Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn đến 6 tháng và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Mêkông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.91 KB, 8 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

TỶ LỆ NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ HOÀN TOÀN ĐẾN 6 THÁNG
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN MÊKÔNG
Lê Thị Hoàng Uyên*, Võ Minh Tuấn**

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nuôi con bằng sữa mẹ là phương pháp tự nhiên mang lại nhiều lợi ích về kinh tế, bảo vệ sức
khỏe bà mẹ và trẻ em, nhưng hầu hết các bà mẹ Việt Nam chưa thực hiện tốt nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn đến
6 tháng tuổi. Mục tiêu nghiên cứu là xác định tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn đến 6 tháng tuổi ở những trẻ
được sinh tại Bệnh viện Mêkông và những yếu tố liên quan.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện ở những phụ nữ có con trong độ tuổi 6 đến 8
tháng được sinh và tiêm ngừa tại Bệnh viện MêKông. Phỏng vấn các yếu tố dịch tễ, tình trạng hôn nhân, đặc
điểm công việc, đặc điểm cuộc sinh,cách thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ; so sánh giữa nhóm nuôi con bằng sữa
mẹ hoàn toàn đến 6 tháng và nhóm không nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn.
Kết quả: Khảo sát 386 bà mẹ từ tháng 12/2016 đến 03/2017, tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn đến 6
tháng tuổi là 27,2%. Các yếu tố liên quan bao gồm: tuổi mẹ > 35 tuổi (PR = 4,1; KTC 95%: 1,0-16,6), bé trước
được cho bú > 24 tháng (PR = 7,13; KTC 95%: 1,0 – 49,7), thời điểm bắt đầu cho bú mẹ > 1 giờ (PR = 0,1; KTC
95%: 0,06 – 0,32), thời gian mẹ đi làm lại > 6 tháng (PR = 2,2; KTC 95%: 1,0 – 4,6), mẹ tự vắt và dự trữ sữa (PR
= 2,9; KTC 95%: 1,6 – 5,4).
Kết luận: Tỷ lệ bú nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn đến 6 tháng tuổi tại bệnh viện Mêkông còn thấp, 27,2%.
Hướng dẫn cách vắt sữa và dự trữ sữa cho các bà mẹ cho con bú, tạo điều kiện để các bà mẹ vắt và dự trữ sữa ở
nơi làm việc, giúp đỡ và hướng dẫn các bà mẹ bú sớm trong 1 giờ sau sanh
Từ khóa: nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn (NCBSMHT).

ABSTRACT
PREVALENCE AND RISK FACTORS OF EXCLUSIVE BREASTFEEDING IN FIRST 6 MONTHS AT
MEKONG HOSPITAL
Le Thi Hoang Uyen, Vo Minh Tuan


* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 166- 173
Objectives: Breastfeeding is the natural method which bringsvarious economic benefits as well as protects
marternal and infant health. However, most of Vietnamese mothers have not skillfully practicedthe process of
exclusive breastfeeding over first 6 months. Our study figures out the prevalence of exclusive breastfeeding in first
6 months and related factors at Mekong hospital.
Methods: A cross – sectional study was conducted among women who had given birth at Mekong Hospital.
All the participants were recrusted after 6-8 months of their childbirth. Subjects were face-to-face
interviewedwhen they had their children vaccinated at the hospital. The questionnaire included social factors,
characteristics during the delivery and feeding models. We compared the odd of the factors between the two
groups: with and without first 6 months exclusive breastfeeding.
Results: From September 2016 to March 2017, 386 women were interviewed, the rate of first-six-month
exclusive breastfeeding was 27,2%. Some factors were found associated with this rate including mother age over
* Bệnh viện Phụ sản Mêkông
** Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Võ Minh Tuấn
ĐT: 0909727199
Email:

166

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

Nghiên cứu Y học

35 (PR = 4.1; 95% CI: 1.0-16.6), history of breastfeeding more than 24 months for her previous child (PR = 7.13;
95% CI: 1.0 – 49.7), initiation of breastfeeding 1 hour later after childbirth (PR = 0.1; 95% CI: 0.06 – 0.32),
return working more than 6 months after childbirth (PR = 2.2; 95% CI: 1.0 – 4.6), suction and store breastmilk

(PR = 2.9; 95% CI: 1.6 – 5.4).
Conclusions: The rate of first-six-month- exclusive breastfeeding was low at Mekong hospital. To initiate
breastfeeding during the first hour of childbirth and store breastmilk for busy mother might be the
recomemdations for mothers who would like to keep exclusive breastfeeding in first 6 months.
Key words: exclusive breastfeeding.

ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ MỤC TIÊU
Nuôi con bằng sữa mẹ là biện pháp tự nhiên
mang nhiều lợi ích về kinh tế, bảo vệ sức khỏe bà
mẹ và trẻ em. Sữa mẹ chứa hàng trăm thành
phần dinh dưỡng và các yếu tố bảo vệ giúp tăng
cường khả năng miễn dịch cho cơ thể của bé, đặc
biệt sữa non. Bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ giúp
phát triển mối quan hệ gần gũi yêu thương, gắn
bó tình cảm mẹ con. Ngoài ra việc nuôi con bằng
sữa mẹ có thể tiết kiệm cho nhà nước hàng triệu
đô la Mỹ vào việc sản xuất, vận chuyển phân
phối các sản phẩm, thực phẩm dùng để chữa trị,
phục hồi cho các trẻ em bị suy dinh dưỡng(7).
Mặc dù lợi ích như vậy, hầu hết các bà mẹ ở Việt
Nam chưa thực hiện tốt việc cho bé bú mẹ hoàn
toàn đến 6 tháng tuổi.
Theo UNICEF ước tính 1,3 triệu trẻ chết
hàng năm bởi không được nuôi con bằng sữa mẹ
hoàn toàn trong vòng sáu tháng đầu(8). Tổng Cục
thống kê Việt Nam thực hiện năm 2010 chỉ có
39,7% trẻ được bú sữa mẹ lần đầu tiên trong 1
giờ đầu sau sanh và chỉ có 17% trẻ được bú sữa
mẹ hoàn toàn cho đến 6 tháng đầu.
Từ khi nhận được công văn sở y tế qui định

về việc hướng dẫn nuôi con bằng sữa mẹ tại các
cơ sở y tế ban hành ngày 19/12/2013, Bệnh viện
MêKông (BVMK) đã thực hiện các chương trình
nhằm nâng cao tỷ lệ cho bé bú sữa mẹ như: sản
phụ được da kề da thường qui đối với sinh
thường, nhân viên y tế hướng dẫn cho con bú
sớm ngay sau sinh tại phòng hậu sản gần. Tuy
nhiên, các trẻ sinh mổ không được da kề da
thường qui và bé cách ly khỏi mẹ trong thời gian
6 giờ ở phòng hồi sức. Tại các khoa hậu sản,
nhân viên y tế hướng dẫn nuôi con bằng sữa mẹ

(NCBSM) trong thời gian nằm viện. Bệnh viện tổ
chức các lớp hướng dẫn NCBSM mỗi tuần cho
các sản phụ và thân nhân. Cho đến thời điểm
hiện tại, BVMK chưa có nghiên cứu nào để khảo
sát các bà mẹ sinh tại BVMK có thực hiện tốt việc
NCBSM hay không. Do đó chúng tôi tiến hành
nghiên cứu để xác định tỷ lệ cũng như các khó
khăn và thuận lợi của việc NCBSM ở những sản
phụ sinh con tại BVMK.
Câu hỏi nghiên cứu “Tỉ lệ trẻ bú mẹ hoàn
toàn cho đến 6 tháng tuổi ở những trẻ được sinh
tại Bệnh viện Phụ Sản MêKông bao nhiêu?
Những yếu tố nào liên quan đến việc trẻ được
bú mẹ hoàn toàn đến 6 tháng tuổi?”.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ bà mẹ cho con bú mẹ hoàn
toàn đến 6 tháng tuổi ở những sản phụ sinh tại
Bệnh viện MêKông trong khoảng thời gian từ

tháng 05/2016 đến tháng 08/2016.
Khảo sát yếu tố liên quan đến việc trẻ được
bú mẹ hoàn toàn đến 6 tháng tuổi tại Bệnh viện
Mêkông

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang.
Dân số nghiên cứu
Phụ nữ có con 6-8 tháng tuổi tại BVMK đưa
con đến tiêm ngừa tại phòng khám Nhi và
không có chống chỉ định cho con bú sữa mẹ,
đồng thuận tham gia nghiên cứu.
Cỡ mẫu
Tính cỡ mẫu theo công thức ước tính một tỷ
lệ trong quần thể với độ chính xác tuyệt đối

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em

167


Nghiên cứu Y học

n

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Bước 1: Mô tả và phân tích đơn biến bằng hồi
quy Logistic.


