1
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế ngày càng phát triển kinh tế xã hội và đời sống của người
lao động, thì kinh tế thị trường đã và đang tác động mạnh tạo nên mâu thuẫn
và sự phức tạp phát sinh trong mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và
người lao động ở nhiều doanh nghiệp, dẫn tới nhiều vụ tranh chấp lao động
tập thể và đình công.
Đình công trên thê giới diễn ra ngày càng nhiều và trong đó có cả Việt
Nam. Trong những năm qua các cuộc đình công ở nước ta diễn ra ngày càng
nhiều tăng về cả số lượng và quy mô, làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cuộc sống của người lao động và
nhiều vấn đề xã hội khác.
Trong các vấn đề về Quan hệ lao động em chọn đề tài “Thực trạng
đình công tại việt Nam hiện nay” nghiên cứu.
Với lượng thời gian nghiên cứu và viết đề tài có hạn, nội dung nghiên
cứu của đề tài mà em đưa ra trong bài tiểu luận không tránh khỏi nhiều thiếu
sót. Rất mong Thầy giáo cùng các bạn học viên góp ý phê bình để đề tài tiểu
luận này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm đình công
Đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện và có tổ chức của tập
thể lao động để giải quyết tranh chấp lao động tập thể.
Đình công là một quyền cơ bản của người lao động, là phương tiện
cuối cùng để họ có thể tự bảo vệ mình khi cần thiết, là tín hiệu chỉ báo quan
hệ lao động đang có bất bình thường ở doanh nghiệp, ngành… Ở những nước
có nền kinh tế thị trường phát triển thì đình công là một vấn đề hết sức quen
thuộc.
Do vị trí phụ thuộc của người lao động trong quan hệ lao động nên khi
có tranh chấp, người lao động phải liên kết nhau lại, tạo thành sức mạnh tập
thể để đấu tranh với người sử dụng lao động, bảo vệ lợi ích cho mình. Vì
vậy, về bản chất đình công là biện pháp đấu tranh kinh tế của tập thể người
lao động được pháp luật thừa nhận, nhằm thúc đẩy quá trình giải quyết tranh
chấp lao động nhanh chóng, theo hướng có lợi cho họ. Mặt khác, đình công
luôn liên quan đến tranh chấp lao động tập thể vừa biểu hiện hậu quả của
quá trình giải quyết tranh chấp lao động tập thể không thành. Do đó, có thể
hiểu đình công là vũ khí cuối cùng bất đắc dĩ của người lao động trong cuộc
3
đấu tranh kinh tế của mình. Nhưng về mặt nhận thức, không được coi đình
công là vũ khí duy nhất để giải quyết các tranh chấp lao động trong quan hệ
lao động.
Đình công là đỉnh cao của tranh chấp lao động tập thể. Biểu hiện rõ
nhất của đình công là ngừng việc tập thể. Đình công là biện pháp mạnh mẽ
nhất của tập thể người lao động nhằm đòi thỏa mãn những yêu cầu về tiền
lương, điều kiện làm việc và những đảm bảo xã hội, hoặc đòi thực hiện đúng
các nghĩa vụ của người sử dụng lao động trong trường hợp người sử dụng lao
động có vi phạm nghiêm trọng về pháp luật lao động.
1.2. Đặc điểm của đình công
Đình công biểu hiện thông qua sự ngừng việc triệt để của người lao
động và do tập thể lao động tiến hành: Sự ngừng việc của người lao động
trên thực tế được biểu hiện ở nhiều mức độ khác nhau, nhưng sự ngừng việc
khi đình công là ngừng việc triệt để. Ngoài ra, sự ngừng việc trong đình công
phải do người lao động cùng tiến hành (tập thể lao động). Tập thể lao động
ngừng việc có thể là toàn bộ hoặc đa số những người lao động trong một bộ
phận cơ cấu doanh nghiệp, trong toàn doanh nghiệp hoặc đa số những người
lao động trong một ngành. Nếu một vài người ngừng việc mặc dù có tổ chức
thì vẫn không được gọi là đình công. Trên thế giới nhiều nước có quy định về
số lượng hoặc tỉ lệ lao động tham gia đình công (hoặc cả hai) trên tổng số lao
động thuộc phạm vi diễn ra đình công (doanh nghiệp, ngành) là điều kiện đình
công hợp pháp.
