môi trường
sinh thái biển.
Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế
giới. Các khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Bruney
- Saba, Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn Sơn, Mê Công, Sông Hồng, cửa
sông Châu Giang. Hiện nay, hầu hết các nước trong khu vực đều là những nước
khai thác và sản xuất dầu khí từ biển như Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia,
Brunei, Indonesia, Thái Lan… trong đó Indonesia là thành viên của OPEC.
Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có
triển vọng dầu khí, trong đó các bể trầm tích Cửu Long và Nam Côn Sơn được
đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất, điều kiện khai thác tương đối thuận lợi.
Tổng trữ lượng dự báo địa chất về dầu khí của toàn thềm lục địa Việt Nam đạt
xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu qui đổi, trữ lượng khai thác khoảng 02 tỷ tấn và trữ lượng dự
báo của khí khoảng 1.000 tỷ mét khối. Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại
chưa khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền
Trung, khu vực thềm lục địa Tư Chính. Trữ lượng và sản lượng dầu khí của Việt

Nam đứng vào hạng trung bình trong khu vực, tương đương Thái Lan và
Malaysia. Chính tiềm năng dầu khí chưa được khai thác được coi là một nhân tố
quan trọng làm tăng thêm các yêu sách chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa và các vùng biển quanh hai quần đảo.
Ngoài ra, khu vực vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa còn chứa đựng tài
nguyên khí đốt đóng băng, trữ lượng loại tài nguyên này trên thế giới ngang
bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng thay thế dầu
khí trong tương lai gần.

11


Tài nguyên sinh vật biển ở Biển Đông vô cùng phong phú, hải sản ở khu
vực này mang lại nhiều hứa hẹn. Tổng sản lượng hải sản đánh bắt ở khu vực này
đã chiếm một phần không nhỏ trong sản lượng của toàn thế giới. Trữ lượng hải
sản đánh bắt khoảng 3 – 3,5 triệu tấn, cơ cấu hải sản rất phong phú, có giá trị
kinh tế cao có thể khai thác được hàng năm. Theo số liệu thống kê mới nhất, hiện
nay trong vùng Biển Đông đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú
trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình. Trong đó có khoảng 6.000 loài động vật
đáy, 2.038 loài cá, trên 100 loài cá kinh tế, hơn 300 loài san hô cứng, 653 loài
rong biển, 657 loài động vật phù du, 537 loài thực vật phù du, 94 loài thực vật
ngập mặn, 225 loài tôm biển, 14 loài cỏ biển, 15 loài rắn biển, 12 loài thú biển
và 5 loài rùa biển.
1.1.2.2. Về an ninh quốc phòng
Đối với Việt Nam, Biển Đông nói chung và quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa nói riêng đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc cả trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Đặc điểm lãnh thổ đất liền nước ta có
hình chữ S, trải dài ven biển từ Bắc vào Nam, chiều ngang hẹp, nên chiều sâu đất
nước bị hạn chế. Hầu hết các trung tâm chính trị, kinh tế xã hội của ta đều nằm
trong phạm vi cách bờ biển không lớn, nên rất dễ bị địch tấn công từ hướng biển.

Nếu chiến tranh xảy ra thì mọi mục tiêu trên đất liền đều nằm trong tầm hoạt
động, bắn phá của vũ khí trang bị công nghệ cao xuất phát từ hướng biển. Lịch
sử dân tộc đã ghi nhận có tới 2/3 cuộc chiến tranh, kẻ thù đã sử dụng đường biển
để tấn công xâm lược nước ta. Những chiến công hiển hách trên chiến trường
sông biển đã minh chứng: Ba lần đại thắng quân thù trên sông Bạch Đằng (năm
938, 981 và 1288); chiến thắng trên phòng tuyến sông Như Nguyệt 1077; chiến
thắng Rạch Gầm - Xoài Mút năm 1785 và những chiến công vang dội của quân
và dân ta trên chiến trường sông biển trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ.
Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái
Bình Dương - Ấn Độ Dương, Châu Âu - Châu Á, Trung Đông - Châu Á. Nằm ở
trung tâm Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những