12 α/2  p  1  p 
d2

p = tỷ lệ ước lượng bệnh trong quần thể. Tỷ
lệ thay đổi theo các nghiên cứu, do vậy chọn p =
0,50 để có được cỡ mẫu lớn nhất; Z= 1,96; d = 0,05
 n = 386.
Phương pháp thu thập số liệu
Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn phòng theo ngày
trong tuần. Có 3 phòng khám tiêm ngừa Nhi,
mỗi ngày chọn tất cả các đối tượng thỏa điều
kiện trong một phòng để phỏng vấn và luân
phiên phòng theo thứ tự thời gian đến khi thu
thập đủ mẫu.
Các bước tiến hành
Bước 1: Tiến hành phỏng vấn thử bảng câu
hỏi (Pilot Study) trên 10 đối tượng nghiên cứu để
chỉnh sửa bảng câu hỏi phù hợp, dễ hiểu. Thông
tin 10 mẫu này không lấy vào số liệu nghiên cứu.
Bước 2: Sàng lọc và thu nhận đối tượng
nghiên cứu. Chúng tôi mời tham gia nghiên
cứu tất cả bà mẹ đưa bé đến tiêm ngừa có con
từ 6 đến 8 tháng, trong quá trình các bà mẹ
chờ đến số thứ tự, thỏa điều kiện trong cùng
một phòng khám.
Bước 3: Mời tham gia nghiên cứu và ký
bảng đồng thuận tham gia nghiên cứu. Nếu bà
mẹ đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ được mời
đến phòng Tư Vấn Sinh Sản để phỏng vấn và
kí bảng đồng thuận, sau khi đã hoàn tất việc

tiêm ngừa (trong thời gian chờ theo dõi 30
phút sau tiêm ngừa).
Bước 4: Tiến hành phỏng vấn và thu thập
số liệu. Người phỏng vấn sẽ hỏi trực tiếp đối
tượng nghiên cứu theo bảng câu hỏi, câu trả
lời sẽ được người phỏng vấn điền vào bảng
thu thập số liệu.Thời gian phỏng vấn kéo dài
khoảng 10 - 15 phút.
Bước 5: Nhập, làm sạch và phân tích số liệu.
Xử lý số liệu
Bằng phần mềm thống kê stata. Phân tích
gồm 2 bước:

168

Bước 2: Phân tích đa biến bằng hồi quy
Logistic nhằm kiểm soát các yếu tố gây nhiễu.
Sử dụng khoảng tin cậy 95%.

KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 12/2016 đến tháng
03/2017, chúng tôi chọn theo phương pháp ngẫu
nhiên đơn và phỏng vấn được 386 trường hợp.
Bảng 1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu.
Đặc điểm
Nhóm tuổi

< 25
25 - 35
> 35

Địa chỉ: Hồ Chí Minh
Khác
Dân tộc: Kinh
Khác
Nghề nghiệp
Công nhân viên chức
Buôn bán
Lao động tự do
Nội trợ, thất nghiệp
Trình độ học vấn
Đại học và sau đại học
Cấp I - II
Cấp III
Công việc phải trực đêm
Không

Tình trạng hôn nhân
Sống chung với chồng
Không sống với chồng
Số lần sinh: 1
2
≥3
Nghề chồng
Buôn bán
Công nhân viên chức
Lao động tự do
Không sống với chồng
Nhóm tuổi chồng < 25t
25 - 35t
> 35t

Mẹ đơn thân
Số người sống chung < 2
≥2

Tần số
(N=386)
29
323
34
354
32
385
1

Tỷ lệ (%)
7,51
83,68
8,81
91,71
8,29
99,74
0,26

210
55
41
80

54,40
14,25

10,62
20,73

266
29
91

68,91
7,51
23,58

381
5

98,70
1,30

379
7
238
128
20

98,19
1,81
61,66
33,16
5,18

75

225
79
7
11
266
105
4
23
363

19,43
58,29
20,47
1,81
2,85
68,91
27,20
1,04
5,96
94,04

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Đặc điểm
Thời gian cho bé bú lần trước
Dưới 6 tháng
6 tháng đến < 12 tháng
12 đến < 24 tháng

≥ 24 tháng
Chưa sinh con

Tần số
(N=386)

Tỷ lệ (%)

33
52
56
7
238

8,55
13,47
15,51
1,81
61,66

Đa số sản phụ sinh con lần đầu và có độ tuổi
từ 25 đến 35 tuổi, dân tộc Kinh và cư ngụ tại
TP.HCM. Chủ yếu các bà mẹ làm công nhân
viên chức (54,4%) và có trình độ học vấn từ cấp
III trở lên (98,7%).
Bảng 2. Đặc điểm cuộc sinh.
Đặc điểm

Tần số (N=386)
Tỷ lệ (%)

Cách sinh
Ngả âm đạo
208
53,89
Sinh mổ
178
46,11
Da kề da sau sinh
Không
167
43,26

