1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy và học được thực
hiện khắp các trường đại học trong cả nước. Các trường đã và đang chuyển
dần từ kiểu dạy học truyền thống sang hình thức lấy người học làm trung
tâm. Do vậy sinh viên không chỉ đến lớp để nghe giảng, chép bài mà còn phải
có sự chuẩn bị tự nghiên cứu tài liệu và trình bày trước lớp. Kỹ năng trình bày
hay thuyết trình trước nhiều người trở nên rất cần thiết đối với sinh viên
ngày nay. Có được những bài thuyết trình thành công trước lớp hay trước đám
đông sẽ góp phần giúp sinh viên thành công trong học tập ở trường. Kỹ năng
này cũng rất cần thiết cho sinh viên khi trình bày các công trình nghiên cứu,
khóa luận, báo cáo khoa học,… trong và ngoài trường. Qua đó, sinh viên phát
triển các khả năng tìm tòi sáng tạo, khả năng làm việc nhóm và khả năng tư
duy phản biện. Sau khi tốt nghiệp, kỹ năng thuyết trình sẽ giúp cho sinh viên
tự tin, thành công hơn trong cuộc sống và trong công việc.
Đa số sinh viên thích học bằng phương pháp thuyết trình. Nhưng giữa
thích và làm tốt là một khoảng cách không nhỏ. Thuyết trình thực sự là một
nhi ệ m v ụ không dễ dàng b ở i ng ườ i thuy ế t trình c ầ n đượ c trang b ị
nh ững k ỹ năng nhất định mới có thể thực hiện thành công một bài thuyết
trình đạt hiệu quả cao. Bao gồm chọn đề tài, lập đề cương, thu thập tư liệu,
biên soạn nội dung, trình bày đề tài từ chủ đề cho đến kết luận và trả lời
các câu hỏi phản biện một cách thuyết phục. Quan trọng nhất người thuyết
trình còn phải vượt qua nỗi sợ hãi khi nói trước đám đông. Nếu làm tốt các
phần trên thì mới mong có được một buổi thuyết trình rõ ràng và thu hút được
người theo dõi.
Khảo sát một số lớp của khoa Giáo dục trường Đại học Sài Gòn kết
quả cho thấy hầu hết sinh viên tuy rất thích nhưng lại sợ thuy ết trình
2
không tốt. Và số liệu cũng ghi nhận hầu hết sinh viên chưa thực hiện tốt
thuyết trình. Có thể nói nhu cầu được hiểu biết và rèn luyện kỹ năng thuyết
trình là một việc hết sức cần thiết và mang tính cấp bách cho sinh viên
khoa Giáo dục tr ườ ng Đại học Sài Gòn hiện nay.
Trong bối cảnh trên, nên tôi đã chọn đề tài “ Nâng cao kỹ năng thuyết
trình cho sinh viên khoa Giáo dục trường Đại học Sài Gòn” nhằm ghi nhận
thực trạng cũng như đề ra giải pháp cải thiện và nâng cao kỹ năng thuyết
trình cho sinh viên khoa Giáo dục trường Đại học Sài Gòn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Kỹ năng thuyết trình của sinh viên là một trong những vấn đề được quan
tâm hàng đầu trong môi trường đại học hiện nay. Do đó đã được đề cập rất
nhiều trên sách, báo, tạp chí,… Bên cạnh đó, cũng có nhiều buổi hội thảo và
đề tài nghiên cứu khoa học đề cập đến vấn đề này.
Các công trình nghiên cứu, bài viết và các cuộc hội thảo:
Đề tài: “Kỹ năng thuyết trình của sinh viên năm thứ 3 khoa Tiếng Anh
trường Đại học Đà Nẵng” của sinh viên Nguyễn Thị Phương Hiền. Đã đưa ra
thực trạng kỹ năng thuyết trình của sinh viên là do chưa có đủ kỹ năng thuyết
trình nên những bài thuyết trình chưa có hiệu quả cao như mong muốn. Còn
mắc nhiều lỗi về cấu trúc, thiết kế và sử dụng dụng cụ trực quan, ngôn ngữ
hình thể, đặc biệt việc thiếu từ vựng và ngôn ngữ thuyết trình là những khó
khăn mà nhiều sinh viên gặp phải nhất.
Đề tài: “Sử dụng phương tiện trực quan trong các bài thuyết trình trên
lớp của sinh viên năm 2 trường Đại học Ngoại Ngữ Đại học Quốc Gia Hà
Nội”. Đề tài nghiên cứu về cách sử dụng phương tiện trực quan cho các bài
thuyết trình trên lớp của sinh viên năm 2 sao cho hiệu quả nhất. Bên cạnh đó,
đề tài còn nêu lên thực trạng của việc sử dụng, một số gợi ý cũng như cách chọn
và giới thiệu phương tiện trực quan.
3
Đề tài: “Giải pháp nâng cao kỹ năng thuyết trình cho sinh viên trường
Đại học Nội vụ Hà Nội” của nhóm sinh viên Trần Thị Ngọc và Phạm Như
Quỳnh.
Đề tài: “Kỹ năng thuyết trình của sinh viên năm thứ 2 khoa Ngoại Ngữ
Trường Đại học Hồng Đức” của nhóm sinh viên Lê Thị Hà, Trịnh Thị An,
Nguyễn Thị Quỳnh và Lê Đỗ Bích Thuận.
Đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao kỹ năng thuyết trình của
sinh viện ngành Quản trị kinh doanh Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội”
của sinh viên Nguyễn Thị Hằng.
Đề tài: “Thực trạng kỹ năng thuyết trình của sinh viên Sư phạm vật lý
Trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc Gia Hà Nội ” của nhóm sinh viên
Nguyễn Thị Hậu, Hoàng Ngọc Ánh, Đào Thị Kim Chi, Phạm Thị Thanh Hà và
Bùi Thị Ngọc Mai.
Bài viết của thạc sĩ Lê Tân Huỳnh Câm Giang, thuộc Viên nghiên cứu
giáo dục, bài viết với tiêu đề “Những rào cản của đổi mới phương pháp dạy
học ở Đại học”. Bài viết chỉ ra những khó khăn trong việc thay đổi phương
pháp dạy và học tại các trường Đại học ở Việt Nam, trong đó ông cũng chỉ ra
những vấn đề gặp phải khi thuyết trình của sinh viên. Bên cạnh đó còn có rất
nhiều các cuộc thảo luận, hội thảo lớn các ý kiến xung quanh vấn đề này.