Đình công là sự nghỉ việc có tổ chức: Ngừng việc của tập thể lao động
phải có sự chủ định từ trước, phải có sự phối hợp về mặt ý chí và tổ chức
của những người lao động với nhau. Có nghĩa là, sự ngừng việc phải có sự chỉ
đạo, tổ chức, lãnh đạo và điều hành thống nhất của mỗi người hay một nhóm
người có sự chấp hành, tuân thủ của những người khác. Như vậy, từ khi khởi
4
xướng, phát động đình công cho đến khi thực hiện các trình tự thủ tục giải
quyết đình công đều phải có sự phối hợp của cả tập thể lao động trong ý chí
và trong hành động. Pháp luật lao động nhiều nước chỉ thừa nhận công đoàn là
người có quyền tổ chức, lãnh đạo đình công. Ban chấp hành công đoàn cơ sở
sẽ là người đứng ra tổ chức đình công từ khâu lấy ý kiến tán thành đình công,
lãnh đạo đình công cho đến khi giải quyết cuộc đình công trước tòa án. Như
vậy mọi sự ngừng việc, dù là rất đông người lao động nhưng không do công
đoàn lãnh đạo thì vẫn không được thừa nhận là đình công. Trong trường hợp
này sẽ bị coi là đình công bất hợp pháp và tùy theo mức độ vi phạm của từng
người mà có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Đình công luôn đi liền với các yêu sách: Bản chất của đình công là biện
pháp đấu tranh kinh tế nên mục đích của đình công phải nhằm đạt được
những yêu sách về quyền và lợi ích cho tập thể lao động. Thực tế ở những
nước có nền kinh tế phát triển, người lao động thường đình công để đạt được
những lợi ích cao hơn, điều kiện làm việc tốt hơn so với pháp luật đã quy định
hoặc so với những thỏa thuận các bên đã cam kết trước đó. Và kết quả đình
công thường là một thỏa ước tập thể mới ra đời. Còn ở những nước chưa
phát triển, phần lớn các cuộc đình công là đòi quyền và lợi ích hợp pháp của
người lao động phù hợp với luật pháp lao động bị người sử dụng lao động vi
phạm. Trong mỗi cuộc đình công, tập thể lao động có thể đưa ra một hoặc
nhiều yêu sách đối với người sử dụng lao động. Ví dụ, ở Việt Nam, một số
yêu sách thường gặp trong các cuộc đình công là: yêu sách cải thiện về tiền
lương, phụ cấp, thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi, hành vi đối xử thô
bạo, chống sa thải lao động trái pháp luật, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động,
bảo hiểm xã hội, kí kết và thực hiện đúng hợp đồng lao động…
5
Đình công phát sinh trực tiếp từ tranh chấp lao động tập thể: Đình công
là hậu quả của tranh chấp lao động tập thể giải quyết không thành, là một
biện pháp giải quyết tranh chấp lao động tập thể. Tuy nhiên, không phải tranh
chấp lao động tập thể nào cũng đều dẫn đến đình công.
1.3. Phân loại đình công
1.3.1 Căn cứ vào phạm vi đình công, bao gồm:
Đình công doanh nghiệp: Là đình công do tập thể lao động trong phạm
vi một doanh nghiệp tiến hành.
Đình công bộ phận: Là đình công do tập thể lao động trong phạm vi
một bộ phận cơ cấu của doanh nghiệp tiến hành.
1.3.2. Căn cứ vào tính hợp pháp của đình công, được phân thành:
Đình công hợp pháp: Cuộc đình công hợp pháp là cuộc đình công khi có
đủ các điều kiện của đình công hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Đình công bất hợp pháp: Là đình công thiếu một trong các điều kiện
của đình công hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Ví dụ, ở Việt Nam, các cuộc đình công bị coi là bất hợp pháp khi: không
phát sinh từ tranh chấp lao động tập thể, vượt ra ngoài phạm vi doanh nghiệp,
vi phạm các quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật
Lao động (không tuân theo quy định của pháp luật về trình tự , thủ tục tiến
hành đình công, đình công ở doanh nghiệp phục vụ công cộng và doanh
nghiệp thiết yếu cho nền kinh tế quốc dân hoặc an ninh, quốc phòng theo
danh mục doanh nghiệp do Chính phủ quy định).
6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐÌNH CÔNG TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Số lượng đình công
Tranh chấp lao động, đình công hiện đang là điểm nóng trong quan hệ
lao động của các doanh nghiệp. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động xã
hội, 11 tháng đầu năm 2011 nước ta đã có 857 cuộc đình công diễn ra, trung
bình cứ một tuần có 16 cuộc đình công, số lượng các cuộc đình công năm 2011
tăng gấp đôi so với năm 2010, năm 2010 là 422 vụ, năm 2009 là 218 vụ, năm
2008 là 720 vụ… Cũng theo Bộ Lao động xã hội từ năm 1995 đến nay cả
nước đã xảy ra hơn 4100 cuộc đình công, trong đó chủ yếu ở các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài như Đài loan, Hàn quốc, Nhật bản,… với hơn 3100,
chiếm 75,4%. Năm 2010, cả nước có 424 cuộc đình công. Phân loại các cuộc
7
đình công theo loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài chiếm 79,95% (339/424 cuộc); doanh nghiệp dân doanh 84/424 cuộc,
chiếm 19,81% và doanh nghiệp nhà nước chỉ có 1 cuộc, chiếm 0,24%.
2.2. Đình công theo loại hình doanh nghiệp
Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, từ năm 1995, khi Bộ luật
Lao động có hiệu lực thi hành, đến hết tháng 4 2009, cả nước đã có 2.697
cuộc đình công. Trong đó, có 89 cuộc ở doanh nghiệp nhà nước (DNNN),
1.983 cuộc ở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 625 cuộc ở doanh
nghiệp ngoài nhà nước.