219
56,74
Băng huyết sau sinh
Không
380
98,45

6
1,55
Truyền máu sau sinh
Không
384
99,48

2
0,52
Nhiễm trùng sau sinh
Không

376
97,41

10
2,59
Mẹ sốt sau sinh
Không
376
97,41

10
2,59
Mẹ dùng thuốc không thể cho bé bú sau sinh
Không
382
98,96

4
1,04
Mẹ bị mất ngủ, lo lắng
Không
269
69,69

117
30,31
Giới tính
Trai
206
53,37

Gái
180
46,63
Cân nặng lúc sinh
< 2500 g
8
2,07
2500 g - 3500 g
311
80,57
> 3500 g
67
17,36
Tuổi thai lúc sinh
Non tháng
21
5,44
Đủ tháng
365
94,56
Bé bị cách ly
Không
175
45,34

211
54,66

Nghiên cứu Y học


Tỷ lệ sinh mổ và sinh ngả âm đạo, tỷ lệ da kề
da sau sinh gần tương đương, tỷ lệ biến chứng
sau sinh rất thấp < 3%. Chủ yếu trẻ sinh ra đủ
tháng và cân nặng > 2500g. Đặc điệt trong
nghiên cứu 54,6% trẻ bị cách ly với mẹ sau sinh.
Bảng 3. Đặc điểm nuôi con bằng sữa mẹ 6 tháng đầu
Đặc điểm
Tần số
Tỷ lệ (%)
Cách cho bú sữa mẹ (N = 386)
Không bú mẹ
29
7,51
Bú mẹ hoàn toàn
133
34,46
Bú mẹ chủ yếu
95
24,61
Bú mẹ kết hợp
129
33,42
Phân bố nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
(N = 133)
1 tháng
2
1,50
2 tháng
3
2,26

3 tháng
4
3,01
4 tháng
2
1,50
5 tháng
17
12,78
≥ 6 tháng
105
78,95

Khi khảo sát cách bà mẹ cho bé bú sữa mẹ
chúng tôi ghi nhận có 4 cách bú mẹ: trẻ bú mẹ
hoàn toàn và trẻ được bú mẹ kết hợp chiếm tỷ lệ
cao nhất là 34,46% và 33,42%, kế đến trẻ được bú
mẹ chủ yếu chiếm 24,61%. Chúng tôi cũng ghi
nhận có 29 trường hợp trẻ hoàn toàn không
được bú sữa mẹ sau sinh.
Trong đó cách cho bú sữa mẹ được định
nghĩa như sau:
Bú sữa mẹ hoàn toàn: là khi trẻ chỉ bú sữa
mẹ trực tiếp hoặc gián tiếp (vắt sữa của mẹ hoặc
của người phụ nữ khác) và không dùng bất cứ
loại thức ăn nước uống nào khác, ngoại trừ
vitamin, khoáng chất và thuốc chữa bệnh.
Bú sữa mẹ chủ yếu: khi trẻ nhận được nguồn
dinh dưỡng chủ yếu từ sữa mẹ. Nghĩa là ngoài
sữa mẹ, trẻ có thể dùng thêm chất lỏng như nước

lọc, nước trái cây…các loại thức uống không có
chất dinh dưỡng, không kèm sữa công thức.
Bú mẹ kết hợp: là khi trẻ nhận được nguồn
dinh dưỡng từ sữa mẹ và bổ sung thêm các loại
sữa khác ngoài sữa mẹ hoặc ăn dặm trước 6
tháng.
Không bú sữa mẹ: khi trẻ nhận được nguồn
dinh dưỡng hoàn toàn từ sữa ngoài, không nhận

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em

169


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

từ sữa mẹ hoặc bà mẹ bắt đầu ngưng cho con bú
mẹ trong vòng 1 tuần đầu sau sinh.
Bú sữa mẹ: khi trẻ được bú sữa mẹ trực tiếp
hoặc gián tiếp.
Tuy nhiên, trong nhóm bà mẹ cho trẻ bú sữa
mẹ hoàn toàn chỉ có 105/133 trường hợp vẫn tiếp
tục NCBSM hoàn toàn 6 tháng. Như vậy tỷ lệ
NCBSM hoàn toàn đến 6 tháng trong nghiên cứu
của chúng tôi là 105/386 trường hợp chiếm 27,2%
dân số nghiên cứu với KTC 95%: 22,7-31,7.
Bảng 4. Các vấn đề khi nuôi con bằng sữa mẹ (N =
386).

