Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.99 KB, 36 trang )

KHOA KINH TẾ ­ QUẢN TRỊ
BỘ MÔN QUẢN TRỊ 
­­­­­­­­­­­­­­

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: NGUỒN NHÂN LỰC

Đề tài: 
“Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng  
nguồn nhân lực trong thời kỳ CNH­HĐH đất  
nước”.

­1­


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................................
CHƯƠNG

 

1:

 



 

SỞ


3

LÝ  5

 

LUẬN.......................................................................................
1.1.

 

Các

 

khái

niệm

 

về

 

nguồn

 

 


nhân  5

lực.................................................................................
1.2. Sự cần thiết khách quan của việc xây dựng con người Việt Nam trong quá trình 
đẩy

mạnh

 

 

công

nghiệp,

 

 

hóa

hiện

 

đại 

 


hóa....................................................................................

6

CHƯƠNG   2:   THỰC   TRẠNG   NGUỒN   NHÂN   LỰC   TRONG   QUÁ   TRÌNH  
CÔNG   NGHIỆP   HÓA   –   HIỆN   ĐẠI   HÓA   Ở   NƯỚC   TA   HIỆN  
NAY.......................................
2.1.

7

Số

 

lượng

 

 

lao  7

động.........................................................................................................
2.2.



 


 

cấu

 

nguồn

 

lao

 

động

 

nhiều



 

 

những

 


bất  9

cập......................................................................
2.3.

 

Nguyên

 

nhân

 

gây

 

ra

 

bất  17

cập...............................................................................
CHƯƠNG   3:   NHỮNG   GIẢI   PHÁP   NÂNG   CAO   CHẤT   LƯỢNG   NGUỒN 
NHÂN LỰC TRONG THỜI KỲ  CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT 
NƯỚC....

4.1.

22
 

Những

giải

 

­2­

 

pháp  22


chung.................................................................................................
4.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu  
đẩy

 

mạnh

 

công


 

nghiệp

 

hóa,

 

hiện

 

đại 

hóa....................................................................................

25

KẾT LUẬN.........................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................

MỞ ĐẦU

Trong thời đại ngày nay, thời đại mà khoa học đã thực sự trở thành lực lượng  
sản xuất trực tiếp, với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa học và công  
nghệ hiện đại, con người càng tỏ rõ vai trò của mình trong tiến trình phát triển của  
xã hội. 
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. 

Song con người chỉ trở thành động lực cho sự  phát triển khi và chỉ  khi họ  có điều  
kiện đã sử  dụng sức lao động của họ  để  tạo ra của cải vật chất, tinh thần cho xã 
hội. Quá trình kết hợp sức lao động và điều kiện sản xuất là quá trình người lao 
động làm việc hay nói cách khác là khi họ có được việc làm.
Lao động là vốn quý, là yêu tố cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của  
mọi hình thức kinh tế xã hội, chính vì lẽ  đó Đảng và nhà nước ta luôn đặt vấn đề 
về  dân số, lao động, việc làm vào vị  trí hàng đầu trong các chính sách  kinh tế  xã 
hội. Chính sách đó được thể  hiện trong việc hoạch định các chiến lược phát triển  
­3­


kinh tế xã hội của đất nước, đặt con người và việc làm là vị trí trung tâm lấy lợi ích  
của con ngtười làm điểm xuất phát của mọi chương trình kế hoạch phát triển.
Con người không chỉ  là mục tiêu, động lực của sự phát triển, thể  hiện mức 
độ  chế  ngự  thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ  cho con người, mà còn tạo ra 
những điều kiện để hoàn thiện chính bản thân con người.
Đối với Việt Nam, là một nước đông dân trên thế  giới, có nguồn lao động 
dồi dào nhưng trình độ còn thấp, muốn đáp vứng được yêu cầu của công cuộc công 
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nhất là đáp ứng cho yêu cầu của kế hoạch phát 
triển kinh tế xã hội cần phải có một kế hoạch rõ ràng về đào tạo, huy động, và sử 
dụng lực lượng lao động.
Nước ta tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá trong điều kiện tiềm lực  
kinh tế  còn nhỏ  bé, tích luỹ  từ  nội bộ  kinh tế  còn thấp. Ngoài ra tiềm lực con  
người, tài nguyên khoáng sản không nhiều… Do đó để tiếp cận với nền khoa học,  
kỹ thuật đang tiến nhanh như vũ bão của thế  giới, từng bước rút ngắn và đuổi kịp  
với sự  phát triển của các nước; Đảng ta đã xác định phát triển nguồn nhân lực là 
một trong những nhiệm vụ  quan trọng hàng đầu trong suốt quá trình công nghiệp  
hoá và hiện đại hoá, là nhân tố  cơ  bản cho sự  phát triển nhanh và bền vững. Sự 
khẳng định này là bài học rút ra từ  lịch sử dựng nước và giữ  nước của ông cha ta.  
Nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến thành công hay thất bại đều do chính 

con người quyết định. 
Xuất phát từ  những nhận thức trên, em đã chọn đề  tài “Thực trạng và giải  
pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ CNH­HĐH đất nước”  
để hoàn thành bài tiểu luận này.

­4­


CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Các khái niệm về nguồn nhân lực
­ Nguồn nhân lực với tư cách là nơi cung cấp cho xã hội, nó bao gồm toàn bộ 
dân cư có cơ thể phát triển bình thường, không kể bị khuyết và dị tật bẩm sinh.
­ Nguồn nhân lực có thể với tư cách là một nguồn lực cho sự phát triển kinh 
tế  – xã hội, là khả  năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao  
gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động.

