Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Giá trị của phân áp CO2 máu tĩnh mạch (PVCO2) trong đánh giá tình trạng thông khí phổi ở trẻ sơ sinh suy hô hấp tại khoa hồi sức sơ sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.4 KB, 9 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017

Nghiên cứu Y học

GIÁ TRỊ CỦA PHÂN ÁP CO2 MÁU TĨNH MẠCH (PVCO2)
TRONG ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG THÔNG KHÍ PHỔI Ở TRẺ SƠ SINH
SUY HÔ HẤP TẠI KHOA HỒI SỨC SƠ SINH
Nguyễn Thu Tịnh*, Phạm Lê An**, Phan Hữu Nguyệt Diễm***

TÓMTẮT
Mở đầu: Phân áp CO2 máu động mạch (PaCO2) là xét nghiệm chuẩn vàng cung cấp thông tin về thông
khí phổi. Tuy nhiên, thủ thuật chích hay đặt catheter động mạch có thể gây ra nhiều biến chứng, nhất là khi
thực hiện trên trẻ sơ sinh non tháng hay lặp lại nhiều lần. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá tính
giá trị của phân áp CO2 máu tĩnh mạch (PvCO2) nhằm thay thế cho PaCO2 trong đánh giá tình trạng thông
khí phổi ở trẻ sơ sinh suy hô hấp tại khoa hồi sức sơ sinh.
Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: chúng tôi thực hiện lấy khí máu động mạch và tĩnh mạch
cùng lúc trên 322 bệnh nhân suy hô hấp nhập khoa hồi sức sơ sinh. Thực hiện phân tích tương quan, phân
tích hồi qui để xác định mô hình tiên đoán PaCO2 từ PvCO2 và đánh giá mức độ tương đồng qua biểu đồ
Bland-Altman. Mô hình này được ngoại kiểm về sự phân loại và sự hiệu chỉnh trên 40 trường hợp thu thập
sau mẫu nghiên cứu 20 tháng.
Kết quả: Qua thời gian 12 tháng thực hiện lấy mẫu, chúng tôi thu thập được 322 cặp khí máu động và
tĩnh mạch. Giá trị trung bình của PvCO2 là 47,94 mmHg và của PaCO2 là 43,61 mmHg; trung bình khác
biệt là 4,32 mmHg và giới hạn tương đồng là -5,32 tới 13,96 mmHg; phương trình hồi qui PaCO2 = 1,6611 + 0,9445 x PvCO2 (R2=0,893, p < 0,0001); ngoại kiểm mô hình cho thấy có sự hiệu chỉnh và sự phân
loại tốt.
Kết luận: chỉ số PvCO2 có thể thay thế tốt cho PaCO2 để đánh giá tình trạng thông khí phổi ở trẻ sơ
sinh suy hô hấp tại khoa hồi sức sơ sinh.
Từ khoá: PaCO2, PvCO2, thông khí phổi, suy hô hấp, khí máu động mạch, khí máu tĩnh mạch.

ABSTRACT
THE VALIDITY OF PARTIAL PRESSURE OF VENOUS CARBON DIOXIDE (PVCO2)
IN ASSESSMENT OF LUNG VENTILATION IN NEWBORNS WITH RESPIRATORY FAILURE.


Nguyen Thu Tinh, Pham Le An, Phan Huu Nguyet Diem
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 3 - 2017: 169 - 177
Background and objective: Partial pressure of arterial carbon dioxide (PaCO2) is the gold standard
test in assessment of lung ventilation; however, arterial puncture or arterial cannulation can cause many
complications, especially when they are performed in preterm infants or repeatedly in the same patient. We
investigate the validity of partial pressure of venous carbon dioxide (PvCO2) in assessment of lung
ventilation in newborns with respiratory failure.
Methods: We collected simultaneously venous blood and arterial blood samples from 322 neonates who
had been admitted to NICU with respiratory distress. The correlation and regression model was assessed to
predict PaCO2 from PvCO2; Bland – Altman plot was derived to assess the agreement between PaCO2 and
PvCO2. The model was externally validated from a separate group of 40 patients who were gathered 20
months later.
* Bộ môn Nhi, ĐHYD TpHCM
Tác giả liên lạc: Ths.BS. Nguyễn Thu Tịnh

