Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Các hình thức đồng phạm trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh hà giang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 94 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

INH SểNG HI

Các hình thức đồng phạm
trong Luật hình sự Việt Nam
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

INH SểNG HI

Các hình thức đồng phạm
trong Luật hình sự Việt Nam
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. Lấ LAN CHI

H NI - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

ĐINH SÓNG HẢI


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC HÌNH THỨC
ĐỒNG PHẠM .................................................................................. 6
1.1.

Khái niệm đồng phạm, hình thức đồng phạm .............................. 6


1.1.1.

Khái niệm đồng phạm ........................................................................ 6

1.1.2.

Khái niệm hình thức đồng phạm ..................................................... 11

1.2.

Ý nghĩa, cơ sở phân loại, nội dung phân loại các hình thức
đồng phạm ...................................................................................... 16

1.2.1.

Ý nghĩa, cơ sở phân loại các hình thức đồng phạm......................... 16

1.2.2.

Nội dung phân loại các hình thức đồng phạm ................................. 19

1.3.

Đồng phạm và các hình thức đồng phạm theo pháp luật
quốc tế ............................................................................................. 39

Kết luận Chương 1 ........................................................................................ 44
Chương 2: THỰC TIỄN PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
VỀ CÁC HÌNH THỨC ĐỒNG PHẠM TẠI TỈNH HÀ
GIANG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

ÁP DỤNG .................................................................................... 45
2.1.

Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự
năm 2015 về các hình thức đồng phạm ....................................... 45


2.2.

Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự và một số tồn tại vướng
mắc đối với việc xác định các hình thức đồng phạm tại tỉnh
Hà Giang ......................................................................................... 54

2.2.1.

Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Giang ...... 54

2.2.2.

Một số tồn tại trong việc xác định các hình thức đồng phạm và
nguyên nhân ..................................................................................... 59

2.3.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ
luật hình sự về các hình thức đồng phạm.................................... 70

2.3.1.

Giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về các

hình thức đồng phạm ....................................................................... 70

2.3.2.

Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam năm về các hình thức đồng phạm ... 78

Kết luận Chương 2 ........................................................................................ 81
KẾT LUẬN .................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 84


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

PLHS:

Pháp luật hình sự

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Bảng tổng hợp số vụ án hình sự được thụ lý, giải quyết
tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang từ 2010 -1014
Bảng 2.2: Tương quan về một số tội của đồng phạm

56
57


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đồng phạm là hình thức phạm tội “đặc biệt”, đòi hỏi những điều kiện
riêng, khác với những trường hợp phạm tội riêng lẻ (về số lượng người tham
gia phạm tội, mối liên hệ giữa các đối tượng trong cùng vụ án cũng như tội
phạm mà cả nhóm hướng tới thực hiện). So với tội phạm do một người thực
hiện, đồng phạm thường nguy hiểm hơn, vì khi một nhóm người cùng cố ý
thực hiện hành vi phạm tội, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
sẽ tăng lên đáng kể, nhất là khi có sự câu kết chặt chẽ về tổ chức và cách thức
thực hiện, phát triển thành “phạm tội có tổ chức”, do đó việc xác định trách
nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm có một số điểm khác với
những trường hợp phạm tội riêng lẻ.
Trong khoa học Luật hình sự, căn cứ vào các đặc điểm về mặt chủ quan
và khách quan của tội phạm, đồng phạm được chia ra nhiều hình thức: đồng

phạm có thông mưu trước, đồng phạm không có thông mưu trước; đồng phạm
giản đơn và đồng phạm phức tạp. Ngoài ra còn có một trường hợp đặc biệt về
đồng phạm, đó là đồng phạm có tổ chức – phạm tội có tổ chức. Trong các
hình thức đồng phạm thì chỉ đồng phạm có tổ chức là tình tiết tăng nặng và
tình tiết định khung hình phạt. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, hình thức
đồng phạm có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định mức độ lỗi, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Trên cơ sở phân hóa các hình thức
đồng phạm, cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá đúng đắn hơn, toàn diện hơn
tính chất của trường hợp phạm tội, của vụ án và phân hóa vị trí, vai trò, trách
nhiệm hình sự của cá nhân người phạm tội trong vụ án có đồng phạm.
Tuy vậy, thực tiễn công tác điều tra, truy tố và xét xử cho thấy nhận
thức về đồng phạm nói chung và hình thức đồng phạm nói riêng hiện nay

1


chưa được thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, vẫn còn nhiều
quan điểm và ý kiến trái ngược nhau. Những ý kiến khác nhau này đã gây
khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Trên địa bàn tỉnh Hà Giang, do nhận
thức về bản chất pháp lý của các hình thức đồng phạm còn hạn chế nên việc
phân định giữa đồng phạm thường và đồng phạm có tổ chức còn chưa thống
nhất, ảnh hưởng đến công tác xét xử của một số Tòa án tại tỉnh Hà Giang.
Đồng phạm có thông mưu trước là phạm tội có tổ chức hoặc ngược lại. Có
những bản án tuy không có dấu hiệu sai phạm về mặt áp dụng pháp luật,
nhưng việc quy định chưa rõ ràng về tình tiết phạm tội có tổ chức tại khoản
3 Điều 20 phần Chung Bộ luật hình sự (BLHS) đã dẫn tới nhận định một số
bản án chưa làm rõ được nhận định “tính có tổ chức”, tính “câu kết chặt chẽ”
theo tinh thần điều luật quy định về phạm tội có tổ chức, cũng như trong
nhiều trường hợp chưa phân định rõ được vai trò trong các vụ án phạm tội
có tổ chức. Việc quyết định hình phạt đối với các bị cáo nhiều khi bị đánh