­5­


­ Nguồn nhân lực còn được hiểu với tư cách là tổng hợp cá nhân những con  
người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và  
tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này, nguồn nhân lực 
bao gồm những người bắt đầu bước vào tuổi lao động trở  lên có tham gia vào nền  
sản xuất xã hội.
­ Là toàn bộ  những người đủ  15 tuổi trở  lên có việc làm và những người 
trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học,  
đang làm nội trợ  trong gia đình mình hoặc chưa có nhu cầu làm việc và những 
người thuộc tình trạng khác (những người nghỉ  việc hoặc hưu trước tuổi theo quy  

định của bộ luật lao động ).
­ Nguồn nhân lực là tiềm năng của lao động trong thời kỳ  xác định của một  
quốc gia, suy rộng ra có thể xác định trên một địa phương, một ngành hay một vùng. 
Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế xã hội.
Nguồn nhân lực được xác định bằng số  lượng và chất lượng của bộ  phận  
dân số  có thể  tham gia vào hoạt động kinh tế  xã hội. Số  lượng nguồn nhân lực  
được thể hiện bằng các chỉ tiêu về quy mô và tốc độ  phát triển. Chất lượng nguồn 
nhân lực được thể  hiện bằng các chỉ  tiêu về  tình trạng phát triển thể  lực, trình độ 
kiến thức, tay nghề, tác phong nghề  nghiệp, cơ  cấu nguồn nhân lực về  tuổi, giới 
tính, thiên hướng ngành nghề, phân bố lãnh thổ, khu vực thành thị – nông thôn… các 
phương thức tác động và sự  phát triển về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực  
bao gồm : công tác dân số kế hoạch hoá gia đình, công tác phân bố nguồn nhân lực 
theo vùng, lãnh thổ, các chương trình dinh dưỡng, công tác y tế chăm sóc sức khoẻ 
cộng đồng, công tác giáo dục đào tạo và dạy nghề...
Nguồn nhân lực gồm hai bộ phận: 
­ Bộ phận hoạt động;
­ Bộ phận chưa hoạt động.

­6­


2.2. Sự  cần thiết khách quan của việc xây dựng con người Việt Nam  
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp, hóa hiện đại hóa.
­ Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình đẩy mạnh công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
­ Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ  thể  của quá trình đẩy mạnh công  
nghiệp hóa hiện đại hóa.
­ Phát huy nguồn nhân lực con người là vấn đề  chiến lược trong quá trình 
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.


CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN  LỰC TRONG QUÁ TRÌNH 
CNH­HĐH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

­7­


2.1. Số lượng lao động
Việt Nam là một nước có tổng số dân số thuộc loại cao trên thế giới. Trong  
những năm vừa qua, chúng ta đã cố gắng giảm tốc độ tăng dân số tự nhiên và đã đạt 
được  những  thành công  đáng  kể.   Đó  là   giảm được  tốc  độ  tăng  dân số   từ   trên 
2%/năm xuống còn 1,7%/năm vào năm 1999. Tuy nhiên với tình hình dân số  đông  
như vậy vẫn là một áp lực lớn cho toàn xã hội. Ta hãy xét bảng sau để đánh giá tình  
hình dân số cũng như lực lượng lao động của Việt Nam:
Bảng 1: Dự báo dân số việt Nam 1/4 năm 1994­2024
                                                                                              (Đơn vị: Nghìn  
người)
Nhóm tuổi

1994

1999

2004

2009

0 ­ 9

17381,4


16592,5

15780,5

15320,0

10 ­ 14

8542,5

8853,3

8270,1

8112,5

Dân số trong tuổi lao động

38462,0

44470,2

50656,3

55606,0

60­64

1814,4


1704,9

1678,3

1868,1

65 trở lên

3559,4

4168,0

4537,2

4752,7

Dân số cả nước

70777,9

76787,1

82004,2

87218,1

54,34

57,91


61,77

63,76

Tỷ lệ % so với dân số

Nhóm tuổi

2014

2019

2024

0 ­ 9

15424,8

15056,7

14270,9

10 ­ 14

7506,4

7680,6

7632,1


Dân số trong tuổi lao động

59253,1

61264,5

62947,2

60­64

2756,8

3914,3

4733,5

­8­


65 trở lên

5060,6

6105,0

8077,9

Dân số cả nước


92216,5

96706,2

100491,4

64,25

63,75

62,64

Tỷ lệ % so với dân số

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)

     

Như vậy, nhìn vào bảng trên ta có thể thấy giai đoạn 2001­2005 , hay cụ thể 
hơn vào năm 2004, dân số nước ta là 82004,5 nghìn người, trong đó dân số ở độ tuổi  
lao động là 50656,3 nghìn người, chiếm 61,77% so với dân số. Đây là một áp lực 
lớn cho xã hội trong việc giải quyết việc làm.
Bước sang năm 2005, theo dự  báo của bảng trên sẽ  có khoảng 8853,3 nghìn 
người bước vào độ  tuổi lao động và đây là con số  đủ  khả  năng cung cấp nhu cầu  
lao động của xã hội.
Nhìn vào bảng trên ta cũng thấy dân số trong độ  tuổi lao động liên tục tăng  
qua các năm. Cụ  thể  , năm 1994 chiếm 53,34% so với dân số, năm 1999 chiếm 
57,91% và năm 2004 sẽ chiếm khoảng 61,77%. Con số này cho chúng ta biết tỷ lệ 
tăng trưởng dân số tuy đã hạ  xuống nhưng vẫn  ở  mức cao, áp lực công việc nặng 
nề, nếu không có những phương pháp giải quyết thích hợp sẽ  dẫn tới tỷ  lệ  thất  

nghiệp cao.
Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao cũng cho chúng ta thấy một khả năng  
dồi dào về lao động, có đủ  khả  năng giải quyết mọi công việc. Trên thực tế, năm  
1998, cả  nước  có khoảng 45,2 triệu lao  động, so với năm 1995 tăng 3,91 triệu 
người, trung bình tăng 1,3 triệu người hàng năm. Đây là kết quả của tốc độ tăng dân 
số  tương đối cao và  ổn định của những năm trước. Trong đó số  lao động có khả 
năng lao động cũng tăng từ  83,7% năm 1995 lên 84,4% năm 1998. Năm 1996, lực  
lượng lao động nước ta là 35,9 triệu người. Tốc độ  tăng bình quân 2,95%/năm.Với 
số lao động mới tăng thêm, 4 triệu người, số lao động thất nghiệp hoàn toàn chưa 
được  giải quyết việc làm năm 1996 là 0,7 triệu người, năm 1997 là 1,05 triệu  
­9­


người; số  lao động dôi ra do chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  dưới tác động của quá 
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sắp xếp lại doanh nghiệp phải tìm việc làm  
mới cho khoảng 3 triệu người; yêu cầu của việc nâng quỹ thời gian lao động trong 
nông thôn đã được sử  dụng 72,11% năm 1996 lên 75% năm 2000. Trong 4 năm  
(1996­2000) đã có 8 triệu người cần được giải quyết việc làm.
 

