Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Đại diện không có ủy quyền và đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền trong pháp luật dân sự việt nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ LAN ANH

ĐẠI DIỆN KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN VÀ ĐẠI DIỆN
VƢỢT QUÁ PHẠM VI ỦY QUYỀN TRONG PHÁP
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ LAN ANH

ĐẠI DIỆN KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN VÀ ĐẠI DIỆN
VƢỢT QUÁ PHẠM VI ỦY QUYỀN TRONG PHÁP
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH

Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số

: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS.Nguyễn Minh Tuấn



Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Lan Anh


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................
MỤC LỤC .......................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 4
CHƢƠNG I - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN KHÔNG
CÓ ỦY QUYỀN VÀ ĐẠI DIỆN VƢỢT QUÁ PHẠM VI ỦY QUYỀN .... 10
1.

Một số vấn đề lý luận về đại diện và đại diện theo ủy quyền. ......................... 10

1.1 Khái quát chung về đại diện ............................................................................. 10
1.1.1 Khái niệm đại diện............................................................................................ 10

1.1.2 Đặc điểm đại diện ............................................................................................. 14
1.1.3 Phân loại đại diện ............................................................................................. 17
1.2 Đại diện theo ủy quyền ..................................................................................... 18
1.2.1 Khái niệm đại diện theo ủy quyền .................................................................... 18
1.2.2 Đặc điểm đại diện theo ủy quyền ..................................................................... 20
2.

Khái lược về đại diện không có ủy quyền và đại diện vượt quá phạm vi ủy
quyền. ............................................................................................................... 22

2.1 Đại diện không có ủy quyền. ............................................................................ 23
2.2 Đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền. .............................................................. 25
3.

Hậu quả pháp lý của đại diện không có ủy quyền và đại diện vượt quá phạm
vi ủy quyền. ...................................................................................................... 28
CHƢƠNG II - ĐẠI DIỆN KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN, ĐẠI DIỆN
VƢỢT QUÁ PHẠM VI ỦY QUYỀN TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ
VIỆT NAM HIỆN HÀNH ............................................................................. 32

1.

Đại diện không có ủy quyền và hậu quả pháp lý của đại diện không có ủy
quyền theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành. ........................................... 32

1.1 Đại diện không có ủy quyền theo quy định của pháp luật Dân sự Việt
Nam hiện hành. ................................................................................................. 32

1



1.2 Hậu quả pháp lý của đại diện không có ủy quyền theo pháp luật dân sự
Việt Nam hiện hành và so sánh với pháp luật của một số quốc gia khác. ....... 38
2.

Đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền và hậu quả pháp lý của đại diện vượt
quá phạm vi ủy quyền theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành. ................. 51

2.1 Đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền theo quy định của pháp luật Dân sự
Việt Nam hiện hành. ......................................................................................... 51
2.2 Hậu quả pháp lý của đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền theo pháp luật
dân sự Việt Nam hiện hành và so sánh với pháp luật của một số quốc gia
khác................................................................................................................... 52
CHƢƠNG III - THỰC TRẠNG THI HÀNH VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN VỀ ĐẠI DIỆN KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN, ĐẠI DIỆN
VƢỢT QUÁ PHẠM VI ỦY QUYỀN TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ
VIỆT NAM HIỆN HÀNH ............................................................................. 60
1.

Thực trạng thi hành pháp luật dân sự Việt Nam về vấn đề đại diện không có
ủy quyền, đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền. .............................................. 60

2.

Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định về đại diện không có ủy
quyền, đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền. ................................................... 76
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 83

2



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDSVN

: Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005

BLDSVN 1995

: Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995

BLDSNB

: Bộ luật Dân sự Nhật Bản

BLDSTMTL

: Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan

BLDSP

: Bộ luật Dân sự Pháp

BLDSSG 1972

: Bộ luật Dân sự Sài Gòn năm 1972

3



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi kinh tế, xã hội càng phát triển, con người càng phải thực hiện nhiều công
việc khác nhau để đáp ứng nhu cầu về đời sống của mình, mà hầu hết các nhu cầu
trong đời sống của con người được đáp ứng thông qua các mối quan hệ với những
người khác. Vì nhiều lý do khác nhau mà chính bản thân họ không thể tự mình thực
hiện toàn bộ các công việc mong muốn, nên họ phải nhờ đến sự trợ giúp của những
người khác. Các lý do như: sự hạn hẹp của thời gian khiến họ không thể cùng lúc
thực hiện nhiều công việc, sự thiếu thành tạo trong lĩnh vực mà họ muốn làm khiến
công việc trở nên khó khăn hơn hoặc do chính bản thân họ bị khuyết đi khả năng
thực hiện quyền mà pháp luật cho phép....họ cần một người khác hành động nhân
danh mình và vì lợi ích của mình. Vì vậy vấn đề đại diện được đưa ra như một giải
pháp hữu hiệu giải quyết bài toán trên.
Đại diện là việc một người thực hiện công việc nhân danh người khác và vì lợi
ích của người khác. Để các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do người đại diện
xác lập trở thành quyền, nghĩa vụ của người được đại diện thì người xác lập giao
dịch đó phải có quyền đại diện và phải hành động trong phạm vi đại diện.
Theo nghĩa rộng, người không có quyền đại diện bao gồm những người thực
hiện công việc nhân danh người khác và vì lợi ích của người khác nhưng không có
căn cứ xác lập quyền đại diện hoặc hành động vượt quá phạm vi đại diện của
mình.
Điều 145, điều 146 BLDSVN quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân
sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện và giao dịch dân sự do
người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện. Tuy nhiên những quy
định này phần nào đã bộc lộ những bất cập như quy định gây khó hiểu, khó áp dụng
cũng như chưa phù hợp với thực tiễn của Việt Nam hiện nay. Theo cách phân loại
đại diện quy định trong BLDSVN, tác giả bóc tách quy định tại điều 145, điều 146