“Kỹ năng thuyết trình – Tài liệu phục vụ chuyên đề rèn luyện kỹ năng
sống cho sinh viên thiệt thòi trường Đại học An Giang” của TS. Hồ Thanh
Mỹ Phương và nhóm cộng tác viên: Trương Thị Mỹ Dung và Đoàn Mỹ Ngọc.
Trong tài liệu này cung cấp cho ta những nội dung cơ bản về lý thuyết kèm
theo các hoạt động trong các lớp chuyên đề giúp sinh viên thành công trong
học tập cũng như trong các công việc sau này.
Luận văn: “Kỹ năng thuyết trình” của Tâm Việt Group – Đào tạo tư
vấn. Nêu ra các bước để chuẩn bị cho một bài thuyết trình gồm có: xác định
4
các tình huống, phân tích thính giả và diễn giả, xác định mục tiêu muốn
truyền tải, thu thập thông tin và luyện tập. Ngoài ra cần phải biết giới hạn
vấn đề, đánh giá môi trường bên ngoài.
Hội thảo quốc gia v ề ch ủ đề “Sinh viên với đào tạo đáp ứng nhu
cầu xã hội, nhu cầu doanh nghiệp”. H ội th ảo đã cùng thảo luận và đưa ra
những vấn đề cần chú trọng và đổi mới trong phương pháp học tập của sinh
viên.Trong đó kỹ năng thuyết trình của sinh viên cũng là một trong những vấn
đề được nêu ra trong hội thảo.
Những đề tài nghiên cứu, những hội thảo khoa học hay những cuốn
sách kể trên cũng đã phần nào chỉ ra cái đã đạt được, cái cần phải đạt được
và đưa ra những cách thức để thuyết trình đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên
những sách báo, tạp chí chỉ đơn thuần là lý thuyết về kỹ năng thuyết trình, chưa
thật thực tế và cụ thể cho sinh viên. Những buổi hội thảo mang tính thực tế
hơn, giải đáp được những thắc mắc, khó khăn của sinh viên trong quá trình
thuyết trình, tuy nhiên các buổi hội thảo này không được tổ chức thường
xuyên, cũng như không có đủ thời gian để giải đáp hết thắc mắc cho sinh
viên. Vì vậy kỹ năng thuyết trình của sinh viên nói chung và sinh viên khoa
Giáo dục trường Đại học Sài Gòn nói riêng vẫn còn là vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Xác định mức độ cần thiết và tầm quan trọng của kỹ năng thuyết
trình.
Khảo sát thực trạng kỹ năng thuyết trình của sinh viên khoa Giáo Dục
trường Đại học Sài Gòn qua đó đề xuất một số giải pháp có tính khả thi
5
nhằm nâng cao k ỹ năng thuyết trình của sinh viên khoa Giáo Dục trườ ng
Đại học Sài Gòn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề về lý luận thực tiễn của vấn đề nghiên
cứu Tìm hiểu kỹ năng thuyết trình của sinh viên
Khảo sát mức độ khả năng thuyết trình của sinh viên
Tìm hiểu các yếu tố gây khó khăn trong thuyết trình của sinh viên, từ
đó đưa ra một số đề suất nhằm nâng cao kỹ năng thuyết trình của sinh viên
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu là kỹ năng thuyết trình của sinh viên khoa Giáo
Dục trường Đại học Sài Gòn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung:
+ Một số khái niệm có liên quan đến đề tài “Nâng cao kỹ năng thuyết
trình của sinh viên khoa Giáo Dục trường Đại học Sài Gòn”
+ Một số kỹ năng thuyết trình
+ Thực trạng kỹ năng thuyết trình
+ Các yếu tố ảnh hưởng và khó khăn khi thuyết trình của sinh viên
+ Đề ra một số biện pháp khắc phục
Phạm vi không gian: Trường Đại Học Sài Gòn
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
6
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn đ ượ c thực hiệ n d ựa trên c ơ s ở quan điể m củ a chủ nghĩa
Mác – Lênin, t ư t ưở ng H ồ Chí Minh và quan điểm chỉ đạ o củ a bộ Giáo
dụ c về công tác đổ i mới trong d ạy và họ c.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tôi sử dụng hệ thống phương pháp sau:
Phương Pháp Nghiên Cứu Luận: chủ yếu là phươ ng pháp nghiên
cứu tư liệu có sẵn.
Phương pháp phỏng vấn: nhằm thăm dò trực tiếp quá trình thuyết
trình từ nhiều người khác nhau để thấy rõ những vấn đề mà sinh viên hay
mắc phải trong quá trình thuyết trình là như thế nào.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: lập nh ững câu hỏi trắc
nghiệm sát thực trong thuyết trình, những khó khăn, thuận lợi tồn tại trong
thuyết trình của sinh viên.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn kỹ năng thuyết
trình của sinh viên
Là cơ sở để đưa ra những biện pháp nâng cao kỹ năng thuyết trình cho
sinh viên khoa Giáo Dục trường Đại học Sài Gòn
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
7
8
Chương 1
KỸ NĂNG THUYẾT TRÌNH VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SINH
VIÊN KHOA GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm thuyết trình
Có rất nhiều khái niệm về thuyết trình. Sau đây là một vài khái niệm:
Thuyết trình là quá trình trình bày nội dung của một chủ đề cho người
nghe. Những dụng cụ trực quan được sử dụng để minh họa cho nội dung của
bài nói.
Thuyết trình là trình bày một cách sáng tỏ một vấn đề trước đông
người.
Thuyết trình là trình bày rõ ràng một vấn đề trước nhiều người. Thuyết
trình là một nghệ thuật, người thuyết trình được ví như một nghệ sĩ hay diễn
viên đứng trước công chúng, thuyết trình là một kỹ năng được phát triển
thông qua kinh nghiệm và đào tạo.
Một cách hiểu đơn giản hơn thuyết trình là cách truyền đạt các ý tưởng
và các thông tin đến mội nhóm người; là trình bày bằng lời về một vấn đề
nào đó nhằm cung cấp thông tin hoặc thuyết phục, gây ảnh hưởng đến người
nghe.