đồng, chưa lượng hóa được hình phạt phù hợp với vai trò và các tình tiết của
vụ án đối với từng bị cáo.
Những vấn đề nêu trên là lý do để nghiên cứu đề tài “Các hình thức
đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh
Hà Giang). Việc nghiên cứu đề tài này là quan trọng và cần thiết để hoàn
thiện và áp dụng đúng pháp luật hình sự nhằm bảo đảm xét xử vụ án hình sự
được nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Đồng phạm cũng như phạm tội có tổ chức là những vấn đề có tính phức
tạp cả về lý luận và thực tiễn, trong thời gian đã qua được các luật gia ít nhiều
đề cập đến trong những công trình nghiên cứu của mình dưới góc độ luật hình
sự, tội phạm học hoặc xã hội học pháp luật. Có nhiều nghiên cứu về đồng
phạm được công bố trên các sách, tạp chí, luận văn luận án. Nhưng tựu chung

2


lại thì các nghiên cứu chủ yếu theo ba xu hướng đó là: tiếp cận dưới góc độ
tội phạm học, luật hình sự và theo sự xuất hiện các vấn đề mới của xã hội.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu
về phạm tội có tổ chức như một số công trình tiêu biểu của các tác giả như:
GS.TSKH Lê Cảm với hệ thống sách chuyên khảo “Các nghiên cứu chuyên
khảo về phần chung BLHS” (NXB Công an nhân dân, 2000) đã đề cập đến
chế định đồng phạm trong đó có nói đến phạm tội có tổ chức, “Đồng phạm
trong luật Hình sự Việt Nam” của TS. Trần Quang Tiệp (NXB Tư pháp,
2007) với nội dung trình bày về khái niệm đồng phạm, các loại người đồng
phạm, các hình thức đồng phạm và trách nhiệm hình sự trong đồng phạm.
Mặt khác, có một số bài viết, đề tài tập trung phân tích trường hợp phạm tội
có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, chẳng hạn như “Phạm tội có tổ chức
và trách nhiệm hình sự đối với bọn phạm tội có tổ chức” của tác giả Nguyễn

Vạn Nguyên, hay đề tài luận văn cao học của Nguyễn Minh Đức “Hình thức
phạm tội có tổ chức trong chế định đồng phạm theo pháp luật Hình sự Việt
Nam” năm 1997. Tiếp cận ở góc độ tội phạm học là một số bài viết của các
tác giả nói về đồng phạm có tổ chức như: “Vấn đề tội phạm có tổ chức và
trách nhiệm hình sự pháp nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” của
GS.TS. Hồ Trọng Ngũ đăng trên tạp chí Lập pháp số 6/2009, bài nghiên cứu
“Đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức và tội phạm xuyên quốc gia
trong hội nhập kinh tế quốc tế” của PGS.TS Trần Hữu Ứng đăng trên tạp chí
Cộng sản điện tử. Một số bài viết của TS.Nguyễn Khắc Hải: “Đấu tranh
phòng chống tội phạm có tổ chức theo pháp luật hình sự Liên bang Nga”
trong tạp chí Khoa học – ĐHQG Hà Nội số 23/2007, “Nhận diện tội phạm có
tổ chức” (Kỷ yếu hội thảo khoa học về sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999) đã
củng cố thêm những nhận thức cơ bản trong việc tìm hiểu về đồng phạm có tổ
chức. Thêm vào đó, còn có các công trình như “Tội phạm có tổ chức – lịch sử

3


và vấn đề hôm nay” của GS.TS.Hồ Trọng Ngũ trả lời cho câu hỏi: “tội phạm
có tổ chức – nhận thức mới hay hiện tượng xã hội mới?”, bài viết “Tội phạm
có tổ chức và việc bổ sung chế định tổ chức tội phạm trong Bộ luật hình sự
Việt Nam” của TS.Lê Thị Sơn trong tạp chí Luật học số 12/2012, đề tài luận
án của Nguyễn Trung Thành “Phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt
Nam và việc đấu tranh phòng chống” năm 2002 đề cập chi tiết đến trường
hợp đồng phạm có tổ chức ở cả góc độ khoa học luật hình sự và tội phạm học.
Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã đề cập trên một số góc
độ về trường hợp phạm tội có tổ chức, nhưng phạm tội có tổ chức chỉ là một
trong các hình thức đồng phạm. Nghiên cứu chuyên sâu về hình thức đồng
phạm vẫn đang là một vấn đề còn bỏ ngỏ chưa thật sự được quan tâm trong
khoa học luật hình sự. Vì thế, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về hình thức