4



nhằm đi sâu nghiên cứu về những hậu quả pháp lý của các trường hợp đại diện mà
không đủ căn cứ xác lập quyền đại diện theo loại hình đại diện theo ủy quyền.
Những ràng buộc pháp lý của người đại diện không có ủy quyền là vấn đề
quan trọng, góp phần tạo nên giá trị của chế định đại diện, có ý nghĩa bảo đảm ổn
định, an toàn pháp lý cho quan hệ đại diện. Bản chất của quan hệ đại diện rất dễ bị
phá vỡ, những tranh chấp nảy sinh từ việc hành động của người không có quyền đại
diện là không thể tránh khỏi trong đời sống dân sự. Do đó vấn đề này cần được
nghiên cứu cụ thể để đưa ra những quy định, hướng dẫn thực hiện đảm bảo quyền
lợi của các bên tham gia giao dịch.
Luận văn “Đại diện không có ủy quyền và đại diện vượt quá phạm vi ủy
quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành” sẽ đi sâu nghiên cứu, phân
tích, đánh giá toàn bộ các quy định của hệ thống Pháp luật Dân sự Việt Nam về hậu
quả pháp lý của đại diện không có ủy quyền, đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền.
Nghiên cứu, so sánh với pháp luật của một số quốc gia như Nhật Bản, Pháp, Thái
Lan ... để đưa ra đánh giá về ưu, nhược điểm của các quy định trong hệ thống pháp
luật Dân sự Việt Nam và đề xuất một số giải pháp mang tính hoàn thiện cho quá
trình sửa đổi pháp luật Dân sự tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các công trình liên quan về vấn đề này bao gồm nhiều luận văn thạc sỹ, các
sách, bài viết chuyên khảo. Có thể nêu ra đây một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu như sau:
Luận văn thạc sĩ Quan hệ đại diện theo ủy quyền trong hoạt động thươmg
mại của tác giả Đinh Thị Thanh Thủy năm 2004, tác giả làm rõ những vấn đề lý
luận cơ bản về quan hệ đại diện theo uỷ quyền trong hoạt động thương mại. Nghiên
cứu thực trạng pháp luật về quan hệ đại diện theo uỷ quyền trong hệ thống pháp luật
nói chung và hoạt động thương mại nói riêng. Trên cơ sở đó đưa ra những khuyến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quan hệ đại diện theo uỷ quyền ở Việt Nam.
Đại diện trong giao kết hợp đồng của tác giả Cao Văn Tuân năm 2008, tác
giả đi sâu vào làm rõ vấn đề đại diện theo uỷ quyền. Việc giao kết, xác lập, thực


5


hịên hợp đồng của người uỷ quyền và người đại diện. Bài viết đi vào làm rõ quan hệ
đại diện trong giao kết hợp đồng thì nó sẽ phát sinh những hậu quả pháp lý gì, trách
nhiệm của các bên liên quan ra sao. Bài viết cũng giúp người ta hiểu được địa vị
pháp lý của mình là ở đâu trong quan hệ đại diện.
Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – Nhìn từ góc độ
luật so sánh, ấn phẩm Nhà nước và pháp luật của Viện Nhà nước và pháp luật số
4/2009, trang 26-31. Bài viết đưa ra quan điểm về đại diện theo quy định của pháp
luật Việt Nam trên tổng quan so sánh với hệ thống pháp luật của một số quốc gia
thuộc hệ thống pháp luật Common law và Civil law, cho thấy chế định đại diện
trong BLDSVN có nhiều hạn chế cần phải có “những thảo luận lớn về chế định này
để góp phần hoàn thiện nó”.
Luận văn thạc sĩ Pháp luật Việt Nam về đại diện trong quan hệ hợp đồng của
tác giả Đỗ Hoàng Yến năm 2012, tác giả trình bày khái luận về chế định đại diện.
Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về đại diện trong quan hệ hợp đồng: nguồn
luật điều chỉnh đại diện trong quan hệ hợp đồng; những quy định pháp luật Việt
Nam hiện hành về đại diện trong quan hệ hợp đồng; những tranh chấp thực tế liên
quan đến đại diện trong quan hệ hợp đồng. Tìm hiểu cơ sở và định hướng giải pháp
hoàn thiện pháp luật về Đại diện trong quan hệ hợp đồng.
Luận văn thạc sĩ Đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự Việt Nam của
tác giả Lê Hùng Nhân năm 2012, tác giả đưa ra một số vấn đề lý luận về đại diện
theo ủy quyền trong tố tụng dân sự. Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện
hành về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự. Nêu rõ thực trạng áp dụng các
quy định về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự. Đề xuất phương hướng,
giải pháp hoàn thiện về mặt lập pháp cũng như về mặt thi hành pháp luật về đại diện
theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.
Bên cạnh đó còn nhiều các đề tài khoa học khác về đại diện như: “Phạm vi đại

diện, thẩm quyền đại diện nhìn từ góc độ lý luận và thực trạng pháp luật” của tác
giả Hồ Ngọc Hiển năm 2011, đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, từ trang 4854; “Hoàn thiện chế định đại diện trong hệ thống pháp luật thương mại Việt