**: Bộ môn BS gia đình
ĐT: 0937911277
Email:

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016

169


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017

Results: A total of 322 paired samples were collected during 12 months. The means of PvCO2 and
PaCO2 were 47.94 mmHg and 43.61 mmHg repectively; the mean differences (95% CI) between venous and

aterial samples were 4.32 (-5.32 to 13.96) mmHg; regression model for prediction of PaCO2 = -1.661 + 0,945
x PvCO2 (R2=0.893, p < 0.0001); external validation showed good calibration, and good discrimination.
Conclusion: PvCO2 is a reliable analog to replace PaCO2 in assessment of lung ventilation in
newborns with respiratory failure.
Keywords: PaCO2, PvCO2, lung ventilation, respiratory failure, ABG, VBG.
máu tĩnh mạch (PvCO2) đánh giá tình trạng
MỞĐẦU
thông khí phổi ở suy hô hấp sơ sinh. Trong điều
Suy hô hấp là hội chứng thường gặp nhất,
kiện hiện nay tại Việt Nam, hầu hết các đơn vị
là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong
chăm sóc trẻ sơ sinh ở các tỉnh và thành phố đã
thời kỳ sơ sinh và chi phí điều trị rất tốn
có máy xét nghiệm khí máu nhưng tồn tại khó
kém(5,24).
khăn trong việc lấy mẫu máu động mạch để xét
Phân áp CO2 máu động mạch (PaCO2) là
nghiệm, đặc biệt ở trẻ sơ sinh non tháng hay trẻ
xét nghiệm chuẩn vàng cung cấp thông tin về
suy hô hấp nặng cần lấy mẫu máu động mạch
thông khí phổi(2,3,18). Trong thực hành lâm sàng
nhiều lần.
tại khoa Hồi sức sơ sinh, xét nghiệm khí máu
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu với
động mạch để cung cấp thông tin PaCO2 là xét
mục tiêu: xác định tính giá trị của phân áp CO2
nghiệm phổ biến vì hầu hết bệnh nhân có suy
máu tĩnh mạch (PvCO2) trong đánh giá tình
hô hấp và cần được đánh giá thông khí phổi.
trạng thông khí phổi ở trẻ sơ sinh suy hô hấp

Lấy mẫu máu động mạch để đánh giá PaCO2
tại khoa hồi sức sơ sinh.
thường được thực hiện nhiều lần trên một
ĐỐITƯỢNG–PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
bệnh nhân trong suốt quá trình điều trị. Để lấy
mẫu cho phân tích khí PaCO2 ở trẻ sơ sinh cần
Nghiên cứu được thực hiện tại khoa hồi
phải chích động mạch hay đặt ống thông động
sức sơ sinh, Bệnh viện Nhi Đồng 1. Đây là đơn
mạch, thủ thuật này có thể gây ra những biến
vị sơ sinh chuyên khoa mức độ IV, có 30
chứng như tụ máu tại chỗ, co thắt động mạch,
giường bệnh, hằng năm có khoảng 950 bệnh
huyết khối hay thuyên tắc động mạch gây
nhân suy hô hấp nhập khoa(1,4).
thiếu máu phần xa của chi, viêm xương - tuỷ
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang
xương, đặc biệt là khi lấy mẫu lặp lại nhiều
mô tả và phân tích.
lần(6,10). Hơn thế nữa, thủ thuật chích động
Dân số chọn mẫu: tất cả những trẻ sơ sinh
mạch hay đặt ống thông động mạch càng khó
suy hô hấp, thở máy hay thở CPAP, nhập
khăn hơn ở trẻ sơ sinh, nhất là trẻ sơ sinh non
khoa hồi sức sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng I có
tháng.
xét nghiệm khí máu động mạch từ tháng
Một số Bệnh viện châu Âu và Bắc Mỹ dùng
5/2013 đến tháng 4/2014.
khí máu tĩnh mạch thay thế cho khí máu động

Ước tính cỡ mẫu: ước tính cỡ mẫu cho hệ
mạch để theo dõi tình trạng thông khí phế nang
số tương quan: chọn sai lầm loại I α= 0,05; sai
ở trẻ em suy hô hấp(17,19,14,8,26); người lớn bị cơn
lầm loại II  = 1-power = 0,1 và r là hệ số tương
cấp của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính hay tại
quan Pearson, lấy từ các nghiên cứu tham
khoa săn sóc tăng cường(3,22,11). Các nghiên cứu
khảo tương ứng. Theo các nghiên cứu của Chu
trên đều được thực hiện trên những bệnh nhân
và cs (8) cho thấy hệ số tương quan giữa các giá
là người lớn hay trẻ em và kết quả chưa nhất
trị tương ứng của máu động mạch và tĩnh
quán. Tại Việt Nam, chúng tôi chưa ghi nhận có
mạch về PCO2 rất cao (> 0,8). Chúng tôi chọn
nghiên cứu liên quan dùng giá trị phân áp CO2