Bảng 1: Đình công trong các doanh nghiệp từ năm 1995 đến hết ngày
15/4/2009
DN có
Năm
Số vụ
DNNN
đình công
1995 1999
2000 2004
2005 4/2009
Tổng
307
525
1865
2697
vốn đầu
tư nước
ngoài
Số vụ Tỷ lệ
42
13,68%
34
6,48%
13
0,69%
89
3,3%
DN ngoài nhà nước
Số vụ Tỷ lệ Số vụ
174
56,68%
91
364
69,33%
137
1445 77,47%
397
1983 73,52%
625
Tỷ lệ
29,64%
26,09%
21,28%
23,17%
Nguồn: báo cáo của bộ lao động xã hội
Giai đoạn 1995 – 1999 xảy ra 307 cuộc, chiếm 11,38%; giai đoạn 2000
2004 xảy ra 525 cuộc, chiếm 19,46%. Như vậy, mức độ xảy ra đình công có
xu hướng tăng nhanh ở các năm về sau. Trong giai đoạn 2005 2009, số cuộc
đình công tăng gấp 6,07 lần so với giai đoạn 1995 1999 và gấp 3,55 lần so
với giai đoạn 2000 2004.
Phân loại đình công theo ngành nghề sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp cho thấy, đình công chủ yếu xảy ra ở ngành dệt may (năm 2008 chiếm
8
40,28% và 4 tháng đầu năm 2009 là 67,3%); cơ khí, chế biến, da giày (tương
ứng 30,84% và 23,08%); các ngành còn lại chiếm 28,88% (năm 2008) và 4
tháng đầu năm 2009 chiếm 9,62%. Các cuộc đình công, về cơ bản, không theo
đúng trình tự và thủ tục, quy trình mà pháp luật quy định, kể cả từ ngày 17
2007, là thời điểm Luật Sửa đổi, bổ sung một số điểm của Bộ luật Lao động
(chương XIV về giải quyết tranh chấp lao động và đình công) có hiệu lực thi
hành.
Hầu hết các lý do mà công nhân đưa ra để họ tổ chức đình công ở tất cả
các doanh nghiệp đều tập trung vào các vấn đề, như làm tăng ca, điều kiện
làm việc, sinh hoạt không bảo đảm, lương thưởng quá thấp, không lo đủ cho
cuộc sống, thực hiện một số nội quy, quy định quá khắc nghiệt đối với người
lao động nên không những không khuyến khích người lao động tăng năng suất
mà còn có tác động ngược trở lại…
Trong các số liệu trên hầu hết các cuộc đình công ở các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, sự chênh lệch như vậy có thể do các nguyên nhân
sau: Do các doanh nghiệp FDI trả lương quá thấp. Ở nước ta, năm 2008 tiền
lương bình quân của công nhân trong các DN FDI thấp nhất, chỉ bằng khoảng
75% so với các doanh nghiệp dân doanh và 60% so với các doanh nghiệp nhà
nước. Trong khi đó điều kiện lao động và cường độ làm việc lại quá hà khắc.
Điều đó dẫn đến sự bất bình và là nguyên nhân dẫn đến đình công.
Do sự khác biệt về văn hoá và hành vi công nghiệp trong các DN FDI.
Sự khác biệt về hành vi ứng xử có thể gây nên sự thiếu hiểu biết lẫn nhau,
làm cho quan hệ chủ thợ trở nên căng thẳng. Hơn nữa, sự căng thẳng này lại
không được giải toả kịp thời do thiếu sự đối thoại cần thiết giữa chủ và thợ,
giữa quản lý và nhân viên dẫn đến sự bùng phát mâu thuẫn và hệ quả tất yếu
của nó là đình công.
9
Do cung cách quản lý. Người nước ngoài quen với cách quản lý đòi hỏi
tác phong làm việc công nghiệp, trong khi đó người Việt lại không quen với
cung cách này. Điều đó sẽ tạo nên mâu thuẫn và việc thiếu cơ hội giải toả
mâu thuẫn thông qua đối thoại và thương lượng có thể làm cho mâu thuẫn
bùng phát.
Ngoài ra, có thể do hệ thống thanh kiểm tra hoạt động chưa hiệu quả. Hoạt
động của hệ thống thanh tra lao động chưa bao phủ hết được các doanh
nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước dẫn đến hiện tượng không hiểu luật, vi
phạm pháp luật lao động ở các doanh nghiệp này khá phổ biến. Sự vi phạm
đó là “mầm mống” làm phát sinh mâu thuẫn, nhiều khi dẫn đến đình công.
2.3. Địa bàn diễn ra đình công
Hầu hết các cuộc đình công diễn ra ở khu vực miền nam, tập trung
nhiều khu công nghiệp lớn như Tp Hồ Chí Mình, tỉnh Bình Dương, Đồng Nai.