1.1.2. Khái niệm kỹ năng thuyết trình
1.1.2.1. Khái niệm kỹ năng
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kỹ năng. Những định nghĩa này
thường bắt nguồn từ góc nhìn chuyên môn và quan niệm cá nhân của từng
người. Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều thừa nhận rằng kỹ năng được hình
thành khi chúng ta áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Kỹ năng học được do quá
9
trình lặp đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó. Kỹ năng
luôn có chủ đích và định hướng rõ ràng.
Như vậy: Kỹ năng là năng lực (khả năng) của chủ thể thực hiện thuần
thục một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết(kiến thức hoặc kinh
nghiệm) nhằm tạo ra kết quả mong đợi.
1.1.2.2. Kỹ năng thuyết trình
Kỹ năng thuyết trình là khả năng sử dụng kết hợp kiến thức, thái độ,
phương pháp, công cụ cần thiết vào quá trình truyền đạt và dẫn dắt thông tin
nhằm làm cho nội dung thông tin có sức hấp dẫn hơn, thu hút được nhiều
người nghe hơn.
Kỹ năng thuyết trình là sự kết hợp giữa nội dung và hình thức, giữa
giao tiếp ngôn ngữ và giao tiếp hình thể, không chỉ truyền đạt thông tin đến
đám đông bằng lời nói đến cơ quan thính giác của họ, mà còn truyền đến các
giác quan còn lại gồm thị giác, khứu giác, vị giác, xúc giác (bằng hình ảnh,
mùi, vị, tiếp xúc).
1.2. Vai trò của thuyết trình đối với sinh viên khoa Giáo dục trường
Đại học Sài Gòn
1.2.1. Trong học tập
Thuyết trình là yêu cầu bắt buộc đối với người sinh viên trong một số
môn học mà giảng viên áp dụng phương pháp thuyết trình.
Thuyết trình cũng là cơ hội để ngườ i sinh viên rèn luyện khả năng
trình bày trước đám đông của mình, chuẩn bị cho hành trang ra trường làm
việc thuận lợi sau này.
1.2.2. Trong công việc và cuộc sống
10
Tất cả lĩnh vực trong cuộc sống, thuyết trình tốt sẽ tạo ra một vị thế
cao, một sự kính nể từ người khác.
+ Trong lĩnh vực chính trị: những nhà thuyết trình tài ba, họ đều là
những người lãnh đạo của thế giới như Fidel Castro, John Kenedy, Barack
Obama, Mather Luther King, Hồ Chí Minh,...
+ Trong lĩnh vực giáo dục: một giáo viên không nói trướ c đám đông
hấp dẫn thì không lám cho học sinh hiểu bài, mặc dù có kiến thức sâu rộng.
+ Trong lĩnh vực kinh tế: một ng ười giám đốc hay một quản lí giỏi
không chỉ là người có tầm vóc chiến lược, ý tưở ng kinh doanh sáng tạo mà
còn phải là một người có khả năng thuyết trình tốt. Một nhà lãnh đạo giỏi
và thành công là người có thể làm cho nhân viên hiểu và làm theo những chiến
lượ c và định hướng mà anh ta đề ra.
Cho dù một người có những hiểu biết quý giá và ý tưởng độc đáo đến
đâu đi chăng nữa, mà đến khi cần thiết lại không thể trình bày cho người khác
hiểu thì cũng khó lòng đạt được những thành công nhất định. Không ai chấp
nhận mộ t ng ườ i đượ c xem là thành đạ t mà đứng tr ướ c đám đông lạ i lúng
túng, nói không ra tiếng. Đáng tiếc h ơn nữa, v ốn hi ểu bi ết, kinh nghi ệm
làm việc, ý tưởng độc đáo của người này sẽ không giúp ích gì cho người
khác.
Qua những gì nêu trên chắn hẳn ai cũng nhận ra rằng kỹ năng thuyết
trình là một kỹ năng quan trọng nhất vì nó tập hợp tất cả các yếu tố kỹ
năng khác như: sự tự tin, sử dụng ngôn từ, ngôn ngữ thân thể, lập luận chặt
chẽ, sáng tạo…Vì thế có câu nói “Bạn nói trước đám đông như thế nào thì
cuộc đời của bạn cũng thế”. Do đó, kỹ năng thuyết trình chính là một bước
không thể thiếu trên con đường thành công. Kỹ năng thuyết trình là một kỹ
năng khó nhưng hoàn toàn có thể rèn luyện được.
11
Vì vậy, rèn luyện kỹ năng thuyết trình cho mình mỗi ngày sẽ rút ngắn
con đường đi đến thành công của bạn. Và điều quan trọng là, bạn càng thuyết
trình giỏi, bạn càng dễ thuyết phục người khác. Và đó cũng là hình ảnh mà
hầu hết những người đạt đến vị trí lãnh đạo đều cần có.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng thuyết trình trình đối với sinh
viên khoa Giáo dục trường Đại học Sài Gòn
1.3.1. Tác phong thuyết trình
Để có một buổi thuyết trình thành công thì người thuyết trình cần phải
chuẩn bị rất nhiều những yếu tố. Trong đó, tác phong của người thuyết trình
chiếm một vị trí không nhỏ đến hiệu quả của buổi thuyết trình. Tác phong ở
đây bao gồm: trang phục hay hình dáng bên ngoài; hành vi, điệu bộ và cách
ứng xử; phong cách xuất hiện…
Ấn tượng đầu tiên về người thuyết trình chính là hình dáng bên ngoài
của họ ngay khi xuất hiện. Vì thế, chúng ta cần tạo được thiện cảm đối với
người nghe ở những giây đầu tiên này. Lựa chọn, phối hợp trang phục là một
kỹ năng quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến bài thuyết trình. Một sự phối
hợp hài hòa giữa trang phục, đầu tóc và những trang sức kèm theo sẽ tạo
được ấn tượng tốt với khán thính giả.
Mặt khác, trang phục gọn gàng, phù hợp sẽ giúp cho bạn cảm thấy tự
tin, mạnh mẽ hơn khi thuyết trình và sẽ tạo đượ c sự tin cậy nơi người
nghe. Ngược lại, nếu chọn trang phục không hợp với cơ thể, hoàn cảnh và
nội dung bài diễn thuyết sẽ gây phản cảm cho đối phương. Từ đó, bài thuyết
trình của bạn sẽ giảm sức thuyết phục.