170

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016


Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017
hệ số tương quan trong nghiên cứu của Chu
và cộng sự vì cho giá trị thấp nhất và do đó để
cho cỡ mẫu ước tính lớn nhất. Hệ số tương
quan giữa PCO2 máu động mạch và tĩnh mạch
là 0,83. Chúng tôi ước tính cỡ mẫu cho hệ số
tương quan dựa trên phần mềm Medcalc®
v13.0.6 trên Windows kết quả n = 10 cặp khí

máu. Ước tính cỡ mẫu cho kiểm định 2 giá trị
trung bình: với sai lầm loại I là α= 0,05 và sai
lầm loại II là  = 0,1; tỷ số cỡ mẫu 2 nhóm 1/1;
giá trị khí máu tĩnh mạch µ1 = 47,77; 1 = 9,89;
giá trị khí máu động mạch µ2 = 39,5; 2 = 8,83
theo Chu và cộng sự(8). Chúng tôi ước tính cỡ
mẫu cho kiểm định 2 giá trị trung bình dựa
trên phần mềm Medcalc® v13.0.6 trên
Windows được n = 69 cặp khí máu.
Phương pháp chọn mẫu: thuận tiện
(convenience) với cách chọn liên tiếp
(consecutive sample), tất cả những trẻ sơ sinh
nhập khoa hồi sức sơ sinh Bệnh viện Nhi
Đồng I có xét nghiệm khí máu động mạch
theo quyết định của bác sĩ điều trị, từ tháng
5/2013 đến tháng 4/2014.

Nghiên cứu Y học

cùng một phòng xét nghiệm, ghi nhận lại
những trường hợp loại khỏi lô nghiên cứu
(nếu có).
Lấy mẫu cho kiểm chứng các mô hình:
trong thời gian khoảng 1 tháng, từ 12/2015 –
1/2016, chúng tôi thu thập mẫu dùng cho kiểm
chứng mô hình theo cùng phương pháp.
Phương pháp đo lường: thể tích máu
thường lấy tại khoa hồi sức sơ sinh cho thử
khí máu theo yêu cầu của phòng xét nghiệm
khoảng 0,3 – 0,4 ml. Ghi nhận khoảng cách

thời gian giữa hai mẫu máu và SpO2, FiO2,
MAP trên thở máy hay áp lực của CPAP. Cả
hai mẫu máu được thu thập bằng ống xi lanh 1
ml (của Freedom Eagle Co. LTD, Korea) được
tráng dung dịch Heparin 5000IU/ml. Các mẫu
máu được dán nhãn và gởi ngay tới phòng xét
nghiệm. Xét nghiệm được thực hiện trên máy
phân tích khí máu (của Roche COMPACT 3
Blood Gas Analyzer).

Tiêu chí chọn vào nhóm nghiên cứu: tất cả
trẻ sơ sinh nhập khoa hồi sức sơ sinh, Bệnh
viện Nhi Đồng I được hỗ trợ hô hấp bằng thở
áp lực dương liên tục, thở máy thông thường
hay thở máy tần số cao, SpO2 trong khoảng
80% - 98%, có catheter động mạch, trong thời
gian từ tháng 5/2013 đến tháng 4/2014 và gia
đình đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chí loại khỏi nhóm nghiên cứu: trẻ
không lấy được mẫu máu (tĩnh mạch và động
mạch) cùng lúc với đo SpO2 (khoảng cách > 5
phút), hay bệnh nhân đang hạ huyết áp hay
sốc, hay tim bẩm sinh tím.
Kiểm soát sai lệch chọn lựa: tuân thủ tiêu
chí chọn vào và loại ra khỏi nhóm nghiên cứu.
Kiểm soát sai lệch thông tin: thu thập
thông tin theo phiếu thu thập dữ liệu thống
nhất; các mẫu xét nghiệm trong nhóm nghiên
cứu được lấy vào cùng một dụng cụ và lượng
giá bởi cùng một máy phân tích khí máu tại


Chú thích: *thực hiện ở cùng khoa hồi sức sơ sinh,
sau lấy mẫu nghiên cứu 20 tháng.
Biểu đồ 1: Sơ đồ minh họa tiến trình nghiên cứu.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016

171


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017

Xử lý dữ liệu: dữ liệu thu thập bằng bảng
câu hỏi sẽ được kiểm tra tính hoàn tất và lỗi.
Dữ liệu được mã hóa, nhập liệu và quản lý
bằng phần mềm Excel. Thống kê tần số của các
biến để xem tính logic và lỗi. Sau đó, dữ liệu
được xử lý bằng phần mềm Medcalc® v13.0.6
trên Windows và IBM® SPSS® 20 for Mac.
Phân tích dữ liệu: được thực hiện theo một
kế hoạch phân tích đã được xác định trước
nhằm trả lời cho mục tiêu nghiên cứu. Thống
kê mô tả: các biến số liên tục được trình bày
dưới dạng trung bình  độ lệch chuẩn (tối
thiểu - tối đa) hay trung vị (25%ile; 75%ile);
các biến số không liên tục được trình bày dưới
tần số (tỷ lệ). Thống kê phân tích: phân tích
mối tương quan của hai giá trị tương ứng

PaCO2 và PvCO2; ý nghĩa hệ số tương quan: hệ
số tương quan gần nhất với 0: không tương
quan; 0,3: tương quan yếu (weak); 0,5 tương
quan trung bình (moderate); 0,7: tương quan
mạnh (strong); 1: tương quan rất mạnh
(perfect)(23). Đánh giá độ tin cậy của PvCO2
dựa vào biểu đồ Bland – Altman; kiểm định
cho 2 giá trị trung bình, chúng tôi dùng ttest(7). Có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.

