Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Luận văn: Tìm hiểu thực trạng quản lý và khai thác thông tin - tư liệu tại Thư viện Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất cái giải pháp cải tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.13 KB, 105 trang )

Tìm hiểu thực trạng quản lý và
khai thác thông tin - tư liệu tại Thư
viện Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đề
xuất các giải pháp cải tiến

Lê Quỳnh Chi


PHẦN MỞ ĐẦU
1/ Lý do chọn đề tài

- Trong thời đại ngày nay, công tác thông tin nói chung và thông tin thư
viện nói riêng có một tầm quan trọng đặc biệt và ảnh hưởng sâu sắc tới mọi lónh
vực của đời sống xã hội, trong đó có lónh vực giáo dục và đào tạo. Sự phát triển
giao lưu văn hoá, thông tin, khoa học kỹ thuật và nhất là việc khai thác hiệu quả
thông tin đã trở thành một trong những nhân tố quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế – xã hội của bất kỳ một quốc gia nào. Do sự phát triển của công
nghệ, kiến thức của con người được bảo quản lâu dài và được truyền bá một cách
nhanh chóng, thông tin được cập nhật không ngừng để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của người sử dụng. Thư viện là chiếc cầu nối giữa thông tin và người
đọc.
- Trường đại học là nơi sản sinh ra tri thức cập nhật nhất của xã hội, vì nơi
đây tập trung được một đội ngũ trí thức đông đảo, ưu việt và chuẩn mực nhất.
Đây cũng là môi trường sáng tạo tri thức ít bò chi phối bởi những áp lực ngoài
khoa học như kinh tế, chính trò, quân sự, tôn giáo….Trong ba điều kiện để sản
sinh tri thức: đội ngũ cán bộ, cơ sở thực nghiệm và tính kế thừa khoa học kỹ thuật
thì yếu tố sau cùng có tầm quan trọng đặc biệt vì sách báo, thông tin là phương
tiện cho phép kế thừa kiến thức ưu việt hơn cả. Chính vì lý do đó, thư viện luôn
giữ vò trí là một bộ phận trọng yếu trong hoạt động của các trường đại học, là yếu
tố căn bản, quan trọng để lượng giá vai trò, chức năng, nhiệm vụ và hiệu quả đào


tạo của đại học .
- Thư viện đại học Việt Nam trong những năm qua, do những điều kiện
khách quan cũng như chủ quan, chưa được nhìn nhận và đầu tư đúng như vò thế


mà nó phải có. Đây có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng
chưa cao của các sản phẩm được tạo ra từ các trường đại học Việt Nam.
- Đối với Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, là Trường Sư
phạm trọng điểm khu vực phía Nam, những năm gần đây đang tiến hành chương
trình đổi mới giáo dục từ mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp đào tạo
đến đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, phương tiện giảng dạy….Trong chương
trình đổi mới ấy, hoàn thiện hệ thống thông tin thư viện nhằm phục vụ hiệu quả
mục tiêu đào tạo chất lượng cao là việc được đặc biệt chú trọng. Là một phần
của Dự án “ Giáo dục đại học” từ nguồn vốn của Ngân hàng Thế giới, Thư viện
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh hiện sở hữu một hệ thống
trang thiết bò khá hiện đại, một nguồn lực thông tin phong phú, cập nhật và tương
đối hoàn thiện. Tuy nhiên, hiệu quả của việc khai thác thông tin chưa cao, đặc
biệt đối với những thông tin chuyên sâu. Các bộ phận tham gia vào hoạt động
thông tin còn phân tán, chưa đồng bộ dẫn đến chất lượng khai thác thông tin còn
thấp, gây nên tình trạng lãng phí về ngân sách, thời gian, và công sức xử lý thông
tin. Vì vậy, quản lý và khai thác cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực thông tin ấy
một cách hiệu quả, phục vụ đắc lực việc nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập
trong nhà trường trở thành trách nhiệm hàng đầu và quan trọng nhất của Thư viện
hiện nay. Từ những lý do trên, đề tài “Tìm hiểu thực trạng quản lý và khai thác
thông tin - tư liệu tại Thư viện Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh,
từ đó đề xuất các giải pháp cải tiến” được nghiên cứu.
2/ Mục đích
¾ Tìm hiểu việc quản lý và khai thác thông tin - tư liệu tại Thư viện Trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.



¾ Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin - tư liệu tại
Thư viện Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
3/ Nhiệm vụ
¾ Xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
¾ Tìm hiểu thực tiễn đào tạo, giảng dạy, học tập và việc đầu tư, quản lý và
khai thác thông tin tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
¾ Tìm hiểu thực trạng việc quản lý và khai thác thông tin - tư liệu của Thư
viện Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
¾ Đề xuất một vài giải pháp nâng cao hiệu quả việc quản lý thông tin - tư
liệu tại Thư viện Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, nhằm
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
4/ Đối tượng, khách thể nghiên cứu
¾ Đối tượng: Hoạt động quản lý và khai thác thông tin - tư liệu trong Thư
viện Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
¾ Khách thể : Cán bộ và sinh viên Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh.
5/ Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu bằng những phương pháp sau:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu, thu thập thông tin để xây dựng cơ sở lý
luận của vấn đề nghiên cứu.
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến : sử dụng bảng câu hỏi về
hoạt động thông tin - tư liệu tại Thư viện :


• Lần thứ nhất: Xây dựng phiếu trưng cầu ý kiến với 08 câu hỏi, trong đó có
05 câu hỏi hoàn toàn mở để thu nhận những ý kiến của bạn đọc xung
quanh việc quản lý, khai thác thông tin - tư liệu. Tổng số phiếu phát ra là
300, thu về 245 phiếu (81.66%).
• Lần thứ hai: Xây dựng phiếu trưng cầu chủ yếu bằng phương pháp trắc

nghiệm. Tổng số phiếu phát ra là 1.000 phiếu, thu về 763 phiếu (đạt tỉ lệ
76,3%). Có hai loại phiếu trưng cầu ý kiến:
-

Phiếu trưng cầu ý kiến dành cho cán bộ quản lý, cán bộ, giảng viên,
nghiên cứu sinh và học viên sau đại học với 23 câu hỏi, trong đó có
01 câu hỏi mở.

