Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Bài tiểu luận: Quan hệ quốc tế qua chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) cuộc nội chiến 3 ở Trung Quốc (1946-1949) và quan hệ Trung-Xô-Mỹ (1950-1991)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.36 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
­­­­­­­­­­­­

BÀI ĐIỀU KIỆN:

CHUYÊN ĐỀ: “QUAN HỆ QUỐC TẾ
TRONG THỜI KÌ CHIẾN TRANH LẠNH”
ĐỀ TÀI:
“QUAN HỆ QUỐC TẾ QUA CHIẾN TRANH TRIỀU TIÊN (1950 ­ 
1953).
CUỘC NỘI CHIẾN III Ở TRUNG QUỐC (1946 ­ 1949) VÀ  QUAN HỆ 
TRUNG ­ XÔ ­ MỸ (1950 ­ 1991 )”

CÁC THÀNH VIÊN:

1. NGUYỄN THỊ THU HÒA
2. NGUYỄN HỒNG CHƯƠNG
3. NGUYỄN THỊ HỒNG NGA
4. LÊ TRỌNG HỒNG
5. NGUYỄN THỊ HUYỀN
6. NGÔ ĐỨC AN
CAO HỌC 23 CHUYÊN NGÀNH:LỊCH SỬ VIỆT NAM


Vinh, 2015

                                  MỤC   LỤC  
                             
Phần 1:
MỞ ĐẦU


1.
1.1.
1.2 
2. 
2.1. 
2.2. 
3.
3.1.
3.2.
KẾT LUẬN
 TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC (CÁC TÀI LIỆU GỐC, TRANH ẢNH...)

MỞ ĐẦU
Thời gian gần đây, tình hình bán đảo Triều Tiên liên tục ở trong tình 
trạng căng thẳng. Cả phía Triều Tiên và Hàn Quốc, cũng như  đồng minh 
của họ  là Mỹ  và Nhật Bản đều có những động thái quân sự  đẩy mạnh, 
khiến cho bầu không khí trên bán đảo Triều Tiên bị hâm nóng tột độ, nguy 
cơ  tái diễn một cuộc chiến tranh vốn đã tạm ngưng  ở  đây suốt hơn nửa  
thế kỷ (1950­ 1953) trở nên cận kề hơn bao giờ hết. Vậy căn nguyên nào  
đã khiến cho cuộc chiến này dù tiếng súng đã im, nhưng tàn tro của nó thì  
vẫn luôn âm  ỉ  cháy, nhiều lần  đẩy bán  đảo này  đến miệng hố  chiến  

Tr.


tranh? Thông qua việc tìm hiểu trật tự  quan hệ  quốc tế  có liên quan hồi 
sau Chiến tranh thế  giới lần thứ  hai, chúng ta có thể  lý giải được phần 
nào vấn đề này.

Khởi phát từ  mâu thuẫn nội bộ  giữa hai miền Nam – Bắc Triều  
Tiên, chiến tranh Triều Tiên (1950­1953) lập tức bị quốc tế hóa, lôi cuốn  
vào vòng xoáy sự can dự trực tiếp hoặc gián tiếp nhiều quốc gia trên thế 
giới. Là cuộc xung đột cục bộ đầu tiên của thời kỳ chiến tranh Lạnh, dù  
đã tạm khép lại, song đây vẫn là sự kiện lịch sử hết sức phức tạp, nhiều 
bí  ẩn, hàm chứa những mâu thuẫn, tính toán trên nền lợi ích đan xen đa 
tầng. Có  ảnh hưởng vượt phạm vi khu vực, chiến tranh Triều Tiên trở 
thành phép thử  bất đắc dĩ trong quan hệ  giữa hàng loạt quốc gia bất kể 
liên minh hay đối địch.
quan hệ  của Liên Xô với Trung Quốc và Mỹ  – một bên là đồng 
minh, một bên là đối thủ có chung một điểm tham chiếu với các cấp độ: 
Mức 1– kiềm chế, kiểm soát; mức 2 – làm suy yếu; mức 3 – phụ  thuộc 
(đối với Trung Quốc) và mất khả năng cạnh tranh vị trí thống trị toàn cầu 
(đối với Mỹ). Tại thời điểm đó, Đông Bắc Á trở  thành mảnh đất hội tụ 
lợi ích chiến lược của các cường quốc và là yếu tố quan trọng quyết định  
sự cân bằng hay nghiêng lệch địa – chính trị thế giới, nơi như Liên Xô xác  
định, thỏa mãn những yêu cầu, điều kiện cho việc giải quyết những nguy 
cơ, thách thức tiềm ẩn đối với lợi ích của Liên Xô.
Vấn đề 6. Quan hệ quốc tế trong cuộc chiến tranh Triều Tiên 
(1950­1953) và vấn đề Triều Tiên.
1. Nguồn gốc của nội chiến
Trong quá khứ, bán đảo Triều Tiên đặt dưới ách đô hộ của đế quốc 
Nhật, từ năm 1910 đến 1945. Khi Thế chiến thứ 2 kết thúc và nước Nhật  
đầu hàng quân đội đồng minh, Liên Xô và Mỹ  đã tiến vào bán đảo Triều 
Tiên để  giải giáp quân đội Nhật. Theo thỏa thuận của Hội nghị Moscow  
1945, hai cường quốc này sẽ  thực hiện chế  độ  quân quản trên bán đảo 
Triều Tiên với thời gian  ủy trị  5 năm, Liên Xô  ở  miền Bắc, còn Mỹ   ở 
miền Nam, sau thời hạn 5 năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất  
nước Triều Tiên. Đất nước Triều Tiên tạm thời bị  chia cắt dọc theo vĩ 