Đặc điểm
Tần số
Tỷ lệ (%)
Thời điểm bắt đầu bú sữa mẹ
Không
29
7,51
Trong 1 giờ đầu
149
38,60
1- 48 giờ đầu
176
45,60
Sau 48 giờ sau sinh
32
8,29
Lý do bú trễ
Mệt và đau
62
16,06
Không có sữa
63
16,32
Không cho bú
5
1,3
Bé dưỡng nhi
84
21,76
Bé không biết bú

6
1,55
Lý do khác
17
4,40
Bé bú sớm
149
38,69
Nhân viên y tế hướng dẫn nuôi con bằng sữa mẹ
Không
25
6,48

361
93,52
Mẹ tự vắt sữa
Không
186
48,19

200
51,81
Vắt sữa tại nơi làm việc khi đi làm trước 6 tháng sau sinh
Không
39
10,1

38
9,84
Chưa đi làm

309
80,05
Thời gian đi làm lại sau sinh
≤ 6 tháng
77
19,95
> 6 tháng
243
62,95
Ở nhà
66
17,10
Mẹ mắc bệnh về vú thời kỳ hậu sản
Không
232
60.10
Đau vú
46
11,92
Tắc sữa
73
18,91
Nứt vú
19
4,91
Áp xe vú
16
4,15

Có 92,49% trẻ trong nghiên cứu của chúng

tôi được bú sữa mẹ, nhưng chỉ 38,6% trẻ bắt đầu

170

được bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu và lý do
trẻ bắt đầu bú mẹ trễ thường gặp nhất là do bé
gởi dưỡng nhi, 21,76%.
Một trong những yếu tố quan trọng khi
NCBSM là bà mẹ có thực hiện vắt sữa hay
không, kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi
có tỷ lệ các bà mẹ có thực hiện vắt sữa (52%)
Ngoài ra trong nghiên cứu chúng tôi có 77 bà mẹ
phải đi làm sớm trước 6 tháng thì chỉ có 50%
trường hợp có thực hiện vắt sữa tại nơi làm việc
để đảm bảo nguồn sữa cho trẻ. Hầu hết bà mẹ
(80,05%) được nghỉ ở nhà đến hơn 6 tháng nên
có đủ thời gian cần thiết để thực hiện NCBSM
hoàn toàn 6 tháng đầu đời của trẻ.
Khi nuôi con bằng sữa mẹ, các bà mẹ có thể
gặp một số vấn đề về vú sau sinh, khoảng 60,1%
trường hợp.
Phân tích mối liên quan
Qua phân tích hồi quy đa biến mối liên quan
giữa các biến số và việc NCBSM hoàn toàn 6
tháng đầu chỉ còn 5 yếu tố liên quan có ý nghĩa
thống kê bao gồm:
Tuổi của bà mẹ > 35 tuổi giúp tăng khả năng
NCBSM hoàn toàn 6 tháng đầu lên 4,1 lần so với
nhóm bà mẹ có độ tuổi < 25 tuổi, với P < 0,05.
Nhóm bà mẹ đã từng NCBSM ≥ 24 tháng

trong những lần mang thai trước đây giúp tăng
khả năng NCBSM hoàn toàn 6 tháng đầu lên 7,13
lần so với nhóm bà mẹ trước đây chỉ NCBSM < 6
tháng, với P < 0,05.
So với nhóm trẻ được bú mẹ sớm trong 1 giờ
đầu sau sinh thì nhóm trẻ được cho bú mẹ trễ
sau 1 giờ sau sinh làm giảm khả năng NCBSM
hoàn toàn 6 tháng đầu 7,7 lần, với P<0,05.
Những bà mẹ có thực hành vắt sữa mẹ sẽ
giúp tăng khả năng NCBSM hoàn toàn 6 tháng
đầu lên 2,96 lần so với nhóm không vắt sữa
mẹ với P < 0,05. Bà mẹ đi làm lại trễ ≥ 6 tháng
giúp tăng khả năng NCBSM hoàn toàn lên 2,18
lần so với những bà mẹ đi làm lại sớm < 6
tháng, với P < 0,05.

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

Nghiên cứu Y học

Bảng 5. Mối liên quan giữa các yếu tố và nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn 6 tháng
Không BMHT 6 tháng (N=281)
Nhóm tuổi
24 (82,76)
236 (73,07)
21 (61,76)
Thời gian cho con bú lần trước

29 (87,88)
33 (63,46)
38 (67,86)
4 (57,14)
177 (74,37)
Thời điểm bắt đầu bú
79 (53,02)
202 (85,23)
Mẹ tự vắt sữa
152 (81,72)
129 (64,5)
Thời gian mẹ đi làm lại
63 (81,82)
176 (72,43)
42 (63,64)

*

Biến số

BMHT 6 tháng (N = 105)

PR*

KTC 95%

P

< 25t
25 - 35t

> 35t

5 (17,24)
87 (26,93)
13 (38,24)

1
1,99
4,10

0,63-6,28
1,01-16,6

0,243
0,048

< 6 tháng
6 - < 12tháng
12 - < 24tháng
≥ 24 tháng
Sinh lần đầu

4 (12,12)
19 (36,54)
18 (32,14)
3 (42,86)
61 (25,63)