-

Phiếu trưng cầu ý kiến dành cho sinh viên hệ chính quy tại trường với
20 câu hỏi, trong đó có 01 câu hỏi mở.

+ Phương pháp phỏng vấn, trao đổi và quan sát các hoạt động khai thác thông
tin – tư liệu tại Thư viện Trường.
+ Phương pháp xử lý số bằng toán thống kê. Tất cả số liệu thống kê được xử
lý theo phần mềm SPSS for Win 9.1.
6/ Giả thuyết nghiên cứu
Nếu các biện pháp quản lý và khai thác thông tin – tư liệu được thực hiện
một cách khoa học thì hiệu quả sử dụng Thư viện Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh được nâng cao.
7/ Giới hạn đề tài
Nghiên cứu việc quản lý và khai thác thông tin - tư liệu trong phạm vi
trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.


8/ Quá trình nghiên cứu
¾ Chọn đề tài, xác đònh tên đề tài. Thông qua thầy hướng dẫn khoa học xác
đònh rõ mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, khách thể, phạm vi, phương pháp
nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài. (Tháng 6/2003)

¾ Xây dựng đề cương, nộp đề cương cho phòng Khoa học và công nghệ Sau đại học (Tháng 8/2003)
¾ Nhận nhiệm vụ nghiên cứu (Tháng 10/2003 )
¾ Lập phiếu trưng cầu ý kiến, xin ý kiến hướng dẫn (Tháng 11/2003)
¾ Tiến hành phát phiếu trưng cầu ý kiến lần 1(Tháng 12/2003)
¾ Thu thập, phân tích và xử lý số liệu (Tháng 2/2004)
¾ Chọn mẫu nghiên cứu. Tiến hành phát phiếu trưng cầu ý kiến lần 2
(Tháng 4/2004).
¾ Thu thập, phân tích và xử lý số liệu (Tháng 6/2004)
¾ Viết và trình kết quả nghiên cứu (Từ tháng 6 đến tháng 9/2004)


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1/ Lòch sử vấn đề nghiên cứu
Sự phát triển và tiến bộ xã hội đặt ra những nhu cầu, đòi hỏi mới cho hoạt
động thông tin, đồng thời cũng là điều kiện và tiền đề phát triển thông tin.
Thông tin đã trở thành một khái niệm khoa học có tính thời sự và ngày càng trở
thành yếu tố quan trọng hàng đầu trong các lónh vực hoạt động của con người.
Tại các nước phát triển, thông tin được đánh giá là nguồn tài nguyên quan trọng
và cần thiết nhất. Thông tin trở thành tài sản và sức mạnh của mỗi quốc gia.
“Thế kỷ thông tin”, “ bùng nổ thông tin”, “ chiến tranh thông tin”… là đặc trưng
cơ bản trong sự phát triển của thời đại ngày nay. Với khối lượng thông tin khổng
lồ đó, các cơ quan quản lý thông tin, thư viện phải tìm kiếm, sưu tập, xử lý, lưu
trữ thông tin một cách khoa học và hướng dẫn người sử dụng lựa chọn những
thông tin phù hợp, có chất lượng tốt nhất.
Chính vì tính thời sự và tầm quan trọng của công tác thông tin và quản lý
thông tin, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về đề tài này. Chúng tôi xin nêu một số
công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
-


Cuốn sách “ Quản lý thông tin và công nghệ thông tin”, tiến só Nguyễn
Khắc Khoa chủ biên, nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, Hà Nội năm
2000.

Các tác giả đã trình bày vai trò quan trọng của thông tin, đồng thời cung cấp
cho người đọc một cách có hệ thống những kiến thức mới về môi trường thông
tin, quản lý thông tin và công nghệ thông tin, đổi mới quá trình hoạt động và yếu
tố con người…


-

“Quản lý thư viện và trung tâm thông tin”, tác giả Nguyễn Tiến Hiển và
Nguyễn Thò Lan Thanh, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, năm 2002.

Các tác giả đã đưa ra một số khái niệm, lý thuyết chung về tổ chức, quản lý
trong cơ quan thư viện – thông tin, đồng thời nêu lên một số mô hình, cơ cấu tổ
chức mạng lưới thông tin thư viện hiện nay.
-

“ Công tác thông tin khoa học ở học viện chính trò Quốc gia", nhiều tác
giả, do Học viện chính trò Quốc gia Hồ Chí Minh phát hành, năm 1995.

Các tác giả đã phân tích thực trạng hoạt động của Trung tâm thông tin - tư
liệu Học viện Chính trò Quốc gia, sự cần thiết phải đổi mới công tác thông tin - tư
liệu nhằm đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ mới tại Học viện Chính trò Quốc gia.
-

Bài viết “ Phương pháp luận xây dựng chính sách phát triển nguồn tin” của
tiến só Nguyễn Viết Nghóa, trung tâm Thông tin Tư liệu khoa học công

nghệ Quốc gia, đăng trong tạp chí Thông tin & Tư liệu tháng 1/2001.

Tác giả phân tích khái niệm “ Chính sách phát triển nguồn tin”, khẳng đònh vò
trí quan trọng của sự phát triển nguồn tin đối với việc tạo nguồn, xây dựng hệ
thống các kho tài liệu của các thư viện và cơ quan thông tin.
-

“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thông tin
quản lý giáo dục phổ thông”, luận án tiến só giáo dục học của nghiên cứu
sinh Vương Thanh Hương, Hà Nội, năm 2003.