đồng phạm vẫn đang là điều cần được nghiên cứu để sửa đổi, và hoàn thiện.
3. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề các hình thức đồng phạm
trong luật hình sự Việt Nam, phạm vi nghiên cứu thực tiễn của đề tài giới hạn
trên địa bàn tỉnh Hà Giang và thời gian là 5 năm gần đây (2011-2014).
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Từ việc phân tích những vấn đề lý luận về các hình thức đồng phạm,
với các thông tin thực xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang, luận văn đưa ra một
số kiến nghị hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về các hình
thức đồng phạm và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này.
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những
nhiệm vụ sau cần giải quyết:
- Đưa ra khái niệm, cơ sở, ý nghĩa phân loại các hình thức đồng phạm;
- Xác định các nội dung phân loại hình thức đồng phạm;
- Nghiên cứu quy định của pháp luật về các hình thức đồng phạm;

4


- Nghiên cứu thực tiễn xét xử và xác định những tồn tại vướng mắc đối
với việc xác định các hình thức đồng phạm tại tỉnh Hà Giang, nguyên nhân và
từ đó đưa ra giải pháp, biện pháp khắc phục.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận được sử dụng để làm sáng tỏ các vấn đề được đặt ra
trong nghiên cứu là: phép biện chứng duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê
nin. Từ đó trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp phân
tích – chứng minh, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích – tổng hợp,
phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp lịch sử, liệt kê... Đặc biệt tác giả
nhấn mạnh chú ý tới các phương pháp tổng hợp – hệ thống, đối chiếu so sánh,
lịch sử phân tích, thống kê, khảo sát thực tiễn, phương pháp xã hội học... để

đưa ra được những kết luận khoa học, đề xuất các phương án cụ thể sao cho
phù hợp nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự có liên quan đến
các hình thức đồng phạm.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới trong việc nghiên cứu, cụ thể là:
a. Góp phần làm sáng tỏ một cách hệ thống và toàn diện một số vấn đề
lý luận về các hình thức đồng phạm;
b. Làm rõ thực tiễn xét xử và một số tồn tại vướng mắc đối với việc xác
định các hình thức đồng phạm tại tỉnh Hà Giang;
c. Đưa ra một số đề xuất hoàn thiện thiện các quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 1999 về các hình thức đồng phạm và một số giải pháp nâng
cao hiệu quả các quy định này.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có phần mở đầu, 2 chương, phần kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CÁC HÌNH THỨC ĐỒNG PHẠM
1.1. Khái niệm đồng phạm, hình thức đồng phạm
1.1.1. Khái niệm đồng phạm
Tội phạm trên thực tế được thực hiện bởi một hoặc nhiều người. Khi tội
phạm do nhiều người thực hiện có thể có đồng phạm, hoặc có thể không có
đồng phạm tùy vào quy định của Bộ luật hình sự của từng nước. Nhiều người
thực hiện tội phạm có thể là đồng phạm cũng có thể chỉ là trường hợp những
người thực hiện tội phạm đã hành động trong sự độc lập hoàn toàn với nhau.
Vậy khi nào có đồng phạm, khi nào không có đồng phạm? Việc trả lời câu hỏi

pháp lý hình sự này phụ thuộc vào nhận thức, quan niệm về đồng phạm trong
những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Trong lịch sử lập pháp nước ta, Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng
Đức), đã đề cập đến vấn đề đồng phạm tại các điều 35, 36, 116, 411, 412,
454, 469, 539. Tuy nhiên, Bộ luật không đưa ra định nghĩa pháp lý của khái
niệm đồng phạm mà tính đồng phạm chỉ mới được thể hiện ở nguyên tắc
trừng trị tội phạm: "Nhiều người cùng phạm một tội thì lấy người khởi xướng
làm đầu, người a tòng được giảm một bậc. Nếu tất cả người trong nhà đều
phạm tội, chỉ bắt tội người tôn trưởng" [30, tr. 46].
Phạm vi đồng phạm không những bao gồm người khởi xướng, kẻ chủ
mưu, người a tòng, thủ phạm, tòng phạm, kẻ đồng mưu, kẻ xúi giục mà còn
bao gồm cả những người liên quan đến tội phạm: "Những kẻ mưu phản nước
theo giặc thì xử chém, nếu đã hành động thì xử tội bêu đầu, kẻ biết việc ấy thì
cũng đồng tội" (Điều 412).
Bộ luật Gia Long (Hoàng Việt luật lệ) được khắc in lần đầu năm 1812.

6


Mặc dù chịu ảnh hưởng của pháp luật Thanh triều Trung Hoa nhưng nhiều
điều luật trong đó có các quy định về đồng phạm vẫn tiếp thu của Bộ luật
Hồng Đức, ví dụ Điều 29: "Phàm cùng một tội thì lấy người tạo ý đầu tiên
làm thủ, những người tùy tùng giảm một bậc. Nếu mọi người trong một nhà
cùng phạm tội thì buộc tội một mình tôn trưởng" [19, tr. 181].
Từ năm 1958 đến trước Cách mạng Tháng tám năm 1945, thực dân
Pháp xâm lược nước ta cho nên hệ thống pháp luật hình sự của nước ta lúc đó
chịu ảnh hưởng bởi tư duy pháp lý của hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa.
Hoàng Việt hình luật năm 1933 chỉ còn hiệu lực ở miền trung, đã có hẳn
chương IX quy định về chế định đồng phạm với tên gọi: "Nhiều người đồng
một tội đại hình hoặc trừng trị - tùng phạm”. Tuy nhiên, bộ luật này cũng

