Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Thể chế chính trị liên bang nga

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 108 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Nước Nga đã đi qua thế kỷ XX với bao nỗi đắng cay, tự hào và hy
vọng!
Có rất nhiều nước trên thế giới đã trải qua những chấn động nặng nề,
nhưng không một nước lớn nào trong vòng 100 năm trở lại đây lại phải trải
qua những bước ngoặt liên tiếp, đột ngột và đau thương như nước Nga.
Ngày 12 tháng 06 năm 1990 sau một thời kỳ vận động, đấu tranh gay
gắt trong lòng Liên Xô, nước Nga tuyên bố độc lập. Năm 1991, lần đầu tiên
nước Nga xuất hiện chức vụ Tổng thống. Sau khi Liên Xô tan rã, Liên bang
Nga thực sự trở thành một nước độc lập, kế thừa vị thế của Liên Xô trong
quan hệ quốc tế.
Thấm thoắt đã 15 năm trôi qua, nước Nga đã đau đớn, song nhân dân
Nga đã dũng cảm đứng lên sau cơn bệnh trầm trọng nhất. Vì một lẽ đơn giản,
nước Nga khát khao kỷ cương chứ không phải bạo lực.
Liên bang Nga, kể từ khi còn là một trong 15 nước Cộng hoà Xã hội
chủ nghĩa Xô Viết, đã luôn có tiếng nói quyết định trong hầu hết các công
việc nội trị và đóng vai trò quan trọng trên trường quốc tế. Ngày nay, với tư
cách là nước kế thừa Liên Xô cũ, tuy không còn là siêu cường như Liên Xô
trước đây, nhưng Liên bang Nga vẫn là một chủ thể quan trọng trên bàn cờ
chính trị quốc tế.
Nước Nga bước sang thế kỉ mới với cương lĩnh chính trị và cải cách dựa
trên nền tảng “tư tưởng mới” với nội dung chính yếu là chủ nghĩa yêu nước, ý
thức về một cường quốc, một quốc gia dân chủ, pháp trị và sự hoà nhập mạnh
mẽ vào cộng đồng thế giới bằng những cải cách thể chế chính trị của mình,

1


xây dựng Nhà nước Nga thành một nhà nước pháp quyền, dân chủ, đa


nguyên, chuyển hoá xã hội Nga thành xã hội mở.
Trong Thông điệp Liên bang Nga ngày 25-4-2005 của Tổng thống Putin có
đoạn: “tôi cho rằng, nhiệm vụ cơ bản về ý thức chính trị là phát triển nước
Nga thành một quốc gia độc lập và dân chủ. Chúng ta thường xuyên hài lòng
dùng những từ này, nhưng ý nghĩa sâu xa của tư do và độc lập, bình đẳng và
pháp quyền, ý nghĩa thực tế của nó trong cuộc sống chưa được hiểu đúng
nghĩa”
Một thể chế mới hình thành, phát triển và ổn định ở nước Nga, nó cũng
gợi mở cho khoa học pháp lý nói những vấn đề cần được tìm hiểu, nghiên
cứu, đặc biệt là về thể chế chính trị và tổ chức bộ nhà nước.
Việc nghiên cứu thể chế chính trị của Liên bang Nga, một nước bạn
truyền thống của ta, là một hướng nghiên cứu cơ bản mang ý nghĩa quốc gia,
giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn những chuyển biến đang diễn ra ở nước
Nga, qua đó góp phần giúp chúng ta thực hiện thành công hơn đường lối đối
ngoại của Đảng và Nhà nước trong quan hệ với một đất nước đã từng chia
ngọt sẻ bùi với nhân dân ta trong nhiều giai đoạn đấu tranh cách mạng. Bên
cạnh đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu các nước trên thế giới, đặc biệt là về
phương diện thể chế chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước, cải cách hành chính,
cải cách bộ máy nhà nước vv...nhằm khai thác, kế thừa những thành tựu của
nhân loại phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nước, không những có ý nghĩa lý
luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn.
Với những lý do nói trên, tôi chọn đề tài: “Thể chế chính trị Liên bang
Nga” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cùng với chủ trương đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta
cũng như sự ổn định và phát triển của nước Nga, thời gian qua, giới nghiên

2



cứu khoa học xã hội nói chung và khoa học pháp lý nói riêng ở nước ta hướng
sự quan tâm, nghiên cứu đến vấn đề thể chế chính trị. Ở phạm vi và mức độ
khác nhau đã có một số công trình nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập
như : “Thể chế chính trị” của PGS.TS Nguyễn Đămg Dung và Th.s Bùi Ngọc
Sơn,“Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền”của PGS.TS. Nguyễn
Đămg Dung (chủ biên), Nxb Tư pháp, 2004; “Học thuyết phân chia quyền
lực- sự áp dụng trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước một số nước”
của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2 năm
1998; “Học thuyết về Nhà nước pháp quyền và thực tiễn của nó ở Liên bang
Nga” của TSKH. PGS Lê Cảm, Nxb “ Sáng tạo” Hội khoa học- Kỹ thuật Việt
Nam tại Liên bang Nga, Mát-cơ-va, 1997. “ Thể chế chính trị thế giới đương
đại” do PGS. TS Dương Xuân Ngọc và TS. Lưu Văn An chủ biên, Nxb
Chính trị Quốc gia, 2003; “Thể chế chính trị các nước Asean”của TS. Nguyễn
Xuân Tế, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2001; “Hệ thống chính trị Liên bang
Nga- Cơ cấu và tác động đối với quá trình hoạch định chính sách đối ngoại”
do TS. Vũ Dương Huân chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, 2002; “Thể chếCải cách thể chế và phát triển” của Đinh Văn Ân và Võ Trí Thành, Nxb
Thống kê, 2002; “Vài nét về cơ cấu tổ chức Nhà nước Liên bang Nga” của
TS. Lưu Văn An và Th.S Lưu Văn Quảng, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 11
năm 2001; “ Thể chế chính trị- Pháp quyền một số quốc gia xu hướng và tác
động đến hệ thống chính trị nước ta” của TS. Tường Duy Kiên, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, số 9 năm 2005; “Cải cách thể chế dân chủ ở Liên bang
Nga” của Phan Anh Dũng, Tạp chí Nghiên Châu Âu, số 4 năm 2005; “ Tổ
chức và hoạt động của chính phủ ở một số nước trên thế giới” của TS.Vũ
Hồng Anh, Nxb Chính trị Quốc gia, 1997. “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân” của TS. Trần Hậu Thành, Nxb Lý luận chính trị, 2005. “Tổ chức