6


Nam” của tác giả Phùng Thị Yến năm 2009, Đại học quốc gia Hà Nội và các sách
chuyên khảo. Các công trình khoa học trên đề cập đến các khía cạnh khác nhau của
chế định đại diện, nhưng chưa đi sâu phân tích và nghiên cứu về vấn đề đại diện
không có ủy quyền, đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền trong chế định đại diện. Vì
vậy, khi thực hiện đề tài này, tác giả hy vọng đề tài sẽ đóng góp phần công sức nhỏ
bé trong quá trình hoàn thiện chế định đại diện của hệ thống pháp luật dân sự Việt
Nam.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu, đánh giá vấn đề pháp lý đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các
bên trong quan hệ đại diện không có ủy quyền, đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền.
Đưa ra những góp ý, đề xuất về mặt lý luận để những quy định về đại diện không có
ủy quyền, đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền nói riêng và chế định đại diện nói
chung phát huy tối đa tác dụng trong đời sống pháp luật dân sự tại Việt Nam.
Phân tích đánh giá các quy định về đại diện không có ủy quyền, đại diện vượt
quá phạm vi ủy quyền theo quy định của pháp luật Dân sự Việt Nam. Nghiên cứu
các quy định về đại diện không có ủy quyền theo quy định của pháp luật Dân sự
một số quốc gia như Đức, Pháp, Anh, Mỹ; từ đó so sánh với các quy định của pháp
luật Dân sự Việt Nam, đánh giá sự phù hợp với điều kiện xã hội Việt Nam hiện tại
để đưa ra những đóp góp về mặt lý luận, thực tiễn đối với các quy định về đại diện
không có ủy quyền.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện
hành và pháp luật một số nước trên thế giới về đại diện không có ủy quyền, đại diện
vượt quá phạm vi ủy quyền.

Phạm vi nghiên cứu: Theo pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành có hai loại
đại diện là đại diện theo ủy quyền và đại diện theo pháp luật được quy định trong
BLDSVN. Nội dung của hai hình thức đại diện này đã có nhiều công trình nghiên
cứu ở các cấp độ khác nhau. Trong thực tiễn ở Việt Nam cũng như trên thế giới việc
đại diện không theo ủy quyền và không theo pháp luật vẫn tồn tại trong kinh doanh

7


thương mại và trong các quan hệ dân sự. Do vậy, đề tài nghiên cứu chuyên sâu
những vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện không có ủy quyền, đại diện vượt quá
phạm vi ủy quyền trong các giao dịch dân sự thuần túy, có mở rộng đến các giao
dịch có tính chất thương mại trên lãnh thổ Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của Triết học Mác- Lênin về Nhà nước pháp quyền, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra các phương pháp nghiên cứu khoa học
khác cũng được sử dụng như: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp đối
chiếu so sánh, phương pháp thống kê và phương pháp lịch sử.
Mặc dù đề tài có tên là “Đại diện không có ủy quyền và đại diện vượt quá
phạm vi ủy quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành”, nhưng chỉ phân
tích, tổng hợp các quy phạm pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành sẽ không đủ để
đưa ra được các đánh giá mang tính tổng quát, không thể nhìn nhận được những
thiếu xót trong các quy định. Khi sử dụng phương pháp đối chiếu so sánh (bao gồm
việc so sánh với các quy định pháp luật của các nền lập pháp tiên tiến trên thế giới),
phương pháp lịch sử, luận văn sẽ đưa ra được bức tranh toàn cảnh cho vấn đề cũng
như những kiến nghị mang tính xây dựng, nhằm góp phần hoàn thiện các quy định
của pháp luật.
6. Đóng góp của đề tài
So với các đề tài đã nêu trên đây, đề tài này nghiên cứu làm rõ bản chất, các

vấn đề lý luận cơ bản của vấn đề đại diện không có ủy quyền, đại diện vượt quá
phạm vi ủy quyền trong hệ thống pháp luật Dân sự Việt Nam. Đánh giá khách quan
các quy định trên cơ sở thực tiễn; so sánh với những quy định mang tính tiến bộ,
phù hợp của pháp luật các quốc gia có nền lập pháp tiên tiến nhằm khắc phục, chỉnh
sửa những bất cập, tồn tại theo hướng phù hợp với nhu cầu thực tiễn của xã hội.
Điều đó cũng có nghĩa là tạo một hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể pháp
luật dân sự trong quan hệ đại diện mà trước đây, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên
cứu.

8


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 03 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận về đại diện không có ủy quyền và đại diện
vượt quá phạm vi ủy quyền.
Chương II: Đại diện không có ủy quyền, đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền
trong pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành.
Chương III: Thực trạng thi hành và những kiến nghị hoàn thiện về đại diện
không có ủy quyền, đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền trong pháp luật Dân sự
Việt Nam hiện hành.

9


CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN VÀ
ĐẠI DIỆN VƢỢT QUÁ PHẠM VI ỦY QUYỀN
1. Một số vấn đề lý luận về đại diện và đại diện theo ủy quyền.

1.1 Khái quát chung về đại diện
1.1.1 Khái niệm đại diện
Trước tiên, để hiểu các vấn đề về đại diện không có ủy quyền, đại diện vượt
quá phạm vi ủy quyền, những hậu quả pháp lý của chúng cũng như các trường hợp
ngoại lệ được pháp luật chấp nhận nhằm bảo vệ quyền của các chủ thể tham gia
giao dịch, tác giả mong muốn tìm hiểu những vấn đề lý luận về đại diện, vì nó là
nguồn cội của đề tài này.
Ngày nay, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của chế định đại diện
trong hệ thống pháp luật dân sự. Tuy nhiên, pháp luật La Mã trước đây không ghi
nhận chế độ đại diện mặc dù trong xã hội La Mã vẫn tồn tại những mối quan hệ
giữa người được đại diện, người đại diện và bên thứ ba.
Theo PGS.TS Ngô Huy Cương:
Trước kia Luật La Mã không chấp nhận vấn đề đại diện do tính
trọng hình thức đối với hợp đồng, vì vậy gây khó khăn lớn cho các
giao dịch. Ở thời kỳ này, người chủ gia đình (paterfamilias) có thể
giao kết hợp đồng thông qua người trong gia đình, và cũng có thể
giao kết hợp đồng thông qua người ngoài gia đình trong những điều
kiện nhất định. Người trong gia đình có thể đại diện hoàn hảo cho
người chủ gia đình đối với những hợp đồng mà người chủ gia đình
trở thành trái chủ, nhưng không thể làm cho chủ gia đình trở thành
người thụ trái bởi thi hành một nguyên tắc alieni juri không thể làm
cho tình trạng của chủ xấu đi, trừ khi đối với những hợp đồng giao
vật. Đối với việc giao kết hợp đồng thông qua người ngoài gia đình
dù với tư cách trái chủ hay người thụ trái (ví dụ trong hợp đồng
mua bán), thì người thứ ba giao kết hợp đồng với người thụ ủy, tuy