không có khái niệm về đồng phạm, chỉ dừng ở nguyên tắc trừng trị tội phạm.
Sau Cách mạng Tháng tám, chế định đồng phạm có sự phát triển, được
ghi nhận ở nhiều văn bản pháp luật hình sự, nhưng chỉ mới được đề cập ở một
số khía cạnh nhất định, vẫn chưa có quy định về khái niệm đồng phạm.
Thời gian này, các văn bản pháp luật hình sự nước ta vẫn sử dụng các thuật
ngữ "chính phạm", "tòng phạm". Thuật ngữ "đồng phạm" lần đầu tiên xuất hiện
trong Sắc lệnh số 223-SL ngày 17/11/1946 về truy tố các tội hối lộ, phù lạm, biển
thủ công quỹ: "Người phạm tội có thể bị xử, tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư
gia sản. Các đồng phạm và tòng phạm cũng bị phạt như trên" [4, tr. 79]. Thuật
ngữ "đồng phạm" ở đây được hiểu tương ứng với thuật ngữ "coauteur" trong
luật hình sự Pháp với nghĩa là đồng thực hành [14, tr. 60].
Cùng với sự phát triển của khoa học luật hình sự, khái niệm đồng phạm
đã bắt đầu xuất hiện trong các sách báo pháp lý, các báo cáo tổng kết của
ngành tòa án. Báo cáo tổng kết công tác năm 1963 của Tòa án nhân dân tối cao
đã đưa ra khái niệm “cộng phạm”: "Hai hoặc nhiều người cùng chung ý chí và
hành động, nghĩa là hoặc tổ chức, hoặc xúi giục, hoặc giúp sức, hoặc trực tiếp

7


cùng tham gia tội phạm để cùng đạt tới kết quả phạm tội" [38, tr. 30]; hoặc
Giáo trình Hình luật xã hội chủ nghĩa của Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội
đã nêu ra khái niệm hoàn chỉnh hơn: "Hai hoặc nhiều người cùng cố ý tham
gia thực hiện một tội phạm thì gọi là cộng phạm" [44].
Bộ luật Hình sự của nước ta được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985
với bốn lần sửa đổi, bổ sung (1989, 1991, 1992, 1997), quy định tại Điều 17:
"Hai hoặc nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm".
Việc Bộ luật Hình sự năm 1985 được ban hành đã đánh dấu một bước
phát triển về chất trong hoạt động lập pháp hình sự ở nước ta, Bộ luật này lần
đầu tiên quy định khái niệm đồng phạm. Thuật ngữ đồng phạm được sử dụng

thay thế cho thuật ngữ cộng phạm được sử dụng trong các văn bản pháp luật
hình sự trước đây, mặc dù bản chất pháp lý không thay đổi, nhưng chính xác
hơn. Đồng phạm ở đây chỉ sự kiện đồng phạm, quan hệ đồng phạm, người
đồng phạm bao gồm cả người thực hành, người tổ chức, người xúi giục,
người giúp sức - khác với nghĩa người đồng phạm chỉ là người đồng thực
hành trong Sắc lệnh 223-SL ngày 17/11/1946 về truy tố các tội hối lộ, phù
lạm, biển thủ công quỹ.
Bộ luật hình sự năm 1999 đã đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm
đồng phạm tại khoản 1 Điều 20 như sau: "Đồng phạm là trường hợp có hai
người trở lên cùng cố ý thực hiện một tội phạm". Trên cơ sở khái niệm đồng
phạm được quy định tại Điều 20 BLHS 1999, có thể thấy, đồng phạm đòi hỏi
phải có những dấu hiệu phản ánh mối liên hệ về mặt khách quan và chủ quan
giữa những người cùng tham gia thực hiện tội phạm.
* Dấu hiệu về mặt khách quan
Dấu hiệu về mặt khách quan là dấu hiệu về số lượng người tham gia
trong vụ án, dấu hiệu thể hiện tính liên kết về hành vi cùng thực hiện một tội
phạm, và dấu hiệu hậu quả của do vụ án đồng phạm gây ra.

8


- Số lượng người trong vụ án: trong vụ án đồng phạm phải có từ hai
người trở lên, những người này đều phải có đủ năng lực trách nhiệm hình sự,
đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.
- Tính liên kết về hành vi: Những người trong vụ án đồng phạm phải
cùng nhau thực hiện một tội phạm. Hành vi của người đồng phạm này liên
kết chặt chẽ với hành vi của người đồng phạm kia. Hành vi của những người
đồng phạm phải hướng về một tội phạm, phải tạo điều kiện, hỗ trợ cho nhau
để thực hiện một tội phạm thuận lợi, nói cách khác hành vi của đồng phạm
này là tiền đề cho hành vi của đồng phạm kia. Hành vi của tất cả những