3



bộ máy nhà nước Liên bang Nga theo Hiến pháp 1993”, TS Trần Hậu Thành,
Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 4 năm 2000. Bên cạnh những công trình nghiên
cứu tiêu biểu nói trên, thời gian qua cũng xuất hiện nhiều cuốn sách dịch về
nhiều vấn đề liên quan đến đời sống chính trị nước Nga, qua đó giúp người
đọc có cái nhìn sâu hơn về những vấn đề liên quan như: “Thiết chế chính trị
và bộ máy nhà nước một số nước trên thế giới” sách biên dịch của TS . Phạm
Văn Lợi và TS. Hoàng Thị Ngân; “Nước Nga trước thềm thế kỷ XX ”, do Lê
Thanh Vạn và Trần Văn Cường dịch, Nxb Chính trị Quốc gia, 2004; “Sáu lần
gặp người đứng đầu nước Nga V.Putin” do Đào Vân Hương dịch, Nxb Chính
trị Quốcgia, 2001; “Putin ông chủ điện Kremli” sách dịch của tác giả Bích
Diệp.
Sẽ là rất thiếu sót nếu không nhắc đến Putin, vị Tổng thống trẻ tuổi và
tài ba của nước Nga hiện nay. Sự xuất hiện của V.Putin trên cương vị Tổng
thống Liên bang Nga từ năm 2000 càng làm cho sự quan tâm của giới khoa
học đối với nước Nga tăng lên. Tuổi trẻ, tài cao, với tài năng chèo lái của
V.Putin, vị thế của nước Nga đã được khôi phục mạnh mẽ. Thể chế chính trị
mà nước Nga đã lựa chọn đi vào ổn định và quá trình hoà nhập của nước Nga
diễn ra nhanh chóng. Trong bối cảnh đó, rất nhiều cuốn sách, bài báo đã giành
để tán dương và đề cập đến Tổng thống của nước Nga như một sự khẳng định
chắc chắn về vị trí và vai trò của nước Nga trên trường quốc tế. Dĩ nhiên, ở
một khía cạnh khác cũng khẳng định tính mới mẻ và những diễn biến của thể
chế chính trị ở Liên bang Nga. Trong phạm vi này phải kể đến: “Tìm hiểu vai
trò của Tổng thống Liên bang Nga” của TS. Lưu Văn An, tạp chí Nghiên cứu
Châu Âu, số 3 năm 2001; “Chiến lược đối ngoại của nước Nga thời kỳ Tổng
thống Putin” của TS Hồ Châu, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 3 năm 2001;
“Nước Nga những năm 90 không ổn định: Nguyên nhân và triển vọng”, của
TS Hưng Hà- Lâm Châu, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 4 năm 1999;

4



“Cuộc bầu cử Tổng thống Liên bang Nga: một vài suy ngẫm”, của Hoàng
Vân, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 2 năm 2000; “Quyền lực Tổng thống
Liên bang Nga” của TS. Nguyễn Văn Thanh, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu,
số 5 năm 2005.
Nhìn chung, những công trình khoa học nói trên đã góp phần đem lại một
cái nhìn tương đối đầy đủ về nước Nga, đặc biệt là ở phương diện khoa học
pháp lý.Vì vậy, việc lựa chọn đề tài này là khá mới mẻ, vừa có giá trị lý luận,
vừa có ý nghĩa thực tiễn, như một sự bổ sung cần thiết vào khoa học Luật
Hiến pháp.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn: Khái quát những vấn đề lý luận về
thể chế chính trị, trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật cũng như thực tiễn đời
sống chính trị của nước Nga hiện nay, đề cập và làm sáng tỏ thể chế chính
trị đương đại của Liên bang Nga. Trên cơ sở đó đưa ra những kết luận có
tính chất chung khẳng định tính mới mẻ và độc đáo của thể chế chính trị
Liên bang Nga.
Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về thể chế chính trị để làm cơ
sở nghiên cứu thể chế chính trị Liên bang Nga;
- Nhận định nhu cầu thay đổi thể chế chính trị và những cơ sở pháp lý
của thể chế chính trị mới ở Liên bang Nga;
- Nghiên cứu tổng quát thể chế nhà nước Liên bang Nga theo Hiến pháp
hiện hành;
- Đưa ra những kết luận về thể chế chính trị Liên bang Nga.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản
của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nói chung và đường lối đối

5



ngoại nói riêng. Luận văn vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Ngoài ra,
luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể khác như: phân tích, tổng hợp, so
sánh, đối chiếu để giải quyết các vấn đề mà đề tài đặt ra.
5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Hiện nay khái niệm thể chế chính trị chưa có sự nhận thức thống nhất,
tác giả cũng ý thức được rằng, việc nghiên cứu thể chế chính của Liên bang
Nga là vấn đề mới mẻ. Chính vì vậy, luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận chung của thể chế chính trị, lịch sử thể chế chính trị và
thể chế nhà nước Nga hiện nay. Những vấn đề này được thể hiện trong Hiến
pháp Liên bang Nga 1993 và các Luật tổ chức nhà nước Liên bang Nga hiện
hành. Khía cạnh thể chế hành vi, theo tác giả vẫn sẽ còn được nghiên cứu
trong những công trình khoa học tiếp theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Cách tiếp cận của đề tài và hướng nghiên cứu của đề tài có những
đóng góp nhất định vào việc nghiên cứu chế độ chính trị, hình thức chính thể,
thể chế chính trị trong khoa học hiến pháp.
- Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ và nghiên cứu
cho sinh viên, học viên.
- Kết quả nghiên cứu cũng có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo cho
các nhà nghiên cứu, những nhà hoạch định chính sách và những ai có quan
tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm ba chương:
Chương 1. Vị trí và vai trò của thể chế chính trị trong đời sống của mỗi
quốc gia


6


Chương 2. Nhu cầu phải thay đổi thể chế chính trị ở Liên bang Nga
Chương 3. Thể chế chính trị Liên bang Nga đương đại