1
2,60

3,31
7,13
2,30

0,72-9,37
0,93-11,8
1,02-49,7
0,71-7,39

0,145
0,066
0,047
0,163

≤ 1 giờ đầu
> 1 giờ đầu

70 (46,98)
35 (14,77)

1
0,13

0,06-0,32

0,000

Không



34 (18,28)
71 (35,5)

1
2,96

1,63-5,37

0,000

< 6 tháng
≥ 6 tháng
Mẹ ở nhà

14 (18,18)
67 (27,57)
24 (36,36)

1
2,18
1,72

1,03-4,62
0,71-4,19

0,041
0,233

*Multivariate Logistic Regression


BÀN LUẬN
Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn 6 tháng
đầu
Tỷ lệ NCBSM hoàn toàn 6 tháng đầu sau
sinh trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn
mong đợi. Mặc dù vậy, tỷ lệ NCBSM hoàn toàn 6
tháng đầu ở nghiên cứu của chúng tôi lại cao
hơn nhiều so với các nghiên cứu tại TP.HCM
trước đó. Theo nghiên cứu được công bố năm
2014 OCED phối hợp với Tổ chức Y tế thế giới về
tỷ lệ NCBSM hoàn toàn 6 tháng đầu ở các nước
Châu Á, tỷ lệ của Việt Nam vào năm 2011 là
17%, thấp thứ 3 trong số 22 nước tham gia
nghiên cứu(9). Báo cáo này cũng nêu ra yếu tố
góp phần dẫn tới tỷ lệ thấp như vậy là thiếu sự
hỗ trợ từ bệnh viện, từ các thực hành chăm sóc,
các chính sách và thái độ của bà mẹ cho rằng
mình không đủ sữa cho trẻ bú. Nghiên cứu định
tính của tác giả Almroth, S. và Quang, N. D tiến
hành năm 2008(1), phỏng vấn sâu 118 đối tượng
bao gồm cha, mẹ, ông bà, người lớn tuổi và nhân
viên y tế ở thành thị và nông thôn miền Nam
nước ta đã rút ra được một số nguyên nhân làm

cho việc NCBSM hoàn toàn tại nước ta trở lên
không phổ biến như: sự hiểu biết kém và ít được
đánh giá cao về NCBSM của ngay cả nhân viên y
tế và những người được phỏng vấn rằng
NCBSM là cách tốt nhất cho dinh dưỡng của trẻ
6 tháng đầu đời, việc bắt đầu cung cấp nước sớm

cho trẻ như là qui tắc và đa số trẻ được cung cấp
thêm sữa và nước kèm theo sữa mẹ, tuy nhiên
khi người mẹ đi làm họ cũng tìm cách để không
cản trở việc NCBSM hoàn toàn.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn
các tác giả khác tại TP.HCM có thể là do:
Đối tượng nghiên cứu chúng tôi chủ yếu cư
ngụ ở khu vực trung tâm thành phố, các bà mẹ
chọn sanh ở BVPSMK đa phần từ quận Tân
Bình, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Gò Vấp, Quận
1… đây là các quận có nền kinh tế phát triển và
mức sống cao.
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi có trình
độ văn hóa đa phần trên cấp III (92,49%).
Nghề nghiệp phổ biến nhất trong nghiên
cứu chúng tôi là công nhân viên chức, đây là
một yếu tố thuận lợi cho việc tiếp cận thông

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em

171


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

tin về chăm sóc sức khỏe cũng như vấn đề
chăm sóc trẻ em.
Tại bệnh viện chúng tôi nghiên cứu,

thường xuyên có các lớp tư vấn NCBSM trước
sinh, khuyến khích bú sớm và da kề da ngay
sau sinh thường và điều trị, xử trí các vấn đề
về vú sau sinh.
Tuy nhiên, tỷ lệ của chúng tôi vẫn không cao
so với các nước khác trong khu vực Châu Á.
Như vậy việc NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng
đầu tại TP.HCM cũng như tại Việt Nam đang
gặp khó khăn khiến cho tỷ lệ này không cao dù
có cả chính sách hỗ trợ về thời gian nghỉ hậu sản
và điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi. Từ đó đưa
ra câu hỏi nguyên nhân thật sự của khó khăn
trong NCBSM ở TP.HCM là gì.
Khi nghiên cứu mối liên quan giữa thực
hành vắt sữa mẹ và tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ
hoàn toàn 6 tháng, nghiên cứu của chúng tôi đã
chỉ ra rằng những bà mẹ có thực hành vắt sữa
mẹ sẽ giúp tăng khả năng NCBSM hoàn toàn 6
tháng đầu lên 2,96 lần so với nhóm không vắt
sữa mẹ. So với nghiên cứu của tác giả Tôn Thị
Anh Tú chỉ có 37,26% bà mẹ đồng ý với thái độ
vắt sữa do các bà mẹ sợ sữa lấy ra lạnh, dễ
nhiễm khuẩn, bé bú không tốt. Một nghiên cứu
khác của tác giả Mai Ngọc Xuân cũng cho thấy
bà mẹ có vắt sữa dự trữ có tỉ lệ trẻ bú mẹ hoàn
toàn 6 tháng gấp 1,31 lần (p<0,001). Các bà mẹ
trong nghiên cứu của chúng tôi đa số lại là có
con lần đầu nhưng tỷ lệ biết vắt sữa và trữ sữa
mẹ khá cao 51,8% là dấu hiệu thuận lợi cho việc
thực hiện NCBSM hoàn toàn 6 tháng đầu. Sự