tuyến 38. Tại đây, Mỹ  cũng tìm cách chia cắt Triều Tiên, coi đây là một 
mắt xích nhằm ngăn chặn CNCS  ở  châu Á, xác lập vị  trí của Mỹ   ở  khu 
vực này. Với những hoạt động của Mỹ và Liên Xô, một chế độ theo định  
hướng tư  bản chủ  nghĩa đã dần được xác lập  ở  Nam Triều Tiên và một  
chế độ theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã dần được xác lập ở 
Bắc Triều Tiên. Mỹ  không muốn có một Triều Tiên thống nhất, bởi nếu  
Triều Tiên thống nhất thì ở bên cạnh hai "người khổng lồ" của hệ thống 
XHCN là Liên Xô và Trung Quốc thì sớm muộn cả  bán đảo Triều Tiên 
cũng sẽ  bị cuốn vào quỹ đạo của chủ  nghĩa cộng sản. Mỹ  cũng xác định 
rằng, Đông Bắc Á có nhiều lợi ích trong chiến lược toàn cầu của mình,  
mà điểm then chốt là Nam Triều Tiên. Mỹ  coi Nam Triều Tiên như  là 
chiếc neo chiến lược đối với sự có mặt của mình trên lục địa châu Á nói 
chung và khu vực Đông Á nói riêng. Bởi ngoài sự  đề  phòng Liên Xô, Mỹ 
còn sợ  nếu mất Nam Triều Tiên, thì không chỉ  Liên Xô và Trung Quốc, 
Nhật Bản cũng sẽ  là một đối trọng với Mỹ. Nam Tri ều Tiên sẽ  là  một 
điểm dừng chân của Mỹ ở Đông Á, giúp Mỹ khống chế Liên Xô, Trung 
Quốc và Nhật Bản. Còn về phía Liên Xô, cũng coi bán đảo Triều Tiên có 
tầm chiến lược quan trọng. Nếu Nam Triều Tiên  được giải phóng thì 
phạm vi thế lực của Liên Xô sẽ được mở rộng tới sát Nhật Bản, đối thủ 
kỳ cựu đáng gờm nhất của nước Nga từ cuối thế kỷ XIX.
  Hơn  nữa cường  quốc  này cũng  không muốn có  một  "biên giới 
mềm" của Mỹ ở ngay sát cạnh mình và khống chế cả khu vực vốn nằm 
trong vùng ảnh hưởng truyền thống của mình. Chính vì thế, Liên Xô xem 
Nam Triều Tiên thân Mỹ là một cái gai trong mắt và luôn muốn nhổ bỏ nó 
đi. Và như vậy, việc chiến tranh nổ ra trên địa bàn chiến lược Triều Tiên  
không phải là toan tính của riêng phía Liên Xô hay phía Mỹ, mà nó xuất 
phát từ  động cơ  chính trị, kinh tế  của cả  hai bên, nằm trong một không 
gian chung ­ đó là cuộc Chiến tranh lạnh. 
 



Tháng 5/1948, Mỹ tổ chức bầu quốc hội riêng rẽ ở Nam triều Tiên, 
đưa Lý Thừa Vãn làm Tổng thống Đại Hàn dân quốc (Hàn Quốc). Ngay  
sau đó, Mỹ và khối đế quốc kể cả Toà thánh Vatican lần lượt công nhận. 
Trong những tháng cuối năm 1948, Mỹ ký với Chính phủ  Nam Tiều Tiên 
nhiều hiệp định viện trợ mà thực chất là buộc chính phú Lý Thưà Vãn lệ 
thuộc Mỹ. Một mặt, Mỹ muốn bảo vệ đồng minh của mình tại đây. Mặt  
khác Mỹ lo phong trào XHCN sẽ lan rộng sang các nước khác, đặc biệt là  
nước Nhật gần đó mà Mỹ muốn sử dụng làm đối trọng với Liên Xô trong 
chiến lược toàn cầu của mình. Đối phó của Liên Xô: Giúp Kim Nhật 
Thành thành lập nước CHDCND Triều Tiên. Cuối 1948, theo thoả  thuận 
Xô­ Triều, quân đội Liên Xô rút khỏi Bắc Triều Tiên.
2.Cuộc chiến tranh cục bộ Triều Tiên (1950­1953):
2.1 Diễn biến
Mặc dù “chiến tranh lạnh” là “không nổ súng, không đổ máu” song  
nó bùng nổ thành các cuộc xung đột khu vực. Dẫn chứng đầu tiên là cuộc  
chiến tranh 
Triều Tiên xảy ra giữa một bên là quân đội Mỹ  và đồng minh Mỹ 
núp dưới danh nghĩa Liên Hợp Quốc với một bên là quân đội CHDCND  
Triều Tiên, quân đội Trung Quốc có sự hậu thuẫn của Liên Xô. 
Xung đột Xô, Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên : Chiến tranh Triều 
Tiên diễn ra hơn 3 năm từ  tháng 3/1950 đến tháng 7/1953 chia làm 4 giai 
đoạn :
­ Giai đoạn 1 : từ 25/6 đến 18/9/1950 
­ Giai đoạn 2: Từ 13/9 đến 25/10/1950


­ Giai đoạn 3 : Từ 25/10/1950 đến 4/1951
­ Giai đoạn 4 : từ tháng 4/1951  đến 27/7/1953.