Tác giả đã nghiên cứu và đánh giá thực trạng hoạt động của hệ thống thông
tin quản lý giáo dục phổ thông Việt Nam, đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động của hệ thống này trong điều kiện hiện nay.
-

“ Nghiên cứu nhu cầu tin tại trường Đại học Cần Thơ”, luận văn Thạc só
Thông tin – Thư viện của Dương Thò Vân, Hà Nội, năm 2003.


Tác giả đã tìm hiểu nhu cầu tin cơ bản của các đối tượng người dùng tin tại
trường Đại học Cần Thơ, nêu lên sự cần thiết phải phát triển các dòch vụ thông
tin trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm kích
thích nhu cầu tin phát triển.
-

“ Nghiên cứu hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin
– thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội”, luận văn Thạc só Thông tin–
Thư viện của Nguyễn Thò Hồng Trang, Hà Nội, năm 2003.


Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát và đánh giá thực trạng hoạt động thông tin –
thư viện ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm
tăng cường hiệu quả hoạt động của Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
-

Luận văn Thạc só Thông tin – Thư viện của Nguyễn Thò Nghóa “Tăng
cường hoạt động thông tin – thư viện ở Học viện Tài chính trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Hà Nội, năm 2003.

Tác giả đã phân tích vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Học viện Tài chính nói
chung và Trung tâm thông tin thư viện Học viện tài chính nói riêng, đồng thời
nêu rõ vò trí, tầm quan trọng của hoạt động thông tin. Tác giả cũng tìm hiểu
những thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm thông tin, từ đó
đề xuất một số biện pháp căn bản để nâng cao hiệu quả phục vụ của Trung tâm
thông tin thư viện.
Nhìn chung, những cuốn sách, bài viết, đề tài nghiên cứu nói trên đã nêu bật
được vai trò, tầm quan trọng của hoạt động thông tin hiện nay trên mọi lónh vực
của đời sống xã hội, phân tích được một số nguyên nhân chính ảnh hưởng đến
chất lượng các dòch vụ, sản phẩm thông tin tại Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có đề
tài nào nghiên cứu về việc quản lý và khai thác thông tin - tư liệu tại Trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tìm hiểu sâu về vai trò và những đóng góp


của hoạt động quản lý thông tin - tư liệu dưới góc độ quản lý giáo dục, góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới phương pháp dạy – học tại trường đại học .
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này sẽ là cơ sở để các nhà quản lý giáo dục
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh tăng cường sự quan tâm đến
hoạt động thông tin - tư liệu tại Trường, từ đó có chủ trương phát triển phù hợp
đối với mảng hoạt động này nhằm thúc đẩy, kích thích việc nghiên cứu, học tập
của cán bộ và sinh viên, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng với nhu cầu ngày

càng cao của xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2/ Những khái niệm cơ bản của vấn đề nghiên cứu

1.0.0. Quản lý
Có rất nhiều đònh nghóa về quản lý. Theo W. Taylor : “Quản lý là biết được
chính xác điều bạn muốn người khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn
thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”. Theo Kozlova O.V. và Kuznetsov
I.N. thì :” Quản lý là sự tác động có mục đích đến tập thể con người để tổ chức và
phối hợp hoạt động của họ trong quá trình sản xuất” [15; 89.]
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Lê cho rằng “Quản lý là một hệ thống xã hội, là
khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ thống đó mà chủ yếu là vào những con
người nhằm đạt hiệu quả tối ưu theo mục tiêu đề ra” [21; 5]. Theo Từ điển giáo
dục học thì “Quản lý là hoạt động hay tác động có đònh hướng có chủ đích của
chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bò quản lý) trong
một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”.
[1; 36.]


Theo chúng tôi, quản lý là sự kết hợp giữa việc sử dụng hiệu quả nhất phương
tiện trang thiết bò, cơ sở vật chất và sự phát huy tốt nhất khả năng của con người
để đạt tới mục tiêu chung của hệ thống và mục tiêu riêng của mỗi người.
Các hình thức chức năng quản lý bao gồm chủ yếu : kế hoạch hóa, tổ chức,
chỉ đạo hoặc lãnh đạo và kiểm tra. Giáo dục nói chung và công tác thông tin
trong giáo dục nói riêng là một hệ thống tổ chức hoạt động phức tạp, do đó rất
cần được quản lý chặt chẽ.
1.2.2. Quản lý thư viện
Quản lý thư viện được hiểu là sự điều hành, giám sát tất cả các hoạt động của
thư viện nhằm mục đích đạt được hiệu quả tốt nhất, nâng cao chất lượng phục vụ
bạn đọc. Nội dung cụ thể của công tác quản lý thư viện bao gồm các mặt chủ yếu
sau : lập kế hoạch tổ chức các hoạt động, quản lý nhân sự, quản lý tài chính,

quản lý trang thiết bò, tài liệu và đánh giá kết quả hoạt động. Trong đó, yếu tố
quản lý nhân sự đóng vai trò quan trọng nhất [20; 30].
Quản lý nhân sự là loại quản lý phức tạp đòi hỏi người quản lý phải hiểu biết
kỹ về các thành viên dưới quyền quản lý của mình, về trình độ, khả năng chuyên
môn, ngoại ngữ, tin học… và hoàn cảnh gia đình để phân công, điều động công
việc và có chế độ đãi ngộ hợp lý. Quản lý cán bộ là công việc đòi hỏi không
những chuyên môn mà còn phải hiểu tâm lý và có phương pháp sư phạm.
Quản lý vốn tài liệu là phải có chính sách bảo quản và phát triển vốn tài liệu
tốt sao cho phù hợp với nhu cầu người đọc. Mục đích cuối cùng của quản lý thư
viện là đạt được hiệu quả phục vụ tốt nhất, bảo quản tốt vốn tài liệu và các trang
thiết bò.
1.2.3. Quản lý thông tin