KẾTQUẢ
Qua thời gian 12 tháng lấy mẫu nghiên
cứu từ 5/2013 tới 4/2014, chúng tôi thu thập
được 322 trường hợp thỏa tiêu chí nhận vào
nhóm nghiên cứu. Thời gian lấy mẫu cho kiểm
chứng mô hình trong thời gian 1 tháng từ
12/2015 tới 1/2016, chúng tôi thu thập được 40
trường hợp thỏa tiêu chí nhận vào.
Bảng 1. Đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng dân số
nghiên cứu
Đặc điểm

Kết quả

Đặc điểm dịch tễ học (n=322)
Cân nặng lúc sanh (gam)
Tuổi thai (tuần)
Địa dư
Hồ Chí Minh
Tỉnh
Nước ngoài

Tuổi lúc nhập viện (ngày)

172

2367,3 ± 857,3 (700 –
4800)
34,9 ± 4,5 (25 – 40)
91 (28,3)
230 (74,1)
1(0,3)
2 (1; 4)

Đặc điểm

Kết quả

Tuổi lúc lấy khí máu (ngày)
Giới
Nam
Nữ

4 (2; 8)
189 (41,3%)
133 (58,7%)

Đặc điểm lâm sàng (n=322)
Thân nhiệt lúc lấy khí máu
Hạ thân nhiệt
Tăng thân nhiệt
Bình thường

Phương tiện hỗ trợ hô hấp
Máy thở tần số cao
Thở máy thông thường
CPAP

0 (0%)
0 (0%)
322 (100%)
43 (13,4%)
219 (68%)
60 (18,6%)

Bảng 2. Vị trí lấy mẫu máu động mạch và tĩnh
mạch
Vị trí

n (%)
Động mạch

Quay
Chày sau
Khác

312 (96,9)
8 (2,5)
2 (0,6)
Tĩnh mạch

Mu tay
Mu chân

Đầu
Khác

262 (81,4)
57 (17,7)
1 (0,3)
2 (0,6)

Bảng 3. Chẩn đoán lâm sàng của dân số nghiên
cứu
Chẩn đoán

n (%)

Bệnh màng trong ở trẻ non
tháng
Viêm phổi
Nhiễm trùng huyết
Teo ruột non
Bệnh màng trong sinh mổ
chủ động
Cao áp phổi tồn tại
Tim bẩm sinh không tím
Thoát vị hoành bẩm sinh
Ngạt
Viêm phổi hít ối phân su
Teo thực quản
Hở thành bụng bẩm sinh
Vỡ dạ dày
Suy thận


147 (45,6)
132 (41)
124 (38,5)
22 (6,8)
20 (6,2)
17 (5,3)
17 (5,3)
15 (4,7)
14 (4,3)
13 (4,0)
13 (4,0)
6 (1,8)
3 (1,25)
(0,06)

Chú thích: hầu hết các trường hợp có nhiều chẩn
đoán trên một bệnh nhân ở thời điểm lấy mẫu
nghiên cứu.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016


Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017
Khảo sát tương quan giữa PvCO2 và
PaCO2
Giá trị trung bình (ĐLC) của PvCO2 và
PvCO2 lần lượt là 47,91 (14,86) và 43,61
(14,85). Trung bình PvCO2 cao hơn PaCO2
4,323 (3,791- 4,829) mmHg.

Hệ số tương quan Pearson r = 0,945; KTC
95% 0,939-0,987; p < 0,0001.
Phân tích hồi quy tuyến tính giữa PvCO2
và PaCO2

Nghiên cứu Y học

nhiên, độc lập với giá trị PCO2, đa số các trường
hợp nằm trong giới hạn trên và giới hạn dưới của
trung bình khác biệt, trung bình PvCO2 có khuynh
hướng cao hơn PaCO2 4,323 (3,791- 4,829)
mmHg.
Kiểm chứng mô hình tiên đoán PaCO2 từ
PvCO2
Phương trình hồi quy PaCO2 = -1,6611 + 0,9445 x
PvCO2; R2=0,893, p < 0,0001)

140
120

PaCO2(mmHg)

100
80
60
40
20
0
0


20

40

60
80
PvCO 2 (mmHg)

100

120

140

Hình 3. Biểu đồ tán xạ giữa PaCO2 từ PaCO2 dự
đoán; n = 40.

Hình 1. Biểu đồ tán xạ và đường thẳng hồi qui
giữa PvCO2 và PaCO2. Phương trình hồi quy
PaCO2 = -1,6611 + 0,9445 x PvCO2 (KTC 95% của
PaCO2 = (-3,462 tới 0,1398) + (0,909 tới 0,980) x
PvCO2; R2=0,893, p < 0,0001).

Liên quan đánh giá sự hiệu chỉnh: biểu đồ
phân tán cho thấy có sự tương quan tuyến
tính rất cao và có ý nghĩa thống kê giữa PaCO2
từ PaCO2 dự đoán (r = 0,94 (0,88 – 0,97), p <
0,0001).