người trong vụ án đồng phạm đều là nguyên nhân dẫn đến hậu quả tác hại
chung của tội phạm.
- Hậu quả do tội phạm gây ra trong vụ án đồng phạm là hậu quả chung
do toàn bộ những người đồng phạm gây ra. Hành vi của mỗi người trong vụ
án đều là nguyên nhân gây ra hậu quả chung ấy, mặc dù có người trực tiếp,
người gián tiếp gây ra hậu quả. Đây là đặc điểm về quan hệ nhân quả trong vụ
án đồng phạm.
Hành vi của những người đồng phạm có thể thực hiện dưới hình thức
hành động hoặc không hành động (hành vi của người trực tiếp thực hiện tội
phạm, hành vi giúp sức), hoặc chỉ có thể là hành động (hành vi xúi giục, hành
vi tổ chức việc thực hiện tội phạm).
* Dấu hiệu về mặt chủ quan
Dấu hiệu chủ quan của đồng phạm là sự cố ý của những người tham
gia thực hiện một tội phạm và trong sự tư do ý chí của mình, họ chủ động
liên kết với nhau để thực hiện tội phạm. Đây là dấu hiệu bắt buộc mà thiếu
nó, nếu thỏa mãn những dấu hiệu của mặt khách quan nêu trên vẫn không có
đồng phạm. Tất cả những người trong vụ án đồng phạm phải có hình thức
lỗi cố ý và cùng thực hiện một tội phạm. Sự cố ý của những người đồng

9


phạm thể hiện mối liên hệ, tác động tâm lý giữa những người đồng phạm với
nhau. Tất cả họ đều thấy rõ hành vi của toàn bộ những người trong vụ án
đều nguy hiểm cho xã hội. Mỗi người đồng phạm đều thấy trước hành vi của
mình và hành vi của người đồng phạm khác trong vụ án đồng phạm là nguy
hiểm, thấy trước hành vi của tất cả những người đồng phạm đều là nguyên
nhân dẫn đến hậu quả tác hại.
Các yếu tố phân tích trên đây là cơ sở để khẳng định hay loại trừ trách
nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác như người tổ chức, người

xúi giục, người giúp sức trong trường hợp người thực hành thực hiện các
hành vi vượt quá trong đồng phạm. Không xuất hiện đồng phạm nếu không có
sự liên kết, sự tác động, ảnh hưởng về tâm lý giữa những người thực hiện tội
phạm. Nói như vậy không đồng nghĩa với việc trong các vụ án có đồng phạm
tất cả những người tham gia phải biết rõ về nhau, biết rõ về từng hành vi
phạm tội của nhau. Thực tiễn xét xử cho thấy một số loại tội nghiêm trọng về
an ninh quốc gia hoặc những đường dây mua bán ma túy có tổ chức, có đông
người tham gia, do tính chất của tội phạm, mọi người chỉ có thể biết nhau qua
từng "mắt xích". Điều cơ bản là họ nhận thức được hành vi của mình có sự
liên kết, gắn bó với hành vi của những người khác, giữa họ có sự liên kết ủng
hộ về tinh thần...
Ngoài dấu hiệu cùng cố ý thực hiện tội phạm đã phân tích ở trên đồng
phạm đòi hỏi phải có sự thống nhất về mục đích, động cơ phạm tội khi thực
hiện những tội mà luật quy định mục đích, động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt
buộc của cấu thành tội phạm. Ví dụ: Điều 91 Bộ luật hình sự năm 1999 quy
định rõ tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính
quyền nhân dân; Điều 167 Tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế thì động cơ
vụ lợi là dấu hiệu bắt buộc.
Tóm lại, từ những phân tích trên, dưới góc độ khoa học luật hình sự,

10


chúng tôi cho rằng, có thể đưa ra khái niệm về đồng phạm như sau: "Đồng
phạm là hình thức phạm tội do hai người trở lên cố ý cùng tham gia vào việc
thực hiện tội phạm".
1.1.2. Khái niệm hình thức đồng phạm
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nội dung và hình
thức có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đồng phạm, nội dung đồng
phạm và hình thức đồng phạm bao giờ cũng là một thể thống nhất, có quan hệ

hữu cơ, tác động qua lại nhau. Nội dung của đồng phạm là tất cả các mặt, các
yếu tố, các quá trình tạo nên sự cố ý cùng tham gia thực hiện tội phạm. Hình
thức đồng phạm là phương thức tồn tại và vận động của đồng phạm, thể hiện
mối quan hệ liên kết, tương tác, tương hỗ giữa những người đồng phạm trong
quá trình thực hiện tội phạm, có thể từ khi lên kế hoạch, chuẩn bị phạm tội
đến khi triển khai hành vi phạm tội, tội phạm kết thúc và che dấu sự việc
phạm tội, người phạm tội. Từ phương pháp luận của phép biện chứng duy vật
về mối quan hệ giữa cặp phạm trù nội dung và hình thức, có thể khẳng định
bất cứ một nội dung đồng phạm nào cũng tồn tại trong một hình thức đồng
phạm nhất định và ngược lại không có một hình thức đồng phạm nào lại
không chứa đựng nội dung đồng phạm nhất định. Hình thức đồng phạm do
nội dung đồng phạm quyết định tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được
thực hiện. Vì vậy, hình thức đồng phạm cũng chịu sự quy định của tính nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm mà những người đồng phạm thực hiện, phản
ánh tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà những người đồng phạm thực
hiện. Mặt khác, hình thức đồng phạm có tính độc lập tương đối và tác động
trở lại nội dung đồng phạm, có ảnh hưởng nhất định đến tính nguy hiểm cho
xã hội của tội phạm mà những người đồng phạm thực hiện.
Như vậy, có thể hiểu“hình thức đồng phạm là sự thể hiện mối quan hệ
giữa những người đồng phạm qua mức độ phối hợp và phân công việc thực
hiện hành vi đồng phạm”.