2.2. Cơ cấu nguồn lao động có nhiều bất cập. 
Sự  nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước không chỉ 

đòi hỏi đội ngũ lao động có trình độ  cao về  tay nghề và trí tuệ  mà còn phải có cơ 
cấu hợp lý. Chất lượng nguồn lao động nước ta hiện nay nhìn chung thấp, điều đó  
không chỉ thể hiện  ở tình trạng sức khoẻ và trình độ  chuyên môn kỹ  thuật yếu mà 
còn thể hiện ở những bất cập trong cơ cấu nguồn lao động.
Về sức khoẻ, mặc dù đã có những tiến bộ trong công tác chăm sóc sức khỏe 
cho người dân nhưng do xuất phát điểm là một nước nghèo, đông dân nên phần lớn 
dân số nước ta chưa đảm bảo về sức khoẻ, đặc biệt là trẻ em và bộ phận dân số ở 

khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Về lề lối, tác phong làm việc, do  ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập  
trung nên còn chậm chạp, thiếu động lực sáng tạo trong lao động.
Về  mặt cơ  cấu lao động của nước ta quả  thật còn rất nhiều nan giải cần  
phải giải quyết  được thể hiện qua thực trạng sau:
Thứ nhất, tuy tỷ lệ biết chữ của nước ta cao so với một số nước nhưng trình 
độ văn hoá vẫn thuộc loại thấp, thể hiện qua bảng sau:

Bảng 2: Cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên  tham gia hoạt động kinh tế phân 
theo trình độ văn hoá (%)
­10­


1996
Tổng

1997

Trong đó 
nữ

Chưa biết chữ

Tổng

Trong đó 
nữ

1998
Tổng


Trong đó 
nữ

5,8

62,3

5,1

61,6

3,8

62,4

Chưa tốt nghiệp cấp I 20,9

56,4

20,3

55,5

18,5

56,1

Đã tốt nghiệp cấp I


27,8

49,7

28,1

49,2

29,4

45,3

Đã tốt nghiệp cấp II

32,1

48,3

32,4

48,1

32,3

48,3

Đã tốt nghiệp cấpIII

13,5


44,1

14,1

44,0

16,0

44,2

Nguồn: Thực trạng lao động ­ Việc làm ở Việt Nam, nxb Thống kê 1996­1998
Theo số  liệu của bảng trên, tỷ  lệ  người chưa biết chữ  đã giảm, là kết quả 
của chương trình xoá mù chữ do Chính phủ thực hiện trong những năm qua. Số lao  
động chưa tốt nghiệp cấp I trong hai năm 1997­1998 đẫ  giảm từ  20,3% xuống  
18,5% nhưng tỷ lệ này vẫn còn cao và tốc độ  chậm, trong khi đó cơ  cấu lao động  
theo trình độ cấp I, II, III chuyển biến còn rất chậm. Thực tế là tỷ  lệ lao động tốt  
nghiệp cấp I năm 1996 là 27,8% nhưng đến năm 1998 cũng mới chỉ  là 29,4%; lao  
động tốt nghiệp cấp III năm 1996 là 13,5% đến năm 1998 là 16%. Trong khi đó, tỷ 
lệ lao động tốt nghiệp cấp III chiếm một tỷ lệ không cao trong toàn lao động, do đó  
cơ hội tìm việc làm là rất khó khăn.
Thứ  hai, vẫn tồn tại một cách quá cao tình trạng thừa lao động phổ  thông,  
thiếu lao động kỹ thuật. Thực hiện CNH­HĐH là chuyển đổi căn bản toàn diện các 
hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế  xã hội từ  sử  dụng lao 
động thủ  công là chính sang sử  dụng một cách phổ  biến lao động cùng với công 
nghệ  cao, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao 
dộng xã hội cao. Thực chất đây là quá trình chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang  
nền kinh tế công nghiệp. Bước chuyển này sẽ vô cùng khó khăn nếu không đi trước 
một bước trong việc chuẩn bị  lực lượng lao động có trình độ  học vấn, tay nghề 
cao, có cơ cấu hợp lý và đồng bộ.
­11­



Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH­HĐH song tỷ lệ lao động  
giản đơn còn quá cao (88%), cơ cấu nguồn lao động còn quá lạc hậu so với nhiều  
nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển.
Trong khi lực lượng lao động lành nghề   ở  các nước công nghiệp chiếm tới 
35% trong tổng số lực lượng lao động xã hội thì nước ta chỉ có 5,5%. Lực lượng lao  
động có trình độ chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư, và các nhà khoa học của họ chiếm tới 
30% còn nước ta mới có 6,5%. Chúng ta đang rất thiếu đội ngũ lao động kỹ  thuật  
(tính đến giữa năm 1999 số này mới có khoảng 14%). Trong một số ngành kinh tế 
quan trọng cần nhiều lao động kỹ  thuật nhưng hiện có rất ít. Chẳng hạn, ngành  
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng1,6%, ngành nông lâm ngư  nghiệp 7% (hiện 
nay lực lượng lao động của ngành này chiếm tới 3/4 tổng lao động xã hội). Vùng  
đồng bằng sông Cửu Long ­ một trong những vùng sản xuất lương thực lớn nhất ­  
nhưng lực lượng lao động đã qua đào tạo chỉ  đạt 3,68%, trong đó công nhân kỹ 
thuật có bằng 0,6%, trung cấp 1,55% và đại học 0,74%. Một số khu chế xuất, khu  
công nghiệp cần tuyển lao động có kỹ  thuật thì lao động của nước ta chỉ  đáp ững 
được rất ít. Ví dụ: Khu chế xuất Linh Trung cần tuyển 7000 công nhân nữ có trình  
độ tay nghề bậc 3/7 trở lên nhưng chỉ đáp ứng được 1500 người. Khu chế xuất Tân 
Thuận cũng ở tình trạng tương tự: cần tuyển 15000 công nhân kỹ  thuật, ta chỉ đáp 
ứng được 3000. Cái thiếu của ta là lao dộng kỹ thuật trong khi lại dư thừa lao động  
phổ thông. Bởi vậy, cơ cấu nguồn lao động không đáp ứng được yêu cầu thị trường 
trong nước, chưa nói đến yêu cầu tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Thứ  ba, tình trạng thừa thầy thiếu thợ   ở  mức khá nghiêm trọng. Tức là ngay  
trong lực lượng lao động có trình độ chuyên mộ kỹ thuật đã ít lại còn có cơ cấu bất  
hợp lý. Có thể thấy tình trạng đó ở bảng sau:

Bảng 3: Cơ cấu lực lượng lao động kỹ thuật ở Việt Nam giai đoạn 1979­1999
­12­



1979

1989

1997

1999

Tổng số

100

100

100

100

Công nhân kỹ thuật

68,6

44,9

40,8

30,3

Trung học chuyên nghiệp


21,7

35,2

35,4

36,8

Cao đẳng , đại học

9,7

19,9

23,8

32,9

Nguồn: Thời báo kinh tế, số 13 ngày 31/1/2000
Nhìn vào biểu trên ta thấy, nếu như năm 1979, cơ cấu lực lượng lao động kỹ 
thuật của nước ta là tương đối phù hợp với yêu cầu thực hiện CNH­HĐH đất nước 
(tỷ lệ phổ biến của cơ cấu lực lượng lao động kỹ thuật của các nước đã thành công 
trong CNH­HĐH là 1 đại học, cao đẳng/ 4 trung học chuyên nghiệp/10 công nhân kỹ 
thuật và lúc đó tỷ  lệ tương ứng của ta là 1/2, 2/7, 1). Nhưng sau 10 năm (đến năm 
1989) tỷ  lệ  đó chuyển dịch theo hướng lệch đi (1/1, 8/2 ,2), bộc lộ  rõ tình trạng  
“thừa thầy, thiếu thợ”, đến năm 1997 là 1/1,5/1,7 và đến năm 1999 tỷ  lệ  này càng  
chệch hướng thêm nữa (1/1,2/0,92), nó gần như  “lộn ngược” với các nước khác. 
Cũng từ biểu trên ta thấy số lao động có trình độ đại học, cao đẳng trở  lên từ  năm  
1979 đến năm 1989 tăng rất nhanh (3,4 lần), trong thời gian đó số  công nhân kỹ 

thuật lại giảm rất nhanh (2,26 lần). Vì thế, chúng ta đang còn  ở  trong tình trạng  
“thừa thầy, thiếu thợ” rất nghiêm trọng. Theo báo cáo của bộ giáo dục và đào tạo,  
trong  10 năm (1986­1996), số học sinh học nghề giảm 35%, số giao viên dạy nghề 
giảm 31%, số trường dạy nghề giảm 41%, trong khi đó có 70­80% số sinh viên tốt 
nghiệp đại học cao đẳng  ra trường không có việc làm, riêng nghành y hiện nay có 
trên 3000 bác sỹ không có việc làm.
Thứ tư, lực lượng lao động là chủ yếu trong cơ cấu lao động trong ngành. Sự 
nghiệp CNH đã được tiến hành vài thập kỷ  song cho đến nay nền kinh tế  nước ta  
vẫn còn mang nặng dấu  ấn một nền kinh tế thuần nông, thể  hiện rõ trong cơ  cấu  
nguồn lao động theo ngành. Năm 1993, lao động nông nghiệp chiếm tới 71%, trong  
khi đó lao động công nghiệp chỉ  chiếm 12% và dịch vụ  17% trong tổng lực lượng  
lao động xã hội. Năm 1998, cơ  cấu lao động theo ngành đã có những chuyển biến 
­13­


tích cực, nhưng so với yêu cầu còn rất chậm: lao động nông nghiệp giảm còn 66% 
và lao động công nghiệp, dịch vụ tăng lên 13% và 21%. So với một số nước trong  
khu vực, cơ cấu lực lượng lao động của nước ta như vậy là còn rất lạc hậu. Chẳng  
hạn, năm 1997, tỷ trọng lao động nông nghiệp của Mianma giảm xuống còn 51,8%, 
Malayxia còn 14,8%, Indonexia còn 39,2%, Phillipin 37,2%, Thái Lan 49,2%.
Để  có nền kinh tế tiên tiến, hiệu quả  vấn đề  không chỉ  đơn thuần thay đổi 
cơ  cấu ngành kinh tế, mà quan trọng hơn là thay đổi cơ  cấu lao động, cơ  cấu dân 
số. Hiện tại vẫn còn khoảng gần 70% lao động nằm trong khu vực I (nông nghiệp, 
lâm nghiệp, thuỷ  sản) và 80% dân số  sống  ở  vùng nông thôn thì việc thực hiện 
CNH­HĐH rất không dễ dàng. Điều này cho thấy tính phức tạp của việc chuyển từ 
một nền kinh tế  nông nghiệp lạc hậu sang một nền kinh tế có vóc dáng hiện đại, 
và cũng phải biết từ bỏ tham vọng đốt cháy giai đoạn để tránh những bệnh do hình 
thức mà ra.
Từ năm 1980 đến năm 1997, dân số tăng 1,3 lần, lao động tăng 1,7 lần, riêng 
lao động trong nông nghiệp là 1,75 lần nhưng diện tích trồng trọt là 1,38 lần. Do đó,  

diện tích gieo trồng tính bình quân năm 1997 giảm đi. Vì vậy, cần phải tăng mạnh 
năng suất lao động trong nông nghiệp để cải thiện tình hình.
Thứ năm, thiếu cân đối trong cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ. Hiện nay, 
tỷ trọng lao động ở hai vùng đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long 
cao nhất nước (20,5% và 21,7% tổng lực lượng lao động xã hội). Trong khi đó vùng  
Tây Nguyên rộng lớn, lực lượng lao động chỉ  có 4%, vùng duyên hải Miền Trung  
10,4% và Đông Nam Bộ 12,7%. Sự mất cân đối này không chỉ gây nên khó khăn cho  
vấn đề công ăn việc làm mà còn ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế xã hội cũng 
như an ninh quốc phòng của quốc gia.
Thứ sáu, chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra rất chậm theo ngành kinh tế. 
Vai trò của khu vực kinh tế  ngoài quốc doanh thực ra không dừng lại  ở  chỗ  nó 
chiếm bao nhiêu phần trăm trong GDP mà ở chỗ nó thu hút đến trên 80% lực lượng 
lao động xã hội (bảng 4 và 5):
­14­


Bảng4: Thay đổi lao động trong khu vực nhà nước 1990­1995
1990

1991

Tổng số lao động (nghìn)

30286

30994 31815,2 32718 33663,9 34589,6

Khu vực nhà nước

3415,7


3135,7

11,3

10,1

9,4

9,0

8,7

8,8

­280

­160,5

­14,8

­32,1

124,8

Tỷ trọng (%)
Tăng, giảm (nghìn)

1992


1993

1994

2975,2 2960,4 2928,3

1995

3053,1

Nguồn: Niên giám thống kê

Bảng 5: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
Đơn vị: %
1994

1995

1996

1997

(1)

(2)

(1)

(2)


(1)

(2)

(1)

(2)