Biểu đồ Bland-Altman của PvCO2 và

PaCO2

Liên quan đánh giá sự phân loại: R2= 0,875;
p < 0,0001, cho thấy PaCO2 dự đoán giải thích
được 87,5% sự biến thiên của PaCO2 quan sát.

BÀNLUẬN
Bàn luận về đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng
và lấy mẫu của các cặp mẫu nghiên cứu

Hình 2. Biểu đồ Bland-Altman cho thấy trung
bình khác biệt, giới hạn trên, giới hạn dưới của
trung bình khác biệt giữa PvCO2 và PaCO2. Biểu
đồ cho thấy sự khác biệt phân bố tương đối ngẫu

Khoa nhận bệnh từ các tỉnh phía Nam và
thành phố Hồ Chí Minh, nên trẻ sơ sinh bệnh
nặng được chuyển tuyến về khoa có cân nặng
và tuổi thai thay đổi từ cực nhẹ cân (700 gam)
/ cực non (25 tuần) tới đủ tháng (40 tuần) / quá
cân (4800 gam). Phần lớn (74,1%) được chuyển
đến từ các tỉnh phía Nam; có 01 trường hợp từ
Campuchia. Tuổi lúc nhập viện và tuổi lúc lấy
khí máu có trung vị tương ứng là 2 ngày và 4
ngày cho thấy phần lớn trẻ nhập khoa có tình

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016

173



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017

trạng suy hô hấp xuất hiện sớm sau sinh.
Trong 322 cặp khí máu nghiên cứu, có 189
nam (chiếm 58,7%) và 133 nữ (chiếm 41,3%), tỷ
lệ nam/nữ là 189/133 = 1,42 (Bảng 1). Kết quả ở
Bảng 1 cho thấy tất cả các trường hợp mẫu
máu trong nghiên cứu lấy ở trẻ có thân nhiệt
trong giới hạn bình thường vì trẻ sơ sinh tại
khoa Hồi sức sơ sinh được ổn định thân nhiệt
trước khi tiến hành lấy mẫu xét nghiệm nói
chung. Trẻ suy hô hấp trong mẫu nghiên cứu,
thường nhất là thở máy thông thường có 219
(chiếm 68%) kế đến là thở áp lực dương liên
tục qua đường mũi có 60 cặp (chiếm 18,6%) và
cuối cùng là thở máy tần số cao có 43 cặp
(chiếm 13,4%). Mẫu động mạch được lấy
thường nhất là từ động mạch quay là 312
trường hợp (chiếm 96,9%), có 02 trường hợp
lấy từ động mạch thái dương và động mạch
khuỷu. Mẫu tĩnh mạch được lấy từ tĩnh mạch
mu tay là 262 trường hợp (chiếm 81,4%), từ
tĩnh mạch mu chân là 57 trường hợp (chiếm
17,7%), có 02 trường hợp mẫu máu tĩnh mạch
lấy tự tĩnh mạch thái dương và tĩnh mạch
cảnh ngoài (Bảng 2). Điều này phù hợp với
kiến thức và thói quen của Điều dưỡng ở khoa

Hồi sức sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng I. Bảng 3
cho thấy hầu hết các trường hợp có nhiều hơn
01 chẩn đoán trên một bệnh nhân ở thời điểm
lấy mẫu nghiên cứu. Có 03 bệnh lý thường
gặp nhất ở bệnh nhân suy hô hấp tại khoa là
bệnh màng trong do sinh non có 147 trường
hợp (chiếm 45,6%); viêm phổi có 132 trường
hợp (chiếm 41%) và nhiễm trùng huyết có 124
trường hợp (chiếm 38,5%). Đây cũng là các
nguyên nhân gây suy hô hấp thường gặp nhất
ở trẻ sơ sinh theo ghi nhận của y văn(9,25).

Bàn luận về mối tương quan và độ tin cậy
của PvCO2 trong đánh giá tình trạng
thông khí phổi ở suy hô hấp sơ sinh.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
giá trị trung bình PaCO2 và PvCO2 lần lượt là
43,61 mmHg (KTC 95% 42,05 – 45,18) và 47,94
mmHg (KTC 95% 46,26 – 59,51) với trung bình
khác biệt là 4,32 và giới hạn tương đồng 95%