Ví dụ: Bạn đang thuyết trình về đề tài cách ăn mặc nơi công sở.
Trong khi đó lại khoác lên người một chiếc quần jean và áo thun với
màu sắc sặc sỡ, cùng với mái tóc không được kẹp gọn gàng, hẳn lời thuyết
12
trình của bạn sẽ không còn sức thuyết phục nữa, thậm chí khán thính giả
cũng không hứng thú nghe tiếp. Hoặc bạn đeo quá nhiều trang sức, chẳng hạn
như hai, ba chiếc vòng tay; có thể chúng sẽ tạo ra những tiếng va chạm, tiếng
động gây mất tập trung cho người nghe.
Vì vậy,những nội dung mà bạn muốn truyền tải đến người nghe sẽ
không được trọn vẹn, và tất nhiên là bài thuyết trình của bạn sẽ không được
như ý.
Bên cạnh trang phục thuyết trình, thì phong thái, hành vi, cách ứng xử
của bạn cũng chiếm một vị trí quan trọng. Một giọng nói to, rõ ràng sẽ truyền
cảm hứng cho người nghe. Cách diễn đạt tự tin, phong thái tự nhiên sẽ làm
người nghe cảm thấy thân thiện và tin cậy. Từ đó, dễ dàng chinh phục được
người nghe. Người nghe sẽ rất buồn ng ủ, m ất t ập trung n ếu gi ọng nói của
bạn cứ đều đều như trả bài, mắt thì chăm chăm nhìn vào bài thuyết trình đã
chuẩn bị sẵn. Điều này, là dấu hiệu để người nghe nhận thấy bạn đang mất
tự tin, bối rối về bài thuyết trình của mình.
Ngoài vấn đề trang phục và thái độ hành vi trong khi thuyết trình, thì
phong thái khi xuất hiện cũng khá quan trọng. Ấn tượng trong phút đầu tiên sẽ
ảnh hưởng đến thái độ của khán thính giả dành cho bạn. Nếu có ấn tượng
tốt, họ sẽ dành thiện cảm cho bạn. Muốn vậy, bạn hãy xuất hiện với dáng
vẻ tự tin, tư thế đi, đứng thẳng, tự nhiên. Mở đầu bằng lời chào khán thính
giả và tự giới thiệu bản thân. Nếu thiếu phần tự giới thiệu thì mọi người sẽ
cho rằng bạn hoặc là tự ti, e ngại, hoặc là ra dáng kẻ cả làm như mình nổi
tiếng lắm không cần phải giới thiệu; trường hợp nào cũng đều bất lợi cho
bạn.
1.3.2. Nội dung thuyết trình
1.3.2.1. Đề tài nghiên cứu
13
Tổng quát thì không có sự hạn chế về đề tài nghiên cứu. Đề tài có thể
là vấn đề vĩ mô bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị pháp lý, văn hóa xã
hội, khoa học kỹ thuật, tự nhiên. Đề tài có thể là vấn đề vi mô chủ yếu đề
cập vấn đề con người bao gồm đối thủ cạnh tranh, đối tác giao dịch, khách
hàng, nhà cung cấp, nội bộ doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để có tính hấp dẫn, thu hút thì cho dù chọn lĩnh vực nào, đề
tài cũng cần mang tính thời sự, tính thiết thực, tính đặc sắc, tính mới lạ, tính
độc đáo.
1.3.2.2. Bố cục trình bày
Nội dung trình bày cần được tổ chức sắp xếp theo một bố cục nhất
định, rõ ràng, hợp lý, mang tính thuyết phục cao, nhằm dẫn dắt người nghe
dễ dàng theo dõi diễn tiến câu chuyện, từ đó hiểu được thông điệp truyền
đạt.
Mở đầu:
+ Về hình thức, cần thu hút sự chú ý và tạo thiện cảm nơi người nghe
ngay lập tức, có một số cách mở đầu như sau: kể một câu chuyện, dẫn lời một
danh nhân, đặt câu hỏi, gợi ý tò mò của khán thính giả, làm điệu bộ khác thường.
+ Về nội dung, nêu bật được vấn đề nghiên cứu, bao gồm lý do, nội
dung, phạm vi, giá trị của nghiên cứu.
Đoạn giữa: khán thính giả có ít thời gian suy nghĩ vì phải theo dõi
thuyết trình cho nên nếu nội dung không sáng sủa, rõ ràng, ý tứ không liên
tục, tự nhiên thì họ sẽ không hiểu được diễn giả muốn nói gì và không muốn
nghe nữa. Cho nên về mặt nội dung, cần tuân thủ đúng trình tự quy định để
bảo đảm tính liền lạc, hợp lý của câu chuyện, bao gồm đi từ cơ sở lý thuyết
của nghiên cứu, đến các vấn đề cần giải quyết, yêu cầu công việc, ý tưởng
và giải pháp, cung cấp bằng chứng, lợi ích khi áp dụng giải pháp, chương
trình hành động, các việc làm cụ thể.
14
Kết thúc: Nếu đoạn mở tạo ấn tượng ban đầu, đoạn giữa tạo giá trị
cung cấp thông tin, thì đoạn kết có tác dụng khắc sâu vào tâm trí khán thính
giả, bởi những lời sau cùng dễ được nhớ nhất.
+ Về mặt hình thức, phải làm sao cho khán thính giả biết là đã kết
thúc và họ ra về mà vẫn còn tiếc.
+ Về mặt nội dung, đoạn kết nêu lên điểm nhấn của bài trình bày, giá
trị và hạn chế của nghiên cứu.
1.3.2.3. Tính nhất quán
Mỗi bài thuyết trình có sứ mạng hướng đến chỉ một chủ đích nhất định,
cho nên tính nhất quán về nội dung phải đượ c thể hiện xuyên suốt từ đầ u
đến cuối bài thuyết trình, bao gồm: Nhất quán giữa đoạn mở đầu và đoạn kết
thúc.Nhất quán giữa các nội dung chi tiết trong đoạn giữa. Cụ thể là phải có
sự tương đồng giữa các nội dung cơ sở lý thuyết, thực trạng và phân tích
đánh giá, mục tiêu và giải pháp.