Tổng số

33,664

8,70

34,950

8,83

35,792

8,77

33,994

8,83

Khu vực I

71,68


1,24

69,74

1,21

69,22

1,04

68,78

1,01

Nông nghiệp và Lâm nghiệp

69,99

1,23

68,00

1,20

67,48

1,03

67,07


1,00

Thuỷ sản

1,69

1,68

1,74

1,48

1,74

1,49

1,70

1,35

­15­


Khu vực II

12,93

22,79

13,25


22,93

12,93

23,37

12,52 24,73

CN khai thác

0,34

73,33

0,60

49,08

0,59

46,48

0,57

52,6

CN chế biến

9,26


19,07

9,33

18,56

9,19

19,09

8,90

19,38

SX và PP điện, khí đốt và nước

0,44

32,21

0,44

35,15

0,43

39,46

0,41


38,56

Xây dựng

2,89

27,25

2,88

29,78

2,72

30,18

2,64

34,65

Khu vực III

15,39

31,62

17,02

29,07


17,85

28,16

18,70

26,95

Thương nghiệp và sửa chữa

6,56

8,98

5,46

10,51

0,63

9,61

7,22

7,68

Khách sạn, nhà hàng

0,51


17,77

1,46

6,83

1,54

7,27

1,40

7,19

Vận tải, kho bãi, thông tin

1,65

34,43

2,26

24,96

2,39

24,49

2,31


23,00

Tài chính và tín dụng

0,35

41,88

0,37

37,66

0,35

39,66

0,34

41,78

Hoạt động và KHCN

0,12

65,86

0,11

69,79


0,11

81,63

0,11

79,63

Kinh doanh tài sản và tư vấn

0,16

56,72

0,16

51,72

0,21

44,21

0,21

44,13

QLNN, ANQP, BHXH

0,59


91,99

1,13

52,00

1,14

53,10

1,11

57,60

Giáo dục và đào tạo

2,67

75,55

2,81

73,01

2,78

74,49

2,70


77,75

Y tế và cứu trợ xã hội

1,04

44,25

0,81

58,52

0,82

57,24

0,80

58,51

Hoạt động VHTT

0,31

28,27

0,27

33,83


0,72

33,72

0,26

34,72

Hoạt độngdảng, đoàn thể

0,23

68,15

0,28

56,32

0,28

54,91

0,27

64,66

Phục vụ cá nhân và cộng đồng

1,02


4,00

1,65

2,71

1,66

2,78

1,61

3,68

Nguồn: Tính toán từ niên giám thống kê
(1): Tổng số lao động: Triệu người, cơ cấu lao động là % trong tổng số.

­16­


(2): Tỷ  lệ  lao động trong khu vực nhà nước trong tổng số  lao động của mỗi 
ngành kinh tế. 
Bảng 4 cho ta thấy lao động trong khu vực nhà nước chỉ chiếm 10% trong tổng  
số lao động đang làm việc. Năm 1990, tỷ trọng đó là 11,3%, năm 1994 còn 10,1% và  
năm 1995 còn 8,8% và duy trì ở mức đó cho đến nay (nhưng trong tương lai sẽ còn 
giảm). Theo số liệu thống kê thì từ  năm 1991 đến năm 1994, khu vực nhà nước đã  
đưa ra gần nửa triệu lao động và chính khu vực ngoài quốc doanh đã tiếp nhận  
phần lớn số lao động này.
Ta hãy xét bảng 5 ở trên để thấy được cơ cấu lao động và quá trình phân bổ 

lại lực lượng lao động trong nền kinh tế  từ  năm 1994 đến năm 1997. Khu vực I  
chiếm 70% lao động đang làm việc, khu vực II chỉ chiếm vào khoảng 13% và còn  
lại là khu vực dịch vụ trên dưới 17%. Lao đông trong khu vực I có xu hướng giảm, 
khu vực II gần như không thay đổi và khu vực III có chiều hướng gia tăng, nhưng  
nói chung sự thay đổi là không đáng kể, qqua trình phân bổ  lại lực lượng lao động  
giữa các ngành kinh tế lớn vẫn chưa diễn ra, khu vực I vẫn còn quá lớn và hầu hết  
là ngoài quốc doanh. Khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng lớn và hầu như bao trumg ở 
những ngành công nghiệp, những ngành đòi hỏi có trình độ kỹ thuật và đào tạp tốt. 
Có hay không sự trùng hợp về lao động từ khu vực nhà nước chảy sang khu vực tư 
nhân từ năm 1991 đến năm 1994 làm cho tỷ lệ tăng trưởng cao, và khi khu vực nhà  
nước thu hút lao động trở  lại thì qúa trình tăng trưởng bị  giảm sút là điều còn theo 
dõi và phân tích về sau này. Từ bảng trên cho thấy trong khu vực ngoài quốc doanh 
hầu hết là nông nghiệp và những ngành nghề  đơn giản, trình độ  kỹ  thuật thấp, ít 
được đào tạo, vì thếviệc phân bổ  lại lực luợng lao động trong thời gian tới sẽ hết 
sức khó khăn.
Thứ bảy, năng suất lao động của nước ta còn rất thấp. Năng suất lao động xã  
hội có thể  hiểu là lượng GDP do một lao động làm ra trong năm. Chúng ta có thể 
thấy mối quan hệ giữa lao động và vốn đầu tư qua bảng sau đây: 
Bảng 6: Năng suất lao động và trang bị vốn đầu tư cho lao động
­17­


GDP(triệu đồng)/1 LĐ

Vốn ĐT(triệu đồng)/1 LĐ

1995

1996


1997

1995

1996

1997

Chung trong nền kinh tế

5,65

5,97

6,25

1,68

1,89

2,14

Kinh tế nhà nước

25,67

27,79

29,27


6,72

9,73

11,66

Nguồn: Tính toán từ thống kê
Tính theo giá cố  định năm 1994, năng suất lao động xã hội năm 1995 là 5,65 
triệu đồng, năm 1996 là 5,97 triệu đồng và năm 1997 là 6,25 triệu đồng. Nghĩa là có 
sự gia tăng liên tục năng suất lao động trung bình của toàn xã hội nhưng bức tranh  
năng suất trong từng ngành lại rất khác nhau: năng suất thấp và hầu như không tăng  
trong khu vực I với ngành nông nghiệp và thuỷ sản; ở khu vực III có năng suất khá  
cao nhưng không có gia tăng trong các năm 1995­1997. Kinh tế  nhà nước với các 
ngành công nghiệp, dịch vụ có mức năng suất cao và tăng nhanh qua các năm, nhưng  
ở khu vực I, khu vực lao động của ngoài quốc doanh thì lại có năng suất rất thấp và  
sự  gia tăng không đáng kể. Nguyên nhân chính là vốn đầu tư  cho một lao động  ở 
khu vực II, III cao hơn so với khu vực I và ở khu vực I hầu như không tăng qua các 
năm 1995­1997 về mức vốn đầu tư cho một lao động.
2.3. Nguyên nhân gây ra những bất cập
Thứ nhất, do có sự suy giảm đáng kể đào tạo nghề dài hạn, mất cân đối với  
đào tạo nghề ngắn hạn. Điều này có nguồn gốc từ những nỗ lực chưa đủ mức của  
chính ngành giáo dục và đào tạo.
Bảng 7: Số học sinh của các trường nghề 
và vốn đầu tư qua các niên học 1986­1997
Năm