10


nhiên có thể có tố quyền do pháp quan ban cho để đòi người thứ ba

thi hành nghĩa vụ. Giải thích vấn đề ngày trong Luật La Mã, và giải
thích sự khác nhau giữa truyền thống Common Law và truyền
thống Civil Law về vấn đề này, Konrad Zweigert và Hein Koetz
cho rằng, người chủ gia đình thủ đắc quyền sở hữu mọi thứ do nô lệ
và người trong gia đình có được từ người thứ ba, bởi trong xã hội
La Mã lúc bấy giờ những người này chỉ được xem như cánh tay nối
dài của chủ gia đình, chứ không phải bởi chủ gia đình ủy quyền cho
họ [1].
Ngược lại với Luật La Mã, hệ thống pháp luật Common Law lại ghi nhận chế
định đại diện và thúc đẩy chế định này phát triển như một chìa khóa vàng để đẩy
mạnh giao thương cũng như các quan hệ dân sự vào thế kỷ XVIII.
Đời sống dân sự hết sức đa dạng, con người đôi khi không thể tự mình tham
gia vào các quan hệ pháp luật dân sự khi thời gian và năng lực có hạn. Việc thông
qua một người khác để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhân danh bản thân mình
như một giải pháp hữu hiệu giải quyết hạn chế này. Tuy nhiên, chế định đại diện
không có tính vạn năng, đối với quan hệ pháp luật dân sự như quan hệ về nhân thân
(hôn nhân, lập di chúc, nhận con nuôi…….) vấn đề đại diện không được đặt ra vì
đây là những quan hệ pháp luật dân sự có tính đặc thù cần phải được xác lập, thực
hiện bằng chính ý chí của những người có quyền lợi liên quan.
Xét về mặt ngữ nghĩa, “đại diện” theo từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ
học có nghĩa là “thay mặt cho cá nhân hoặc tập thể” [10]. Một số bộ luật dân sự của
các quốc gia như Nhật Bản, Pháp, …. đều không đưa ra khái niệm cụ thể về đại
diện. Nhưng qua các quy định trong các chương về chế định đại diện cũng có thể
nắm bắt được khái niệm chung về đại diện.
Đơn cử như khoản 1, điều 99 BLDSNB quy định:
1. Người đại diện thể hiện ý chí cũng như hành động thay mặt
người được đại diện trong phạm vi thẩm quyền đại diện sẽ ràng
buộc người được đại diện. [16]

11



BLDSVN định nghĩa đại diện tại khoản 1 điều 139 như sau:
Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân
danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại
diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện
[19].
Qua những quy định này có thể thấy đại diện chính là việc một người thực
hiện công việc thay cho người khác và vì quyền lợi của người khác, nóphù hợp với
nguyên tắc tại khoản 2 điều 148 BLDSVN: “Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có
thể xác lập, thực hiện giao dịch thông qua người đại diện”. Pháp luật dân sự Việt
Nam ghi nhận ràng buộc về mặt pháp lý giữa người được đại diện, người đại diện
và bên thứ ba trên nguyên tắc “người được đại diện có quyền và nghĩa vụ phát sinh
từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập” quy định tại khoản 4, điều 139
BLDSVN. Từ những định nghĩa về đại diện của pháp luật một số nước và của Việt
Nam, có thể thấy rằng quyền tự do xác lập, thực hiện các giao dịch trong đời sống
dân sự thông qua một người đại diện được Việt Nam cũng như các quốc gia trên
thừa nhận và điều chỉnh bởi luật pháp.
Có ba quan hệ pháp lý cơ bản cấu thành nên quan hệ đại diện giữa các chủ thể;
đó là quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện, quan hệ giữa người đại
diện và người thứ ba, cuối cùng là quan hệ giữa người được đại diện và người thứ
ba. Người thứ ba ở đây chính là thủ thể tham gia giao dịch dân sự với người đại
diện nhằm xác lập, thực hiện các giao dịch vì quyền lợi và nghĩa vụ của người được
đại diện.
Quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện có tính chất “nội bộ”,
mọi thỏa thuận về nội dung công việc, quyền lợi và nghĩa vụ cụ thể của các bên
trong quan hệ này chỉ có giá trị ràng buộc giữa người được đại diện và người đại
diện, không tác động đến các chủ thể khác. Do đó, bên thứ ba khi tham gia giao
dịch với người đại diện không cần quan tâm và cũng không buộc phải biết giữa
người đại diện và người được đại diện thỏa thuận nội dung gì về vấn đề đại diện