1.3.3. Công cụ trình chiếu và các yếu tố ngoại tác
1.3.3.1. Kĩ năng sử dụng công cụ PowerPoint
Với sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông,việc thuyết
trình trở nên thuận lợi h ơn rất nhi ều nh ờ ph ần m ềm PowerPoint: các ý
tưở ng trình bày được công cụ hỗ trợ để minh họa hoặc nhấn mạnh, thời gian
viết vẽ bảng
được tiết kiệm, sức thu hút khán giả được nâng cao nhờ hiệu ứng âm thanh
và hình ảnh sống động.
Để khai thác PowerPoint hiệu quả, cần tuân thủ một số nguyên tắc
chung: làm sao cho các trang chiếu trở nên dễ nhìn, dễ hiểu, dễ nhớ; các trang
chiếu càng ngắn gọn, càng súc tích càng tốt, nhưng không đượ c quá nghèo
nàn, thiếu hấp dẫn; thi ết k ế ch ữ l ớn để bảo đảm khán giả xa nhất cũng
thấy; nên sử dụng chữ không chân cho rõ ràng; không quá nhiều dòng trên
15
một trang ; không quá nhiều chữ trên một dòng; phối màu nền và màu chữ cho
tương phản, tốt nhất là màu nền tối, màu chữ sáng.
1.3.3.2. Yếu tố không gian, thời gian
Không gian thuyết trình: kích thước và hình dạng phòng họp cần phù
hợp với số lượng khán thính giả; màn chiếu và bàn ghế được sắp xếp sao cho
hợp lý, bảo đảm diễn giả vừa có thể nhìn trực diện tất cả khán giả vừa có
thể tham khảo hình ảnh sơ đồ khi cần thiết; các phươ ng tiện âm thanh, ánh
sáng bảo đảm thích hợp, không bị trục trặc bất thường.
Thời gian thuy ết trình: buổi sáng thườ ng đượ c tiếp thu dễ dàng
hơn so với buổi trưa, chiều hay tối; thời lượng của buổi thuyết trình cũng cần
phù hợp, trung bình 30 phút đến một giờ là vừa phải; quá dài sẽ gây cảm giác
chán ngán, còn quá ngắn thì không thể tải hết lượng thông tin cần thiết (tất
nhiên vấn đề thời lượng chỉ mang tính tương đối tùy theo nội dung chủ đề
thuyết trình).
1.3.3.3. Yếu tố khán thính giả
Khán thính giả tích cực: chăm chú lắng nghe, há miệng như muốn
"uống" từng lời của bạn, hăng hái khi bạn lớn tiếng, lo thay khi bạn lỡ quên,
muốn nhắc khi bạn ngập ngừng; tóm lại là chung vui và chia lo cùng bạn. Chỉ
cần gặp vài tâm hồn cảm thông như vậy cũng đủ mát lòng rồi.
Khán thính giả gây phiền: không chú ý lắng nghe mà làm việc khác, cười
nói cùng nhau thật ồn ào, ra vào phòng thuyết trình tùy tiện ảnh hưởng đến
mọi người, buồn ngủ thậm chí ngủ trong khi nghe thuyết trình, phản ứng gay
gắt khi chưa hiểu.
Gặp những tình huống như trên thì bạn cần phải bình tĩnh, nhắc nhở
gián tiếp bằng cách chuyển hướng thuyết trình, ví dụ như thông qua một câu
chuyện cười, một đoạn phim ngắn; nhưng tốt nhất là bạn nên xem lại chính
16
mình, do thuyết trình thiếu hăng hái, hấp dẫn; do độc thoại chứ không đối
thoại; do đọc giọng đều như ru ngủ; những câu hỏi và tình huống: dù đã
lường trước một số câu hỏi, nhưng vẫn không tránh khỏi gặp phải những câu
hỏi hay tình huống khó. Trước hết, bạn hãy bảo đảm hiểu đúng câu hỏi vì
khá nhiều người hỏi rất dài dòng nhưng không rõ hỏi gì. Gặp câu hỏi khó,
không nên trả lời ngay, hãy suy nghĩ một chút, hoặc hỏi lại cho rõ, mục đích có
thêm thời gian chuẩn bị trả lời.
Đôi khi gặp tình huống khán thính giả muốn tranh luận, thậm chí cố
tình khiêu khích, chọc tức, tìm cách bắt bẻ, vặn vẹo. Tình huống này, cố gắng
hạn chế tranh luận, công việc của bạn là thuyết trình và thuyết phục chứ
không phải tranh luận; dù bạn có đúng đến đâu chăng nữa thì chắc gì khán
thính giả đồng ý, thừa nhận họ sai.
Tiểu kết chương 1
Có thể khẳng định rằng lý thuyết về kỹ năng thuyết trình rất cần thiết
cho khoa giáo dục trường Đại học Sài Gòn. Sinh viên muốn có đượ c kỹ
năng thuyết trình tốt thì trước tiên phải hiểu rõ lý thuyết về kỹ năng thuyết
trình. Nhưng lý thuyết ấy sinh viên phải linh hoạt khi áp dụng sao cho phù
hợp với thực tế của từng cá nhân. Từ đó, sinh viên mới có thể nâng cao kỹ
năng thuyết trình để đạt được hiệu quả cao trong học tập, trong công việc và
trong cuộc sống.
Chương 2
17
THỰC TRẠNG VỀ KỸ NĂNG THUYẾT TRÌNH CỦA SINH VIÊN
KHOA GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
2.1. Phân tích thực trạng kỹ năng thuyết trình của sinh viên Khoa
Giáo dục trường Đại học Sài Gòn
2.1.1. Tác phong thuyết trình
Về trang phục: trừ một số trường hợp đặc biệt, còn lại đa số giảng
viên xem thuyết trình như một phương pháp, một công cụ để truyền tải
môn học, cho nên không khắt khe trong việc bắt buộc sinh viên phải trang
phục đúng mức khi thuyết trình. Do vậy, hầu hết nam sinh viên chưa chú
trọng trang phục phù hợp, chưa ý thức được trang phục người thuyết cần
sang hơn người nghe một bậc. Không hiếm sinh viên khi thuyết trình mặc
áo dài tay nhưng xắn lên tới khủy, hoặc vận quần jean, áo thun, còn dép thì
không có quai hậu; trong khi hiếm hoi mới thấy sinh viên chịu thắt cà vạt. Nữ
sinh viên thì có phần chú trọng đến trang phục hơn.