Số học sinh đi học(nghìn người)
Trung học CN

Năm có nhiều học sinh 


Dạy nghề

147 (1979/1980) 171 (1984/1985)

nhất
­18­

Đầu tư
Tỷ đồng

% GDP


1986

126,6

119,7

1987

123,3

102,0

1988

115,8


118,4

1989

107,5

92,4

1990

101,3

1991

104,7

1992

439

1,0

60,3

748

1,0

92,3


57,6

1495

1,4

1993

97,8

68,7

2321

1,7

1994

108,1

74,7

3414

2,0

1995

116,4


58,7

4722

2,1

1996

116,1

69,9

5500

2,1

1997

124,6

102,5

7150

2,1

Nguồn: Niên giám thống kê
Trong giai đoạn 1990­1998, tổng đầu tư  từ  ngân sách cho giáo dục gia tăng 
liên tục, tỷ lệ đầu tư cho từng cấp giáo dục riêng lẻ kể cả đào tạo nghề giảm. Năm 
1994, chi phí cho đào tạo nghề là 11% tổng ngân sách nhà nước dành cho giáo dục 

(mức chi phí này ở các nước khác là 25%). Hơn nữa, phần chi cho giáo dục từ ngân 
sách nhà nước chiếm phần lớn trong chi phí cho đào tạo nghề. Sự  suy giảm các  
chương trình đào tạo nghề  dài hạn thể  hiện rất khác nhau tong từng loại hình và 
chuyên ngành đào tạo. Nhìn chung, năm 1992­1993 là năm có số  học sinh đi học 
thấp nhất. Sự suy giảm mạnh nhất diễn ra ở các nhóm ngành nông­lâm­thuỷ sản và 
sư phạm đối với loại hình trung học chuyên nghiệp; và ở nhóm ngành xây dựng, cơ 
khí đối với loại hình đào tạo nghề. Đối chiếu thực trạng này với tình hình mở 
rộngviệc làm trong nửa đầu thập niên 90 cho thấy, đào tạo nghề  dài hạn đã suy 
­19­


giảm trong khi cơ hội việc làm gia tăng, số học sinh giảm mạnh nhất trong chuyên 
ngành dịch vụ, nơi có tốc độ gia tăng việc làm nhanh nhất. Thực tế này đang đặt ra 
nhiều vấn đề  nổi cộm đối với hệ  thống đào tạo nghề. Theo Bộ  Giáo dục và Đào  
tạo, có nhiều nguyên nhân, song chủ  yếu do sự thích  ứng chậm của hệ thống đào  
tạo nghề đối với nền kinh tế  nhiều thành phần, cả  về  chất lượng đào tạo lẫn cơ 
cấu ngành đào tạo; sự  nghèo nàn của đội ngũ giáo viên và trang thiết bị  cũng làm 
suy giảm đáng kể  năng lực của các trường nghề. Phần lớn các trường nghè hiện 
nay chỉ  đáp  ứng được dưới 50% như  cầu về  hạ  tầng “trường sở”, trang thiết bị,  
phòng thí nghiệm, sách giáo khoa, xưởng thực hành.
Thứ hai, do quy mô đào tạo ở các trường trung học, dạy nghề quá nhỏ, trên  
50% các trường có quy mô đào tạo dưới 500 học sinh/năm. Quy mô nhỏ  là lý do  
chính làm cho chi phí đào tạo trên một đơn vị  đào tạo cao. Trước sức ép của nhu 
cầu đào tạo thực tế, nhiều trường rơi vào tình trạng quá tải.
Thứ ba, từ lâu nay, chúng ta hầu như đào tạo rất ít cho đào tạo nghề. Từ năm 
1995 đến năm 1995, tỷ  trọng đầu tư  cho giáo dục đào tạo từ  ngân sách Nhà nước  
tăng từ  11% lên 13% (từ  mức 1094 tỷ đồng lên 1600 tỷ  đồng ) nhưng số  tiền này  
chủ  yếu được rót vào cho hệ  đại học, cao đẳng, phổ  thông, còn các trường dạy 
nghề không được CHLB Đức và Hàn Quốc trang bị cho một số thiết bị hiện đại. Đã  
thế, đầu tư cho đào tạo nghề lại rất phân tán và không đúng hướng. Do nhiều năm 

không được đầu tư  nên số  trường đào tạo nghề  giảm từ  512 trường năm 1991 
xuống 400 trường năm 1998. Trường sở và nơi ăn, ở của học sinh dột nát nhiều, số 
lượng người học giảm một nửa. Trang thiết bị  dạy nghề  lạc hậu cũ kỹ, nhiều  
trường hoàn toàn dùng thiết bị của 50 năm trở về trước.
Thứ  tư, về  quản lý thì hầu như  phân tán và buông lỏng. Sau ngày sáp nhập 
Tổng cục dạy nghề và Bộ Giáo dục và đào tạo, các cơ sở dạy nghề phải tự túc về 
nội dung, chương trình và phương tiện đào tạo, phải chạy lo tìm đủ môn sinh, hàng 
loạt trường phải chấp nhận tuyển gần như 100% người nộp đơn dự  tuyển. Do đó 
chất lượng đào tạo kém.
­20­