™ Thông tin:
Thông tin là một khái niệm rộng, được dùng một cách phổ biến nhưng rất khó
xác đònh bằng một đònh nghóa tổng quát. Quan niệm thông thường nhất hiện nay
thông tin được hiểu như là những tin tức thông báo về thế giới xung quanh cùng
với những quá trình diễn ra trong đó được tiếp nhận bởi con người hoặc bởi các
cấu trúc đặc biệt. Thông tin là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong hoạt động
nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người. Từ điển bách khoa về
giáo dục coi “thông tin là điều người ta đánh giá hoặc nói đến, là tri thức, là tin
tức”.
Trong một hệ thống thông tin cần tìm hiểu sự khác nhau giữa thông tin và dữ
liệu. Dữ liệu là nguyên liệu gốc, là đầu vào của một hệ thống thông tin. Dữ liệu
có các đặc tính như lưu giữ các sự kiện, mang tính bò động và được thu thập từ
nhiều nguồn khác nhau. Trong khi đó thông tin có các đặc tính là cung cấp các sự
kiện, mang tính hoạt động và được xử lý, biến đổi từ dữ liệu.
Như vậy có thể hiểu dữ liệu mang tính ổn đònh và bò động, trong khi đó thông
tin mang tính bất đònh. Thông tin là kết quả được xử lý từ dữ liệu thông qua trí

tuệ của con người và các phương tiện, công cụ hỗ trợ.
Từ những tìm hiểu trên và xét ở góc độ thông tin phục vụ công tác quản lý,
công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập, chúng tôi hiểu thông tin là những tri
thức, tin tức được thu nhận, được hiểu và được đánh giá là có ích cho việc ra
quyết đònh, hình thành sản phẩm thông tin mới theo mục đích của người sử dụng.
Quá trình xử lý thông tin bao gồm các hoạt động: đầu vào, xử lý dữ liệu và
đầu ra.
• Hoạt động đầu vào bao gồm việc tổ chức hoặc thu thập dữ liệu dưới
một vài hình thức phù hợp cho việc xử lý.


• Xử lý dữ liệu bao gồm một hoặc nhiều hoạt động như phân loại, sắp
xếp, tổng hợp…
• Đầu ra : sau khi thu thập, tập hợp các dữ liệu được xử lý. Kết quả xử
lý được lưu giữ và gửi tới tay người sử dụng như những thông tin đầu ra
dưới nhiều hình thức khác nhau theo nhu cầu của người sử dụng.
Trong quản lý, thông tin là căn cứ để ra quyết đònh và tổ chức thực hiện quyết
đònh có hiệu quả.
™ Quản lý thông tin:
“Quản lý thông tin là việc áp dụng các nguyên lý và thực tiễn quản lý chu
trình sống cơ bản cho tài sản thông tin. Nó bao gồm việc quản lý các công nghệ,
các hệ thống, các nguồn, các dòch vụ, nhân sự và tài chính trong một sự kết hợp”
[12; 116-117].
Các thành phần cơ bản của chu trình quản lý thông tin bao gồm:
• Xác đònh nhu cầu thông tin.
• Tìm hiểu tính sẵn có của thông tin cần thiết.
• Thu nhận và quản lý thông tin.
• Sắp xếp thông tin.
1.2.4. Quản lý tư liệu
™ Tư liệu: Theo từ điển tiếng Việt của nhà xuất bản Khoa học xã hội (1991) thì

“ tư liệu là những tài liệu sử dụng cho việc nghiên cứu và học tập”.
Vốn tài liệu của thư viện ngày nay không chỉ đơn thuần là sách, báo, tạp
chí, microfilm và thủ bản quý hiếm nữa mà còn có thêm những tài liệu ở dạng


đặc biệt khác như băng nghe, nhìn, đóa từ, đóa quang… và các cơ sở dữ liệu
điện tử.
™ Quản lý tư liệu :
Quản lý tư liệu là việc giữ gìn, bảo quản và sắp xếp tài liệu theo một hệ
thống khoa học sao cho người sử dụng dễ dàng tìm kiếm và tiếp cận tài liệu
cần nghiên cứu một cách tiện lợi nhất; đồng thời phải phát triển nguồn tư liệu
cho đầy đủ và có chất lượng nhằm phục vụ tốt nhu cầu người sử dụng.
Quản lý tư liệu được phân chia làm nhiều giai đoạn. Giai đoạn quản lý tư
liệu được bắt đầu từ khi những thư viện đầu tiên xuất hiện trên hành tinh này
vào khoảng 2.750 năm trước công nguyên với tính chất là nơi tàng trữ mọi văn
tự từ thời cổ đại. Quản lý tư liệu trải qua một thời gian dài và phát triển mạnh
khi ngành in ra đời vào thế kỷ XV. Ở giai đoạn này, mỗi thư viện là một kho
sách độc lập, thủ thư thụ động ngồi chờ độc giả tới sử dụng thư viện. Trong
chế độ phong kiến nước ta, thư viện chỉ dành riêng phục vụ vua quan, giai cấp
quý tộc với chức năng chính là tàng trữ, bảo quản tư liệu. Ngày nay, quản lý
tư liệu bao gồm cả công việc tổ chức tư liệu một cách khoa học, phát triển
nguồn tài liệu hợp lý và hướng dẫn người sử dụng.
Quản lý tư liệu là quản lý vật chất, người quản lý thư viện luôn quan tâm
đến qui mô, không gian, bảo quản của tài liệu trong phạm vi thư viện mình
quản lý. Quyền sở hữu tư liệu được đặt nặng. Quản lý thông tin là quản lý phi
vật chất, người ta quan tâm đến sự nhanh chóng, tiện lợi, hiệu quả…của tài
liệu. Người quản lý không chỉ quan tâm những thông tin trong thư viện mình
mà còn cả những thông tin bên ngoài thông qua sự liên kết với các thư viện,
trung tâm thông tin khác. Trong giai đoạn hiện nay, việc ứng dụng thành tựu
của công nghệ thông tin đã giúp cho thư viện đạt được hiệu quả phục vụ cao.