Về phong thái xuất hiện: sự đường hoàng, đĩnh đạc bước lên diễn đàn
không phải sinh viên nào cũng làm đượ c. Quan sát nhiều buổi thuy ết trình
của sinh viên sẽ thấy những hình ảnh thường xuất hiện nhất là: cúi đầu lầm
lũi bước, rụt vai sợ sệt, tung tăng chạy lên, bước ra sân khấu mà mắt đảo trên
trần nhà, cho tay vào túi quần Ngay cả sinh viên đã từng thuyết trình vài lần
nhưng khi xuất hiện ra mắt khán thính giả vẫn hồi hộp, vẫn bị cảm giác
ngượng nghịu, thậm chí khó thở, không thể mở lời ngay được.
Về thái độ hành vi: qua khảo sát và đặc biệt là quan sát trực tiếp một
số buổi thuyết trình thì đây là kỹ năng mà sinh viên có biểu hiện yếu nhất.
Rất hiếm có sinh viên biết khai thác ngôn ngữ hình thể. Hầu hết sinh viên
mang thái độ thiếu tự tin, rụt rè. Phần quan trọng nhất là giao tiếp bằng ánh
mắt với khán thính giả thì rất hạn chế, bắt gặp nhiều nhất là nhìn vào giấy
18
trên tay, nhìn vào màn hình, nhìn ra cửa sổ, nhìn lên trần nhà có lúc nhìn xuống
khán phòng nhưng cũng chỉ nhìn phớt phía trên chứ không nhìn vào mắt khán
thính giả. Giọng nói có vẻ không được luyện tập, trau chuốt vì hầu như
không phải thuyết mà là đọc hoặc nói thuộc lòng một cách đều đều, còn khi
quên thì ấp úng, ngập ngừng. Nét mặt ít biểu lộ được sự tươi vui, hăng hái, tự
tin; thay vào đó là sự căng thẳng, hồi hộp, âu lo. Do căng thẳng nên dáng cơ
thể thường không yên, không ngừng lắc lư qua lại; đôi chân cũng đảo bộ qua
lại liên tục; đôi tay thì một tay cầm micro, một tay không biết phải làm gì nên
thường cầm theo tờ giấy vừa để đỡ thừa thải vừa có cái để nhìn và đọc.
2.1.2. Nội dung thuyết trình
2.1.2.1. Đề tài nghiên cứu
Bỏ qua trường hợp đề tài được giảng viên chọn sẵn thì sinh viên đành
phải thụ động chấp nhận. Vậy mà trong trường hợp có cơ hội được tự chọn
đề tài thì đa số sinh viên lại thích những đề tài có sẵn, đã được nhiều thế hệ
sinh viên trước thực hiện, có lẽ bởi tính dễ tham khảo thậm chí copy. Những
đề tài như thế ít có sức thu hút, mặt khác không chắc sẽ được thực hiện tốt
hơn những người thuyết trình trước đây.
2.1.2.2. Bố cục trình bày
Một số sinh viên không làm đề cương. Một số khá lớn tuy có làm đề
cương nhưng chỉ mang tính hình thức, hời hợt, cho nên khi triển khai nội dung
chi tiết đã bị lạc hướng. Điều này xuất hiện là do một số sinh viên chủ quan
xem thường việc lập đề cương. Một số sinh viên khác thì có lập nhưng không
chuyển cho giảng viên xem trước. Số khác thì chuyển cho giảng viên nhưng
không thực hiện hiệu chỉnh lại cho hợp lý.
Phần mở đầu và kết luận tưởng chừng đơn giản, vậy mà cũng chưa
được làm tốt. Nhiều sinh viên không đưa được chủ đề của bài thuyết trình
19
vào phần mở đầu và kết luận; có vẻ họ chưa hiểu đúng ý nghĩa và yêu cầu
đối với hai phần này, dẫn đến xem nhẹ và đầu tư ít vào đây.
Phần nội dung thì mắc nhiều lỗi. Nhiều tình huống đảo lộn trình
tự nộ i dung chi ti ết gi ữa các phần c ơ s ở lý thuyết th ực tr ạng và phân
tích th ực tr ạng gi ải pháp; có khi nêu giải pháp tr ướ c r ồi m ới đế n thự c
tr ạng, có khi gộp chung cơ sở lý thuyết và giải pháp, thậm chí có lúc cả ba
phần trên được gộp chung làm một. Nguyên nhân chủ yếu là do không có đề
cương hoặc đề cương không hợp lý như đã nêu trên.
Phần kết thúc thường ngắn gọn, đơn giản, vội vã, đột ngột kiểu như
"phần trình bày của tôi đến đây là kết thúc" khiến người nghe đôi khi chưa
kịp hiểu là đã hết; ấn tượng, dư âm buổi thuyết trình khó mà đọng lại trong
lòng người nghe.
2.1.2.3. Tính nhất quán
Đa số sinh viên tập trung vào phần nội dung mà không quan tâm phần
mở đầu cũng như kết thúc cho nên tính nhất quán trong cả ba phần không thể
hiện rõ nét.
Rất nhiều trường hợp phần th ực tr ạng và giải pháp không ăn nhập
với cơ sở lý thuyết đã nêu.
Nhiều trường hợp khác thì phân tích thực trạng theo hướng nêu ưu
nhược điểm, nhưng giải pháp thì theo hướng khắc phục tồn tại hoặc ngược
lại.
Các trường hợp trên, bỏ qua nguyên nhân sinh viên chưa hiểu rõ, còn
lại phần lớn là do sự làm việc nhóm kém; từng thành viên được phân công thực
hiện riêng rẽ, rời rạc; khi kết hợp lại không có sự hiệu chỉnh, hoàn thiện.
2.1.3. Công cụ trình chiếu và các yếu tố ngoại tác
20
2.1.3.1. Kĩ năng sử dụng công cụ PowerPoint
Phần mềm PowerPoint th ật là đắc dụng, nhưng không phải sinh viên
nào cũng biết khai thác hiệu quả.
Sinh viên thường quá lạm dụng hoặc không hiểu nguyên tắc sử dụng.
Các lỗi mắc phải nhiều nhất là chữ quá nhỏ, chữ quá nhiều, đọc từng
câu chữ trên màn hình, lạm dụng các hiệu ứng, lạm dụng các hình ảnh, thiếu
phương án dự phòng.