12


khu vực có nhiều tuyến đường biển nhất trên thế giới. Trong thời đại khoa học
kỹ thuật quân sự phát triển như hiện nay, vị trí chiến lược của hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa còn có thể được sử dụng để kiểm soát các tuyến đường
biển tại Biển Đông và dùng cho các mục đích quân sự như: đặt rạm rađa, trạm
thông tin, xây dựng các trạm dừng chân, các trạm tiếp nhiên liệu cho tàu bè, xây
dựng sân bay. Các nhà chiến lược phương Tây cho rằng quốc gia nào kiểm soát
được quần đảo Trường Sa sẽ khống chế được cả Biển Đông và kiểm soát được
toàn bộ bờ biển Việt Nam. Việc chiếm hữu được hai quần đảo không những kiểm
soát được toàn bộ tuyến đường ra vào Vịnh Bắc Bộ mà còn phong tỏa toàn bộ
tuyến giao thông đường bộ, đường sắt huyết mạch nối liền Nam – Bắc của Việt
Nam do các tuyến giao thông này đều nằm sát bờ biển. Mặt khác, từ hai quần đảo
này còn có thể làm bàn đạp cho không quân và hải quân tấn công vào đất liền.
Như vậy, có thể thấy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, biển đảo
Việt Nam nói chung, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nói riêng có vai trò đặc

biệt quan trọng, làm tăng chiều sâu phòng thủ đất nước.
1.2. Tổng quan về tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
1.2.1. Quần đảo Hoàng Sa
Việt Nam xác lập và thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng
Sa (bãi Cát Vàng) từ thế kỷ XVII. Cho đến cuối thế kỷ XIX, chủ quyền của Việt
Nam đối với quần đảo Hoàng Sa không hề gặp bất kỳ một sự phản đối từ bất kỳ
quốc gia nào trong khu vực.
- Ngày 6/6/1909, Phó vương Tổng đốc Lưỡng Quảng (gồm 2 tỉnh của
Trung Quốc là Quảng Đông và Quảng Tây) đã phái hai pháo thuyền nhỏ do Đô
đốc Lý Chuẩn chỉ huy, tiến hành một cuộc đổ bộ chớp nhoáng lên vài đảo của
quần đảo Hoàng Sa.
- Năm 1950, khi quân Trung Hoa Dân Quốc đã rút khỏi Hoàng Sa, Trường
Sa và hòa ước San Francisco buộc Nhật từ bỏ sự chiếm đóng hai quần đảo này,
thì thủ tướng kiêm ngoại trưởng Trần Văn Hữu của chính phủ Bảo Đại đã tuyên
bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam. Sau năm

13


1950, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không còn quân nước ngoài chiếm
đóng ngoài lực lượng trú phòng Việt Nam của chính quyền Bảo Đại.
Hiệp định Genève ký kết năm 1954 chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương,
công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất của nước Việt
Nam. Điều 1 qui định đường ranh tạm thời về quân sự được ấn định bởi sông
Bến Hải (ở vĩ tuyến 17). Đường ranh tạm thời này cũng được kéo dài ra
trong hai phần bằng một đường thẳng từ bờ biển ra ngoài khơi theo điều 4
của hiệp định. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở biển Đông ở dưới vĩ
tuyến 17 sẽ đặt dưới sự quản lý hành chính của phía chính quyền quản lý của
Việt Nam Cộng Hòa.
- Năm năm 1956, quần đảo Hoàng Sa đã bị quân đội của Trung Quốc