1.2.5. Khai thác thông tin - tư liệu
Khai thác thông tin - tư liệu là hoạt động để thu thập những thông tin - tư liệu
có sẵn và tận dụng hết hiệu quả của nguồn thông tin đó nhằm một mục đích nhất
đònh.
Trong trường đại học, hoạt động khai thác thông tin đóng vai trò vô cùng quan
trọng, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới phương pháp dạy – học.
Hoạt động giảng dạy, học tập thực chất là một quá trình truyền đạt và tiếp nhận
thông tin. Nếu giáo viên nắm bắt, cập nhật được những thông tin mới thường
xuyên và vận dụng phù hợp vào quá trình giảng dạy thì bài giảng sẽ sinh động,
phong phú và đi sát với thực tế hơn. Nếu sinh viên tìm tòi, khai thác thông tin - tư
liệu hiệu quả thì chất lượng học tập và khả năng nghiên cứu khoa học sẽ được
nâng cao rõ rệt.
1.3. Vai trò của thư viện trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập
trong trường đại học
Mục tiêu quan trọng nhất đối với giáo dục đại học trong kỷ nguyên thông tin
là tạo ra những con người có khả năng tự đònh hướng học tập, tự học thường
xuyên, biết chọn lọc, xử lý thông tin và có khả năng sáng tạo tri thức, tự tin hội
nhập vào thò trường lao động chất xám quốc tế đầy tính cạnh tranh. Đây là xu thế
tất yếu trong xã hội thông tin. Quá trình tự đào tạo đó sẽ tác động tích cực vào
quá trình đổi mới giáo dục đại học để tiến kòp trình độ khu vực và quốc tế.
Tại Hội nghò Giáo dục Đại học ( từ 1/10 đến 3/10/2001), Thủ tướng Phan Văn
Khải đã nói : “Trường đại học cần giúp sinh viên thu nhận những kiến thức và kỹ
năng cơ bản nhất và chủ yếu dạy cho sinh viên biết cách học, cách tư duy sáng
tạo thì mới có thể thích ứng với mọi tình huống trong thò trường lao động và trong
đời sống xã hội khi ra trường…” [27; 3]


Để thực hiện theo những nhận đònh trên của Thủ tướng, vai trò thư viện đại

học cần phải được khẳng đònh. Thư viện cần được đầu tư đúng mức để trở thành
một trung tâm thông tin, không chỉ thu thập thông tin mà còn phải biết xử lý các
dạng thông tin theo hướng tích cực, giúp độc giả tiếp cận tri thức một cách nhanh
nhất, chính xác nhất, thỏa mãn yêu cầu ngày càng cao của người tìm tin.
Thư viện đại học có 3 vai trò chủ yếu sau:
- Là nguồn cung cấp thông tin quan trọng nhất của trường đại học.
- Là môi trường tiếp cận giữa nhu cầu tin và nguồn tin.
- Là động lực góp phần vào việc đổi mới giáo dục, nâng cao chất lượng
đào tạo, tạo môi trường rèn luyện và phát huy năng lực độc lập tư duy sáng
tạo của sinh viên.
1.3.1. Thư viện là nguồn cung cấp thông tin quan trọng nhất của trường đại học
Nguồn lực thông tin trong trường đại học đến từ 4 nguồn sau: Đội ngũ giảng
viên, thư viện, các cơ sở thực nghiệm và các cơ sở thực tập, tham quan, khảo sát
ngoài xã hội. Trong những nguồn thông tin này, thư viện được xem là nguồn
thông tin quan trọng nhất.
- Thư viện có nguồn thông tin phong phú, đa dạng nhất:
Vốn tài liệu của thư viện được tích tụ từ nhiều thời kỳ, từ các quốc gia và từ
nhiều cá nhân ưu việt của xã hội. Nguồn lực thông tin trong thư viện đại học còn
có tính độc đáo vì ngoài dạng thông tin “ ngoại sinh” - tức thông tin đến từ nguồn
xuất bản công khai, thư viện đại học còn sở hữu được một dạng thông tin “nội
sinh” rất quan trọng mà không có ở bất kỳ đâu, đó là nguồn thông tin hình thành
từ các công trình nghiên cứu, các cuộc hội nghò, hội thảo khoa học trong nhà
trường. Nguồn thông tin này không chỉ quan trọng đối với giảng viên, sinh viên


trong trường mà còn là nguồn thông tin quý giá, độc đáo đối với người nghiên
cứu ngoài xã hội. Trong thời đại ngày nay, với sự trợ giúp của công nghệ thông
tin, nguồn thông tin của thư viện đại học trở nên phong phú hơn bởi các dạng
thông tin “vô thể”, được truy cập từ các mạng thông tin, từ các thư viện lớn trên
thế giới.

- Nguồn thông tin của Thư viện là nguồn thông tin tập trung, có hệ thống và
chắc chắn nhất:
Vốn tài liệu của thư viện bao giờ cũng phải là một bộ sưu tập có tổ chức, được
sắp xếp một cách khoa học. Tài liệu đưa vào thư viện phải được chọn lọc theo
những tiêu chí nhất đònh như: phù hợp với nội dung chương trình đào tạo, phù hợp
nhu cầu và trình độ của người sử dụng, có tính sư phạm….Những thông tin đến từ
giảng viên, các cơ sở thực nghiệm, thực tập sẽ không bảo đảm được tính chắc
chắn như thông tin đến từ thư viện, vì thông tin từ nguồn sách, báo là những thông
tin đã được kiểm nghiệm và khẳng đònh trước khi công bố. Nguồn thông tin của
thư viện còn được lưu giữ, trình bày theo những hệ quy chiếu thuận tiện cho
người sử dụng để họ có thể tiếp cận với thông tin - tư liệu bằng những cách khác
nhau một cách nhanh chóng và hiệu quả.
- Nguồn thông tin của Thư viện là nguồn thông tin thuận tiện cho việc khai
thác và sở hữu:
Nguồn thông tin trong thư viện được xây dựng tương hợp với nhu cầu, trình độ,
thói quen và điều kiện của người sử dụng. Nguồn thông tin ấy còn được chọn lọc,
tinh chế, đóng gói thành nhiều sản phẩm thông tin khác nhau để phù hợp với
nhiều hình thức cung ứng khác nhau của thư viện. Ngày nay, với sự trợ giúp của
công nghệ thông tin, thư viện có thể dỡ bỏ mọi hàng rào ngăn cách về không
gian, thời gian cũng như thủ tục đối với người sử dụng. Giảng viên, sinh viên có