+ Chữ quá nhỏ đến mức thấy mà không rõ làm cho mọi người khó mà
đọc được, nhất là những ai ở cuối khán phòng.
+ Chữ quá nhiều khiến người đọc không biết nên đọc màn hình hay
nghe thuyết trình.
+ Chọn màu nền, màu chữ và kiểu chữ không phù hợp.
+ Không có thông điệp chính.
+ Đọc trên màn hình nên không thể giao tiếp ánh mắt với khán thính giả.
+ Lạm dụng hiệu ứng âm thanh, hình ảnh khiến người xem bị phân tán
theo dõi. Sử dụng hình ảnh không liên quan nội dung.
+ Khi tập tin trình chiếu bị hỏng hoặc máy chiếu có vấn đề thì hầu như
không thể khắc phục, phải hoãn thuyết trình
2.1.3.2. Yếu tố không gian, thời gian
Không gian và thời gian thuyết trình: đối với sinh viên thì gần như đây là
yếu tố khách quan vì địa điểm và thời gian do nhà trường và giảng viên ấn
định. Nhiều lúc phòng họp quá rộng so với khán giả gây nên cảm giác lạc
lõng, trống trải, xa lạ; cũng có lúc phòng quá hẹp tạo nên sự chật chội,
21
ngột ngạt, bất tiện. Thường gặp nhất là sử dụng phòng học bố trí bàn ghế theo
kiểu lớp học, sinh viên không sắp xếp lại nên sự giao tiếp diễn giả với khán
thính giả không hợp lý, thuận tiện. Điều kiện âm thanh và ánh sáng, máy móc
thiết bị nghe và nhìn, thì hoàn toàn lệ thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất của
nhà trường. Thời gian thuyết trình nếu đúng buổi trưa nhằm lúc hạn chế dùng
phòng máy lạnh thì xem như buổi thuyết trình sẽ gặp sự nóng bức, ngột ngạt.
2.1.3.3. Yếu tố khán thính giả
Khán thính giả gây phiền: những hình ảnh thường gặp nhất ở khán
thính giả, đặc biệt ở những dãy bàn cuối, là nói chuyện bất chấp người diễn
thuyết. Trung bình năm phút thuyết trình có một lần chuông điện thoại reng
từ dưới khán phòng. Khán giả đi trễ tự nhiên ra vào khán phòng, gây ảnh
hưở ng sự tập trung của người khác.
2.2. Những ưu điểm và hạn chế trong kỹ năng thuyết trình của
sinh viên khoa Giáo dục trường Đại học Sài Gòn
2.2.1. Những ưu điểm
Đa số sinh viên đã nhận thấy được vai trò và ý nghĩa của phương pháp
thuyết trình trong việc học tập và nghiên cứu nội dung môn học. Một số sinh
viên đã chủ động, và tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng thuyết trình.
Qua việc thuyết trình, sinh viên bước đầu thành thạo được nhiều kỹ
năng như: tìm kiếm tài liệu trên Internet, thư viện, tạp chí chuyên ngành…,
tóm tắt nội dung, trình bày vấn đề.
Thuyết trình đã tạo cơ hội cho sinh viên được thể hiện mình nên các
bạn trở nên mạnh dạn hơn, t ự tin h ơn trong trình bày, trao đổi cũng như
bảo vệ quan điểm, ý kiến của mình.
22
Phát huy vai trò sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập, sử dụng
các phương pháp trình bày vấn đế đã nghiên cứu linh hoạt, hấp dẫn, thu hút
người nghe.
2.2.2. Những hạn chế
Phần lớn kết quả thuyết trình của sinh viên các lớp trong khoa Giáo
Dục trường Đại học Sài Gòn trên mặt bằng chung vẫn chưa cao. Sinh viên
thuyết trình còn mang tính hình thức, đối phó với yêu cầu của giảng viên.
Một số lỗi cơ bản khi thực hiện thuyết trình của sinh viên khoa Giáo dục
trường Đại học Sài Gòn:
Đọc trước đám đông: sinh viên chỉ chăm chăm đọc toàn bộ những gì mình
đã soạn ra trong tờ giấy hoặc nội dung trên slide đã soạn sẵn mà quên không
tương tác với người nghe, khiến cho người nghe cảm thấy nhàm chán và người
thuyết trình khó lôi cuốn những người khác vào nội dung mà mình muốn diễn
đạt.
Nội dung thiếu trọng tâm: có nhiều bài thuyết trình xong, mà người nghe
không nhớ bất cứ nội dung gì mà người thuyết trình nói. Có nhiều bài thuyết
trình lạc đề, lan man, thiếu tập trung vì những người thuyết trình thiếu kỹ năng
cơ bản trong việc xây dựng nội dung và truyền tải thông điệp.
Sử dụng ngôn ngữ thân thể không phù hợp: Một bài thuyết trình hay là sự
kết hợp nhuần nhuyễn của ba yếu tố: Ngôn từ, giọng điệu (lời nói) và ngôn ngữ
cơ thể (cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nụ cười...), trong đó ngôn ngữ cơ thể chiếm
một vị trí hết sức quan trọng trong việc tạo nên sự lôi cuốn của bài thuyết trình.
Sinh viên đôi khi quá lạm dụng lời nói, trong khi ngôn từ thì quá khô khan học
thuật thì tác động của bài thuyết trình tới người nghe sẽ rất hạn chế.
Ánh mắt: ánh mắt thường đảo liên tục, hay nhìn lên nhìn xuống, liếc
ngang liếc dọc cho thấy sinh viên chưa có kinh nghiệm trong thuyết trình. Ánh
23
mắt hướng lên là biểu hiện của sự kiêu ngạo và coi thường người nghe, ánh
mắt nhìn xuống cho thấy sự thiếu tự tin, đang xấu hổ, sợ hãi hay hối hận vì một
điều gì đó; ánh mắt nhìn trái, nhìn phải là biều hiện của sự hốt hoảng hay lúng
túng còn khi nói mà nhìn ra cửa sổ thì chứng tỏ sự không tôn trọng người nghe.