174

của chỉ số PCO2 là -5,32 tới 13,96 (Hình 2).
Khảo sát mối tương quan giữa PvCO2 và
PaCO2 cho thấy mối tương quan rất mạnh và
mối tương quan có ý nghĩa thống kê (r = 0,945;
p < 0,0001) (Hình 1). Kết quả phân tích hồi quy
tuyến tính xác nhận mối quan hệ tuyến tính và
tỷ lệ thuận giữa PvCO2 và PaCO2; phương

trình hồi quy PaCO2 = -1,6611 + 0,9445 x PvCO2
(KTC 95% của PaCO2 = (-3,462 tới 0,1398) +
(0,909 tới 0,980) x PvCO2; R2=0,893, p < 0,0001);
cho thấy trung bình PaCO2 tăng 0,9445 đơn vị
cho mỗi đơn vị tăng của PvCO2; R2=0,893 cho
thấy PvCO2 giải thích được 89,3 % sự biến
thiên của PaCO2 (Hình 1).
Biểu đồ Bland-Altman (Hình 2) cho thấy
sự khác biệt phân bố tương đối ngẫu nhiên,
độc lập với giá trị PCO2, đa số các trường hợp
nằm trong giới hạn trên và giới hạn dưới của
trung bình khác biệt, trung bình PvCO2 có
khuynh hướng cao hơn PaCO2 là 4,323 mmHg,
ở ngưỡng phân cắt PCO2 < 35 mmHg có 4
trường hợp nằm trên giới hạn trên của trung
bình khác biệt, có giá trị (PaCO2; PvCO2) lần
lượt là (32,5; 48,1), (34,1; 51), (31,4; 49) và (13,3;
32,7) cho thấy PvCO2 lớn hơn PaCO2, kết quả
là bỏ sót chẩn đoán kiềm hô hấp trong 3
trường hợp đầu tiên; với PCO2 từ 35 – 45
mmHg có 2 trường hợp nằm trên giới hạn trên
của trung bình khác biệt, có giá trị (PaCO2;
PvCO2) lần lượt là (36,8; 51,3) và (39,1; 57,5)
cho thấy PvCO2 lớn hơn PaCO2, kết quả là
chẩn đoán quá mức toan hô hấp và có 2
trường hợp nằm dưới giới hạn dưới của trung
bình khác biệt, có giá trị (PaCO2; PvCO2) lần
lượt là (37,1; 31,1), (43,8; 35,9) cho thấy PvCO2
nhỏ hơn PaCO2, tuy nhiên chỉ có giá trị PvCO2
nhỏ hơn ngưỡng 35 mmHg, kết quả là chẩn

đoán quá mức kiềm hô hấp; với PCO2 > 45
mmHg có 8 trường hợp nằm dưới giới hạn
dưới của trung bình khác biệt, có giá trị
(PaCO2; PvCO2) lần lượt là (47,6; 41,1), (53,5;
47,7), (59,9; 52,5), (61,7; 54,2), (73,1; 65,8), (76,6;
67,7) và (82,7; 74) cho thấy PvCO2 nhỏ hơn
PaCO2, tuy nhiên chỉ có 2 trường hợp PvCO2 <

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016


Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017
45 mmHg, kết quả là bỏ sót chẩn đoán toan hô
hấp trong 2 trường hợp này. Ở trẻ sơ sinh,
nhất là sơ sinh non tháng hay trẻ bệnh phổi
nặng, giúp thở với tăng PaCO2 cho phép với
PaCO2 khoảng 55 mmHg(16); với PCO2 > 55
mmHg có 6 trường hợp nằm dưới giới hạn
dưới của trung bình khác biệt, có giá trị
(PaCO2; PvCO2) lần lượt là (59,9; 52,5), (61,7;
54,2), (73,1; 65,8), (76,6; 67,7) và (82,7; 74) cho
thấy PvCO2 nhỏ hơn PaCO2, tuy nhiên chỉ có 2
trường hợp PvCO2 < 55 mmHg, kết quả là bỏ
sót chẩn đoán toan hô hấp trong 2 trường hợp
này. Như vậy, PvCO2 tin cậy để ước tính
PaCO2 ở dân số nghiên cứu.
Qua kết quả ngoại kiểm mô hình tiên đoán
PaCO2 từ PvCO2 (Hình 3) cho thấy biểu đồ
phân tán có sự tương quan tuyến tính rất cao
và có ý nghĩa thống kê giữa PaCO2 quan sát và

PaCO2 dự đoán (r = 0,94 (0,88 – 0,97), p <
0,0001) nên mô hình cho thấy có độ hiệu chỉnh
tốt, R2= 0,875; p < 0,0001, cho thấy PaCO2 dự
đoán giải thích được 87,5% sự biến thiên của
PaCO2 quan sát, do đó mô hình cho thấy có sự
phân loại tốt.
Theo nghiên cứu của một số tác giả:
Malatesha và cộng sự trên 95 cặp khí máu
động mạch và tĩnh mạch trên 95 bệnh nhân
người lớn tại khoa cấp cứu. Kết quả cho thấy
giá trị trung bình PaCO2 và PvCO2 lần lượt là
39 ± 15,11 mmHg và 42 ± 20,71 mmHg với giới
hạn tương đồng 95% của chỉ số PCO2 là 6,8 – (7,6)(17). Nghiên cứu của Malatesha cho kết quả
về mối tương quan và giới hạn tương đồng
tương tự nghiên cứu của chúng tôi.
Koul và cộng sự nghiên cứu trên 100 cặp
khí máu động mạch và tĩnh mạch trên 100
bệnh nhân là người trưởng thành tại khoa hô
hấp và nội tổng quát ở Ấn Độ. Kết quả cho
thấy trung vị PaCO2 và PvCO2 lần lượt là 36,35
(20,70 – 71,00) mmHg và 40,10 (26,00 – 74,00)
mmHg với giới hạn tương đồng 95% và trung
bình khác biệt của chỉ số PCO2 hẹp là (-12,80)
tới 4,70 và (-4,05), có thể chấp nhận trên lâm