11


Từ khái niệm trên, chúng ta có thể thấy hình thức của đồng phạm có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hình thức đồng phạm là sự thể hiện mối quan hệ liên kết giữa
những người đồng phạm, cụ thể:
Về mặt khách quan, đồng phạm đòi hỏi phải có 2 người trở lên, những

người này đương nhiên phải thỏa mãn các dấu hiệu của chủ thể tội phạm. Mặt
khác, những người này phải cùng tham gia thực hiện tội phạm có nghĩa là họ
có thể trực tiếp (hành vi của người thực hành) hoặc gián tiếp (hành vi của
người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức) thông qua hành vi của người
thực hành thực hiện một tội phạm cụ thể, trong đó hành vi của mỗi người là
một bộ phận trong mối liên hệ thống nhất, tác động lẫn nhau để tạo nên kết
quả chung là tội phạm. Ở đây, phải xác định hành vi của người thực hành là
trung tâm. Thiếu hành vi của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức
vẫn có thể có đồng phạm (những người đồng phạm đồng thực hành), còn nếu
thiếu hành vi của người thực hành thì không thể có đồng phạm. Trong trường
hợp thực hiện tội phạm vô ý, hành vi phạm tội của mỗi người tuy có mối liên
hệ khách quan về thời gian, không gian nhưng lại hoàn toàn độc lập với nhau
về ý thức đối với hậu quả.
Về mặt chủ quan của đồng phạm, như đã đề cập, là sự cố ý của những
người tham gia thực hiện một tội phạm. Đây là dấu hiệu bắt buộc mà thiếu nó,
nếu thỏa mãn những dấu hiệu của mặt khách quan nêu trên vẫn không có
đồng phạm. Sự cố ý được thể hiện ở hai phương diện lý trí và ý chí. Về lý trí:
Mỗi người đồng phạm vừa phải nhận thức được hành vi tham gia thực hiện
tội phạm của mình là nguy hiểm cho xã hội, vừa phải nhận thức được hành vi
của những người khác tham gia thực hiện tội phạm với mình cũng là nguy
hiểm cho xã hội; họ phải thấy trước (hoặc buộc phải thấy) hậu quả nguy hiểm
cho xã hội do hành vi của mình gây ra cũng như hậu quả chung của tội phạm

12


mà họ tham gia thực hiện. Về ý chí: Những người đồng phạm đều mong
muốn có hành động phạm tội chung, cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức đề
mặc hậu quả xảy ra.
Không phải mọi hình thức tội phạm có từ 2 người trở lên thực hiện đều

là đồng phạm với nhau. Để một tội phạm do từ 2 người trở lên thực hiện trở
thành đồng phạm của nhau không chỉ có dấu hiệu 2 người trở lên cũng thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong cùng một vụ án mà những người này
thực hiện tội phạm phải với lỗi cố ý, nghĩa là họ phải cùng làm chủ và có sự
thống nhất giữa ý chí và sự biểu hiện ý chí, nghĩa là trong trường hợp này
những người này hoàn toàn biết được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội và họ hoàn toàn mong muốn thực hiện tội phạm đó. Hình thức của đồng
phạm chính là sự thể hiện ra bên ngoài của mặt khách quan.
Thứ hai, hình thức đồng phạm được phán ảnh qua tính chất, mức độ quan
hệ liên kết giữa những người đồng phạm trong quá trình thực hiện tội phạm.
Đồng phạm là hình thức phạm tội từ hai người trở lên với sự liên kết
giữa những người đồng phạm. Tính chất quan hệ liên kết thể hiện ở phương
thức phân công, phối hợp hoạt động với nhau.
Phối hợp là bố trí cùng hành động hoặc hỗ trợ nhau cùng thực hiện theo
một kế hoạch chung để đạt được mục đích chung. Trong đồng phạm những
người phạm tội cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế
hoạch để thực hiện một tội phạm. Nhưng cũng có trường hợp mối quan hệ
giữa những người đồng phạm chỉ đơn giản là cùng cố ý thực hiện một hành vi
nguy hiểm cho xã hội, không có sự phân công, liên kết chặt chẽ với nhau.
Mức độ phối hợp giữa những người đồng phạm có thể rất lỏng lẻo. Ví
dụ: A, B, C đi nhậu về qua nhà anh D thấy vắng vẻ, cửa cổng không khóa,
xe máy dựng giữa sân, chìa vẫn ở ổ khóa xe nên lẻn vào dắt ra rồi cả ba lên
xe phóng đi.

13


Trong trường hợp này, sự liên kết phối hợp giữa A, B, C không chặt
chẽ. Tất cả những người tham gia đều là người thực hành, cùng thực hiện một
hành vi nguy hiểm cho xã hội là trộm cắp tài sản.