Giai đoạn 1: Khuya ngày 25/6, Mỹ "kêu gọi" Lý Thừa Vãn là sáng 
25/6 sẽ đưa quân đội đồng loạt bất ngờ tiến đánh Bắc Triều Tiên. Mục 
tiêu của chúng là:
         1. Đánh chiếm nước CHDCND Triều Tiên, bóp chết chế độ 
dân chủ  nhân dân, thi hành rộng rãi một chính sách phản  động  ở  Bắc 
Triều Tiên, biến nhân dân Bắc Triều Tiên làm nô lệ và biến vùng đất này 
thành thuộc địa của Mỹ.
         2. Sau khi chiếm đóng toàn bộ Bắc Triều Tiên, chúng sẽ dùng 
vùng này làm bàn đạp tấn công CHND Trung Hoa, gây đại chiến thế giới 
thứ ba.
         3. Thực hiện việc quân sự hóa toàn diện nền kinh tế Mỹ, bảo 
đảm lợi nhuận tối đa cho bọn tư bản lũng đoạn, xúc tiến chủ nghĩa phát 
xít và chủ nghĩa quân phiệt ở Mỹ.
         4. Dùng vũ lực để uy hiếp phong trào giải phóng dân tộc ngày 
càng lớn mạnh của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, tiến một 
bước tăng cường sự nô dịch của Mỹ đối với các nước đó.
Sáng 25/6/1950 với lực lượng mạnh mẽ  quân đội Bắc Triều Tiên 
nhanh chóng vượt qua vĩ tuyến 38 sau 3 ngày chiến đấu thủ  đô Xêun bị 
chiếm, chính phủ Lý Thừa Vãn bỏ chạy. Sau vài giờ khi chiến tranh nổ ra,  
Mỹ đưa vấn đề này ra Hội đồng bảo an và thừa cơ đại biểu Liên Xô vắng 
mặt vì phản đối Mỹ ủng hộ Tưởng Giới Thạch không chịu khôi phục địa 
vị chính đáng nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa tại Liên Hợp Quốc, nên 
Hội đồng bảo an đã thông qua Nghị quyết "Lên án các lực lượng vũ trang 
Bắc Triều Tiên xâm lược Hàn Quốc. Ngày 27/6 Hội đồng Bảo an thông 
qua Nghị quyết lần thứ hai kêu gọi các nước hội viên Liên Hợp Quốc giúp 
đỡ  về  quân sự  cho Nam Triều Tiên. Cùng ngày, Tổng thống Mỹ  Truman 
ra lệnh cho tướng Mỹ  Mac Artur dùng không quân và hải quân trực tiếp 
tham chiến . Ngày 7/7 Hội đồng bảo an lại thông qua Nghị quyết cho phép 
quân đội Mỹ  tham chiến  ở  Triều Tiên là quân đội Liên Hợp Quốc được  
mang cờ  Liên Hợp Quốc và đề  nghị  chính phủ  Mỹ  cử  viên tư  lệnh Liên  