Trong khi đó thì hệ  đại học dưới dạng khầu hiệu “đa dạng hoá ngành, cấp  
học và hình thức học”, cùng với cách đào tạo theo kiều “mì ăn liền” của cá nhân và  
tổ  chức khắp nơi nhảy ra kinh doanh lĩnh vực đào tạo làm cho các trường đào tạo  
nghề vắng lạnh một cách dễ sợ.
Cái buông lỏng nữa là Nhà nước không có quy định bắt buộcvề nội dung đào 
tạo, chương trình và thời gian đào tạo và kiểm tra việc thực hiện, kể cả với một số 
trường đã từng có một thời thực hiện khá nghiên ngặt. Một số  người đi học thực  
chất chỉ là lấy bằng cấp chứ không phải lấy kiến thức.
Thứ năm, chất lượng đội ngũ giáo viên còn bất cập. Tình trạng quá tải đã gây 
thiếu giáo viên cả  về  tương đối và tuyệt đối. Điều này làm cho không ít nơi giáo 
viên không có thời gian để  nghiên cứu, bổ  sung kiến thức thường xuyên và tình 
trạng “chạy sô” khá phổ  biến. Nhưng theo một đánh giá của Bộ  Giáo dục và Đào  
tạo thì đội ngũ giáo viên đã có chất lượng tốt hơn trước đây. Chỉ số của sự đánh giá 
chất lượng cao hơn này gồm có: thâm niên giảng dạy trung bình cao hơn, và số có  
bằng đại học và sau đại học nhiều hơn trước đây. Song thực chất, chỉ số này chưa 
đủ để phản ánh toàn diện chất lượng giáo viên.  Số năm thâm niên trung bình cao có 
thể cảnh báo một xu hướng già hoá, lớp trẻ ít quan tâm đến việc trở thành giáo viên  
ở các trường đào tạo nghề. Đồng thời các chỉ số về chuyên môn cụ thể cho các môn 

học ngành nghề hiện nay đang thấp hơn nhiều so với các bộ môn cơ bản. Như vậy, 
điểm yếu vẫn đang tập trung ở các trường kỹ thuật ngành nghề.
Thứ  sáu,  nhu cầu đào tạo nghề  phần lớn còn mang tính tự  phát, thiếu qui 
hoạch đồng bộ với nhu cầu của nền kinh tế. Các chỉ tiêu đào tạo của bộ chủ quản  
còn quá lệ thuộc vào kinh phí, chưa theo nhu cầu thực tế của nền kinh tế, có nơi, có  
lúc còn mang nặng tư tư tưởng “xin ­ cho”, cấp phát đơn thuần. Do áp lực từ  phía  
người lao động mà gần đây ĐTN ngắn hạn nổi lên như  một hình thức mới để  bù 
đắp cho sự suy giảm ĐTN dài hạn và sự thiếu hụt trầm trọng công nhân kỹ  thuật. 
Số học sinh theo học các khoá ngắn hạn tăng 8 lần trong 10 năm từ  1986­1996. Sự 
thu hẹp các khoá đào tạo nghề dài hạn còn chứa đựng xu thế “sao nhãng” các nghề 
­21­


đòi hỏi đào tạo công phu, chi phí đào tạo cao. Qua khảo sát 421.500 người được đào  
tạo nghề gần đây, chỉ có 0,5 % thuộc ngành cơ khí, 2,4% thuộc ngành điện.
Thêm vào đó sự phân bố các trung tâm đào tạo nghề rất không đồng đều theo 
địa lý cũng như theo nhu cầu sử dụng. Phần lớn các trung tâm tập trung ở thành thị,  
trong khi lại rất vắng bóng  ở  các vùng nông nghiệp, nông thôn, nơi đang cần có 
những người nông dân được đào tạo bài bản để  hội nhập nền nông nghiệp nước  
nhà với thế giới. Hơn nữa, không có sự bổ sung kịp thời những lao động có đào tạo 
cho nông nghiệp thì quá trình CNH­HĐH nông nghiệp, nông thôn khó mà đạt kết 
quả như mong muốn.
Tính tự  phát và thiếu qui hoạch đồng bộ  một thời gian dài đã gây ra tình 
trạng mất cân đối nghiêm trọng về nguồn lực, trong khi kinh nghiệm của các nước 
trên thế giới là duy trì cơ cấu bậc học “tháp hình chuông” thì ở nước ta, số học sinh 
vào đại học thường vượt quá nhiều lần so với học sinh các trường nghề.
Thứ bảy, có cả lý do từ tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm. Tỷ lệ thất 
nghiệp  ở   khu  vực  thành  thị   tuy  đã  giảm  từ  12%  năm1989  xuống 6% năm1996, 
nhưng lại tăng lên 8­10% năm 1998 và 1999. Tại nông thôn, tỷ lệ thiếu việc làm là 
từ 25% đến 35% và nhóm bất lợi là độ tuổi từ 15­24. Có một nghịch lý là trong khi  

tỷ  lệ  thất nghiệp cao thì thị  trường lao động lại không cung cấp đủ  nhu cầu cho  
doanh nghiệp, nghĩa là có tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Lao động thiếu không chỉ ở 
trình độ lành nghề mà còn ở trình độ kỹ thuật cấp trung. Nếu ở các khu vực kinh tế 
phát triển hơn, sự  thiếu hụt lao động có thể  nhìn thấy rõ trong các ngành kinh tế 
đang mở rộng, thì ở khu vực nông thôn sự thiếu hụt lục lượng lao động có kỹ năng  
khó nhìn thấy hơn và khó đánh giá hơn. Các khu vực kinh tế  kém phát triển  ở  các  
vùng nông thôn rộng lớn đang cần những nhóm lao động hạt nhân, năng động để 
tạo ra phong trào làm kinh tế giỏi. 
Thứ tám, hệ  thống đãi ngộ và việc làm hiện nay chưa khuyến khích lao động 
làm việc tại nông thôn. Nhiều con em vốn từ nông thôn, đã qua đào tạo, dù khong có  
việc làm  cũng cố ở lại thành thị chờ cơ hội. Thực tế này không chỉ làm xói mòn các  
­22­


kiến thức đã được đào tạo và lãng phí nguồn lực, mà còn tạo xu thế kém phát triển  
lâu dài ở các vùng nông thôn rộng.
Thứ chín, hiệu quả đầu tư giáo dục của nước ta còn thấp, Chính phủ  đã đặt 
mục tiêu nâng tỷ lệ lao động được đào tạo tới 25% lực lượng lao động và nâng cáap 
các chương trình đào tạo, cung cấp các trang thiết bị, tài liệu giảng dạy mới và theo 
sát hơn các công nghệ  mới. Tuy nhiên, mục tiêu chung  ấy phải được chi tiết hoá 
thành các chỉ tiêu cụ  thể để  có tính khả  thi khi triển khai. Khi đưa ra các mục tiêu  
như  vậy, cần được tính đến các mối quan hệ  về lợi ích ­ chi phí. Song đến nay tỷ 
lệ thu hồi đối với đầu tư giáo dục là rất thấp. Gần đây, tài liệu của nước ta và của  
ngân hàng thế giới lưu ý rằng hầu hết các khoản đầu tư  cho giáo dục ỏ  Việt Nam 
có tỷ  lệ thu hồi thấp, trong đó đầu tư  cho đào tạo nghề tỏ ra là một khoản đầu tư 
đặc biệt kếm hiệu quả. Tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư  từ  góc độ  cá nhân ở  cả  đào tạo  
nghề lẫn giáo dục đại học không thoả  mãn kiểm nghiệm 10%. Trong khi ngay các  
nước thu nhập thấp khác có mức thu hồi trung bình  là 10,6%. Điều này chúng tỏ 
hiệu quả đầu tư giáo dục ở nước ta còn quá thấp.