12


giữa họ. Vấn đề cốt lõi bên thứ ba cần chú tâm đó là người đại diện có quyền thay
mặt người được đại diện trong giao dịch với mình hay không.
Quan hệ giữa người đại diện và bên thứ ba được coi là quan hệ phái sinh từ
quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện vì những giao dịch giữa người
đại diện và bên thứ ba nằm trong khuôn khổ cho phép của nội dung công việc được
thỏa thuận trong quan hệ trên. Nếu người đại diện và bên thứ ba xác lập, thực hiện
giao dịch theo đúng phạm vi, thẩm quyền đại diện thì quan hệ giữa người đại diện
và bên thứ ba không được quan tâm xem xét nhiều. Nhưng vì tôn trọng sự tự do,
thỏa thuận của các bên mà pháp luật dân sự không có cơ chế nào đảm bảo quan hệ
giữa người đại diện và bên thứ ba không đi quá phạm vi cho phép, lúc này tính ổn
định của quan hệ đại diện bị xâm phạm và cần phải xem xét những hậu quả pháp lý
có thể xảy ra của quan hệ này.
Quan hệ giữa người được đại diện và bên thứ ba là kết quả của hai mối quan
hệ trên và cũng là mối quan hệ thể hiện được bản chất của chế định đại diện. Vì
người đại diện chỉ hành động thay người được đại diện, do vậy người được đại diện
và bên thứ ba sẽ có trách nhiệm với nhau như thế nào khi giao dịch được xác lập,
thực hiện bởi người đại diện. Bản chất của chế định đại diện nằm ở quan hệ này bởi
một người thay mặt người khác xác lập, thực hiện giao dịch nhằm đem lại lợi ích
hoặc những ràng buộc pháp lý (nghĩa vụ) cho người đó mà không phải cho chính
bản thân mình; quan điểm này được pháp luật của hầu hết các nước nhìn nhận như
nhau.
Đại diện diễn ra trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội dân sự, nó có tính đa
dạng từ đại diện trong những quan hệ dân sự đơn giản như cha mẹ đại diện cho con
chưa thành niên tham gia các giao dịch phục vụ cho chính nhu cầu hàng ngày của
con mình; đến đại diện trong những quan hệ dân sự phức tạp hơn giữa các cá nhân,
pháp nhân giao kết, thực hiện hợp đồng nhằm đem lại những lợi ích nhất định cả về

mặt vật chất và phi vật chất…Dù tính chất của các quan hệ trong các giao dịch trên
đơn giản hay phức tạp thì đại diện vẫn là một phương thức hữu hiệu giải quyết vấn
đề hạn chế về mặt thời gian, kinh nghiệm …. của chủ thể là bên được đại diện.

13


Ngoài ra, đại diện còn đem lại một vai trò rất lớn trong việc tận dụng nguồn nhân
lực trong xã hội có sự phân công lao động rõ rệt như hiện nay. Xã hội ngày càng
phát triển, các giao dịch dân sự ngày càng đa dạng và phức tạp, đặc biệt là các giao
dịch dân sự có tính chất chuyên môn đòi hỏi sự hiểu biết và kinh nghiệm, do vậy,
không phải bất cứ chủ thể nào cũng có khả năng tự mình đáp ứng được điều kiện về
chuyên môn. Tự bản thân họ nếu thực hiện công việc sẽ gặp nhiều khó khăn, tốn
kém về thời gian, kinh tế và sức lực. Họ phải nhờ đến những người có chuyên môn
và những người có chuyên môn cung ứng dịch vụ với tư cách người đại diện để
thay mặt khách hàng thực hiện các công việc theo yêu cầu. Một số các công việc có
thể thường thấy trong hầu hết các xã hội hiện đại ngày nay như luật sư làm đại diện
cho khách hàng trong các giao dịch ký kết và thực hiện hợp đồng, mua bán cổ phiếu
thông qua một công ty chứng khoán, giao dịch ủy nhiệm của chủ tài khoản ngân
hàng thông qua ngân hàng ….Vì các lý do trên, đại diện được xem là chế định có
vai trò lớn trong quan hệ pháp luật dân sự nói chung cần phải được quan tâm và
hoàn thiện nhằm tạo cơ sở vững chắc cho đời sống dân sự phát triển mạnh mẽ.
..., ý nghĩa xã hội pháp lý của chế định đại diện được thể hiện chính
là ở chỗ nhờ có nó mà một người có thể sử dụng tri thức, khả năng,
kinh nghiệm của người đại diện và tiếp nhận kết quả từ hành vi
pháp lý của người đó. Đại diện là chế định có chức năng trợ giúp xã
hội, là một trong những thành quả của trí tuệ pháp lý của loài
người, mang tính nhân văn...[8, tr.323].
1.1.2 Đặc điểm đại diện
Thứ nhất, đại diện làm phát sinh quan hệ pháp luật bên trong giữa người đại

diện với người được đại diện, và quan hệ pháp luật bên ngoài giữa người đại diện
với bên thứ ba. Mối quan hệ bên trong có thể được hình thành từ nhiều cách khác
nhau theo quy định của pháp luật và theo hợp đồng, nó là cơ sở để mối quan hệ bên
ngoài được xuất hiện và tồn tại.
Thứ hai, người đại diện biểu lộ ý chí của bản thân mình một cách trực tiếp với
người thứ ba để xác lập, thực hiện giao dịch. Vì, người được đại diện đã trao quyền

14


của mình cho người đại diện thì đương nhiên người đại diện sẽ là người trực tiếp
biểu lộ ý chí của họ đối với bên thứ ba chứ không phải người được đại diện.
Thứ ba, hậu quả pháp lý từ các giao dịch mà người đại diện thực hiện trong
phạm vi đại diện sẽ do người được đại diện tiếp nhận. Các giao dịch dân sự do
người đại diện xác lập, thực hiện nhằm mang lại quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
giao dịch cho người được đại diện mà không phải cho bản thân mình. Hay nói cách
khác, trong quan hệ đại diện, việc xác lập và thực hiện giao dịch giữa người được
đại diện và bên thứ ba có tính gián tiếp, nhưng hậu quả pháp lý phát sinh và ràng
buộc bên thứ ba với người được đại diện lại có tính trực tiếp.
Thứ tư, đặc điểm về phạm vi đại diện. Có thể hiểu phạm vi đại diện là giới
hạn hành vi mà người đại diện được phép thực hiện dưới danh nghĩa của người
được đại diện hay nói theo cách khác để biết được thẩm quyền của người đại diện ta
cần xem xét phạm vi đại diện. Phạm vi đại diện có thể hạn hẹp như việc đại diện
thực hiện một công việc nhất định trong một thời điểm cụ thể hoặc có thể rộng như
đại diện theo pháp luật của một pháp nhân…. nhưng xét về vấn đề đại diện không
thể bỏ qua yếu tố về phạm vi đại diện. Mọi hành vi mà người đại diện thay người
được đại diện thực hiện trong phạm vi đại diện đương nhiên sẽ đem lại những hậu
quả pháp lý đối với người được đại diện. Người đại diện không được thực hiện các
hành vi vượt quá giới hạn cho phép, vì khi đó hậu quả pháp lý phát sinh từ những
hành vi này không đương nhiên thuộc về người được đại diện.