Hợp Quốc. Qua các nghị quyết trên người ta thấy nổi lên  vấn đề sau đây:  
Mỹ  âm mưu dùng LHQ làm cơ  sở  che đậy cho âm mư  đen tối của nó là  
dung chiến tranh xâm lược Triều Tiên. Ngay lập tức tướng Mac Artur 
được chỉ  định nhận chức vụ  này. Kết quả, dưới danh nghĩa Liên Hợp 
Quốc, Mỹ  đã lôi kéo được 21 nước khác tham gia cùng mình tại chiến 
trường Triều Tiên. Trong tổng số 22 nước này, ngoài Mỹ và Hàn Quốc thì 
có tới 15 nước thành viên Liên Hợp Quốc gửi quân sang trực tiếp chiến  
đấu tại Triều Tiên, số còn lại cung cấp trợ giúp nhân đạo. Tuy nhiên quân  
số  của Mỹ  và Hàn Quốc vẫn là chủ  đạo. Tháng 1/1950, Mỹ  ký với Hàn 
Quốc "Hiệp ước phòng thủ chung", buộc quân Nam phải do Mỹ lãnh đạo. 
Tháng 2/1950, Mỹ  cùng Hàn Quốc hoạch định kế  hoạch đánh Bắc Triều  
Tiên, đồng thời Mỹ cũng tăng cường viện trợ quân sự cho quân Nam. Năm 
1949­1950, Mỹ  chi viện 79 khu trục hạm, tăng số  quân ngụy lên 15 vạn 
chia thành nhiều sư đoàn khác nhau như Sư đoàn 8, Sư đoàn 7, Sư đoàn bộ 
binh 2, 3, 5... thêm nhiều đặt vụ, phần tử phản động để cài vào phá hoại  
Bắc Triều Tiên. Cuộc chiến tranh Triều Tiên sẽ bùng nổ bất cứ lúc nào.
.Sau 3 tháng chiến trang đến ngày 13/9/1950 quân đội Bắc Triều 
Tiên đã vượt qua vĩ tuyến 38 chiếm 95% đất đai và 97% dân số  Nam 
Triều Tiên. Dưới danh nghĩa quân đội Liên Hợp Quốc Mỹ  đã tập trung  
toàn bộ binh lực mỹ ở vùng Viễn Đông đổ bộ vào cảng Nhân Xuyên ngày 
15/9/1950, sau đó tiến quân đánh Bắc Triều Tiên đến tận sông Áp Lục  
giáp ranh với Trung Quốc. Máy bay Mỹ  còn oanh tạc nhiều thành phố   ở 
Đông Bắc Trung Quốc uy hiếp nền độc lập và an ninh của Trung Quốc.  
Trong buổi tiếp kiến với Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành bày tỏ mong  
muốn được thống nhất hai miền thành một, dự  đoán khả  năng ít có đế 
quốc nào như  Mỹ  và Nhật can dự  vào việc này, và khẩn thiết xin Trung  
Quốc viện trợ cho mình. Mao lập tức đồng  và hứa ủng hộ hết mình vì sự 
thống nhất của hai miền Triều Tiên. Mao nói:  "Nếu quân Mỹ  tham gia,  

Trung Quốc sẽ phái quân sang ủng hộ Bắc Triều Tiên. Nếu chúng vượt vĩ  
tuyến 38, chúng tôi sẽ dứt khoát tham gia chiến đấu".
Ngày 25/10 Trung Quốc phái quân chí nguyện sang kháng Mỹ  viện 
Thiều. Quân đội Triều Trung đã đẩy lùi quân Mỹ khỏi vĩ tuyến 38, sau đó 


chiến sự tiếp diễn  ở vị trí 38. Sau 3 năm chiến tranh, cả hai phía đều tổn  
thất nặng nề  về  người và của, ngày 27/7/1953 tại hội nghị  quân sự  bàn 
môn điểm gần vĩ tuyến 38 hai phía Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên với  
Mỹ, Hàn Quốc đã kí hiệp định đình chiến lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới  
quân sự  giữa hai miền Nam Bắc, tức là trở  lại ranh giới cũ trước chiến  
tranh.
Đánh giá: Chiến tranh Triều Tiên 1950 ­ 53 mở đầu là nội chiến sau 
nhanh chóng thành cuộc chiến tranh cục bộ  Đông Tây giữa một bên là 
quân đội Mỹ và các đồng minh của Mỹ, quân đội Nam Triều Tiên với một  
bên là quân đội CHDCND Triều Tiên, quân Trung Quốc và sự  hậu thuẫn  
về mọi mặt của Liên Xô.
Trong cuộc chiến tranh này Mỹ  đã huy động các loại vũ khí hiện 
đại kể cả đe doạ bom nguyên tử, 73 triệu tấn vật tư chiến tranh chi phí 83 
(có tài liệu nói 200) tỷ  USD, huy động 1/3 lực lượng lục quân, 1/5 lực  
lượng không quân và đại bộ  phận lực lượng hải quân. Cho đến khi kết 
thúc chiến tranh lực lượng tham chiến có hơn 1 triệu tên trong đó có 39  
vạn binh lính sĩ quan của Mỹ  bị  giết, bị  bắt, bị  thương, hàng trăm máy 
bay, tàu chiến bị  bắn cháy, bị  bắn chìm. Trong cuộc chiến tranh này Mỹ 
tham gia một cách trực tiếp với cố  gắng cao nhất để  có thể  giành được  
mục tiêu giải phóng Bắc Triều Tiên làm bàn đạp tấn công Trung Quốc và 
Liên Xô sau này, Mục tiêu này hoàn toàn thất bại.
Ở  Mỹ  và một số  nước phương Tây, Chiến tranh Triều Tiên được  
nhắc đến với cái tên “Cuộc chiến tranh bị lãng quên” do nó xảy ra ngay 
sau Thế  chiến thứ  2 và trước Chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, đây vẫn 

là một cuộc chiến tàn khốc, đẫm máu khi có một lực lượng lớn quân sự 
tham chiến với quyết tâm rất cao.
Về  phía Liên Xô trong suốt cuộc chiến tranh không xuất hiện trên 
chiến trường. Thái độ Liên Xô thay đổi: từ chỗ không đến tán thành miền 
Bắc thống nhất Triều Tiên. Liên Xô là lực lượng hậu thuẫn tối đa cho 
Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Đó là việc Kim Nhật Thành sang Bắc 
Kinh và Moskva để tìm sự hậu  thuẫn. Liên Xô đã quyết định viện trợ cho 