khác biệt này có thể là do chúng tôi có lớp tập
huấn và tờ rơi về NCBSM trong đó có mục bảo
quản và dự trữ sữa.
Các vấn đề thường gặp khi nuôi con bằng sữa
mẹ
Khi so sánh với các nghiên cứu khác, tỷ lệ trẻ
bắt đầu bú mẹ sớm trong nghiên cứu của chúng
tôi cao hơn các nghiên cứu tương tự ở TPHCM
như nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thi Nguyên
Thảo(4) tiến hành tại Bệnh viện Nhi Đồng 1

172

(30%), tác giả Mai Ngọc Xuân(3) tiến hành tại
Bệnh viện Nhi Đồng 2 (24%) và tác giả Đinh Thị
Hải Yến(2) tiến hành tại Củ Chi (28%), tuy nhiên
tỷ lệ này lại thấp hơn so với nghiên cứu của tác
giả Tôn Thị Anh Tú(6) tiến hành tại Bệnh viện
Nhi Đồng 1 (69%) và số liệu toàn quốc từ Viện
Dinh Dưỡng Quốc Gia (62%).
Theo bảng kết quả nghiên cứu như trên của
tác giả Takahashi và cộng sự(5) công bố tháng 3
năm 2017, tỷ lệ bắt đầu bú mẹ sớm sau sinh tại
Việt Nam là 63,9% đứng thứ 4 trong 9 nước
Châu Á tham gia nghiên cứu và đứng thứ 9
trong tổng số 24 nước tham gia nghiên cứu. Từ
các số liệu về tỷ lệ trẻ bắt đầu bú mẹ sớm ở
nghiên cứu trên, nghiên cứu của chúng tôi và các
nghiên cứu khác tại TP.HCM cho thấy khoảng
cách tỷ lệ trẻ bắt đầu bú sớm ở các nghiên cứu tại

TP.HCM còn quá xa so với tỷ lệ của toàn quốc và
các nước khác. Đây là vấn đề cần được xem xét,
tìm nguyên nhân và hỗ trợ chặt chẽ ở các Bệnh
Viện trong TP.HCM, thúc đẩy thực hiện tập
huấn nhân viên y tế và có các chương trình chăm
sóc hướng dẫn cụ thể từ trước sinh và sau sinh
về NCBSM hoàn toàn và triển khai được hầu hết
các Bệnh Viện trong TP.HCM thực hiện 3
khuyến cáo toàn cầu về NCBSM: da kề da ngay
sau sinh dù sinh ngả âm đạo hay sinh mổ, hỗ trợ
trẻ bắt đầu bú mẹ sớm và hướng dẫn khuyến
khích bà mẹ NCBSM hoàn toàn 6 tháng đầu đời.
Tại BVMK luôn có tập huấn nội bộ nhân viên
hàng năm về NCBSM và tăng cường phổ biến
kiến thức về NCBSM từ phòng khám thai đến
các khoa có bà mẹ và trẻ nội trú nên hầu hết các
bà mẹ trong nghiên cứu của chúng tôi được
nhân viên y tế hướng dẫn NCBSM (93,52%).
Nhưng phải chăng sự giúp đỡ vẫn chưa đủ
chuyên nghiệp, chưa đồng bộ giữa các khoa
hoặc chưa thuyết phục được các bà mẹ có niềm
tin vào việc NCBSM hoàn toàn 6 tháng đầu, do
đó tỷ lệ này ở nghiên cứu của chúng tôi không
cao và các bà mẹ dễ dàng tìm đến sữa công thức
khi mà lý do không đủ sữa hoặc không có sữa
mẹ cho trẻ chiếm tỷ lệ cao nhất 45,2%.