Mức độ phối hợp giữa những người đồng phạm cũng có thể rất chặt
chẽ. Ví dụ: A, B, C và D bàn bạc nhau thống nhất sản xuất pháo nổ. A và B
được phân công trực tiếp sản xuất, còn C và D được phân công “tiếp thị”, vận
chuyển số pháo này đem đi bán.
Trong trường hợp này, những người đồng phạm có thông mưu trước,
giữa những người phạm tội đã thống nhất được với nhau từ khi chuẩn bị đến
khi kết thúc kể cả những biện pháp lẩn tránh pháp luật, tạo ra trong ý thức
mỗi người một kế hoạch phạm tội có sự phối hợp hợp nhịp nhàng của những
người tham gia. Trong quá trình phạm tội, từ khi chuẩn bị đến khi kết thúc,
mỗi người phạm tội đều thể hiện sự phối hợp và liên kết chặt chẽ với nhau.
Mỗi người được giao một nhiệm vụ cụ thể và tất cả họ cùng nhau liên kết lại
thực hiện tội phạm và che dấu tội phạm. Mỗi thành viên có thể là người tổ
chức, người điều hành, người giúp sức hoặc người thực hành, họ giúp đỡ lẫn
nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng thực hiện tội phạm.
Sự phân công vị trí, vai trò giữa những người đồng phạm cũng thể
hiện mức độ phối hợp trong hoạt động của một nhóm, một tập thể. Sự phân
công càng cụ thể càng cho thấy rõ mức độ lỗi, mức độ phối hợp tham gia
thực hiện tội phạm thể hiện sự phân hóa vai trò giữa những người đồng
phạm và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Trong một vụ án có đồng
phạm, tùy thuộc vào quy mô và tính chất mà có thể có những người giữ
những vai trò khác nhau theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình
sự gồm: "Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức
đều là những người đồng phạm."
Trong đó, người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Người

14


thực hành là người có vai trò quyết định trong việc thực hiện tội phạm,vì họ
là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội như: trực tiếp nhận hối lộ,

trực tiếp cầm dao đâm nạn nhân... Nếu không có người thực hành thì tội
phạm chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, mục đích của phạm tội
không đạt được, hậu quả vật chất của tội phạm chưa xảy ra và trách nhiệm
hình sự đối với những người đồng phạm khác sẽ được xem xét theo quy
định tại Điều 17 Bộ luật hình sự (chỉ chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự).
Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác rõ ràng phụ thuộc
vào hành vi của của người thực hành.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội
phạm. Chỉ trong trường hợp phạm tội có tổ chức mới có người tổ chức.
Người tổ chức có thể có những hành vi như: khởi xướng việc tội phạm; vạch
kế hoạch thực hiện tội phạm cũng như kế hoạch che giấu tội phạm; rủ rê, lôi
kéo người khác cùng thực hiện tội phạm; phân công trách nhiệm cho những
người đồng phạm khác để thống nhất thực hiện tội phạm; điều khiển hành
động của những người đồng phạm; đôn đốc, thúc đẩy người đồng phạm khác
thực hiện tội phạm...
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực
hiện tội phạm. Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội
phạm chỉ được coi là đồng phạm khi hành vi xúi giục đó có liên quan trực
tiếp đến toàn bộ hoạt động của những người đồng phạm khác, và chỉ sau khi
bị xúi giục, người thực hiện phạm tội mới có ý định phạm tội. Hành vi xúi
giục phải cụ thể, nhắm vào tội phạm cụ thể và người phạm tội cụ thể, nếu
chỉ có lời nói có tính chất gợi ý chung chung thì không phải là người xúi
giục và không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của người
thực hiện tội phạm.

15


Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất

cho việc thực hiện tội phạm. Người này cũng có vai trò quan trọng trong một
vụ án có đồng phạm, giúp việc phạm tội thuận lợi hơn. Người giúp sức có thể
giúp bằng lời khuyên, cung cấp phương tiện phạm tội như dao, súng, hứa tiêu
thụ tài sản phạm tội... Hành vi tạo những điều kiện về tinh thần thường được
biểu hiện như: Hứa hẹn sẽ che giấu hoặc hứa ban phát cho người phạm tội
một lợi ích tinh thần nào đó như: hứa gả con, hứa đề bạt, thăng cấp, tăng
lương cho người phạm tội, bày vẽ cho người phạm tội cách thức thực hiện tội
phạm như: nói cho người phạm tội biết chủ nhà thường vắng nhà vào giờ nào
để đến trộm cắp, nói cho người phạm tội biết người bị hai hay đi về đường
nào để người phạm tội phục đánh...
Hành vi tạo điều kiện vật chất cho việc thực hiện tội phạm là hành vi
cung cấp phương tiện tội phạm như: cung cấp dao, súng, côn gỗ, xe máy, xe
ô tô... để người phạm tội thực hiện tội phạm. Dù tạo điều kiện tinh thần hay
vật chất cho việc thực hiện tội phạm thì hành vi đó cũng chỉ tạo điều kiện dễ
dàng cho việc thực hiện tội phạm chứ người giúp sức không trực tiếp thực
hiện tội phạm. Hành vi tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm của người
giúp sức cũng có thể là hành vi của người tổ chức, nhưng khác với người tổ
chức, người giúp sức không phải là người chủ mưu. cầm đầu, chỉ huy mà chỉ
có vai trò thứ yếu trong vu án đồng phạm. Nếu các tình tiết khác như nhau
thì người giúp sức bao giờ cũng được áp dụng hình phạt nhẹ hơn những
người đồng phạm khác.
1.2. Ý nghĩa, cơ sở phân loại, nội dung phân loại các hình thức
đồng phạm
1.2.1. Ý nghĩa, cơ sở phân loại các hình thức đồng phạm
Trong đồng phạm, những người phạm tội có mối liên kết để thực hiện
hoạt động phạm tội, với nhiều trường hợp diễn ra rất phức tạp, đa dạng. Trên