Bảng 2: Số lượng các cuộc đình công phân theo địa bàn từ năm 1995 2011
TP Hồ
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
10
Tổng số
60
59
59
62
67
70
90
99
142
124
152
390
551
Chí
Minh
số vụ
28
29
37
44
33
34
38
44
57
44
52
108
109
Bình
Đồng
Dương
Nai
%
46,7
49,2
62,7
71,0
49,3
48,6
42,2
44,4
40,1
35,5
34,2
27,7
19,8
số vụ
12
8
0
6
19
19
35
20
27
11
7
139
217
Tỉnh, TP khác
%
20,0
13,6
0,0
9,7
28,4
27,1
38,9
20,2
19,0
8,9
4,6
35,6
39,4
số vụ
6
17
14
5
12
6
7
14
32
43
41
95
106
%
10,0
28,8
23,7
8,1
17,9
8,6
7,8
14,1
22,5
34,7
27,0
24,4
19,2
Số vụ
14
5
8
7
3
11
10
21
26
26
52
48
119
%
23,3
8,5
3,6
1,3
4,6
15,7
1,1
21,2
18,3
21,0
34,2
12,3
21,7
2008
720
2009
218
2010
424
2011
978
Tổng số 4265
165
70
67
268
1227
22,9
32,1
15,8
27,4
28,8
127
35
127
218
1027
17,6
16,1
30,0
22,3
24,1
167
35
140
196
936
23,2
16,1
33,0
20,0
21,9
261
78
90
296
1075
36,2
35,8
21,2
30,3
25,2
Nguồn: Vụ Lao động – Tiền lương Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
Theo số liệu ở bảng trên, tính từ năm 1995 đến nay thì ở TP Hồ Chí
Minh số cuộc đình công chiếm 28,8%, Bình Dương 24,1%, Đồng Nai 21,9%.
Ví dụ như các vụ đình công tại các doanh nghiệp Sam Yang, Huê
Phong,.. ở thành phố Hồ Chí Minh; Doanh Đức ở Bình Dương; King Toys ở
Đà Nẵng; Canon ở Hà Nội và nhiều doanh nghiệp khác ở Đồng Nai, Hải
Phòng, Hưng Yên, Hải Dương…
2.4. Một số cuộc đình công trong thời gian qua
Cuộc đình công ngày 1542011 Hai ngàn công nhân của một hãng sản
xuất giày ở Hải Phòng và 2,000 công nhân của một công ty sản xuất đồ nội
thất của Nhật Bản đầu tư đã đình công đòi tăng lương và các quyền lợi khác.
Theo bản tin báo Lao Ðộng, ngày 13 tháng 4, khoảng 2,000 công nhân
của nhà máy giày Sao Vàng thuộc công ty TNHH Ðỉnh Vàng (huyện An Lão,
Hải Phòng) đã nhất loạt đình công. Theo nguồn tin, nguyên nhân dẫn đến việc
này đã được tập thể công nhân gửi cho ban giám đốc hai ngày trước đó. Ngoài
đòi tăng lương lên thành 2.2 triệu đồng/tháng, họ đòi chi trả tiền nhà trọ, tiền
xăng xe, tiền gửi xe, tăng tiền thưởng ngày lễ mà phải làm, không được lấy
tiền thuốc của công nhân khi đau ốm nằm tại phòng y tế của nhà máy,
v.v.Cho đến chiều ngày 14 tháng 4, công nhân vẫn chưa chịu đi làm trở lại.
Công nhân của công ty này đã đình công rất nhiều lần từ gần chục năm qua.
11
Hơn 4000 nghìn công nhân đình công đòi tăng lương tại huyện Châu
Thành Tây Ninh. Sáng 25.2, 760 công nhân Công ty TNHH Han And Young
Việt Nam (cụm công nghiệp Thanh Điền, xã Thanh Điền, H.Châu Thành, Tây
Ninh) đã ngừng việc tập thể do bị cắt giảm chế độ tiền thưởng hằng năm.
Nội dung: Một số công nhân cho biết sau Tết Tân Mão, công ty đồng ý
tăng lương thêm 10% theo thỏa thuận từ năm trước; nhưng sau đó lại đơn
phương cắt các khoản tiền thưởng đang áp dụng. Ngoài ra, công nhân còn yêu
cầu công ty tăng tiền ăn trưa bởi hiện mỗi bữa chỉ có 4.000 đồng.
Cùng ngày, tại KCN Trảng Bàng, hơn 3.000 công nhân Công ty TNHH
Hoa Sen (may mặc) cũng đã đình công yêu cầu tăng lương. Các ngành chức
năng đã trực tiếp tổ chức cuộc đối thoại giữa công ty và người lao động
nhưng chưa có kết quả.
Tại KCN Nội Bài (Hà Nội), hàng trăm công nhân Công ty TNHH NCI
(100% vốn Nhật Bản, chuyên về in ấn) cũng đã ngừng việc tập thể, yêu cầu
lãnh đạo công ty tăng lương, phụ cấp và cải thiện môi trường làm việc.