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Ưu điểm và nhược điểm
Đây là nghiên cứu không tốn nhiều kinh phí
và thời gian thực hiện nên mang tính khả thi cao,
dễ thực hiện trong môi trường bệnh viện và
ngoài cộng đồng.
Tuy nhiên nghiên cứu của chúng tôi vẫn còn
một số hạn chế. Thiết kế cắt ngang là thiết kế
phù hợp để xác định một tỷ lệ bệnh đang lưu
hành trong dân số nhưng chỉ xác định các yếu tố
liên quan mà không đánh giá chính xác nguy cơ
của các phơi nhiễm. Việc chọn mẫu tại khoa
khám Nhi của Bệnh Viện, nơi đa số trẻ được sinh
ra tại viện đến khám và tiêm ngừa tuy nhiên
chưa đại diện tuyệt đối cho dân số trẻ sinh tại
Bệnh Viện MêKông vì còn hơn 50% trẻ sinh ra
không tiêm ngừa tại viện. Biến số mang tính chủ
quan như mất ngủ, lo lắng, kích thích sau sanh,
không thể đo lường chính xác được nên chúng
tôi phải chấp nhận thu thập dựa trên đánh giá
chủ quan của đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu
thu thập số liệu bằng hình thức phỏng vấn thông
qua bảng câu hỏi soạn sẵn nên người phỏng vấn
không quan sát trực tiếp mà chỉ ghi nhận lại
thông tin thông qua việc nhớ lại của các bà mẹ.
Như vậy sai lệch nhớ lại có thể xảy ra khi các bà
mẹ không nhớ chính xác thông tin.

KIẾN NGHỊ
Qua kết quả và mối liên quan ghi nhận

được từ nghiên cứu chúng tôi có một số kiến
nghị để nâng cao tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ
hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Hướng dẫn cách
vắt sữa và dự trữ sữa cho các bà mẹ cho con
bú. Tạo điều kiện thuận lợi để các bà mẹ có thể
vắt sữa và dự trữ sữa ở nơi làm việc, giúp đỡ
và hướng dẫn các bà mẹ bú sớm trong 1 giờ

Nghiên cứu Y học

sau sanh, tạo điều kiện để các bà mẹ được
nghỉ hậu sản ≥ 6 tháng sau sanh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.


9.

Almroth S, Arts M, Quang ND, Hoa PT, Williams C (2008).
“Exclusive breastfeeding in Vietnam: an attainable goal”. Acta
Paediatr, 97(8):pp.1066-9.
Đinh Thị Hải Yến (2014). “Những yếu tố ảnh hưởng đến hành
vi nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu tại
TP.HCM”. Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ, Dịch vụ y tế. Đại học Y
Dược thành phố Hồ Chí Minh.
Mai Ngọc Xuân (2014). “Tỉ lệ trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6
tháng đầu và các yếu tố liên quan của bệnh nhi đến khám tại
Bệnh viện Nhi Đồng 2 Thành Phố Hồ Chí Minh”. Luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ, Dịch vụ y tế. Đại Học Y Dược Tp. HCM.
Nguyễn Thị Nguyên Thảo (2014). “Khảo sát tình hình nuôi con
bằng sữa mẹ hoàn toàn và sử dụng sản phẩm dinh dưỡng
công thức cho con trong 6 tháng đầu ở bệnh nhi nhập viện
Bệnh viện Nhi Đồng 1”. Luận văn tốt nghiệp Thạc Sỹ Y Khoa. Đại
Học Y Dược Tp. HCM.
Takahashi K, Ganchimeg T, Ota E, Vogel JP, Souza JP, et al
(2017). “Prevalence of early initiation of breastfeeding and
determinants of delayed initiation of breastfeeding: secondary
analysis of the WHO Global Survey”. Sci Rep, 7:pp.44868.
Tôn Thị Anh Tú, Nguyễn Thu Tịnh (2011). “Kiến thức – thái độ
- thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ có con
dưới 6 tháng tuổi tại bệnh viện nhi đồng I từ 1/12/2009 đến
30/4/2010”. Y Học TP. Hồ Chí Minh, 15(1):pp.186-191.
Victora CG, Bahl R, Barros AJ, Franca GV, Horton S, et al.
(2016). “Breastfeeding in the 21st century: epidemiology,
mechanisms, and lifelong effect”. The Lancet, 387(10017):pp.47590.
WHO/UNICEF (1990). “Protecting, promoting and supporting

breastfeeding: the special role of maternity services. A joint
WHO/UNICEF statement”. Int J Gynaecol Obstet, 31(1):pp.17183.
World Health Organization (WHO) and Organisation for
Economic Co-operation and Development (OECD)(2014).
“Health at a Glance: Asia/Pacific 2014. Country note: Viet Nam.
Infants exclusively breastfed for first 6 months of life”. URL:
/>(Access 10.10.2017).

Ngày nhận bài báo:
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
Ngày bài báo được đăng:

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em

01/11/2017
10/11/2017
15/03/2018

173



×