thể tiếp nhận, khai thác và sử dụng thông tin của thư viện bất kỳ ở đâu, lúc nào
và trong hoàn cảnh nào. Điều này không thể thực hiện được đối với những nguồn
thông tin từ giảng viên, cơ sở thực nghiệm, thực tập.
1.3.2. Thư viện là môi trường tiếp cận giữa nhu cầu tin và nguồn tin
Sự cách biệt giữa nhu cầu tin và nguồn tin tăng lên theo trình độ phát triển
của xã hội. Thời đại thông tin đang đặt ra cho thông tin thư viện những thách thức
hết sức to lớn.
™ Hiện tượng bùng nổ thông tin: Đó là sự gia tăng với một tốc độ cực nhanh và

quy mô cực lớn những tri thức mới. Hiện tượng này dẫn đến các hệ quả sau
đây:
- Sự khủng hoảng ấn phẩm : Một tri thức mới sau khi rời khỏi bộ não của các
nhà khoa học và các cơ sở thực nghiệm thường được công bố trên các tài liệu
chữ viết. Hiện tượng bùng nổ thông tin của xã hội ngày nay tất yếu sẽ kéo
theo một khối lượng các ấn phẩm được xuất bản ào ạt, đôi khi vượt khỏi tầm
kiểm soát của con người. Đó chính là sự khủng hoảng ấn phẩm mới được xuất
bản hàng ngày.
- Tốc độ lạc hậu nhanh chóng của thông tin: Một trong hai quy luật phát triển
khoa học kỹ thuật là quy luật phủ đònh. Một thông tin mới ra đời lập tức một
thông tin cùng loại trước đó sẽ mất đi giá trò của nó. Tốc độ xuất hiện của
thông tin mới càng nhanh thì tốc độ lạc hậu của thông tin cũ cũng sẽ nhanh
tương ứng. Kết quả là sẽ có một số thông tin không được biết đến trước khi nó
mất hết giá trò.
- Hiện tượng phân tán thông tin : Do hệ quả của sự thâm nhập vào nhau giữa
các ngành khoa học, thông tin cũng sẽ không tập trung như trước. Theo Brad
Ford, nhà thư viện học người Mỹ, người ta chỉ có thể có được 30% thông tin tại


các tài liệu chuyên ngành, 30% tại các tài liệu thuộc các ngành có liên quan và
40% còn lại phải tìm tại các tài liệu khác. Với sự gia tăng thông tin như hiện nay,
không một cơ quan thông tin, thư viện nào có đủ khả năng sở hữu đầy đủ mọi
thông tin. Sự phân tán thông tin dẫn đến việc tiếp cận, khai thác thông tin của
người sử dụng trở nên khó khăn và tốn kém.
™ Hiện tượng bùng nổ nhu cầu thông tin:
Đặc trưng của một xã hội thông tin đó là con người sản xuất ra thông tin và sử
dụng thông tin vào mọi lónh vực của cuộc sống. Trường đại học là một môi trường
mà nhu cầu thông tin hiện hữu một cách mãnh liệt và bức bách nhất. Nhu cầu
thông tin của xã hội nói chung và của trường đại học nói riêng không chỉ gia tăng
về quy mô, số lượng mà quan trọng hơn, đó là sự gia tăng về yêu cầu chất lượng

của thông tin.
Trước tiên, đó là tính chính xác của thông tin. Người dùng tin không chỉ bằng
lòng với những thông tin ở dạng thô mà còn phải ở dạng “tinh chế”.
Tiếp theo là tính tối ưu của thông tin. Thông tin được cung ứng phải đảm bảo
là những thông tin tốt nhất. Muốn vậy, thư viện phải tiếp cận nhiều nguồn thông
tin khác nhau để chọn lọc và đảm bảo thông tin cung ứng là tốt nhất, phù hợp với
đặc điểm, thói quen, trình độ của người sử dụng.
Sau cùng, cách thức cung ứng thông tin phải có tính thân thiện, đảm bảo được
quyền lợi tối đa cho người dùng tin: nhanh chóng về thủ tục, hình thức, thân thiện
về thái độ, hợp lý về giá cả.
Thư viện trường đại học bằng hoạt động của mình phải giải quyết được những
thách thức của thời đại, phải trở thành nơi gặp gỡ một cách thuận tiện của nhu
cầu tin và nguồn lực thông tin, giữa người đọc và tài liệu.


1.3.3. Thư viện là động lực góp phần vào việc đổi mới giáo dục, nâng cao
chất lượng đào tạo, tạo môi trường rèn luyện và phát huy năng lực tư duy
độc lập, sáng tạo độc lập của sinh viên
Giảng dạy ở đại học không phải chỉ quan tâm vào việc truyền đạt kiến thức,
vì không thể cung cấp đầy đủ mọi kiến thức cho người học và những kiến thức
được tiếp nhận cũng sẽ bò lạc hậu theo thời gian. Giảng dạy ở bậc đại học phải
chú trọng vào việc hướng dẫn phương pháp khai thác và sở hữu kiến thức, rèn
luyện năng lực phản ứng, tính thích nghi trong môi trường thực tiễn mà người học
phải đối mặt sau này. Việc đào tạo bậc đại học chỉ thực sự có chất lượng khi hoạt
động học tập của sinh viên được thực hiện trong cả bốn môi trường : lớp học, thư
viện, cơ sở thực nghiệm và môi trường thực tế. Trong đó, thư viện là quan trọng
hơn cả trong việc rèn luyện và phát huy năng lực độc lập tư duy, sáng tạo của
sinh viên.
™ Thư viện đại học đã hỗ trợ cho việc thay đổi phương pháp giảng dạy.
Nghị quyết Hội nghò lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII

đã nêu rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục-đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng
bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình
dạy - học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh” [33;
29].
Ở trường đại học, phương pháp truyền đạt của người thầy và tính đònh hướng
của nội dung chương trình giảng dạy đóng vai trò chủ đạo. Hay nói cách khác, vai
trò của người dạy thay đổi, chuyển dần từ vai trò người truyền thụ kiến thức sang
vai trò “hướng dẫn”, “hỗ trợ”, còn có thể gọi là vai trò “cố vấn”. Người dạy phải
nắm bắt được nhu cầu của người học và tổ chức để họ tích cực tham gia vào quá


trình này, khi cần thiết biết phê phán, chỉ dẫn và giúp đỡ họ phát triển kỹ năng
học tập và nghiên cứu độc lập. Cụ thể là đổi mới cách dạy để phát huy nội lực tự
học, tự đào tạo, từ bỏ lối dạy truyền thụ một chiều - thầy dạy, trò ghi nhớ, để trở
về với chức năng mới của mình là “người dạy cách học”, “người phát huy nội lực
của người học”. Từ đó rút ngắn thời gian giảng dạy lý thuyết trên cơ sở sinh viên
được cung cấp nguồn thông tin dồi dào trước khi lên lớp, tăng thời gian tự học của
sinh viên với sự trợ giúp của thư viện. Và cùng với học trò, người thầy lại tiếp thu
những kiến thức mà chính mình đang giảng dạy, nhìn nhận chúng qua lăng kính
của người học. Có thể nói đó là quá trình truyền thụ – tiếp thu kiến thức một cách
chủ động và có tính sáng tạo. Chính vì vậy, để thực hiện tốt sứ mệnh của mình,
người thầy không thể không đọc tài liệu, cập nhật và sử dụng thông tin. Cũng có
thể nói rằng, trường đại học sẽ không thể làm tốt nhiệm vụ đào tạo của mình nếu
không có vai trò đóng góp của thư viện.
™ Thư viện đại học hỗ trợ việc thay đổi phương pháp học tập ở bậc đại học nhằm
“phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi
dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” và “ biến quá trình
sáng tạo thành quá trình tự sáng tạo” [36; 9]
Khác với cách học ở trường phổ thông, hoạt động học tập của sinh viên ở

trường đại học về bản chất là hoạt động nhận thức trong nghiên cứu khoa học.
Kiến thức ở đại học là kiến thức của một ngành khoa học, đòi hỏi sinh viên
không phải chỉ giới hạn với những điều nghe giảng trên lớp và nắm vững được
những kiến thức trong giáo trình là đủ mà cần phải hiểu rộng, sâu những tri thức
khoa học liên quan thông qua việc khai thác thông tin, tài liệu tham khảo. Bằng
cách nêu rõ mục tiêu của môn học, giới thiệu nội dung môn học theo kiểu nêu
vấn đề, chỉ ra nguồn tài liệu, nguồn thông tin cần tham khảo, hướng dẫn cách tiếp
cận tri thức, theo dõi, uốn nắn và có sự đánh giá, khích lệ của giảng viên, sinh


viên tự mình tìm tòi, khám phá chiếm lónh các tri thức cần thiết. Qua đó, sinh
viên sẽ chủ động tìm kiếm bằng những phương cách khác nhau tiếp cận tài liệu
để hoàn thiện mục tiêu môn học. Với những nguồn thông tin đa dạng, phong phú
từ sách, báo, tạp chí, CD-ROM…tại thư viện, sinh viên có thể chọn lọc, phân
tích, so sánh, đánh giá, tổng hợp những thông tin tri thức này để dần dần hình
thành kết luận riêng của mình.
Từ việc xác đònh lại vò trí, nhiệm vụ của người dạy và người học, quan niệm
về nội dung và hình thức của các giáo trình, tài liệu giáo khoa cũng có những
thay đổi căn bản. Các tài liệu này trước đây thường được coi là chứa đựng khối
kiến thức duy nhất của môn học và có “tính bất biến” rất cao, nay “cẩm nang”
này trở thành một “đề cương mở”, dẫn dắt người học tiếp cận khoa học, chỉ ra các
thư mục bắt buộc phải tham khảo để người học tự tìm kiếm, nghiên cứu. Vì vậy,
người học không bò bắt buộc tiếp cận ngành khoa học thông qua lăng kính duy
nhất của người viết giáo trình, mà thông qua rất nhiều quan điểm khác, có thể đối
lập nhau. Trong đó, quan điểm của người dạy là quan trọng, nhưng cũng chỉ nên
coi là một quan điểm tham khảo. Từ đề cương này, và với sự chỉ dẫn của người
dạy, người học dễ dàng xây dựng các mục đích cần đạt tới của mình và tự tìm
kiếm phương pháp để đạt được mục đích đó.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy rằng phương pháp dạy và học mới đòi hỏi một
số điều kiện tiên quyết cho phép người học “phát huy nội lực” và người dạy “dạy

cách phát huy nội lực”. Phương pháp dạy và học như vậy sẽ xóa bỏ lối học thụ
động để đưa đến một nền giáo dục đại học phù hợp với nhu cầu phát triển của
một xã hội hiện đại.
Áp dụng phương pháp dạy học mới này, vai trò của thư viện là vô cùng cần
thiết và quan trọng trong việc cung cấp những tài liệu không chỉ là giáo trình mà
còn là những thông tin tham khảo có giá trò khác cho người đọc. Nhận thức rõ