7


Chƣơng 1
VỊ TRÍ VÀVAI TRÒ CỦA THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ
TRONG ĐỜI SỐNG CỦA MỖI QUỐC GIA
1.1. Khái niệm thể chế và thể chế chính trị
1.1.1. Khái niệm thể chế
Trong đời sống xã hội hiện nay, đặc biệt là trong khoa học xã hội và
nhân văn (Quản lý xã hội, khoa học chính trị, khoa học pháp lý), thuật ngữ thể
chế chính trị được sử dụng tương đối phổ biến. Với tư cách là khoa học về
những quy luật hình thành và phát triển của các loại hình chính trị, thể chế
chính trị là hình thức biểu hiện tập trung, quan trọng nhất của chính trị [2].
Cùng các nguyên tắc tổ chức và phương thức vận hành của các xã hội có giai
cấp và nhà nước, khái niệm thể chế và thể chế chính trị được sử dụng như là
khái niệm công cụ hay phạm trù trung tâm. Tuy nhiên, cho đến nay sự nhận
thức về khái niệm này vẫn chưa có sự thống nhất. Nhìn chung, có thể khái
quát thành một số quan niệm như sau:
Trong Tiếng Anh từ “Institution” và trong Tiếng Nga từ “ÈHCTÈTYT”
đều được hiểu là thể chế hay định chế. Tuỳ theo nhiều cách hiểu khác nhau,
nhưng thể chế hay định chế đều là từ Hán Việt.
Trong cuốn từ điển Hán Việt của soạn giả Đào Duy Anh, tác giả cho
rằng: Thể chế là cách thức, chế độ. Còn định chế được giải thích là chế độ đã
nhất định từ trước[3].

Trong cuốn từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học được Nhà xuất
bản Đã Nẵng xuất bản năm 2001,“thể chế ” được hiểu một cách tổng quát là
những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân
theo[60].

8


Cũng theo một cuốn từ điển khác của Nhà xuất bản Văn hoá thông tin xuất
bản năm 1999, “thể chế ” được hiểu hẹp hơn là toàn bộ cơ cấu của xã hội do
pháp luật tạo ra[62].
Trong Tiếng Việt, thể chế được dùng tương tự như định chế [16]. Theo
Liltre, nhà ngôn ngữ học người Pháp thì định chế là để chỉ những gì con
người nghĩ ra, lập ra, đối lập với tất cả những gì có trong thiên nhiên. Còn
theo nhà xã hội học Durkhem, quan niệm định chế là những tư tưởng, tập
quán xã hội mà cá nhân đã có từ trước mắt mình và hầu như có giá trị cưỡng
ép nhiều hay ít đối với họ. Đối với các luật gia, định chế là toàn bộ những quy
tắc pháp luật liên quan một đối tượng duy nhất, đến cùng một số chức vụ, hợp
thành một khối có trình tự mạch lạc[12]. Theo nghĩa này thì hôn nhân, khế
ước, quốc hội, bầu cử đều là những định chế.
Có quan niệm lại cho rằng: Thể chế và thiết chế là đồng nhất, đó là
những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo.
Quan niệm này được thể hiện trong cuốn Đại từ điển tiếng Việt (do Nguyễn
Như Ý chủ biên), Từ điển tiếng Việt (do Hồng Phê chủ biên -1992) và Từ
điển Luật học (do Nguyễn Hữu Quỳnh chủ biên-1999).
Trái ngược với những suy nghĩ trên, có ý kiến cho rằng thể chế và định
chế là hai dạng biểu hiện khác nhau của cùng một cấu trúc xã hội. Theo cách
hiểu này, thể chế là những quy định, luật lệ, giá trị phản ánh mặt tinh thần của
cấu trúc xã hội. Còn thiết chế là những bộ phận cấu thành của một cấu trúc xã
hội , phản ánh mặt vật chất của cấu trúc đó. Quan niệm này gần giống với

quan niệm của các nhà biên soạn từ điển Tiếng Pháp. Theo đó, thuật ngữ
Institution có nghĩa là:
+ Thể chế là sự đặt định những luật lệ, là các luật lệ cơ bản của một quốc
gia.

9


+ Thiết chế là các bộ phận cấu thành của một cấu trúc, cần phải duy trì và
tôn trọng.
Một quan niệm khác lại cho rằng, thể chế có hai nghĩa rộng và hẹp:
- Theo nghĩa rộng, thể chế được xem gần như là những khái niệm hệ
thống, bao gồm cả những định chế và cả những thành tố cấu thành hệ thống,
với ý nghĩa này, khái niệm thể chế thống nhất với khái niệm hệ thống chính
trị.
- Theo nghĩa hẹp, thể chế là những quy định, luật lệ, chuẩn mực, giá trị
của một cấu trúc xã hội hoặc của xã hội buộc mọi người phải tuân thủ và theo
đó các thiết chế được dựng lên, các quan hệ xã hội được điều chỉnh.
Nhìn chung vẫn còn tồn tại những khác biệt từ các quan niệm, nhưng
có thể khái quát những khía cạnh cơ bản về thể chế:
Thể chế và thiết chế là phạm trù xã hội chỉ được sử dụng trong đời sống
xã hội của con người, không có khái niệm thể chế nói chung và cũng không
có khái niệm thể chế thuộc về thế giới tự nhiên. Vì vậy, khi nói đến thể chế
hoặc thiết chế cũng đồng nghĩa với nói thể chế xã hội và thiết chế xã hội. Tuy
vậy, thuật ngữ "xã hội" lại thường được hiểu theo hai nghĩa:
- Nghĩa rộng là toàn bộ đời sống xã hội.
- Nghĩa hẹp là lĩnh vực xã hội của đời sống xã hội.
Theo đó, thể chế và thiết chế cũng được hiểu theo hai nghĩa tương ứng:
Thể chế ( thể chế xã hội) theo nghĩa rộng là khái niệm dùng để chỉ một
hệ thống những quy định, luật lệ, giá trị, chuẩn mực hợp thành những nguyên

tắc tổ chức và phương thức vận hành của xã hội ở một giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử. Theo nghĩa này, thể chế bao gồm: Thể chế kinh tế,
chính trị, xã hội và văn hoá.
Thể chế theo nghĩa hẹp là khái niệm dùng để chỉ một hệ thống những
quy định, luật lệ, giá trị, chuẩn mực hợp thành những nguyên tắc tổ chức,