Trên đây là những đặc điểm chung nhất của quan hệ đại diện nhằm phân biệt
quan hệ đại diện với các quan hệ khác. Tuy nhiên, có một số đặc điểm mà pháp luật
ở các quốc gia khác nhau lại có những quan điểm khác nhau như đặc điểm người
đại diện giao dịch với bên thứ ba nhân danh người được đại diện hoặc nhân danh
chính bản thân mình hay đặc điểm về năng lực của người đại diện.
Pháp luật dân sự Việt Nam yêu cầu người đại diện thực hiện hành vi đại diện
phải nhân danh người được đại diện, nếu hành động với danh nghĩa riêng thì không
có quan hệ đại diện. Đặc điểm này được khẳng định rõ ràng trong định nghĩa về đại
điện được nêu tại khoản 1 điều 139 BLDSVN.

15


Trong khi đó, pháp luật dân sự Nhật Bản lại cho phép người đại diện hành
động nhân danh người đại diện hoặc nhân danh chính mình nhưng mục đích vẫn vì
quyền lợi và nghĩa vụ của người được đại diện:
Khi thực hiện hành vi đại diện trước người thứ ba, người đại diện
cần tỏ rõ cho người thứ ba biết là mình thực hiện các hành vi nhất
định với tư cách người được đại diện và hậu quả pháp lý sẽ do
người được đại diện gánh chịu (xem khoản 1 điều 99 của Bộ luật
dân sự). Đó là nguyên tắc công khai của hành vi đại diện. Khi nội
dung của sự thể hiện ý chí cho thấy rõ ai là người được đại diện thì
việc nêu tên người đó là không bắt buộc (điều 100 của Bộ luật Dân
sự). Mặt khác khi bên đối tác biết hoặc phải biết là người đại diện,
mặc dù nêu rõ việc đại diện với tư cách của người được đại diện,
nhưng hành động vì quyền lợi của mình thì cần coi hành vi đó là vô
hiệu theo quy định tương tự tại điều 93 của Bộ luật Dân sự [9,
tr.156].
Đối với năng lực của người đại diện, pháp luật dân sự Việt Nam lại cho rằng
người đại diện là cá nhân phải là người có năng lực hành vi dân sự vì người này

nhân danh người được đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nên phải có đủ tư
cách của người tham gia giao dịch dân sự. Nhưng trong một số trường hợp pháp
luật không cấm thì người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể làm
người đại diện theo ủy quyền.
Điều 139. Đại diện

5. Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 143 của Bộ luật này.
Điều 143. Ngƣời đại diện theo ủy quyền

2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là
người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy địn giao

16


dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực
hiện. [19]
Ngược lại, quan điểm của các nhà lập pháp Nhật Bản lại cho rằng vấn đề năng
lực hành vi dân sự của người được đại diện không nên bị hạn chế, vì đại diện theo
pháp luật đã được pháp luật quy định rõ trong từng trường hợp, còn đối với đại diện
theo ủy quyền thì đó là sự tự do lựa chọn của người được đại diện và họ có trách
nhiệm với lựa chọn đó của mình, vấn đề này được quy định tại điều 102 BLDSNB
[16].
Mặc dù đặc điểm của chế định đại diện có sự khác nhau giữa các quốc gia
nhưng chung nhất đại diện vẫn mang trong mình những đặc điểm cơ bản là những
dấu hiệu nhận biết sự tồn tại của quan hệ đại diện: (1) đại diện làm phát sinh quan
hệ pháp luật bên trong giữa người đại diện với người được đại diện, và quan hệ
pháp luật bên ngoài giữa người đại diện với bên thứ ba, (2) người đại diện biểu lộ ý
chí của bản thân mình một cách trực tiếp với người thứ ba để xác lập, thực hiện giao

dịch; (3) hậu quả pháp lý từ các giao dịch mà người đại diện thực hiện trong phạm
vi đại diện sẽ do người được đại diện tiếp nhận; (4) phạm vi đại diện là giới hạn
hành vi mà người đại diện được phép thực hiện dưới danh nghĩa của người được đại
diện.
1.1.3 Phân loại đại diện
Dựa trên căn cứ xác lập quan hệ đại diện thì đại diện được phân làm hai loại là
đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền.
Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định. Pháp luật thường quy định những trường hợp đại
diện mà trong mọi hoàn cảnh, điều kiện pháp lý luật định thì quan hệ đại diện sẽ
được xác lập và tuân thủ các quy định đó; đây được gọi là đại diện đương nhiên.
Ngoài ra, pháp luật cho phép các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định lựa
chọn người đại diện trong một số trường hợp với những điều kiện cụ thể bằng một
quyết định có hiệu lực, trong đó người được lựa chọn - người đại diện phải đạt các

17


điều kiện và tuân thủ các quy định pháp luật đề ra; đây được gọi là đại diện chỉ
định.
Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người
đại diện và người được đại diện. Ủy quyền là căn cứ phát sinh quan hệ đại diện,
trong trường hợp này đó cũng là cơ sở để người được đại diện tiếp nhận các quyền
và nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động đại diện của người đại diện mang lại. Phạm vi
đại diện chính là phạm vi ủy quyền, là giới hạn mà người đại diện được phép hành
động với tư cách của người đại diện và vì quyền lợi và nghĩa vụ của người đó. Sự
ủy quyền đại diện được xác lập thông qua văn bản như hợp đồng ủy quyền, hợp
đồng lao động, điều lệ… hoặc thông qua lời nói.
Phạm vi ủy quyền cũng biến động từ hẹp nhất đối với nội dung ủy quyền thực
hiện một công việc nhất định tại một thời điểm nhất định (ủy quyền một lần) đến