điều đó, trong những năm qua, nhiều trường đại học đã tập trung đầu tư mạnh
vào việc nâng cấp thư viện, tăng cường kho tư liệu và các phương tiện kỹ thuật
cho phép tạo nguồn tư liệu mới. Các tư liệu online (internet, intranet với mạng
ảo, thu từ vệ tinh, website...) và tư liệu vật chất (sách, báo, tạp chí, CD-ROM,
băng cassettes, video ...) được khai thác triệt để, đã tạo ra tiền đề để thay đổi căn
bản phương pháp giảng dạy – học tập.
™ Thư viện đại học đã góp phần làm thay đổi phương cách vận dụng tri thức của
người học trong việc nghiên cứu khoa học.
Luật giáo dục Việt Nam đã nhấn mạnh: “Phương pháp giáo dục đại học phải
coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người
học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu,
thực nghiệm, ứng dụng” [36; 26]
Nghiên cứu khoa học chỉ tồn tại ở các cấp đào tạo từ đại học trở lên. Những
bài giảng trên lớp giúp sinh viên lónh hội tri thức, còn thư viện giúp sinh viên phát
triển tư duy, hình thành thói quen nghiên cứu khoa học thông qua việc cung cấp
thông tin - tư liệu.
Gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học là tạo điều kiện để học đi đôi với hành,
gắn hiệu quả của giáo dục với cuộc sống. Nghiên cứu khoa học giúp người học
và người dạy phát triển tư duy khoa học và hình thành hệ thống phương pháp
luận, đồng nghóa với quá trình độc lập sáng tạo, thúc đẩy quá trình ứng dụng hiểu
biết vào việc giải quyết những vấn đề cụ thể.
Để quá trình nghiên cứu khoa học của giảng viên và sinh viên hiệu quả thì vai

trò của thư viện trong việc cung cấp tài liệu lại được phát huy một cách rõ nét
nhất. Người học chủ động tìm kiếm thông tin, khai thác thông tin, thảo luận, làm


việc theo nhóm…và thu được những kiến thức mới, từ đó có những đánh giá,
nhận xét của riêng mình.
Chúng ta cũng cần thấy rõ mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố. Một sự thay
đổi ở một yếu tố nào đó, đến một mức độ nhất đònh, buộc phải có sự thay đổi
tương ứng ở các yếu tốt khác; và chỉ khi đó, sự thay đổi ở yếu tố trước mới phát
huy tác dụng tích cực của nóù. Khi chương trình, nội dung hay phương pháp dạy học đã thay đổi mà các điều kiện hỗ trợ khác như thư viện, trang thiết bò… không
được đầu tư, nâng cấp và khai thác hiệu quả thì vẫn không thể nâng cao chất
lượng đào tạo.
Với đònh hướng tạo một phong cách tìm tòi học hỏi nghiên cứu cho sinh viên,
thư viện cũng rất cần lưu tâm hợp tác chặt chẽ với phòng thí nghiệm Nhà trường
và xem phòng thí nghiệm là vốn tài liệu đặc biệt quý báu.
1.4. Thực trạng trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh
1.4.1. Khái quát về trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh
™ Quy mô của trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh thành lập ngày 27.10.1976
theo quyết đònh số 426/TTg của Thủ tướng chính phủ là một trường đại học công
lập có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng. Tiền thân của Trường
là Đại học Sư phạm Sài Gòn (thành lập năm 1957). Năm 1995, Trường là thành
viên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1999, Chính phủ có
quyết đònh tách Trường ra khỏi Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh để xây dựng
thành trường Đại học Sư phạm trọng điểm ở phía Nam. Tổng số cán bộ nhân viên
là 772 người, trong đó có 495 giảng viên được phân chia theo độ tuổi từ 25 – 39
là 159 (32.12%); từ 40-54 là 317 (64.04%), từ 55 tuổi trở lên là 19 (3.84%).
Trường có 17.012 sinh viên các hệ (7.973 sinh viên hệ chính qui, trong đó có



5.231 sinh viên chính qui tại Trường và 2.742 sinh viên chính qui tại đòa phương;
9.039 sinh viên tại chức, chuyên tu). Tỉ lệ sinh viên hệ chính qui tập trung tại
Trường trung bình các năm từ 1998 đến nay: nam 29.5%, nữ 70.5%; thành phố
35.7%, nông thôn 64.3% [32; 8].
Trường có 18 khoa cơ bản, 2 tổ chuyên môn, 7 trung tâm , 7 Phòng ban, Viện
nghiên cứu giáo dục, Thư viện và Ký túc xá.
™ Nhiệm vụ của Trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Hội nghò lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
(khóa VIII) đã xác đònh một trong những giải pháp chủ yếu để thực hiện nhiệm
vụ và mục tiêu phát triển giáo dục là “Củng cố và tập trung đầu tư nâng cấp các
trường sư phạm. Xây dựng một số trường đại học sư phạm trọng điểm để vừa đào
tạo giáo viên có chất lượng cao vừa nghiên cứu khoa học giáo dục đạt trình độ
tiên tiến”[33; 201]. Hiện nay, Trường có nhiệm vụ đào tạo giáo viên, cán bộ quản
lý có trình độ cử nhân khoa học và bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên trung
học phổ thông, tạo nguồn cho các tỉnh vùng sâu, vùng xa, đào tạo Thạc sỹ với 21
chuyên ngành, 6 chuyên ngành đào tạo bậc Tiến só. Những nhiệm vụ chính bao
gồm :
- Đào tạo chuẩn mực, chất lượng cao giáo viên có trình độ đại học cho tất
cả các cấp học, ngành học, cung cấp nguồn nhân lực cho các trường trong hệ
thống giáo dục quốc dân từ mẫu giáo tới trung học phổ thông.
- Đào tạo những người có trình độ sau đại học để bổ sung và tăng cường
chất lượng cho đội ngũ cán bộ của Trường đồng thời cung cấp cán bộ và giảng
viên nòng cốt cho các cơ quan quản lý giáo dục, các trường sư phạm và phổ
thông đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao cho xã hội.


×