16



cơ sở xác định đúng hình thức đồng phạm, các cơ quan điều tra, truy tố, xét
xử sẽ nhận diện được đầy đủ hơn, chính xác hơn mức độ nguy hiểm của hành
vi phạm tội và cá thể hóa trách nhiệm hình sự của từng người đồng phạm. Để
xác định đúng hình thức đồng phạm, cần có sự phân loại các hình thức đồng
phạm. Bởi lẽ, cơ sở để phân loại các hình thức đồng phạm là căn cứ phản ánh
tính chất, mức độ quan hệ liên kết trong đồng phạm khi những người đồng
phạm chia sẻ ý định phạm tội, kế hoạch hóa và hiện thực hóa hành vi phạm
tội. Vì vậy, việc phân loại các hình thức đồng phạm là phương pháp để nhận
thức đúng các hình thức đồng phạm. Hình thức đồng phạm cũng như bất kỳ
một hình thức nào đều phải dựa trên những căn cứ phân loại nhất định.
Phân loại các hình thức đồng phạm là việc chia các hình thức đồng
phạm thành các nhóm khác nhau dựa trên cơ sở một căn cứ xác định nhằm
vào những mục đích nhất định. Phân loại theo căn cứ nào cho phù hợp phụ
thuộc vào mục đích của sự phân loại chứ không nhất thiết phải trên cơ sở một
căn cứ nhất định.
Trong khoa học luật hình sự trên thế giới cũng như Việt Nam, có nhiều
quan điểm khác nhau về các hình thức đồng phạm. Việc chia hình thức đồng
phạm thành những dạng khác nhau là bởi những căn cứ phân loại chúng
không giống nhau. Mỗi cách phân loại lại dựa trên một căn cứ, một mục đích
nhất định và cách lý giải cho sự phân loại đó cũng có sự hợp lý riêng của nó.
Khoa học luật hình sự nhiều nước Tây Âu cũng đã có nhiều nghiên cứu
về việc phân loại các hình thức đồng phạm. Đánh giá về cách phân loại này,
TS. Trần Quang Tiệp cho rằng:
Do không muốn làm rõ bản chất của tội phạm là hành vi
nguy hiểm, xâm phạm đến lợi ích của giai cấp tư sản thống trị, nên
các nhà hình sự khoa học tư sản không đưa ra căn cứ phân loại mà
chia các hình thức đồng phạm thành các loại: hình thức đồng phạm

17



chủ động, hình thức đồng phạm thụ động; hình thức đồng phạm cần
thiết, hình thức đồng phạm lựa chọn; hình thức đồng phạm trước,
hình thức đồng phạm sau [25, tr. 50].
Tại Việt Nam, các hình thức đồng phạm thường được chia thành: đồng
phạm không có thông mưu trước và đồng phạm có thông mưu trước hay đồng
phạm giản đơn (đồng phạm đồng thực hành) và đồng phạm phức tạp (đồng
phạm có sự thực hiện các vai trò khác nhau).
Ngoài ra, còn tồn tại cách phân loại đồng phạm có tổ chức và đồng
phạm thường.
Sau khi BLHS 1985 được ban hành, trong lý luận hình sự ở nước ta còn
có một số quan điểm phân loại khác. Có quan điểm phân loại các hình thức đồng
phạm theo hình thức tham gia của người đồng phạm với lập luận là để biết
những hình thức tham gia như thế nào thì bị coi là đồng phạm. Theo cách phân
loại này, có bốn hình thức đồng phạm là đồng phạm thực hành, đồng phạm xúi
giục, đồng phạm tổ chức và đồng phạm giúp sức [7, tr. 40]. Cách phân loại này
đã mắc phải sai lầm đó là nhầm lẫn giữa khái niệm hình thức đồng phạm với
khái niệm người đồng phạm. Đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.
Có cách phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ cùng tham gia của
những người phạm tội. Theo quan điểm này, các hình thức đồng phạm được
phân chia thành 3 hình thức: phạm tội không có thông mưu trước (đồng phạm
đơn giản), phạm tội có thông mưu trước (đồng phạm phức tạp) và phạm tội có
tổ chức (đồng phạm phức tạp). Theo GS.TSKH. Lê Cảm:
Phạm tội không có thông mưu trước là hình thức đồng phạm
đơn giản và có sự cấu kết không chặt chẽ của những người cùng
thực hiện tội phạm; còn phạm tội có thông mưu trước là hình thức
đồng phạm phức tạp và có sự cấu kết tương đối chặt chẽ của những
người cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm [5, tr. 153].

18



×