10


phương thức vận hành của một lĩnh vực hoặc một cấu trúc xã hội nào đó của
xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.
Thiết chế (thiết chế xã hội) theo nghĩa rộng là khái niệm dùng để chỉ
một hệ thống các yếu tố, phù hợp với thể chế tương ứng hợp thành một xã
hội. Với ý nghĩa này, thiết chế cũng bao gồm: Thiết chế kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hoá.
Theo nghĩa hẹp, thiết chế xã hội là khái niệm dùng để chỉ mặt hệ thống
các yếu tố phù hợp với thể chế tương ứng, hợp thành một lĩnh vực hoặc một
cấu trúc xã hội nào đó của xã hội.
Tựu trung lại, thể chế và thiết chế là hai khái niệm biểu hiện khác nhau
của cùng một lĩnh vực, một cấu trúc xã hội và mối quan hệ biện chứng với
nhau, nếu như thể chế là những chuẩn mực quy định sự hình thành và phương
thức vận hành của một lĩnh vực, một cấu trúc và của toàn xã hội thì thiết chế
là yếu tố vật chất của một lĩnh vực, một cấu trúc của xã hội.
Khi xem xét, nghiên cứu cấu trúc xã hội về phương diện thể chế, không
thể không tính đến phương diện thiết chế của cấu trúc đó, bởi không có một
thể chế nào lại không gắn với một cấu trúc xã hội nhất định và ngược lại
không có một thiết chế của một cấu trúc xã hội nào lại được dựng lên từ một
thể chế tương ứng.
Trong xã hội chưa có giai cấp (xã hội cộng sản nguyên thuỷ) do chưa
có nhà nước, chưa có pháp luật, chỉ có những quy tắc tập quán, tín điều tôn

giáo hình thành trên cơ sở đời sống cộng đồng [43]. Nên những thiết chế xã
hội Thị tộc, Bộ lạc được tổ chức kém chặt chẽ và chính vì vậy, xã hội trở nên
kém bền vững trước sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất và
những xung đột ngày càng gay gắt về giai cấp. Tất nhiên, cả những hình thái
kinh tế - xã hội sau, thiết chế này vẫn không bền vững trước sự phát triển của

11


xã hội, đặc biệt là sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Điều này xuất phát từ
những luật lệ, những quy định và ngay cả những giá trị mang tính lịch sử.
Tuy nhiên, nó vẫn bền vững hơn, một phần là nhờ vào những giá trị cộng
đồng, mặt khác, phụ thuộc vào những định chế có tính pháp lý cho xã hội tạo
ra buộc cá nhân và tổ chức phải tuân theo.
1.1.2. Khái niệm thể chế chính trị
Chính trị là hoạt động đặc biệt quan trọng của đời sống, quan hệ đến lợi
ích của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội. Thể chế chính trị là bộ phận
cấu thành của chính trị. Trong một chế độ xã hội, thể chế chính trị tác động
trực tiếp đến đời sống của mọi người dân ít hay nhiều, mỗi quốc gia đều chịu
sự tác động của thể chế chính trị. Thể chế chính trị là một bộ phận của kiến
trúc thượng tầng có vai trò to lớn đối với sự tiến bộ cuả xã hội.
Phạm trù thể chế (Institution), Thể chế chính trị (Political/ Institution),
thể chế nhà nước (State/ Institution) thể chế Đảng (Party/ Institution) là
những phạm trù chính trị được dùng phổ biến trong các diễn đàn chính trị thế
giới. Bởi chúng có nội dung và giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống
chính trị. Ở Việt Nam, các phạm trù này thực tế trước đây còn ít sử dụng và
thực tế cũng mới chỉ được sử dụng phổ biến từ những năm đổi mới, đặc biệt
là phạm trù thể chế chính trị (Political/ Institution). Tuy nhiên khái niệm thể
chế chính trị vẫn chưa có sự nhận thức thống nhất, nếu có đề cập thì cũng chỉ
mang tính rời rạc, chỉ nói đến một hoặc một số khía cạnh nào đó của thể chế

chính trị.
Thể chế chính trị là một trong những vấn đề rất quan trọng trong đời
sống của mỗi quốc gia, nó can thiệp đến mọi con người và mọi tổ chức trong
một nhà nước. Để nhận thức đúng bản chất của thể chế chính trị, trước hết
phải bắt đầu từ khái niệm của nó.

12


Trong cuốn“Cải cách thể chế chính trị Trung Quốc” của Nhà xuất bản
Đại Liên,Viện thông tin khoa học thuộc Viện nghiên cứu chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh dịch năm 1995, các nhà chính trị học của
Trung Quốc là Tần Thụy Sinh, Chu Mãn Lương, Long Nguyên Chinh đã cho
rằng, thể chế chính trị là các loại chế độ chính trị cụ thể xây dựng trên cơ sở
chế độ chính trị cơ bản và tổng hoà của cơ chế vận hành, thuộc kiến trúc
thượng tầng. Cách hiểu này đã đồng nhất khái niệm thể chế chính trị và chế
độ chính trị.
Chính trị là một loại hoạt động căn bản của xã hội. Còn nhiều cách hiểu
khác nhau về chính trị, song thông thường, chính trị được hiểu là các lĩnh vực
hoạt động và tương ứng với nó là quan hệ giữa con người với nhau trong lĩnh
vực quyền lực.
Chính trị có nguồn gốc từ tiếng Latinh có chữ “Politic” nghĩa là: Công
việc nhà nước. Trong lịch sử tư tưởng, dù có những nhận thức khác nhau về
bản chất của chế độ chính trị, nhưng đều có điểm chung là thừa nhận chính trị
là công việc liên quan đến quyền lực của nhà nước. Tư tưởng chính trị trung
Quốc cổ đại quan niệm: “Nhân đại chính vĩ đại” thì chính trị được hiểu là
những hoạt động liên quan đến việc trị quốc, bình thiên hạ, những hoạt động
quan trọng, lớn (đại) của con người. Còn ở xã hội Hi Lạp cổ đại, triết gia
Platon lại xem chính trị là:“Nghệ thuật cung đình liên kết trực tiếp các chuẩn
mực của người anh hùng và sự thông minh, sự liên kết cuộc sống của họ
được thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tình cảm hữu ái”. Tư tưởng

này đã ảnh hưởng đến quan niệm coi chính trị là sự khôn khéo, khả năng đạt
đến sự phân chia chức năng mà vẫn bảo đảm duy trì tác động qua lại giữa
chúng, duy trì tính chính trị của hệ thống.
Theo V.Lênin, chính trị là những hoạt động liên quan đến lợi ích của
các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, mà vấn đề quan trọng nhất là tổ chức