Cuộc đình công tại Công ty TaeKwang Vina: Sáng 13.1.2011, khoảng
8.000 công nhân đang làm việc ca 1 tại Công ty TaeKwang Vina (đóng tại
KCN Biên Hòa 2, TP Biên Hòa, Đồng Nai; chuyên sản xuất giày da, 100% vốn
Hàn Quốc) đồng loạt đình công. Các công nhân đề nghị công ty phải công khai
thang bảng lương, có chế độ phù hợp với công nhân nữ về thai sản, không
được trừ tiền công nhân nghỉ bệnh, công bố mức thưởng tết…Nội dung:
Chiều cùng ngày, Sở LĐTBXH Đồng Nai cùng các ban ngành vận động công
nhân trở lại làm việc, đồng thời thương lượng với công ty về những yêu cầu
của công nhân đưa ra.
Sáng ngày 15.1.2011, gần 500 công nhân thuộc bộ phận Gò – Thành
phẩm, Xí nghiệp 2, Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mại Hữu Nghị (đóng
12
tại Khu công nghiệp An Đồn, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng) đã đồng loạt đình
công do công ty không rõ ràng về tiền lương và chế độ đãi ngộ.
Ngày 2522011, hàng trăm công nhân thuộc công ty TNHH NCI, 100%
vốn Nhật Bản, chuyên về in ấn tại Khu công nghiệp Nội Bài đã ngừng việc
tập thể, yêu cầu lãnh đạo công ty tăng lương, phụ cấp và cải thiện môi
trường làm việc tại doanh nghiệp.
2.5. Nguyên nhân các cuộc đình công
2.5.1. Về phía người lao động
Hầu hết người lao động ở nước ta có trình độ học vấn thấp, công nhân
trong các khu công nghiệp chỉ tốt nghiệp lớp 9, một số công nhân bậc cao học
xong trung học phổ thông, sau đó đi đào tạo học nghề, hoặc vào làm việc trực
tiếp trong khu công nghiệp không qua đào tạo. Người lao động ít được trang bị
các kiến thức pháp luật về quyền và nghĩa vụ lao động. Trình độ chuyên môn,
tay nghề chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất, kinh doanh.
Trong các khu công nghiệp, các máy móc công nghệ hiện đại đòi hỏi
người lao động phải có tay nghề mới đáp ứng được công việc, ngược lại
người lao động ở nước ta ý thức chấp hành kỷ luật, tác phong công nghiệp
còn hạn chế, họ bị gò bó trong kỷ luật lao động công nghiệp, thu nhập thấp,
quyền lợi bị vi phạm nên làm cho họ dễ bị kích động dẫn tới đình công tự
phát.
Đa số công nhân chưa có sự am hiểu sâu sắc về pháp luật, trình độ
nhận thức còn hạn chế, lại nóng vội, do đó hầu hết các cuộc đình công xảy ra
trong thời gian qua đều mang tính tự phát và không theo quy định của pháp
luật. Nếu tình trạng này vẫn tiếp tục xảy ra, công nhân có thể không những
không đòi được quyền lợi chính đáng cho mình, mà còn phải bồi thường thiệt
hại cho doanh nghiệp.
2.5.2. Về phía người sử dụng lao động
13
Người sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động ngày càng nhiều.
Tính các cuộc đình công xảy ra từ 1995 đến nay thì có đến 90% nguyên nhân là
do người sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động bởi càng vi phạm thì
người sử dụng lao động càng có lợi.
Các nguyên nhân chính trước hết là nguyên nhân về lợi ích kinh tế.
Người lao động đình công vì nhiều lý do, trong đó 80% liên quan đến chế độ
tiền lương như mức lương thấp, không phù hợp với giá cả sức lao động, tiền
lương không phù hợp với công sức mà họ bỏ ra. Bên cạnh đó, người sử dụng
lao động còn không tăng lương theo cam kết, kéo dài thời gian, trong khi giá
cả, lạm phát tăng nhanh khiến người lao động gặp khó khăn trong cuộc sống,
nảy sinh mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động, những
người lao động liên kết nhau lại đòi tăng lương.
Nhiều doanh nghiệp nợ lương, trả lương chậm hoặc giữ lương không
trả cho người lao động. Tính đến 30.9.2011, toàn ngành GTVT có 2.542 công
nhân thiếu việc làm, 8.362 người phải nghỉ việc luân phiên. Số tiền các doanh
nghiệp nợ BHXH là 120 tỉ đồng, nợ lương công nhân trên 88 tỉ đồng (số liệu
này chưa tính tới các DN của Tập đoàn CN Tàu thủy VN đang trong quá trình
tái cơ cấu).
Thực tế cho thấy, mâu thuẫn quan hệ lao động chủ yếu xảy ra ở các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh với 80% tranh chấp liên quan đến vấn đề lương
nhưng tại đây mới chỉ có 20% đơn vị có hệ thống thang bảng lương.
Các doanh nghiệp vi phạm quy định về thời gian làm việc, nghỉ ngơi rất
phổ biến. Công nhân phải làm việc từ 10 12 giờ/ngày, 60 72giờ/tuần, cao
gấp 1,2 1,5lần so với quy định của Bộ Luật Lao động. Để tăng năng suất sản
phẩm, hàng hóa, nhiều doanh nghiệp còn áp đặt người lao động làm tăng ca
liên tục với cường độ cao trong khi không có chế độ bồi dưỡng, thù lao trả
lương không hợp lý. Người sử dụng lao động có thái độ trù dập, đối xử thô
14
bạo với người la động. Hai bên chưa hiểu rõ phong tục tập quán và ngôn ngữ
của nhau.