phạm vi rộng hơn như ủy quyền thực hiện một hoặc một vài công việc trong một
thời gian nhất định (ủy quyền riêng biệt), ủy quyền thực hiện toàn bộ công việc (ủy
quyền chung). Nếu nội hàm của phạm vi ủy quyền càng ít nội dung mang tính giới
hạn thì phạm vi đại diện càng rộng và ngược lại.
1.2 Đại diện theo ủy quyền
1.2.1 Khái niệm đại diện theo ủy quyền
Nhận định của các tác giả Tiến sĩ Bùi Đăng Hiếu và Thạc sĩ Kiều Thị Thanh
tại cuốn Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (tập 1) đã chỉ ra được tầm quan trọng của
đại diện theo ủy quyền trong đời sống pháp luật: “Ủy quyền là phương tiện pháp lý
cần thiết tạo điều kiện cho cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác của quan hệ dân
sự, bằng nhiều hình thức khác nhau có thể tham gia vào giao dịch dân sự một cách
thuận lợi nhất, bảo đảm thỏa mãn nhanh chóng các lợi ích vật chất, tinh thần mà chủ
thể quan tâm” [12, tr.159].
Ủy quyền theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học được định nghĩa là
“giao cho người khác sử dụng một số quyền mà pháp luật đã giao cho mình” [10,
tr.1088]. Tại khoản 1, điều 142 BLDSVN có quy định rõ “đại diện theo ủy quyền là
đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện”

18


[19]. Qua đó thấy rằng trong quan hệ đại diện theo ủy quyền, người ủy quyền chủ
động lựa chọn, trao cho người khác một hoặc một số quyền, nghĩa vụ của mình để
họ thay mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ đó và đem lại những ràng buộc về mặt
pháp lý cho bản thân người ủy quyền. Theo sự phân chia tại Bộ luật này, đại diện
theo ủy quyền được xem xét dưới hai hình thức là đại diện theo ủy quyền của cá
nhân và đại diện theo ủy quyền của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác [7].
Pháp luật dân sự Nhật Bản cũng phân loại đại diện thành hai hình thức là đại
diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền, đối với trường hợp đại diện theo ủy
quyền thì “một người trở thành người đại diện theo yêu cầu của người được đại

diện” và “yêu cầu đại diện trong đại diện theo ủy quyền thông thường được thể hiện
bằng hình thức ủy quyền”. BLDSNB cũng không quy định chặt chẽ về hình thức
của việc ủy quyền, ngoài hợp đồng ủy quyền, đại diện theo ủy quyền có thể phát
sinh từ một số hình thức khác như Hợp đồng liên kết, hợp đồng thuê lao động, hợp
đồng giao khoán [9, tr.147].
Pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành không quy định về hình thức của việc
ủy quyền mà để các bên tự do thỏa thuận, nhưng cũng có quy định cụ thể về hợp
đồng ủy quyền từ điều 581 đến 589 BLDSVN. Khi các bên lựa chọn hình thức ủy
quyền được lập thành hợp đồng thì đó là căn cứ pháp lý để các bên trong quan hệ
đại diện phải tuân theo. Pháp luật tôn trọng ý chí của các bên trong việc thỏa thuận
hình thức của việc ủy quyền. Tuy nhiên trên thực tế, các bên thường lựa chọn hình
thức ủy quyền bằng văn bản, có hoặc không có công chứng, chứng thực nhằm hạn
chế những rủi ro khi có tranh chấp liên quan đến việc ủy quyền xảy ra. Riêng với
pháp nhân, việc ủy quyền được thực hiện bởi người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân, ngoài tuân thủ các quy định của pháp luật về việc ủy quyền, người đại
diện theo pháp luật của pháp nhân còn phải tuân theo các quy định mang tính nội bộ
như nội quy, quy chế ủy quyền của pháp nhân mà không trái với các quy định của
pháp luật, do vậy, hình thức ủy quyền cũng đa dạng hơn so với hình thức ủy quyền
giữa các cá nhân với nhau hay giữa cá nhân với pháp nhân, văn bản ủy quyền có thể

19


là quyết định phân công công tác, quyết định giao việc, giấy giới thiệu hoặc quy chế
của pháp nhân...
1.2.2 Đặc điểm đại diện theo ủy quyền
Dù là đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền thì chúng đều mang
những đặc điểm chung của quan hệ đại diện. Tuy nhiên, vì căn cứ xác lập khác
nhau, do đó mỗi một loại quan hệ đại diện lại chứa đựng những đặc điểm riêng khác
biệt tạo nên sự đặc thù của chúng. So sánh đại diện theo pháp luật và đại diện theo

ủy quyền để thấy rõ những đặc điểm của đại diện theo ủy quyền:
- Như đã phân tích ở trên, đại diện theo pháp luật nói chung là đại diện trong
những trường hợp được pháp luật trao quyền (đại diện đương nhiên và đại diện chỉ
định), do đó, người đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự không phụ thuộc
hoàn toàn vào ý chí của người được đại diện, và cũng khó để xác định phạm vi đại
diện mà người đại diện phải hành động trừ đại diện theo chỉ định. Thông thường,
người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự vì quyền lợi và
nghĩa vụ của người được đại diện trên tinh thần trung thực, cẩn trọng và có lợi nhất
cho người được đại diện, phạm vi đại diện dường như không bị hạn chế.
Trong khi đó, đại diện theo ủy quyền được xác lập, thực hiện hoàn toàn phụ
thuộc vào ý chí của người được đại diện và người đại diện, phạm vi đại diện được
thể hiện rõ trong nội dung ủy quyền. Người đại diện theo ủy quyền hành động nhân
danh người được đại diện trong phạm vi đại diện và cũng trên tinh thần trung thực,
cẩn trọng, có lợi nhất cho người được đại diện. Tuy nhiên, phạm vi đại diện thường
bị hạn chế trong một hoặc một số công việc, một hoặc một vài giai đoạn của công
việc nào đó... và họ còn phải tuân theo những điều khoản khác pháp luật không quy
định do người đại diện nêu rõ trong nội dung ủy quyền.
- Phạm vi đại diện theo pháp luật thường rộng hơn phạm vi đại diện theo ủy
quyền. Do chủ thể là người được đại diện trong trường hợp này có những đặc điểm
đặc biệt như cá nhân chưa có đủ năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành
vi dân sự hoặc chủ thể là pháp nhân, tổ chức không thể tự mình xác lập, thực hiện
các giao dịch; pháp luật quy định hoặc cơ quan có thẩm quyền chỉ định người đại