13


chính quyền nhà nước. Chính trị nhằm bảo vệ lợi ích của các tầng lớp, các
giai cấp, các dân tộc trong xã hội trên cơ sở tôn trọng và bảo đảm quyền lực
và lợi ích của giai cấp cầm quyền, chính trị xét về hình thức thể hiện là những
quan điểm, tư tưởng, học thuyết, cương lĩnh, đường lối của chính Đảng, là
chính sách, pháp luật của giai cấp cầm quyền, còn xét về nôị dung, chính trị là
những hoạt động và cùng với nó là mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng
lớp và giữa các dân tộc có liên quan tới quá trình giành, giữ về tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước.
Như vậy, dù ở khía cạnh nào, vấn đề trung tâm của chính trị bao giờ
cũng là nhà nước, tuy nhiên hoạt động của nhà nước không bao giờ bao quát
hết toàn bộ hoạt động chính trị. Hoạt động của các đảng phái, các dân tộc, các
nhóm lợi ích chính trị....đều là hoạt động chính trị nhưng không đồng nghĩa
với hoạt động nhà nước. Tuy nhiên, ở một mức độ nhất định, hoạt động của
các đảng phái hay các tổ chức chính trị dù không đồng nghĩa với hoạt động
của nhà nước nhưng đều có mục đích tham gia hoặc gây ảnh hưởng đến
quyền lực của nhà nước.Chính vì vậy, có thể nói chính trị là những công việc
của nhà nước, những hoạt động liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền
lực nhà nước.
Ở một phạm vi lớn hơn, chế độ chính trị là nội dung, phương thức tổ
chức và hoạt động của hệ thống chính trị của một quốc gia, mà trọng tâm là
nhà nước[2]. Chế độ chính trị được biểu hiện rõ nhất trong mô hình tổ chức

của nhà nước, trong Hiến Pháp - Văn bản pháp lý cao nhất của mỗi quốc gia.
Chế độ chính trị là một bộ phận cấu thành chế độ xã hội, vì chính trị là công
việc của nhà nước, công việc xã hội, mà thể chế chính trị trong xã hội có giai
cấp, công việc của nhà nước là công việc chủ yếu của xã hội, nên chế độ
chính trị là chế độ thực hiện quyền lực nhà nước.

14


Trong lý luận về nhà nước và pháp luật, chế độ chính trị được hiểu là
nội dung và phương thức tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị Quốc
gia mà trung tâm là Nhà nước. Chế độ chính trị được cấu thành bởi sự kết hợp
các yếu tố: Chính trị - kinh tế - xã hội, tư tưởng văn hoá, pháp luật, chế độ
chính trị được biểu hiện rõ nét trong mô hình tổ chức nhà nước, trong Hiến
pháp của mỗi một nhà nước quy định về nguồn gốc và tính chất của quyền
lực, sự phân bổ và tổ chức các cơ quan quyền lực nhà nước và mối quan hệ
giữa các cơ quan quyền lực, về những quan hệ của nhà nước với công dân,
các đảng phái chính trị, các tổ chức xã hội, giữa các giai cấp và tầng lớp xã
hội giữa các dân tộc trong nước và trên thế giới.
Trong khoa học pháp lý, chế độ chính trị lại được hiểu là tổng thể các
phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước [21].
Nếu xem xét dưới góc độ là một chế định của Luật Hiến pháp, chế độ
chính trị là tổng hợp những quy định có tính chất nguyên tắc chung làm nền
tảng cho những quy định khác của Hiến pháp. Đó là những quy định về bản
chất nhà nước. Sự lãnh đạo của đảng đối với mọi hoạt động của nhà nước và
xã hội, những nguyên tắc cơ bản, tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Những vấn đề này quy định hình thức tổ chức quyền lực nhà nước theo hình
thức cấu trúc bên ngoài nhà nước, cơ cấu lãnh thổ là hình thức tổ chức nhà
nước bên trong.
Chế độ chính trị được quy định bởi hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi hình

thái kinh tế - xã hội có thể có các chế độ chính trị khác nhau.Trên phạm vi
quốc tế có những chế độ chính trị khác nhau, chế độ quân chủ chuyên chế,
quân chủ lập hiến, chế độ dân chủ tư sản, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế - xã hội và chế độ chính trị không đồng nhất với nhau, chế

15


độ chính trị thuộc phạm trù kiến trúc thượng tầng, bao gồm: Bộ máy nhà
nước, pháp luật và các thể chế kinh tế, chính trị, xã hội.
Với những khái quát trên, có thể khái quát chế độ chính trị ở các phạm
vi sau:
Dưới góc độ nội dung, phương thức tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị, thì chế độ chính trị là cơ chế vận hành của hệ thống chính trị.
Dưới góc độ cấu trúc, thì hệ thống chính trị được chia thành bộ máy
nhà nước và các thiết chế như pháp luật, đảng phái, các tổ chức chính trị- xã
hội và các thể chế kinh tế, chính trị, xã hội nhằm bảo vệ quyền lực của giai
cấp nắm quyền.
Dưới góc độ hình thức của nhà nước, thì chế độ chính trị là phương
thức cai trị, quản lý xã hội của giai cấp làm quyền, phương thức dân chủ hay
phản dân chủ[15].
Dưới góc độ pháp lý, chế độ chính trị là tổng hợp những quy phạm
pháp luật được thể hiện trong Hiến pháp, luật và dưới luật nhằm bảo vệ xã hội
và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Trong qúa trình tồn tại và phát triển các thiết chế chính trị - xã hội luôn
có sự ràng buộc với nhau, luôn có sự tác động và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau,
đều hay xảy ra trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Toàn bộ các
thiết chế này tạo thành hệ thống chính trị xã hội để nắm giữ và thực hiện
quyền lực chính trị trong xã hội. Như vậy, có thể hiểu chính trị là liên minh
các thiết chế chính trị - xã hội có liên hệ mật thiết với nhau, tồn tại và hoạt

động nhằm bảo
đảm sự tồn tại và hoạt động của toàn xã hội đồng thời bảo vệ lợi ích của giai
cấp cầm quyền.
Về cấu trúc hình thành, hệ thống chính trị là tập hợp các thiết chế chính
trị - xã hội được thành lập và hoạt động vì những mục đích chính trị - xã hội