Bắc Triều Tiên toàn bộ  vũ khí đạn dược các phương tiện chiến tranh để 
có thể trang bị rất hiện đại cho 3 sư đoàn Bắc Triều Tiên. Cố vấn quân sự 
Liên Xô đóng là phóng viên báo “Sự thật”. Khi chiến tranh nổ ra Liên Xô  
tiếp tục hậu thuẫn cho lực lượng Trung Triều. Khi chi ến tranh n ổ ra Liên 
Xô điều thêm sư  đoàn không quân có nhiệm vụ  tham chiến trên chiến 
trường. Tuy nhiên lực lượng này không xuất hiện một cách chính thức và 
các loại máy bay mang cờ hiệu Bắc Triều Tiên, phi công mặc quân phục 
TQ.
Lực lượng tham chiến là quân chí nguyện Trung Quốc là người 
thực hiện ý đồ  chiến tranh của Liên Xô. Đêm 25/10   20 vạn quân chí 
nguyện Trung Quốc dưới sự chỉ huy của NS Bành Đức Hoài đã vượt qua  
sông Áp Lục tiến vào Bắc Triều Tiên. 5 ngày sau quân Trung Quốc đã có 
những chiến dịch đầu tiên tiến đánh Mỹ  và đồng minh. Quân số  Trung 
Quốc về  sau tăng lên 2 triệu lượt người. Do những phương tiện chiến  
tranh hiện đại được sử  dụng  ở  chiến trường mà sự  mất mát của quân  
Trung Quốc là rất lớn  (36 vạn người bị  hy sinh, mất tích). Đây là cuộc 
xung đột nghiêm trọng nhất đạt đến mức độ  cao nhất và là chiến tranh  
trong lịch sử chiến tranh lạnh giữa Mỹ là Liên Xô. Ngoài xung đột Xô, Mỹ 
là nguyên nhân căn bản dẫn đến cuộc chiến tranh nóng cục bộ  còn có 
nguyên nhân nữa là chính sách thống nhất bán đảo Triều Tiên của hai  
miền.

Kết cục của chiến tranh hai bên trở lại vị trí xuất phát ban đầu cho 
thấy sự cân bằng trong tương quan lực lượng giữa hai bên.
Sau 3 năm chiến tranh, cả hai bên đều tổn thất lớn về người và của,  
đã phải ký hiệp định đình chiến tại Bàn Môn Điếm (gần VT 38) ngày 
27/7/1953. VT 38 trở  lại là ranh giới quân sự  giữa hai miền Nam ­ Bắc  
Triều Tiên. Việc giải quyết không dứt điểm vấn đề  Triều Tiên để  lại  
tiền đề xấu cho HN Genève về Đông Dương.


Ngày 27/7/1953, Hiệp định đình chiến trên bán đảo Triều Tiên được 
ký kết với các nội dung sau:
      _ Trong lúc chờ đợi một giải pháp hòa bình và toàn bộ, các bên 
chấm dứt tất cả hoạt động quân sự và thù địch.
      _ Hai miền Nam và Bắc sẽ được ngăn cách bằng một vùng phi 
quân sự có bề rộng dài 4 km chạy dọc theo giới tuyến quân sự đã được 
thỏa thuận hồi tháng 11/1951.
      _ Các tù bình được phép chọn lựa: hoặc hồi hương, hoặc được 
hưởng "quy chế tỵ nạn chính trị"
      _ Một ủy ban giám sát việc thực thi hiệp định sẽ được thành lập 
gồm các đại diện của các nước Ba Lan, Tiệp Khắc, Thụy Điển và Thụy 
Sĩ.
      _ Một hội nghị chính trị sẽ được tập hợp sau ba tháng nữa để: 
"giải quyết thông qua  đàm phán các vấn  đề  rút toàn bộ  quân  đội nước 
ngoài khỏi Triều Tiên, giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên".
       Với sự  đình chiến này, 82.000 tù  binh cộng sản, 6.700 tù  binh 
Trung Quốc  được hồi hương. Một giới tuyến quân sự  ngừng bắn theo 
hình chữ "chi" dài 137.1 m và vùng phi quân sự rộng 1,371 km được thiết 
lập. Một  ủy ban giám sát của các nước trung lập sẽ  thành lập tại vùng 
này. Bắc Triều Tiên mất một vùng  đất khá  lơn  ở  đông, nhưng còn giữ 
được vùng đất mới chiếm ở phia tay kể cả Khai Thành.

    _ 90 vạn người Trung Quốc (chết 20 vạn, bị thương 70 vạn)
    _ 75 vạn người Bắc Triều Tiên (chết 30 vạn, bị thương 22 vạn)
      _ 23 vạn người Nam Triều Tiên (chết 5,8 vạn, bị  thương 17,5 
vạn)
    _ 34 vạn người Mỹ chết,