Nghiên cứu Y học

sàng. Có mối tương quan rất mạnh (r = 0,92)
giữa PaCO2 và PvCO2, mối tương quan này có
ý nghĩa thống kê (p < 0,0001)(15). Nghiên cứu

của Koul cho kết quả về mối tương quan và
giới hạn tương đồng tương tự nghiên cứu của
chúng tôi.
Chu và cộng sự nghiên cứu trên 46 cặp khí
máu động mạch và tĩnh mạch trên 46 bệnh
nhân suy hô hấp đang thở máy là người lớn
tại khoa săn sóc tăng cường. Kết quả cho thấy
giá trị trung bình PaCO2 và PvCO2 lần lượt là
39,5 ± 8,83 mmHg và 47,77 ± 9,89 mmHg. Có
mối tương quan mạnh (r = 0,86) giữa PaCO2 và
PvCO2, mối tương quan này có ý nghĩa thống
kê (p < 0,0001). Phương trình hồi quy dự đoán
PaCO2 từ PvCO2 là y = 3,06 + 0,76x, r = 0,86(8).
Nghiên cứu của Chu không đề cập tới độ tin
cậy của giá trị PvCO2 và tương quan giữa
PaCO2 và PvCO2 yếu hơn so với nghiên cứu
của chúng tôi.
Ak và cộng sự nghiên cứu trên 132 cặp khí
máu động mạch và tĩnh mạch trên bệnh nhân
cơn cấp của bệnh phổi tắc nghẽnmạn tính. Kết
quả cho thấy giá trị trung bình PaCO2 và
PvCO2 lần lượt là 44,7 ± 12,4 mmHg và 51,3 ±
12,3mmHg, với trung bình khác biệt ± SD là 6,6 ± 5,3. Có mối tương quan rất mạnh (r =
0,908) giữa PaCO2 và PvCO2. Phương trình hồi
quy PaCO2= 0,873 x PvCO2, R2 = 0,987(3). Kết
quả nghiên cứu tương tự với nghiên cứu của
chúng tôi.
Rang và cộng sự nghiên cứu trên 218 cặp
khí máu động mạch và tĩnh mạch ngoại biên
tuổi từ 15 – 90. Kết quả cho thấy giữa PvCO2

và PaCO2 có mối tương quan rất mạnh và mối
tương quan có ý nghĩa thống kê (r = 0,921); giá
trị trung bình PaCO2 và PvCO2 lần lượt là 43,5
(41,1 – 45,9) mmHg và 49,6 (47,3 – 51,9) mmHg
với trung bình khác biệt trung bình (KTC 95%)
giữa hai phương pháp là ± 13,9 mmHg(20).
Nghiên cứu của Rang cho kết quả về mối
tương quan tương tự như nghiên cứu của
chúng tôi nhưng giới hạn tương đồng rộng
hơn nghiên cứu của chúng tôi.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016

175


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017

Kelly và cộng sự (2002) nghiên cứu trên
196 cặp khí máu động mạch và tĩnh mạch tại
khoa cấp cứu người lớn. Kết quả cho thấy giá
trị trung bình PaCO2 là 46 mmHg và trung
bình khác biệt là 5,8 mmHg với PvCO2 cao
hơn; giới hạn tương đồng 95% của chỉ số PCO2
là -8,8 tới 20,5. Giới hạn tương đồng này rộng
hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Hạn chế
của nghiên cứu này là cỡ mẫu nhỏ, lấy mẫu
thuận tiện và nguyên nhân phân tán, bao gồm