Cùng với nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, năng động, các
doanh nghiệp cạnh tranh nhau gay gắt. Để chiếm ưu thế thị trường buộc các
doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản
xuất, hạ giá thành sản phẩm. Trong khi đó, người lao động lại muốn được cải
thiện điều kiện lao động, tăng lương, thưởng và các chế độ khác, dẫn đến
mâu thuẫn phát sinh giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Người sử dụng lao động còn vi phạm Luật Lao động về đóng BHXH,
BHYT... Tính đến 30/9/2011 các doanh nghiệp trong ngành GTVT nợ BHXH là
120 tỉ đồng.
Với việc thực hiện các chế độ tiền lương chưa thỏa đáng, điều kiện
làm việc hạn chế, tình trạng vi phạm này kéo dài, liên tục đã dẫn đến người
lao động phải tìm một phương thức chung mà họ có thể đòi hỏi quyền lợi của
mình.
2.5.3. Ảnh hưởng của chính sách đầu tư
Chính sách đầu tư của Việt Nam thu hút cả nhà đầu tư trong nước và
quốc tế. Cách đây 5 năm về trước, việt nam là điểm đến hấp dẫn thứ 2, sau
Trung Quốc đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi muốn tìm kiếm một thì
trường đang phát triển. các nhà máy lớn từ Mỹ Nhật Đức… ồ ạt tiến vào Việt
Nam vì có giá nhân công rẻ. hàng chục nhà sản xuất Hàn Quốc và Đài Loan
trong nhiều ngành nghề, từ đồ nội thất đến hàng may mặc, cũng di dời nhà
máy từ miền nam Trung Quốc, nơi mà mức lương lao động cao gấp 3 lần,
sang Việt Nam. Tuy nhiên cùng với sự đầu tư nhiều như vậy nhưng Việt Nam
thường xuyên xảy ra đình công.
+ Khi có được các nguồn đầu tư tại Việt Nam, nhà nước lại chưa có
các quy định cụ thể để tránh xảy ra các tranh chấp lao động. Tại các địa
15
phương có nhà đầu tư thì cơ quan liên đoàn lao động quản lý chưa theo sát,
kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp cũng như là xem xét mối quan hệ giữa
chủ lao động và người lao động. Khi có mâu thuẫn xảy ra giữa người lao
động và người sử dụng lao động thì không có hoặc có tổ chức công đoàn
nhưng tổ chức này chưa thực hiện vai trò là đại diện của người lao động
đứng ra thương lượng hòa giải. Khi có tranh chấp xảy ra, do không có chủ thể
đứng ra lãnh đạo tiến hành hòa giải thương lượng nên nhìn chung có xảy ra
mâu thuẫn là đình công, không theo quy định của pháp luật.
Ví dụ về vụ đình công tự phát gần đây, “Chủ đài loan đổ keo 502 lên tay
nữ công nhân Việt Nam”, tại doanh nghiệp này chỉ khi xảy ra vụ việc công
nhân tự phát đình công, không có sự thương lượng hòa giải giữa các bên và
sau đó thì cơ quan liên đoàn lao động mới biết và đến kiểm tra doanh nghiệp
cũng như tìm hiểu sự việc.
Nhà nước đi đôi với chính sách thúc đẩy đầu tư cần giảm sát quản lý.
Cần nghiên cứu hình thành cơ chế cán bộ công đoàn cơ sở ăn lương của tổ
chức công đoàn, không kiểm nhiệm, không ăn lương của doanh nghiệp, phải
trở thành một tổ chức có tính độc lập bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Bên cạnh đó, đối với doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt
Nam, họ có phong tục tập quán khác nước ta, khác biệt về ngôn ngữ, rất dễ
xảy ra mâu thuẫn thì cơ quan liên đoàn lao động địa phương phải có trách
nhiệm quản lý.
+ Lạm phát: Nhà nước chưa thực hiện nhất quán các vấn đề, để xảy ra
tình trạng lam phát cao. Chính phủ không kiểm soát được lạm phát, những
năm qua lạm phát tăng quá nhanh ảnh hưởng đến mức sống người dân. Lạm
phát tăng nhanh khiến các chủ doanh nghiệp phải đối mặt với sức ép tiền
lương liên tục tăng. Tuy nhiên trình độ người lao động lại chưa tăng tương
16
xứng với mức tiền lương. Các cuộc đình công xảy ra do mức lương không đủ
để họ chi trả cuộc sống hàng ngày.
+ Việt Nam nhận những ngành nghề đầu tư có máy móc thiết bị đã cũ,
sản xuất sản phẩm thải khí độc ra môi trường. Việt Nam được coi là bãi rác
công nghiệp của thế giới, nơi sử dụng máy móc công nghệ mà nước ngoài bỏ
đi, chúng ta sản xuất sản phẩm, quy trình mà nước ngoài không còn sử dụng
nữa thì chúng ta lại dùng nó. Sản xuất tạo ra khí thải độc hại làm ảnh hưởng
môi trường tự nhiên và con người. Người lao động làm trong môi trường độc
hại đó bị ảnh hưởng đến sức khỏe, sống trong điều kiện môi trường ô nhiễm,
điều kiện sống tạm bợ. Doanh nghiệp không đáp ứng chỗ ở cho công nhân,
chính quyền địa phương không có chính sách xây dựng nhà ở cho công nhân.