16


khác nhau. Các thiết chế đó bao gồm có Nhà nước, các đảng phái chính trị,
các tổ chức đoàn thể chính trị- xã hội, trong đó Nhà nước là tổ chức quan
trọng nhất. Các tổ chức đó được sắp xếp theo một trật tự khách quan, khoa
học và luôn có những mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau.
Về nội dung, hệ thống chính trị được hiểu là một cơ chế thực hiện
quyền lực chính trị trong xã hội. Có thể nói quyền lực chính trị là cốt lõi của
hệ thống chính trị. Quyền lực đó được vật chất hoá bằng các thiết chế chính
trị xã hội và được biểu hiện thông qua các quan hệ chính trị giữa các lực
lượng chính trị - xã hội. Quyền lực chính trị được thể hiện một cách tập trung
và trước hết ở đường lối chính sách của các lực lượng chính trị - xã hội, ở
pháp luật của nhà nước, chính vì thế, hệ thống chính trị của mỗi nước có ảnh
hưởng
rất tới sự tồn tại, phát triển của đất nước nói riêng, của xã hội loài người nói
chung, sụ yếu kém, rạn nứt, thiếu thống nhất trong nội bộ hệ thống chính trị
thường được chuyển hoá thành các xung đột chính trị - xã hội, cản trở tiến bộ
xã hội.
Có quan niệm khác lại đề cập hệ thống chính trị ở hai góc độ:
Thứ nhất, hệ thống chính trị là hệ thống quyền lực của giai cấp cầm
quyền, hay gọi là hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền, nghĩa là hệ
thống chính trị chỉ bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội do giai cấp cầm
quyền - giai cấp nắm quyền lực về kinh tế . Các tổ chức chính trị - xã hội khác

không được coi là thành tố của hệ thống chính trị.
Thứ hai, hệ thống chính trị không chỉ là chuyên chính của giai cấp cầm
quyền mà là tất cả các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp hoặc trực tiếp hoặc
gián tiếp liên quan đến quyền lực thống trị của giai cấp thống trị. Đó là hệ
thống tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, trong đó ưu thế cơ bản thuộc về các
thiết chế của giai cấp nắm quyền lực về kinh tế để tác động vào các quá trình

17


kinh tế - xã hội nhằm bảo vệ, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời và
lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau và
cũng có nhiều định nghĩa khác nhau. Tuy nhiên có một điểm chung cho
những định nghĩa mà theo đó hệ thống chính trị được coi là hệ thống các tổ
chức chính trị - xã hội hợp pháp (trong đó có những tổ chức do giai cấp thống
trị lập nên và cả những tổ chức không do giai cấp thống trị lập nên), các đảng
chính trị hợp pháp và nhà nước của giai cấp cầm quyền, quan hệ qua lại thông
qua sự tác động qua lại của các yếu tố đó để chi phối các quá trình kinh tế xã hội nhằm bảo vệ, duy trì và phát triển xã hội đương thời, bảo đảm quyền
lực và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Từ những quan niệm như trên, có thể khái quát: Thể chế chính trị là
các quy tắc được sắp xếp một cách logic hợp thành một chỉnh thể thống nhất
điều chỉnh các hoạt động của con ngươi có liên quan đến công việc của nhà
nước. Theo nghĩa khác, cũng có thể hiểu thể chế chính trị là cái được tạo
dựng nên từ các quy tắc đó.
Từ định nghĩa nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của thể
chế chính trị:
- Thể chế chính trị là hệ thống các định chế, các gía trị tạo thành những
nguyên tắc tổ chức và phương thức vận hành của một chế độ chính trị, các hệ
thống chính trị. Theo đặc điểm này, thể chế chính trị bao gồm: Thể chế nhà

nước, thể chế của đảng chính trị , thể chế các tổ chức chính trị - xã hội.
Cũng theo cách xác định tương tự, nhưng PGS .TS Nguyễn Đăng Dung
lại chia thể chế chính trị thành thể chế chính trị về hành vi và thể chế chính trị
về tổ chức[16]. Theo đó thể chế chính trị về hành vi bao gồm (quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân trong lĩnh vực chính trị, chế độ bầu cử và bỏ phiếu
trưng cầu). Thể chế chính trị về tổ chức bao gồm (các đảng phái chính trị

18


trong hệ thống chính trị tư sản và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ chính
trị). Vấn đề này sẽ được tiếp tục đề cập trong phần phân loại thể chế chính trị.
Thể chế nhà nước là những chế định pháp luật có tính cưỡng chế buộc
mọi người, mọi tổ chức phải tôn trọng và chấp hành. Thể chế các đảng chính
trị, các tổ chức chính trị - xã hội là những điều lệ, quy định nguyên tắc tổ
chức và phương thức hoạt động của tổ chức đó.
Thể chế chính trị là hình thức thể hiện các thành tố của hệ thống chính
trị thuộc thượng tầng kiến trúc.
- Thể chế chính trị thể hiện vai trò tuỳ thuộc vào hiệu lực, vai trò của
từng thể chế trong hệ thống chính trị cũng như của cơ chế vận hành của toàn
bộ hệ thống, trong đó thể chế nhà nước là quan trọng nhất.

19


1.2. Vị trí và vai trò của thể chế chính trị trong đời sống của mỗi
quốc gia
Thể chế chính trị có một vị trí quan trọng trong đời sống của mỗi quốc
gia, chúng can thiệp dù ít nhiều đến đời sống của mỗi công dân và của mọi
người dân khác nằm trong lãnh thổ của một quốc gia. Bởi lẽ, mọi người dân

không kể có quốc tịch hay không có quốc tịch đều phải phụ thuộc vào các thể
chế chính trị quốc gia. Các thể chế chính trị tác động đến sự lựa chọn cách
hành xử của cá nhân và tổ chức, tạo dựng sự ổn định, trật tự và phát triển xã
hội.
Vị trí, vai trò của thể chế chính trị thể hiện trước tiên trong mối tương
quan, tác động giữa thể chế chính trị và cơ sở kinh tế. Thể chế chính trị là một
bộ phận của thượng tầng kiến trúc. C.Mác đã chứng minh sự quy định của cơ
sở hạ tầng đối với thượng tầng kiến trúc. V.I.Lênin trong thời kỳ xây dựng
chính sách kinh tế mới đã đưa ra luận điểm kinh điển về mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị:
Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, hai là, chính trị không thể
không giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế. Chính trị bao gồm nhiều bộ phận cấu
thành: Quan điểm chính trị, hệ tư tưởng chính trị, hoạt động chính trị thực
tiễn. Với tư cách là một bộ phận của chính trị nói chung, thể chế chính trị
trong quan hệ với kinh tế chịu sự chi phối của quy luật về sự phụ thuộc của
kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng, chính trị là biểu hiện tập trung của
kinh tế, chính trị không thể không giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế. Dựa trên
quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, quan hệ chính trị và kinh tế, có thể nhận
thấy tương quan và tác động của thể chế chính trị đối với cơ sở kinh tế ở các
khía cạnh sau đây:

20


- Kinh tế quy định sự hình thành và phát triển của các thể chế chính
trị. Cơ sở kinh tế quyết định sự ra đời của các thể chế chính trị. Các thể chế
chính trị sinh ra trên cơ sở các tiền đề kinh tế. Nhà nước- một thể chế chính trị
tổ chức căn bản ra đời do sự xuất hiện của chế độ tư hữu và mâu thuẫn giai
cấp. Chế độ tư hữu ra đời, đối kháng giai cấp xuất hiện. Để duy trì trật tự xã

hội và thống trị bộ phận xã hội còn lại, giai cấp chiếm ưu thế về kinh tế đã tổ
chức ra Nhà nước, trở thành giai cấp thống trị về chính trị, Không riêng gì
nhà nước, các thể chế chính trị khác ra đời đều do sự quy định của cơ sở kinh
tế. Đảng phái chính trị không phải là một thể chế chính trị cố hữu của mọi xã
hội tồn tại nhà nước. Đảng phái chính trị ra đời trong sự xuất hiện và phát
triển của chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa. Giai cấp tư sản khi đã chiếm được
ưu thế kinh tế so với giai cấp phong kiến, đã tập hợp thành các đảng phái
chính trị để đấu tranh giành quyền lực nhà nước.
Nội dung của thể chế chính trị phản ánh các lợi ích kinh tế. Sinh ra
trong một xã hội có mẫu thuẫn giai cấp, thể chế chính trị bao giờ cũng thể
hiện trước tiên lợi ích của giai cấp chiếm ưu thế về kinh tế. Các thể chế chính
trị trong một nền kinh tế bao giờ cũng phản ánh những lợi ích kinh tế căn bản.
Chẳng hạn, đảng cộng sản, công đoàn là sự phản ánh lợi ích căn bản của giai
cấp công nhân [16].
Cơ cấu kinh tế quy định cơ cấu thể chế chính trị. Cơ cấu của thể chế
chính trị là hình thức biểu hiện các quan hệ kinh tế, phản ánh cơ cấu kinh tế.
Ví dụ về cơ cấu kinh tế Việt Nam những năm 80 thế kỷ XX là cơ cấu kinh tế
tập trung. Hiến pháp Việt Nam năm 1980 xác định cơ cấu của các thể chế
chính trị phản ánh cơ cấu kinh tế đó nên cùng mang tính chất tập trung. Điều
này biểu hiện ở các quy phạm của Hiến pháp quy định Chính phủ là cơ quan
chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của Quốc hội, tính chất tập thể và
hội đồng trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ, thể chế Hội đồng Nhà

21


nước - Chủ tịch nước tập thể. Đến Hiến pháp 1992- Hiến pháp của thời kỳ
chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, thì cơ cấu của thể chế chính trị cũng có những biến đổi tương
ứng. Chính phủ vừa là cơ quan chấp hành của Quốc hội, vừa là cơ quan hành

chính nhà nước cao nhất của Nhà nước, được Hiến pháp mở rộng thẩm quyền
trong lĩnh vực hành chính. Thủ tướng chính phủ được tăng thêm nhiều quyền
hạn. Hội đồng nhà nước tách thành Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch
nước. Thể chế Chủ tịch nước cá nhân được tái lập.
Tính chất của các quan hệ kinh tế quy định tính chất của các quan hệ
của các thể chế chính trị. Chủ nghĩa tư bản thời kỳ tự do cạnh tranh nền kinh
tế thị trường hoạt động theo cơ chế tự điều chỉnh của bàn tay vô hình, trong
điều kiện đó, nhà nước ít can thiệp vào lĩnh vực kinh tế. Chính phủ, về tính
chất là một thể chế can thiệp một cách trực tiếp nhất đến đời sống xã hội.
Nhưng trong thời kỳ này, do tình hình trên, chính phủ có ít quyền, phụ thuộc
vào nghị viện. Nhưng khi mức độ tập trung tư bản dù cao, chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước thay thế chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, thì nhà nước
ngày càng can thiệp sâu vào đời sống kinh tế, trở thành bàn tay điều tiết các
quan hệ kinh tế. Cùng với sự thay đổi đó, quan hệ giữa các thể chế chính trị
ngày càng thay đổi. chính phủ không còn là cơ quan thuần tuý chấp hành luật
của Nghị viện, biến Nghị viện thành cơ quan hoạt động hình thức.
- Thể chế chính trị là kiến trúc thượng tầng của cơ sở kinh tế nhưng nó
không phản ánh các quan hệ kinh tế một cách thụ động. Thể chế chính trị có
tính độc lập tương đối, có ưu thế nhất định, tác động trở lại kinh tế. Điều này
biểu hiện ở những khía cạnh sau:
Các thể chế chính trị nếu không phản ánh đúng quy luật khách quan
của kinh tế thì chúng sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển kinh tế. Sự tụt hậu, bảo
thủ của các thể chế chính trị so với trình độ phát triển của kinh tế sẽ là yếu tố