CHƯƠNG 3:
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN 
NHÂN LỰC TRONG THỜI KỲ CNH – HĐH ĐẤT NƯỚC
3.1. Những giải pháp chung
­ Tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới sâu rộng hơn, huy động sức mạnh  
tổng hợp của mọi thành phần kinh tế, tranh thủ  mọi nguồn vốn đầu tư  cho các 
ngành kinh tế mũi nhọn. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá trong 
đó  ưu tiên cho công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá nông thôn và vùng kinh tế  biển làm 
cho kinh tế của tỉnh phát triển nhanh, vững chắc.
­ Chỉ đạo thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ trực tiếp cho người dân như: 
chăm sóc bảo vệ  sức khoẻ  nhân dân, chăm sóc sức khoẻ  sinh sản và dịch vụ  kế 
hoạch hoá gia đình, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài… tạo 
­23­


điều kiện cho người dân nói chung và nguồn nhân lực, lực lượng lao động của tỉnh 
khoẻ về thể chất, có trình độ chuyên môn kỹ thuật có nhiều công việc tự tạo được  
việc làm và tìm được việc làm trong nước và xuất khẩu lao động.
­ Phát triển nguồn nhân lực về số và chất lượng phải gắn với việc sử dụng  
nguồn nhân lực để  phát huy hiệu quả, phát triển nguồn nhân lực để  phục vụ  cho  
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, thực hiện công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá của tỉnh 
và phục vụ cho chương trình xuất khẩu lao động.
3.1.1.  Một số quan điểm chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực.
­ Chất lượng nguồn nhân lực giữ  vai trò quyết định sự  nghiệp công nghiệp  
hóa hiện đại hóa ở nước ta.
­ Giáo dục đào tạo giữ  vai trò quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực. 
Giáo dục đào tạo có nhiệm vụ  nâng cao dân chí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân 
tài.
­ Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo điều kiện phát triển tài 
năng.

­ Phát triển nguồn nhân lực gắn với nhu cầu phát triển kinh tế ­ xã hội, tiến 
bộ khoa học ­ công nghệ và sự nghiệp củng cố an ninh quốc phòng.
­ Phát triển nguồn nhân lực là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và nhân 
dân.
­ Phát triển nguồn nhân lực phải tính đến sự  hội nhập quốc tế  và khu vực  
trên cơ sở kế thừa và giữ vững những tinh hoa văn hóa dân tộc.
3.1.2. Từ những đánh giá tổng quát trên, có thể đưa ra phương hướng để  
nâng cao chất lượng lực lượng lao động trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, về quy môvà mức độ, ở Việt Nam mặc dù đẫ có mục tiêu đạt 25%  
lực lượng lao động qua đào tạo song mục tiêu này không được gắn trực tiếp với tỷ 
­24­


lệ  của các cấp đào tạo. Tính đến các yếu tố  như, nguồn lực hạn hẹp, chi phí cao  
của các cấp đào tạo nghề   ở  bậc sau trung học và khả  năng tạo việc làm của nền  
kinh tế, Việt Nam cần khuyến khích đào tạo nghề cấp trung học. Hiện tại cần lưu  
ý một số yếu tố thuận lợi cho việc mở rộng giáo dục đào tạo nghề  cấp trung học  
như sau: Một là, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, giới trẻ trở nên thực 
tế  và định hướng thị  trường nhanh nhạy hơn. Do vậy, yếu tố thu nhập chứ không  
phải các yếu tố khác quyết định tham gia vào chương trình đào tạo này hay chương 
trình đào tạo khác.  Hai là, hệ  thống tiền lương hiện nay duy trì sự  khác biệt quá 
nhỏ giữa lao động chân tay với lao động trí óc, không tạo ra sự khác biệt lớn giữa  
sự  lựa chọn giáo dục phổ  thông, với mục tiêu nhất thiết là phải vào cho được đại  
học với lựa chọn vào trưòng dạy nghề. Ngoài ra, mở  rộng đào tạo nghề  còn giúp  
lớp trẻ  có lựa chọn nghề  sớm ngay khi họ  tốt nghiệp trung học.  Điều giúp cho  
giảm áp lực vào các cuộc tuyển sinh đại học và tiết kiệm chi phí, giúp cho học sinh  
tránh được cú sốc tinh thần khi thi trượt. Sự  hướng nghiệp sớm còn giúp họ  yên  
tâm với sự  lựa chọn từ  đầu của mình. Nhờ  đó, khi có việc làm theo đúng chuyên 
môn đào tạo họ  nỗ lực làm việc tốt hơn và cho năng suất lao đôngj cao hơn, khắc  
phục được tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”.

Thứ  hai, trong khi khuyến khích mở  rộng đào tạo nghề, các nhà hoạch định 
chính sách cần lưu ý đến giới hạn tối  ưu của nó,  ở  giai đoạn phát triển hiện nay  
vốn dựa chủ  yếu vào ngành sử  dụng nhiều lao  động và tổ  chức lao đôngj theo 
phương pháp Taylo thì việc mở  rộng đào tạo nghề  thung học đồng nghĩa với việc 
tiết kiệm nguồn lực trong nước và giảm chi phí cơ họi cho học sinh. Việc mở rộng  
đào tạo nghề  nên được xem như  một quá trình luôn có sự  điều chỉnh và sự  điều 
chỉnh này cũng cần tính tới khả năng, việc mở rộng thái quá đào tạo nghề trung học 
cũng có thể dẫn tới một thực tế ngoài mong đợi, khi nền kinh tế đi vào con đường  
hội nhập với nền kinh tế toàn cầu và thực hiện mô hình tổ  chức linh hoạt, đòi hỏi 
phải có những công nhân đa chức năng.
Thứ ba, để tiết kiệm nguồn lực và thời gian, cần sắp xếp lại và nâng cấp các 
trường đào tạo nghề  sẵn có, khuyến khích luồng học sinh vào để  khắc phục quy  
­25­


×