chiếm đóng ở phần phía Đông, và quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa giữ phần còn lại phía Tây.
- Tháng 01 năm 1974, lợi dụng sự suy yếu của quân đội Việt Nam Cộng
Hòa, Trung Quốc đã cho quân đội ra đánh chiếm nốt cụm đảo phía Tây của quần
đảo, hoàn thành việc thôn tính quần đảo Hoàng Sa. Ngày 20/01/1974, Chính phủ
Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam) đã ra bản tuyên bố phản đối hành động này của phía Trung
Quốc. Ngày 14 tháng 2 năm 1974, Việt Nam Cộng hòa ra tuyên cáo xác định chủ
quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Sau năm 1975, Việt Nam khẳng định có đầy đủ căn cứ pháp lý, bằng
chứng lịch sử để chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa.
- Từ năm 1979 đến năm 1982, cả Việt Nam và Trung Quốc đều ra Sách
Trắng chứng minh của quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Việt Nam ra Sách Trắng vào các năm 1979, 1982, 1988.
- Năm 1988, Trung Quốc lại dùng vũ lực chiếm đóng tiếp một số bãi đá
ngầm thuộc quần đảo Trường Sa và sáp nhập vào tỉnh Hải Nam.

14


- Năm 1992, Trung Quốc ra tuyên bố về vùng lãnh hải và tiếp giáp lãnh hải
bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông.
- Ngày 15/02/2005, lần đầu tiên trong lịch sử, Trung Quốc tiến hành khảo sát
các đảo san hô dưới biển với quy mô lớn ở vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Chính phủ Việt Nam một lần nữa khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi cuả
mình đối với quần đảo này và cho rằng mọi hành vi nếu không được sự chấp
thuận của Việt Nam đều là vi phạm chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam.
- Năm 2007, Trung Quốc thành lập huyện Tam Sa bao gồm cả quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.

Gần đây, Trung Quốc còn luôn tục cho xây dựng các công trình kiên cố trên
quần đảo Hoàng Sa, công khai tuyên bố cho mở tuyến du lịch Hoàng Sa, xây cầu
tầu, xây các cơ sở căn cứ quân sự...
Hiện nay, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm đóng một
cách trái phép, mặc dù đích thực đó là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng, không
thể tách rời của Việt Nam.
1.2.2. Quần đảo Trường Sa
Cho đến năm 1933, cũng như quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa là
phần lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam mà không có bất kỳ một sự tranh chấp
của bất kỳ quốc gia nào. Hiện nay, Việt Nam được thực hiện chủ quyền quốc gia
và quản lý hành chính trên 21 đảo và vị trí trong quần đảo Trường Sa.
Tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa là tranh chấp đa
phương giữa 5 nước, 6 bên liên quan, bao gồm :
- Philippin đòi chủ quyền đối với tất cả các vị trí kể cả chìm và nổi trong
khu vực biển mà họ gọi là Kalayan (vùng đất tự do). Vùng biển này bao gồm hầu
hết khu vực quần đảo Trường Sa. Thomas Cloma, một công dân Philippine đã
tuyên bố chiếm hữu vào năm 1947. Cho đến nay, Philippine chiếm giữ 8 đảo và
vị trí trong khu vực quần đảo Trường Sa.
- Malaysia đòi thực hiện quyền quản lý đối với 5 đảo và vị trí trong khu vực
quần đảo Trường Sa.

15


- Brunei đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý bao gồm đá Louisa
Reef ở phía Nam quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, Brunei là quốc gia duy nhất
không chiếm giữ bất kỳ đảo hay vị trí nào trong quần đảo.
- Trung Quốc và Đài Loan đòi chủ quyền đối với khoảng 80% phần diện
tích Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo hình chữ
U (đường lưỡi bò) mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố vào năm 1947 và được