Công nhân phải đi thuê trọ, chi phí sinh hoạt gia tăng trong khi tiền lương
không tăng, các chế độ chính sách không được đảm bảo, nhiều doanh nghiệp
không đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,… cho người lao động.
Chính vì thế nhiều nhiều công nhân bỏ viêc, các cuộc đình công liên
tiếp diễn ra. Ví dụ: ngày 26/12/2009 gần 2000 công nhân công ty TNHH
Maxtric tại khu công nghiệp Bắc Vinh (Nghệ An) đình công vì tất cả các
quyền lợi không được đảm bảo. Công ty thường xuyên đuổi việc công nhân
không rõ ràng, người bị ốm đau không được nghỉ, gần 100% chị em nghỉ sinh
không có chế độ, nhiều trường hợp nghỉ sinh công ty còn cho nghỉ việc.
17
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ ĐÌNH CÔNG
TẠI VIỆT NAM
3.1. Tổ chức công tác trọng tài và hòa giải
Cần kiện toàn các tổ chức làm công tác trọng tài và hoà giải và nâng cao
năng lực hoạt động của các tổ chức này.
Cần nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức trên thông qua việc
đào tạo và huấn luyện cán bộ làm công tác hoà giải, trọng tài. Song song với
giải pháp này, các tổ chức hoà giải nên chủ động thiết lập một mạng lưới
cung cấp thông tin về tranh chấp lao động với các doanh nghiệp, các khu công
nghiệp, khu chế xuất và chủ động liên hệ với các doanh nghiệp để tiến hành
hoà giải, tư vấn cho doanh nghiệp mời sự tham gia của tr ọng tài lao động khi
hoà giải không thành.
3.2. Đối thoại khi đình công xảy ra
Hai bên đại diện người sử dụng lao động và đại diện người lao động
gặp mặt, trao đổi về nguyên nhân xảy ra đình công. Trong cuộc đối thoài này,
doanh nghiệp nên giải thích cho những người đại diện của người lao động về
tính hợp pháp của cuộc đình công và những điều nên làm theo quy định của
pháp luật, cũng như gợi ý ra một số giải pháp. Ngược lại bên đại diện người
lao động đưa ra những lý do đình công và mong muốn của họ. Từ đó tác động
tích cực đến hành động của những người đại diện cho người lao động. Nếu
họ nhận ra đây là một cuộc đình công trái pháp luật cùng với những hậu quả
18
có thể phải gánh chịu trong trường hợp doanh nghiệp đưa vấn đề ra tòa, các
thỏa thuận của hai bên sẽ có nhiều khả năng nhanh chóng đạt được.
3.3. Tổ chức công đoàn cơ sở
Tiếp tục hoàn thiện quy định về tổ chức công đoàn cơ sở và tăng cường
hoạt động của tổ chức này. Cần xác định:
Việc tham gia công đoàn của công nhân là hoàn toàn tự nguyện, những
người tham gia công đoàn buộc phải đóng công đoàn phí;
Việc bầu Ban Chấp hành công đoàn cơ sở phải dựa trên tín nhiệm thực
sự của công nhân, khuyến khích công nhân bầu những người thực sự có uy tín
và nhiệt huyết để họ lựa chọn được “thủ lĩnh” thật sự làm Chủ tịch công đoàn
cơ sở. Không kết nạp những người giữ vị trí quản lý (cấp trưởng phòng trở
lên) vào Công đoàn đối với các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước vì
thực chất, họ là những người đại diện cho giới chủ;
Ban Chấp hành công đoàn cơ sở, đặc biệt là Chủ tịch công đoàn cần
được cấp phí hoạt động công đoàn theo nguồn trích từ công đoàn phí của công
đoàn viên để khuyến khích sự hoạt động của họ.
3.4. Tìm hiểu về doanh nghiệp đầu tư của nước ngoài
VCCI nên tổ chức các lớp tập huấn phổ biến về văn hoá Việt Nam và
Luật lao động Việt Nam cho người nước ngoài làm quản lý ở các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời, phía các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài nên tổ chức giới thiệu văn hoá của nước bỏ vốn đầu tư
cho cán bộ và công nhân Việt Nam làm việc ở doanh nghiệp đó. Có thể ban
hành quy định ở cấp quốc gia về vấn đề này.
Thông qua hoạt động giới thiệu văn hoá nói trên, có thể hạn chế được
những tranh chấp lao động xuất phát từ sự khác biệt về văn hoá.