Sự viện trợ của nhân dân quốc tế cho Bắc Triều Tiên:
     Ngay từ ngày đầu cuộc chiến tranh bắt đầu, nhân dân thế giới 
yên chuộng hòa bình  đã  ủng hộ  về  chính trị, kinh tế, xã  hội. Khi chiến 
tranh đã lên tới đỉnh cao, sự viện trợ này cũng tăng mạnh.
     _ Liên Xô: ngay từ đầu, LX và các nước xã hội chủ nghĩa khác 
đấu tranh buộc Mỹ phải kết thúc chiến tranh Triều Tiên. Trong Đại hội 
đồng LHQ, LX nhiều lần đấu tranh với Mỹ đòi chấm dứt chiến tranh, lập 
lại hòa bình cho Triều Tiên, nhưng lần nào Mỹ cũng bác bỏ.
      Khi chiến tranh lên đến đỉnh điểm, nhân dân LX nghe theo tiếng 
gọi vô sản quốc tế đã liên tiếp gửi cho nhân dân Triều Tiên nhiều lương 
thực, quần áo, thuốc men, văn hóa phẩm... Giữa năm 1952, nhân dân LX 
đã gửi 50.000 tấn lương thực, hàng vạn tấn phân hóa học, hơn 400 máy 
kéo, nhiều máy móc, xe hơi khác... không hoàn lại
      _ Trung Quốc: cùng với LX, nhân dân Trung Quốc cũng không 
ngừng viện trợ, lên tiếng ủng hộ Bắc Triều Tiên chống xâm lược. Những 
người con yêu quý của nhân dân Trung Quốc_cán bộ, chiến sĩ chí nguyện 
quân Trung Quốc_từ ngày đầu vào đất Triều Tiên, đã chung tay sát cánh 
cùng quân dân Bắc Triều Tiên chống Mỹ xâm lược. Không những thế, họ 
còn giúp nhân dân Bắc Triều Tiên tiết kiệm quân lương cấp phát cho 
người bị  nạn trong cuộc chiến, giúp  đỡ  nông dân cày cấy, sửa chữa  đê 
điều, thủy lợi.... Câu chuyện La Thịnh Giáo, một chiến sĩ vô sản quốc tế 
hi sinh để cứu một em bé Triều Tiên đã thể hiện rõ tình yêu thương nhân 
dân Triều Tiên của toàn  thể cán bộ, chiến sĩ Trung Quốc.

       Trong vòng 2 năm (1950_1952), Trung Quốc  đã  viện trợ  nhiều 
vật tư như 192 toa xe lương thực, 110.000 cái chăn, hơn 300.000 bộ quần 
áo cùng nhiều vật dụng hàng ngày khác. Ngoài ra, Trung Quốc còn cử các 
đoàn cán bộ y tế đến động viên ý chí nhân dân Bắc Triều Tiên, nuôi nâng 
nhiều trẻ em mồ côi, biểu thị sự ủng hộ nhiệt liệt đối với nhân dân Triều 
Tiên.
         _ Nhân dân các nước anh em khác như  Ba Lan, Tiệp Khắc, 
Rumani, Cộng hòa Dân chủ Đức, Mông Cổ... gửi rất nhiều vải, quần áo, 


lương thực, thuốc men. Trong lúc nhân dân Bắc Triều Tiên gặp khó khăn, 
nhân dân Mông Cổ  nhiều lần gửi súc vật cày cấy, nhân dân các nước 
XHCN khác như   Rumani, Hungari, Mông Cổ, Việt Nam... nhiều lần cử 
người  đi chữa bệnh, nuôi nấng trẻ  em mồ  côi,  động viên nhân dân Bắc 
Triều Tiên đấu tranh giành thắng lợi.
    _ Nhân dân các nước tư  bản chủ  nghĩa, thuộc địa và phụ  thuộc 
cũng phản đối đế quốc Mỹ xâm lược và tăng cường ủng hộ viện trợ cho  
Bắc Triều Tiên. Ở các nước đó, phong trào ủng hộ Triều Tiên bảo vệ hòa  
bình thế giới nổ ra liên tục. Khẩu hiệu: "Đế quốc Mỹ cút khỏi Triều Tiên  
! " được hô vang ở khắp mọi nơi trên thế giới.
       Ý nghĩa lịch sử:
_ Nhân dân Bắc Triều Tiên đã bảo vệ được nền độc lập của quốc 
gia chống sự xâm lược của đế quốc, tiêu biểu là Mỹ và Nam Triều Tiên. 
Thật vậy, sự  ra đời của nước CHDCND Triều Tiên là  thành quả  không 
chỉ của Đảng , chính phủ mà là của toàn thế nhân dân Triều Tiên. Trong 
báo cáo về thắng lợi này, Kim Nhật Thành khẳng định rằng, chính việc 
chiến đấu của nhân dân Triều Tiên chống lại ách xâm lược của đế quốc 
thực dân đã rút ra được bài học kinh nghiệm về việc nắm tình cảnh của 
một dân tộc, vận mạng nô  lệ  của một nước thuộc  địa là như  thế  nào. 
Nhân dân Bắc Triều Tiên đã thực sự nhận rõ sâu sắc các công việc của 

chính phủ  sau khi giành  độc lập cho  đất nước,  ý  thức  được việc cùng 
chính phủ bảo vệ toàn vẹn nền độc lập và chế độ dân chủ, bảo vệ thành 
quả cách mạng và Tổ quốc, để trong tương lai sẽ tiến đến chủ nghĩa xã 
hội và xa hơn nữa là chủ nghĩa cộng sản huy hoàng.
_ Nâng cao địa vị, uy tín của Triều Tiên ở trong nước cũng như trên 
trường quốc tế. Thực vậy, nhân dân Bắc Triều Tiên trong cuộc chiến đã 
đấu tranh anh dũng  đánh bại cuộc xâm lược vũ  trang của  đế  quốc Mỹ, 
bảo vệ nền độc lập cho nước nhà, góp phần cống hiến vào sự nghiệp vĩ 
đại bảo vệ hòa bình thế giới, nhờ thế mà được nhân dân thế giới ủng hộ 
hết mình.