vẽ lại trong Bản đồ Nam Hải Chư Đảo năm 1950. Đài Loan chiếm đảo Ba Bình
từ năm 1946.
Từ năm 1988, Trung Quốc liên tục đánh chiếm các đảo và bãi đá trên quần
đảo Trường Sa.
+ Tháng 2 năm 1988, Trung Quốc đưa quân đội đến một số đảo trên quần
đảo Trường Sa.
+ Tháng 3 năm 1988, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm 6 đảo của Việt
Nam trên quần đảo Trường Sa. Trung Quốc là quốc gia duy nhất yêu sách chủ
quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa nhưng trên thực tế không kiểm soát
bất cứ đảo nào cho mãi đến tận năm 1988.
+ Tháng 4 năm 1988, Trung Quốc thành lập tỉnh thứ 33 bao gồm đảo Hải
Nam và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
+ Tháng 5 năm 1989, Trung Quốc chiếm thêm một đảo nhỏ trên quần đảo
Trường Sa. Tháng 2 năm 1995, Trung Quốc chiếm đá Vành Khăn, một đảo đá
nhỏ của Phillippines trên quần đảo Trường Sa.
Đặc biệt, gần đây Trung Quốc luôn tục có những hành vi xâm phạm
nghiêm trọng chủ quyền đảo và biển đảo của Việt Nam, đe dọa an ninh chung
của khu vực như:
+ Năm 2007, Trung Quốc thành lập huyện Tam Sa bao gồm cả quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
+ Ngày 16/8/2009, Trung Quốc diễn tập quân sự quy mô lớn trên biển Đông.
+ Ngày 26/7/2010, Trung Quốc tập trận trên biển Đông có sự tham gia của
nhiều nhóm tàu chiến, tàu ngầm và máy bay.

16


+ Ngày 2/11/2010, Quân đội Trung Quốc đã tổ chức tập trận bắn đạn thật
tại Biển Đông
+ Ngày 24/2/2011, biên đội tàu hộ vệ số 8 hải quân Trung Quốc đã tiến

hành diễn tập chống cướp biển ở khu vực quần đảo Trường Sa.
Những hành động của Trung Quốc gần đây ngày càng thể hiện việc Trung
Quốc muốn thể hiện những tính toán có lợi cho mình mà không có lợi cho hòa
bình và ổn định trong khu vực cũng như trên thế giới.
Có thể thấy, phương pháp chủ yếu của Trung Quốc là dùng vũ lực để chiếm
hữu các đảo. Tuy nhiên, theo luật quốc tế, từ đầu thế kỷ XX việc dùng vũ lực để
chinh phục một lãnh thổ đã bị lên án và không được chấp nhận. Nghị quyết của
Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 24.10.1970 cũng đã ghi rõ: “Lãnh thổ của
một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm đóng quân sự, kết quả
của việc sử dụng vũ lực trái với các điều khoản của Hiến chương Liên hợp quốc.
Lãnh thổ của một quốc gia không thể là một đối tượng thụ đắc bởi một quốc gia
khác do đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lưc. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ
nào bằng sự đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực đều là bất hợp pháp.”
Do đó, các hành động dùng vũ lực trái ngược với luật quốc tế của Trung Quốc
không thể mang lại danh nghĩa pháp lý cho nước này đối với các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
1.3. Tổng quan về Tòa án Công lý Quốc tế
Tòa án Công lý Quốc tế (International Court of Justice – ICJ) là cơ quan tư
pháp chính của Liên Hiệp Quốc, được thành lập vào tháng 6 năm 1945. Tòa bắt
đầu chính thức nhận hồ sơ, thụ lý và giải quyết tranh chấp các vấn đề giữa các
quốc gia thành viên có liên quan, cũng như làm công tác cố vấn pháp luật cho
Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, cũng như
các ủy ban khác trực thuộc Liên Hiệp Quốc như đã ghi rõ trong Hiến chương
Liên Hiệp Quốc từ tháng 04-1946.
1.3.1. Lịch sử hình thành
Năm 1919, Hội quốc liên đã có vai trò quan trọng trong việc thành lập cơ
quan tài phán thường trực quốc tế đầu tiên. Ngày 16-12-1920, Đại hội đồng Hội