Tiểu kết chương 2
Dựa vào thực trạng và nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế trong quá trình
thuyết trình của sinh viên khoa Giáo dục trường Đại học Sài Gòn. Có khẳng
định rằng kỹ năng thuyết trình có vai trò rất quan trọng và cần thiết cho sinh
viên. Để cải thiện và nâng cao kỹ năng thuyết trình thì mỗi sinh viên phải nắm
rõ nhưng nguyên nhân gây hạn chế trong quá trình thuyết trình của mình. Từ đó
rút ra những kinh nghiệm và đưa ra những biện pháp hữu hiệu để mang lại
kết quả tốt cho những lần thuyết trình sau này.
Chương 3
GIẢI PHÁP CẢI THIỆN, NÂNG CAO KỸ NĂNG THUYẾT TRÌNH CHO
SINH VIÊN KHOA GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
3.1. Mục tiêu của giải pháp
Phần dẫn nhập này sẽ giúp cho sinh viên có cái nhìn sơ lượ c trước
khi đi vào chi tiết từng giải pháp.
Yếu tố cần phải cải thiện trước tiên là tác phong của người thuyết
trình, yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất bởi vì nó là thông điệp đầu tiên
mà một sinh viên nói riêng hay một diễn giả nói chung trình ra cho khán thính
giả dù muốn dù không. Giải pháp cải thiện tác phong đưa ra sẽ theo hướng
chọn lọc bớt những tác nhân thừa không phù hợp làm mất sự tự tin của một
diễn giả.
Điều thứ hai cải thiện cho sinh viên khi thuyết trình liên quan đến
phần nội dung, thông điệp bằng ngôn ngữ trực quan cụ thể mà người thuyết
24
trình muốn gửi gắm đến khán thính giả và được xem như phần hồn của bài
thuyết trình. Giải pháp chủ yếu nằm ở cấu trúc trình bày thông điệp theo một
trật tự hợp lý nhất mà đã được nghiên cứu.
Điều thứ ba của giải pháp cải thiện là các công cụ hỗ trợ cho việc thuyết
trình được coi như phương tiện trình bày. Nó được xem là cái thân xác để
chứa đựng cái phần hồn nội dung. Giải pháp nhằm đến cách thức trình bày và
sự chuẩn bị đạo cụ, bao gồm cả thiết bị dự phòng cho mọi tình huống xấu xảy
ra ngoài ý muốn.
Cuối cùng, yếu tố chính còn lại cần chú ý cải thiện là khả năng quản
lý các tác nhân ngoại tác. Giải pháp chủ yếu ở yếu tố này nằm khả năng
kiểm soát mức độ phản ứng của khán thính giả. Nó bao hàm từ thời gian
thuyết trình đến cách thức tương tác, tần số đối thoại giữa người nói và
người nghe.
Những giải pháp trên nhằm khắc phục những hạn chế và phát huy
những ưu điểm trong quá trình thuyết trình của sinh viên khoa Giáo dục
trường Đại học Sài Gòn. Từ đó giúp nâng cao kỹ năng thuyết trình cho sinh
viên khoa Giáo dục trường Đại học Sài Gòn.
3.2. Một số giải pháp cải thiện và nâng cao kỹ năng thuyết trình
cho sinh viên khoa Giáo dục trường Đại học Sài Gòn
3.2.1. Cải thiện tác phong khi thuyết trình
Về trang phục: cho dù giàng viên không bắt buộc về trang phục, nhưng
sinh viên nên tự trang phục phù hợp cho mình. Về nguyên tắc hãy trang phục
sang hơn thính giả một bậc; điều này giúp cho ta tự tin hơn, còn thính giả sẽ
nể trọng ta hơn. Vừa phù hợp với sinh viên vốn eo hẹp về tài chính, vừa phù
hợp yêu cầu thuyết trình, thì có vẻ đối với nam sinh viên, trang phục thích
hợp là quần tây sậm màu, có thắt lưng, áo sơ mi dài tay có cài khuy, giày tây
25
hoặc dép có quai hậu, có thể thêm cà vạt để tăng phần sang trọng. Đối với nữ
sinh viên thì cũng quần tây áo sơ mi như nam, hoặc váy áo vét cho sang trọng.
Nam thì không trang sức, trang điểm; trong khi nữ thì cần để tăng phần duyên
dáng, vẻ đẹp.
Về phong thái xuất hiện: giáo sư Loek Hopstaken giảng viên Đại học
Wittenborg (Hà Lan) nổi tiếng về đào tạo quản trị nhân sự, quan hệ công
chúng, có lời khuyên ngắn gọn như sau "Hãy đi chậm rãi, kiểm soát từng cử chỉ
di chuyển, khi ra đến sân khấu thì đứng thẳng người vì đó là tư thế thể hiện
bạn tự tin nhất".
Về thái độ hành vi: sinh viên cần có hiểu biết về ngôn ngữ cơ thể
trong thuyết trình và phải luyện tập trước khi thuyết trình. Ngôn ngữ cơ thể phải
hòa quyện với suy nghĩ và lời nói khi thuyết trình. Ánh mắt nhìn bao quát khán
phòng, có thể dừng lại ở cá nhân nào đó, sự giao tiếp cá nhân bằng mắt trong
thời gian vừa phải 15 giây. Nét mặt phải có sự biểu cảm, không cười nhưng
vẫn tươi. Động tác tay không buông thẳng, cũng không vung quá nhiều, khi
vung tay thì trong phạm vi từ hông tới cằm. Di chuyển qua lại nên có để tạo
sự thu hút nơi khán giả, nhưng không di chuyển quá nhanh hay quá nhiều dễ
gây rối mắt. Dù cho có hiểu biết nhưng nếu thiếu luyện tập thì vẫn không
quen và lúng túng như thường. Một điển hình là việc luyện thở, trước hết là
hỗ trợ cho luyện giọng, tiếp đó là giúp cho tự tin. Có người nói "Ai mà không
biết thở, cần gì phải tập?". Thực sự phải hẳn thế. Phổi ta trung bình chứa 2
lít không khí, vậy ta thở ra được bao nhiêu? Thông thường chỉ thở ra có nửa
lít, nghĩa là 1,5 lít với đầy thán khí vẫn còn lại trong phổi. Luyện thở để ép
hết không khí độc hại ra khỏi, thay thế không khí trong sạch vào, hành động vô
cùng ý nghĩa. Ngoài ra, mỗi khi cảm thấy hồi hộp, run sợ, thì hãy hít thở những
hơi thật sâu, sự bình tâm sẽ trở lại.
3.2.2. Cải thiện nội dung thuyết trình