   Trong quá trình chiến tranh, chính phủ của Bắc Triều Tiên mới là 
chính phủ duy nhất, trung thành vô hạn với sự nghiệp cứu nước vĩ đại; 
đồng thời, quá  trình  đó  càng chứng thực rõ  ràng nước CHDCND Triều 
Tiên là một nhân tố hòa bình mạnh mẽ để giữ gìn lâu dài nền hòa bình thế 
giới và được nhân dân thế giới "tôn sùng" và ủng hộ.
_ Qua thử thách trong cuộc chiến, chế độ dân chủ Bắc Triều Tiên 
được củng cố  và  mở  rộng, sự  thống nhất về  chính trị, tư  tưởng trong 
nhân dân  được tăng cường, các tổ  chức  Đảng,  đoàn thể  xã  hội có  thêm 
kinh nghiệm và tích lũy dần về sau.
   Âm mưu trong cuộc chiến này đó là đánh tiêu hao, đánh phá hoại 
làm   cho   nước   CHDCND   Triều   Tiên   mỏi   mệt  để  đánh   chiếm,   nhưng 
chúng  đã  bị  thất   bại   trước   sự  kiên   cường,   anh   dũng   của   nhân   dân 
CHDCND Triều Tiên. Trong chiến tranh, nhân dân đã gắn bó chặt chẽ với 
chính phủ, trung thành vô  hạn với chính phủ,  điều  đó  đã  tiếp thêm sức 
mạnh giúp họ đánh bại kẻ thù và xây dựng cuộc sống mới. Ngoài ra, các 
mặt về  kinh tế, chinh trị, xã  hội cũng  được phát triển. lực lượng ngày 
càng được tăng cường để đánh giặc và củng cố chế độ ngày càng vững 
mạnh hơn.

_Qua cuộc chiến này, nhân dân triều tiên đã làm thất bại âm mưu 
của Mỹ  và  các  đế  quốc khác, có  ảnh hưởng cổ  vũ  lớn  đối với sự  phát 
triển của tình hình quốc tế. Đế quốc Mỹ, dưới con mắt của nhân dân Bắc 
Triều Tiên và các nước yêu chuộng hòa bình thế giới, đó là một đế quốc 
tàn bạo và  độc  ác nhất trong lịch sử. Nó  dùng nhiều phương tiện, thủ 
đoạn để chống phá các nước trên mọi mặt. Nhưng dù có thế nào thì nó 
cũng phơi bày bộ mặt xảo trá của nó, đó là "tính chất hùng mạnh của Mỹ" 
mà chúng từng huênh hoang và nền dân chủ kiểu Mỹ đầy bất công, mâu 
thuẫn.
     Một  điều nữa cần phải lưu ý này trong chiến tranh, Mỹ  có  sử 
dụng lá cờ LHQ, lôi kéo các nước đồng minh tham gia cuộc chiến, dùng 
nó tàn sát vô nhân đạo nhân dân bản xứ. Tính chất này còn vượt xa cả bọn 
quốc xã Đức trong Thế chiến thứ hai. Cuộc chiến này thực chất là một bộ 
phận của chiến tranh lạnh, là cuộc  chiến tranh giữa bọn đế quốc và các 


nước XHCN yêu chuộng hòa bình, nhưng tất cả đều bị thất bại. Thượng 
nghị  sĩ  McCarthy nói: "chúng ta  đã  bị  thất bại nặng nề  và  thảm hại  ở 
Triều Tiên".
   Ngày nay nhân dân châu Á và phi đang noi gương Triều Tiên, tiến 
hành chiến tranh giành độc lập, buộc Mỹ phải thừa nhận sự thất bại của 
mình và chịu thua.
_ Thắng lợi của triều tiên trong cuộc chiến tranh Triều Tiên không 
những bảo vệ quyền tự do độc lập, mà còn giữ vững tiền đồn của phe xã 
hội chủ nghĩa ở phương Đông và góp phần to lớn vào sự nghiệp ổn định 
hòa bình trên thế  giới. Trong cuộc chiến tranh, nhân dân Triều Tiên  đã 
đánh bại Mỹ, phá hoại âm mưu chinh phục toàn cầu của Mỹ, thúc đẩy sự 
ủng hộ của nhân dân với sự nghiệp hòa bình trên thế giới.
3.Vai trò Mỹ­Xô trong chiến tranh Triều Tiên 
KẾT LUẬN