22


lực cản đối với sự tiến bộ xã hội. Điều này thấy rõ ở thời kỳ cuối của chế độ
phong kiến. Nhà nước phong kiến là một tác nhân cản trở sự phát triển xã hội
vì nó lạc hậu so với các quan hệ sản xuất tư bản vào giai cấp đế chế chủ

nghĩa, và chiến tranh đế quốc cũng là lực cản đối với sự phát triển xã hội, vì
nó mâu thuẫn với các quan hệ sản xuất đang có xu hướng xã hội hoá ngày
càng cao, không thể bó hẹp trong khuôn khổ quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
Các thể chính trị nếu phản ánh đúng đắn sự phát triển khách quan của
các quan hệ kinh tế sẽ là một lực lượng cải tạo xã hội. Nhà nước phong kiến
trong thời kỳ đầu của nó đã có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển xã hội vì
đã tiến hành giải phóng lao động nô lệ, tạo điều kiện cho các quan hệ sản xuất
phong kiến phát triển. Nhà nước tư sản ra đời sau sự sụp đổ của chế độ phong
kiến, phản ánh đúng hướng phát triển của các quan hệ kinh tế tư bản chủ
nghĩa nên nó là một tác nhân chính trị quan trọng đối với sự phát triển của xã
hội. Sau Cách mạng Tháng Mười, Nhà nước Xô Viết - Một nhà nước xã hội
chủ nghĩa ra đời phù hợp với nguyện vọng của quảng đại quần chúng nhân
dân lao động, phù hợp với xu hướng xã hội hơn và sự phát triển ngày càng
cao của lực lợng sản xuất. Vì vậy, Nhà Nước Xô Viết đã tạo ra sự sự tự phát
thần kỳ của xã hội Xô Viết, trở tấm gương cho các nước xã hội chủ nghĩa và
các dân tộc [16].
Giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động muốn giải phóng
mình khỏi các quan hệ tư sản và tiểu tư sản, cải tạo các quan hệ kinh tế, làm
chủ sở hữu của các tư liệu sản xuất cơ bản, phát triển lực lượng sản xuất, tăng
cường kinh tế, trước hết phải tổ chức mình thành giai cấp thống trị. Trong
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Giai đoạn
thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai đoạn giai cấp vô sản tự xây
dựng thành giai cấp thống trị , là giai đoạn giành lấy dân chủ. Giai cấp vô

23


sản sẽ dùng sự thống trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản
trong tay giai cấp tư sản, để tập trung những công cụ sản xuất vào trong tay

Nhà nước tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp
thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất lên” [38].
Nhà nước - một thể chế chính trị về tổ chức, giai cấp vô sản được tổ
chức thành giai cấp thống trị, là một phương tiện, công cụ để đạt được các
mục tiêu kinh tế của giai cấp vô sản.
Như vậy, qua những điều trình bày ở trên, có thể thấy rằng thể chế
chính trị sẽ là lực lượng cải tạo xã hội khi phản ánh đúng đắn sự phát triển
khách quan của các quan hệ kinh tế, đời sống vật chất của xã hội. Cho nên,
việc thiết lập các thể chế chính trị phải tính toán một cách toàn diện đến xu hướng hoạt động khách quan của các quan hệ kinh tế, đời sống vật chất của xã
hội để phát huy vai trò tích cực của thể chế chính trị đối với sự tiến bộ xã hội.
Ngoài yếu tố kinh tế, thể chế chính trị còn chịu sự tác động của các yếu
tố khác trong đời sống xã hội. Một số thể chế chính trị tốt và phát huy được
vai trò tích cực trong đời sống của mọi xã hội thì phải có sự phù hợp với các
yếu tố của xã hội đó. Yếu tố dặc biệt quan trọng sau kinh tế, tác động đến thể
chế chính trị là yếu tố văn hoá. Thể chế chính trị phải phản ánh được văn hoá
truyền thống của dân tộc. Văn hoá được thừa nhận là động lực và mục tiêu
của sự phát triển. Cho nên, để phát huy vai trò thúc đẩy sự phát triển xã hội,
việc xây dựng thể chế chính trị phải tính đến các yếu tố văn hóa.
Không có tự do của một cá nhân trong một dân tộc nô lệ. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói:“Tất cả dân tộc toàn thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[39].
Quyền con người ở Việt Nam không chỉ là quyền cá nhân mà là cả
quyền dân tộc- bộ phận của quyền con người trong nội dung và mục đích của
mình.

24


Ngoài kinh tế, văn hoá, các thể chế chính trị để có thể đóng vai trò tích
cực trong đời sống xã hội còn phải phù hợp với hàng loạt các yếu tố khác như

điều kiện quốc tế, đặc điểm quan hệ dân tộc, trình độ phát triển khoa học công
nghệ, thậm chí các yếu tố địa lý tự nhiên.
Hoạt động của xã hội loài người được quy định bởi nhiều các định chế
khác nhau: Các định chế chính trị và các định chế phi chính trị. Định chế
chính trị như phần trên đã phân tích, bao gồm các quy tắc, các tổ chức thực
hiện quyền lự nhà nước ở tầm vĩ mô. Các định chế phi chính trị có rất nhiều.
Ví dụ: Như các định chế kinh tế, các định chế giáo dục, y tế, định chế xã hội...
Giữa những định chế chính trị và phi chính trị đều có liên quan mật thiết với
nhau, có ảnh hưởng tương hỗ cho nhau. Những thể chế liên quan đến nhà nước cũng tồn tại các loại rất khác nhau, có thể phân tích thành ba loại chính
theo nguyên tắc của sự phân chia quyền lực; Thể chế chính trị, thể chế hành
chính và thể chế tư pháp. Thể chế chính trị khác với các thể chế còn lại ở chỗ,
các công việc nhà nước do thể chế chính trị điều chỉnh ở tâm vĩ mô hơn, có
liên quan đến cách thức tổ chức quyền lực nhà nước. Còn thể chế hành chính
và thể chế tư pháp được biết đến trong phạm vi thực hiện quyền lực nhà ước ở
tầm vi mô. Sự phân biệt này cũng tương tự như sự phân biệt giữa chính trị với
hành chính, và giữa chính trị với tư pháp.
Chính trị là những vấn đề liên quan đến quyền lực của nhiều người
trong cộng đồng quốc gia, chúng đặt ra những nguyên tắc tổng quát có tính
mục tiêu cho hành chính và cho tư pháp. Nếu như các thể chế chính trị có
mục tiêu đặt ra những nguyên tắc tổng quát, phi cá nhân, thì của các thể chế
hành chính và của thể chế tư pháp là căn cứ vào đó để áp dụng cho các trường
hợp cụ thể. Người ta có khuynh hướng tách biệt hoạt động của quốc gia thành
hai bậc: Ở bậc trên là của các thể chế chính trị, bậc dưới phụ thuộc các thể
chế hành chính và tư pháp. Sự phân biệt trên chỉ tương đối rõ ràng trên bình

25


×