17



Quốc Liên đã thông qua Quy chế của Pháp viện và ngày 14-09-1921 đã tiến
hành lựa chọn thẩm phán của Tòa. Pháp viện thường trực chính thức hoạt động
từ 15-2-1922. Pháp viện thường trực có hai nhiệm vụ chính: giải quyết các tranh
chấp giữa các quốc gia và đưa ra các kết luận tư vấn đối với các yêu cầu của Hội
đồng hoặc Đại hội đồng Hội Quốc Liên. Pháp viện là đại diện cho cộng đồng
quốc tế cũng như các hệ thống pháp lý cơ bản của thế giới. Sự ra đời của Pháp
viện, thực tiễn xét xử được thống nhất dần, tạo điều kiện thúc đẩy pháp điển hóa
luật quốc tế.
Năm 1939, khi Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ đã làm gián đoạn
hoạt động của Pháp viện thường trực. Tình hình thế giới thay đổi sau chiến
tranh, nhiều quốc gia giành lại độc lập, cục diện quan hệ quốc tế thay đổi. Hội
Quốc Liên đã lỗi thời, cần có một tổ chức khác thay thế cho phù hợp với tình hình
thế giới mới. Pháp viện là một cơ quan tài phán do Hội Quốc liên quyết định thành
lập, song tổ chức này đã giải tán, nếu tiếp tục duy trì hoạt động của Pháp viện mà
không có quyết định của cơ quan thành lập ra nó là rất khó thực hiện.
Trong tuyên bố Matxcơva ngày 30-10-1943, Chính phủ các nước Liên xô,
Anh và Mỹ (sau đó Trung quốc cũng tham gia) kêu gọi sớm thành lập một tổ
chức quốc tế nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Ngày 9-10-1944, tại
Dumbarton Oaks, bốn cường quốc Anh, Liên xô, Mỹ và Trung Quốc đã đề nghị
các vấn đề liên quan tới cơ cấu tổ chức của tổ chức chính trị toàn cầu mới – Liên
Hợp Quốc, theo đó:
- Tòa án Công lý Quốc tế là cơ quan pháp lý chính của Liên Hợp Quốc (LHQ)
- Các quốc gia thành viên LHQ ipso facto (đương nhiên) là thành viên quy
chế của Toà án Công lý Quốc tế.
- Quy chế của Toà, bộ phận hữu cơ của Hiến chương LHQ, cần được phát
triển trên cơ sở kế thừa quy chế của Pháp viện thường trực.
- Tất cả các quốc gia không phải là thành viên LHQ có thể tham gia quy
chế của toà với điều kiện chấp nhận các điều kiện do Đại hội đồng LHQ đưa ra
căn cứ vào các khuyến nghị của Hội đồng Bảo an.


18


Quyết định này đã đặt nền móng cho việc ra đời một cơ quan tài phán
thường trực mới, thay thế cho Pháp viện thường trực và mở rộng khả năng
cho các quốc gia tại các châu lục ngoài Châu Âu tham gia vào cơ chế này.
Tại hội nghị Sanfrancisco năm 1945, với việc thông qua hiến chương
LHQ và quy chế của LHQ, Toà án Công lý Quốc tế, cơ quan pháp lý chính
của LHQ, đã được khai sinh. Ngày 31-1-1946, tất cả các thẩm phán của Pháp
viện thường trực tuyên bố từ chức và ngày 5-2-1946, Đại hội đồng LHQ đã
tiến hành bầu chọn các thẩm phán của Tòa ICJ. Toà chính thức đi vào hoạt
động từ ngày 6-2-1946 và chính thức thay thế Pháp viện thường trực từ ngày
18-4-1946. Trụ sở chính của Toà đặt tại LaHay, trong Cung điện Hoà Bình
(Điều 22 khoản 1 của Quy chế).
Như vậy, sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, LHQ được thành lập thay
thế Hội Quốc Liên với mục đích chấm dứt chiến tranh giữa các quốc gia và
thiết lập một cơ chế đối thoại cho các nước. Cùng với sự ra đời của LHQ, Tòa
án Công lý Quốc (Tòa ICJ) tế được thành lập dựa trên Hiến chương LHQ năm
1945 và bắt đầu đi vào hoạt động vào năm 1946. Trụ sở của ICJ đặt tại La
Hay, Hà Lan.
1.3.2. Thành phần của Tòa
a. Thẩm phán của Tòa: Về tổ chức Tòa án (được qui định ở chương I
Quy chế, từ điều 2 đến điều 33). Theo đó, cơ cấu tổ chức Tòa án quốc tế gồm
một Hội Đồng Thẩm Phán độc lập, được lựa chọn không căn cứ vào quốc
tịch trong số những người có phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng được chức vụ
xét xử cao nhất hoặc là những luật gia có uy tín lớn trong lĩnh vực công pháp
quốc tế.
Tòa án gồm 15 thẩm phán (trong đó không thể có 2 công dân cùng quốc
tịch một nước). Trường hợp thẩm phán mang nhiều quốc tịch, Tòa chấp nhận

nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu. Các thành viên của Tòa án được Đại Hội Đồng
và Hội đồng Bảo an (HĐBA) lựa chọn những người có tên trong danh sách
19


theo đề nghị của các tiểu ban dân tộc của Pháp Viện thường trực quốc tế.
Tổng thư ký LHQ có nhiệm vụ lập danh sách theo thứ tự ABC tất cả những
người được đề cử. Đại Hội Đồng và HĐBA hoàn toàn độc lập trong việc bầu
cử các ủy viên của Tòa án quốc tế và không có bất kỳ sự phân biệt nào giữa
các ủy viên thường trực và không thường trực của HĐBA. Và những người
được coi là trúng cử là những ứng viên được tuyệt đại đa số phiếu bầu cử cả ở
Đại Hội đồng cùng cả ở HĐBA. Trong trường hợp nếu như tuyệt đại đa số
phiếu ở cả Đại Hội đồng cũng như ở HĐBA đều chọn nhiều công dân của
cùng một nước thì người được công nhận trúng cử là người có nhiều tuổi hơn.
Các thẩm phán của Tòa có nhiệm kỳ là 9 năm và có thể được bầu lại,
nhưng đặc biệt trong nhiệm kỳ đầu tiên sẽ có 5 thẩm phán có nhiệm kỳ 3 năm
và thẩm phán có nhiệm kỳ 6 năm được chọn theo phương pháp rút thăm ngay
sau khi trúng cử (để đảm bảo 3 năm một lần bầu thay đổi số thẩm phán của
Tòa án Quốc tế). Tòa án bầu chủ tịch và phó chủ tịch với nhiệm kỳ 3 năm và
các chức vụ này có thể tái nhiệm thông qua bầu cử ở lần tiếp theo. Trụ sở của
Tòa án được đặt ở La Hay, nhưng Tòa án quốc tế cũng có thể tổ chức xét xử ở
các địa điểm khác khi thấy cần thiết. Nhưng chủ tịch và thư ký Tòa án phải có
mặt nơi Tòa án đóng trụ sở chính (tức là La Hay). Các ủy viên của Tòa có
nghĩa vụ chịu sự điều hành của Tòa án trong bất kỳ thời gian nào, trừ thời
gian nghỉ phép, vắng mặt do ốm đau hoặc vì các lý do chính đáng bất khả
kháng khác. Ở mỗi phiên Tòa xét xử, số lượng thẩm phán hợp lệ để tiến hành
xét xử là 9 người.
Các thẩm phán của Tòa không đại diện cho chính phủ nào mà là các
thẩm phán độc lập. Các thẩm phán trong khi thực hiện chức năng của mình
đều được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao (Điều 19 Quy chế của

Tòa), do vậy đòi hỏi các thẩm phán phải có nghĩa vụ toàn tâm toàn ý phục vụ
cho Tòa. Để đảm bảo tính độc lập của mình, cũng như hiệu lực các phán
quyết của Tòa, các thẩm phán khi nhận nhiệm vụ phải trịnh trọng tuyên thệ
trong phiên họp công khai của Tòa.
20


×