Như vậy, cuộc chiến tranh Triều Tiên từ khởi điểm ban đầu là cuộc 
chiến tranh giữa hai lực lượng trong nội bộ đất nước Triều Tiên, đã phát 
triển thành cuộc chiến tranh cục bộ, với sự  tham chiến giữa một bên là 
quân đội Nam Triều Tiên cùng quân đội Mỹ  và các nước đồng minh, với  
một bên là quân đội Bắc Triều Tiên, quân chí nguyện Trung Quốc cùng sự 
hậu thuẫn của Liên Xô. Cuộc chiến này thể  hiện một cách rõ nét sự  can 
thiệp của các cường quốc lớn bấy giờ là Mỹ và Liên Xô. Sự can thiệp này  
diễn ra cả trước và trong chiến tranh. Tuy vậy, nằm trong bối cảnh chung  
của quan hệ quốc tế lúc bấy giờ là thời kỳ của Chiến tranh lạnh, nên sự 
đụng đầu giữa các cường quốc là không trực diện. Vì thế, có thể  khẳng  
định cuộc chiến tranh Triều Tiên chính là một mảng quan trọng của Chiến 
tranh lạnh­ nơi mà cả  cực Mỹ  và cực Liên Xô đã đụng đầu nhau, nhưng  
về  hình thức thì dường như  không. Đồng thời, cuộc chiến tranh này  ẩn  
đằng sau nó còn là sự phân chia lợi ích của các cường quốc thắng trận sau 
Thế  chiến Hai. Các nước lớn vì lợi ích của mình, đã đem dân tộc Triều  
Tiên lên bàn cân để  phân chia, khiến Triều Tiên bị  tách thành hai nửa, 
xung đột nhau về  chế  độ  chính trị  và cuối cùng đã dẫn tới chiến tranh.  
Cuộc chiến tranh này đã không được giải quyết một cách thấu đáo­ mà 


nguyên nhân vẫn xuất phát từ bất đồng về lợi ích giữa các bên liên quan. 
Kết quả  là, sau khi tiếng súng đã lặng im trên chiến trường, hai miền 
Triều Tiên vẫn bị  phân tách và trở  thành hai quốc gia riêng biệt tồn tại 
đến tận ngày nay. Hiệp định Bàn Môn Điếm (27­7­1953) trở  thành cam  
kết duy nhất giữa hai bên, ghi nhận kết quả  cuộc chiến tranh. Song rất  
tiếc, đó chỉ là một Hiệp định đình chiến­ tức tạm thời chấm dứt tình trạng 
chiến tranh, chứ  chưa phải là một thỏa  ước giữa các bên để  kết thúc 
chiến tranh. Vì lẽ đó, Triều Tiên hiện nay vẫn có cơ sở để nói rằng cuộc  
chiến tranh của họ  hồi giữa thế kỷ  XX vẫn chưa kết thúc. Và trên thực  
tế, chiến tranh có thể trở lại bán đảo này bất cứ lúc nào.

TÀI LIỆU THAM KHẢO: (Ví dụ)
1. Các chuyên đề của GS. Nguyễn Anh Thái, PGS Nguyễn Quốc Hùng, GS Vũ Dương  
Ninh… trong “Một số  chuyên đề  lịch sử  thế  giới” NXB ĐHQG Hà Nội 2001 do GS. 
Vũ Dương Ninh chủ biên. 
2. Nguyễn Anh Thái (chủ biên), Lịch sử thế giới hiện đại (từ 1945 đến nay), Nxb Đại  
học Quốc gia, H. 1996
3.Nguyễn Cơ  Thạch: Thế  giới 50 năm qua (1945­1995) và thế  giới trong 25 năm tới 
(1996­ 2020) NXB CTQG H. 1998.
4.A. Đôbrưnhin: Đặc biệt tin cậy. NXB CTQGH. 2001.
5.Lý Kiện: Ngọn lửa chiến tranh lạnh. NXB Thanh niên 3 tập.
6.Trương Tiểu Minh: Chiến tranh lạnh và di sản của nó. NXB CTQG H. 2002.
7. Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  VI,VII,  
VIII, IX. NXH Sự thật –1987, 1991, 1996, 2001.
1. Lê Phụng Hoàng, Lịch sử quan hệ quốc tế ở Đông Á từ sau chiến tranh thế giới thứ 
hai đến cuối chiến tranh lạnh (1945_1991)
2. Phạm Giảng, Lịch sử  quan hệ  quốc tế  từ  chiến tranh thế  giới thứ  hai  đến chiến 
tranh Triều Tiên (1939_1952), NXB Chinh trị quốc gia, 2005
3. Lê Anh,   Lịch sử  cuộc chiến tranh chính nghĩa giải phóng Tổ  quốc của nhân dân 
Triều Tiên, NXB QĐND, 1965
4. Kim Nhật Thành, Cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân Triều Tiên chống đế 
quốc Mỹ xâm lược, NXB Sự thật, 1966


5. Phạm Giảng, Lịch sử quan hệ quốc tế từ sau chiến tranh thế  giới thứ hai (1945) 
đến 1954, NXB Sử học, 1962 
6. Andrew C. Nahm, Lịch sử & văn hóa bán đảo Triều Tiên ; Nguyễn Kim Dân b.d. ­ H. 
: Văn hóa Thông tin, 2005
7. Lee Ki_baik, Lich sử Hàn quốc tân biên,  Nxb.T.P. Hồ Chí Minh, 2002
8. Tuyên bố của Tổng thống B. Clintơn về việc Mỹ bình thường hoá quan hệ với Việt 
Nam. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay. Số 2­ 1995.




×