20


diện và họ sẽ có quyền thực hiện mọi giao dịch dân sự thay mặt người được đại
diện, vì quyền lợi và nghĩa vụ của người được đại diện mà không bị hạn chế trong
một phạm vi nào.
Ngược lại, trong quan hệ đại diện theo ủy quyền, các bên chủ thể hoàn toàn có

quyền thỏa thuận về phạm vi đại diện. Bên có quyền – bên được đại diện bằng ý chí
của mình chủ động trong việc quyết định những giới hạn cho việc ủy quyền và họ
sẽ tìm kiếm người đại diện phù hợp với yêu cầu của mình. Do đó, phạm vi đại diện
theo pháp luật thường có những giới hạn khác nhau từ hẹp nhất đến rộng nhất phụ
thuộc vào ý chí của các chủ thể xác lập quan hệ đại diện theo ủy quyền. Phạm vi
này thường được nêu rõ trong nội dung ủy quyền và người đại diện chỉ được hành
động trong phạm vi cho phép nhằm đem lại những hậu quả pháp lý từ những giao
dịch dân sự cho người đại diện. Phạm vi đại diện theo ủy quyền có tính chất mềm
dẻo, nên nó cũng thường là vấn đề dễ bị phá vỡ trong quan hệ đại diện.
- Thẩm quyền đại diện cũng là điểm khác biệt giữa hai loại đại diện này và
cũng là vấn đề cần quan tâm xem xét vì mục đích của đại diện là việc người đại
diện thay mặt người được đại diện xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự. Mà thẩm
quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự là một trong những yếu tố quan trọng xác
định giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật hay không, thẩm quyền xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự được xác định dựa trên thẩm quyền đại diện trong quan hệ
giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện với bên thứ ba. Thẩm quyền đại diện
được xác định dựa trên căn cứ xác lập quan hệ đại diện và phạm vi đại diện. Đối với
đại diện theo pháp luật, dựa trên các quy định của pháp luật, bên thứ ba có thể dễ
dàng xác định được thẩm quyền đại diện của người đại diện có phù hợp hay không.
Nhưng đối với đại diện theo ủy quyền, căn cứ dựa trên sự thỏa thuận của bên đại
diện và bên được đại diện với nhiều hình thức khác nhau như lời nói, văn bản (hợp
đồng ủy quyền, giấy ủy quyền, giấy giới thiệu ….), bên thứ ba khó có thể xác định
một cách chính xác bên xưng danh đại diện có thẩm quyền đại diện hay không,
thẩm quyền đến đâu (phạm vi đại diện?); hoặc việc thông báo đại diện của người
được đại diện không rõ ràng khiến cho việc xác định thẩm quyền đại diện gặp khó

21


khăn. Có thể thấy rằng, thẩm quyền đại diện trong loại hình đại diện theo pháp luật

ít bị vi phạm hơn vấn đề thẩm quyền đại diện trong loại hình đại diện theo ủy
quyền.
2. Khái lƣợc về đại diện không có ủy quyền và đại diện vƣợt quá phạm vi ủy
quyền.
Để các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do người đại diện xác lập, thực
hiện trở thành quyền, nghĩa vụ của người được đại diện thì người xác lập, thực hiện
giao dịch đó phải có quyền đại diện và phải hành động trong phạm vi đại diện. Hay
nói cách khác, người đại diện phải có thẩm quyền đại diện.
Một người được coi là người không có quyền đại diện khi họ thực hiện công
việc nhân danh và vì quyền lợi và nghĩa vụ của người khác mà không có căn cứ xác
lập quyền đại diện (căn cứ theo pháp luật, căn cứ theo ủy quyền) hoặc hành động
vượt quá phạm vi đại diện của mình. Đề tài này đi sâu phân tích về đại diện không
có thẩm quyền và những hậu quả pháp lý của các hành vi do người không có thẩm
quyền đại diện xác lập, thực hiện trong khuôn khổ của hình thức đại diện theo ủy
quyền hoặc có thể hiểu đề tài này phân tích sâu về vấn đề đại diện không có ủy
quyền và đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền.
Như đã trình bày ở trên, đại diện theo ủy quyền là loại hình đại diện dễ bị vi
phạm về thẩm quyền hơn so với loại hình đại diện theo pháp luật. Chế định đại diện
được đặt ra ở hầu hết các quốc gia ban đầu chỉ quan tâm đến quyền lợi của bên
được đại diện, thiết lập các quy phạm bảo vệ tốt nhất quyền lợi của họ. Nhưng trong
quá trình pháp luật được áp dụng trên thực tiễn, và trên nguyên tắc bình đẳng giữa
các chủ thể trong giao dịch dân sự, quyền lợi của bên thứ ba cũng được đặt ra.
Đương nhiên đối với đại diện có thẩm quyền, tức là có sự ủy quyền và trong phạm
vi ủy quyền, dự liệu về rủi ro đã được các nhà làm luật quy định rõ. Đối với đại diện
không có thẩm quyền, cần phải nhìn nhận vấn đề một cách khách quan hơn. Nếu lấy
quyền lợi của bên được đại diện là trọng tâm, có thể thấy rằng không phải trong bất
cứ trường hợp nào, đại diện không có thẩm quyền cũng đem lại bất lợi cho người
được đại diện; người đại diện vẫn hành động dưới danh nghĩa của người được đại

22



×