3.5. Về phía người sử dụng lao động
19
Người sử dụng lao động cần xây dựng tổ chức công đoàn cơ sở vững
mạnh. Cần có tổ chức công đoàn trong nội bộ doanh nghiệp và phải tách
quyền lợi của công đoàn ra khỏi quyền lợi của người sử dụng lao động. Công
đoàn sẽ giúp người sử dụng lao động chủ động thương lượng và tìm giải
pháp thích hợp trong trường hợp ban đầu có tranh chấp tập thể hay đình công
xảy ra sau đó.
Người sử dụng lao động cần xem xét vấn đề như các chính sách lương
thưởng, chế độ phúc lợi, đãi ngộ, chế độ bỏa hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
đồng thời điều chỉnh phù hợp với diễn biến của thị trường lao động, chi phí
sinh hoạt người lao động và mức lạm phát hiện nay; tăng cường đối thoại,
chia sẻ thông tin, kịp thời nắm bắt tâm tư và giải quyết các kiến nghị hợp lý
của người lao động.
Cần sớm nhận biết các dấu hiệu của một cuộc đình công sắp xảy ra để
chuẩn bị và có những giải pháp thích hợp. Vấn đề quan trọng hơn, mang tính
chất phòng ngừa từ xa, vẫn là xây dựng các chính sách lao động, thời gian làm
việc, thang lương, phụ cấp trong nội bộ doanh nghiệp một cách hợp lý, đảm
bảo cuộc sống cho người lao động.
Sử dụng các kênh đối thoại trong doanh nghiệp để hiểu người lao động
của mình cần gì, có nhu cầu ra sao và tìm phương án giải quyết nhanh chóng...
Cán bộ làm công tác quản trị nhân lực kết hơp cùng công đoàn và ban giám
đốc thường xuyên tổ chức họp hội; thăm hỏi, nói chuyện trực tiếp và xây
dựng hộp thư góp ý để người lao động có điều kiện gặp gỡ, đề đạt những
thắc mắc cũng như những tâm tư, nguyện vọng có liên quan đến quá trình
phát triển của công ty”…
3.6. Quản lý nhà nước
Tiếp tục nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý nhà
nước. Cần tiến hành định biên lại và tăng biên chế cho thanh tra lao động, ban
20
hành tiêu chuẩn thanh tra viên và tăng cường đào tạo nghiệp vụ cho thanh tra
viên lao động. Cần thiết lập một chương trình đào tạo thanh tra viên lao động
với thời gian đào tạo khoảng 1 2 năm dành cho việc đào tạo thanh tra viên
mới. Những thanh tra viên tập sự phải kết thúc chương trình đào tạo này mới
được cấp Thẻ thanh tra viên và được phép tiến hành thanh tra độc lập.
Nên có quy định về sự tham gia của thanh tra lao động trong quá trình
giải quyết đình công.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp của các doanh nghiệp
FDI (Ban Quản lý các khu chế xuất, khu công nghiệp), cần thiết lập bộ phận
theo dõi, nắm bắt tình hình và diễn biến của các tranh chấp lao động diễn ra
tại các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý để ngăn chặn kịp thời sự bùng nổ
các tranh chấp có thể dẫn tới đình công.
21
KẾT LUẬN
Quan hệ lao động là một trong những yếu tố quan trọng tác động không
nhỏ đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Việc coi trọng quan hệ lao
động là nhiệm vụ cần được quan tâm chú ý nhằm thực hiện các biện pháp
góp phần hạn chế những xung đột, giảm thiểu các tranh chấp và đẩy lùi nguy
cơ đình công.
Đình công hiện nay ở Việt Nam đang là vấn đề nóng. Đó là mâu thuẫn
quyền và lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, không hiểu
biết về Pháp luật của cả hai bên dẫn đến những hành vi ứng xử làm cho các
mâu thuẫn này ngày càng trầm trọng hơn; Sự can thiệp của các cơ quan hữu
quan chưa kịp thời và chưa hiệu quả. Hoạt động Công đoàn còn hạn chế, vì
cán bộ Công đoàn trong các doanh nghiệp thường là kiêm nhiệm, họ chưa
hiểu về pháp luật lao động.
22
Qua đó nêu lên một số giải pháp chủ yếu làm giảm nguyên nhân dẫn
đến đình công: Chú trọng công tác đối thoại giữa hai đại diện người sử dụng
lao động và người lao động, chăm lo tốt hơn tới đời sống vật chất, tinh thần
của người lao động, cư xử đúng mực để tạo nên mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó
lâu dài giữa người sử dụng lao động và người lao động vì lợi ích của cả hai
bên, giúp hai bên hiểu rõ quy định của Pháp luật.
Trong bài tiểu luận nhỏ này phần nào nói lên thực trạng đình công tại
Việt Nam hiện nay, và có đưa ra một số giải pháp để hạn chế đình công, tạo
quan hệ lao động lành mạnh giúp các doanh nghiệp phát triển bền vững hơn.
Tài liệu tham khảo
1. PGS.TS.Nguyễn Tiệp Giáo trình Quan hệ lao động
2. Website: molisa.gov.vn
Phụ lục
Bảng 1: Đình công trong các doanh nghiệp từ năm 1995 đến hết ngày
15/4/2009
Bảng 2: Số lượng các cuộc đình công phân theo địa bàn từ năm 1995
2011
23