COPD, viêm phổi, suy tim, suyễn, thuyên tắc
động mạch phổi, khó thở không rõ nguyên
nhân, tràn dịch màng phổi, xơ nang phổi, ho
ra máu, viêm thanh quản, ung thư phổi, chấn
thương ngực và các nguyên nhân ít hơn
khác(13). Chính tác giả thực hiện tổng quan
khác (2016) cho kết luận tương tự, giới hạn
tương đồng 95% của PCO2 là ± 20 mmHg cho
thấy mối tương đồng kém. Hạn chế của
nghiên cứu tổng quan này theo bàn luận tác
giả là các nghiên cứu mẫu còn nhỏ, nguyên
nhân đa dạng và bệnh nhân rối loạn huyết
động cũng được đưa vào nhóm nghiên cứu(12).
Raoufy và cộng sự cho nghiên cứu trên 132
cặp khí máu động mạch và tĩnh mạch trên
bệnh nhân cơn cấp của bệnh phổi tắc nghẽn
mạn tính(21). Kết quả cho thấy giá trị trung
bình PaCO2 và PvCO2 lần lượt là 53,18 ± 7,04
mmol/L và 61,02 ± 7,86 mmol/L, với trung bình
khác biệt là -7,84 ± 7,86. Có mối tương quan
mạnh (r = 0,749) giữa PaCO2 và PvCO2.
PaCO2= 12,247 + 0,677 x PvCO2, R2 = 0,487.
Nghiên cứu của Routy không đề cập tới độ tin
cậy của giá trị PvCO2 và tương quan giữa
PaCO2 và PvCO2 yếu hơn so với nghiên cứu
của chúng tôi. Mô hình tiên đoán PaCO2 từ
PvCO2 của tác giả có hệ số xác định R2 thấp
hơn so với nghiên cứu của chúng tôi.
Sở dĩ có sự khác biệt về trị số PaCO2 và
PvCO2 giữa các nghiên cứu là do tuổi nghiên

cứu khác nhau, bệnh nền gây suy hô hấp khác
nhau. Tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi là
lứa tuổi sơ sinh trong khi các nghiên cứu còn
lại thực hiện ở người lớn hay trẻ em. Bệnh nền

176

trong nghiên cứu của chúng tôi hầu hết là
bệnh màng trong, viêm phổi và nhiễm trùng
huyết. Bệnh nền trong các nghiên cứu khác đa
số là hậu phẫu tim mạch, sau chấn thương,
viêm phổi, sốt xuất huyết dengue, viêm màng
não, COPD bội nhiễm, hít sặc. Các nghiên cứu
trong y văn trước đây không tiến hành kiểm
chứng các mô hình trong kết quả thu được.
Như vậy, PvCO2 là một chỉ số ít xâm lấn
hơn PaCO2, tin cậy khi thay thế cho PaCO2
trong đánh giá tình trạng thông khí ở trẻ sơ
sinh suy hô hấp tại khoa hồi sức sơ sinh.
Nghiên cứu của chúng tôi có điểm mạnh
đó là: (1) nghiên cứu đầu tiên được thực hiện
trên trẻ sơ sinh, (2) phân tích cả về tương
quan, hồi qui, độ tin cậy qua biểu đồ BlandAltman, và ngoại kiểm mô hình tiên đoán mô
hình tiên đoán. Tuy nhiên, nghiên cứu của
chúng tôi có hạn chế là ở các tất cả các bệnh
nhân có chỉ định xét nghiệm khí máu động
mạch, chúng tôi chỉ lấy được mẫu trên phần
lớn các trẻ sơ sinh suy hô hấp, không lấy hết
được các mẫu khí máu trên cùng một bệnh
nhân và chỉ lấy mẫu trên bệnh nhân có

catheter động mạch. Do đó, để tăng thêm giá
trị của các kết luận, giải quyết những hạn chế
trong nghiên cứu, cũng như mở rộng hơn kết
quả nghiên cứu của chúng tôi, các hướng
nghiên cứu khác có thể thực hiện trong tương
lai: (1) nghiên cứu liên quan đến kiểm chứng
mô hình tiên đoán PaCO2 từ PvCO2 ở trẻ sơ
sinh suy hô hấp tại các khoa sơ sinh ở các
Bệnh viện khác nhau, (2) nghiên cứu trên các
bệnh lý khác nhau như bệnh màng trong,
viêm phổi, sốt xuất huyết dengue, hậu phẫu,
chấn thương, ngạt nước...và trên các đối tượng
nghiên cứu khác nhau ngoài khoa hồi sức sơ
sinh, (3) xây dựng các mô hình tiên đoán
PaCO2 từ PvCO2 trên dân số sơ sinh có huyết
động không ổn định.

KẾTLUẬN
Chỉ số PvCO2 có giá trị và tin cậy khi thay
thế cho PaCO2 để đánh giá tình trạng thông

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016


Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017
khí phổi ở dân số nghiên cứu; phương trình
hồi quy PaCO2 = -1,661 + 0,945 x PvCO2
(R2=0,893, p < 0,0001). Kết quả ngoại kiểm mô
hình tiên đoán PaCO2 từ PvCO2 cho thấy có sự
hiệu chỉnh rất tốt (r = 0,94, p < 0,0001) và sự

phân loại rất tốt (R2= 0,875; p < 0,0001).

TÀILIỆUTHAMKHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

11.
12.

13.

Lê Thị Tuyết Lan (1999), "Cách đọc kết quả phân tích khí
trong máu". Sổ tay hướng dẫn phương pháp phân tích khí trong

máu TP.HCM, Nhà xuất bản Y học.
Ak A., Ogun C. O., Bayir A., Kayis S. A., Koylu R. (2006).
"Prediction of arterial blood gas values from venous blood
gas values in patients with acute exacerbation of chronic
obstructive pulmonary disease", Tohoku J Exp Med, 210 (4),
pp. 285-290.
American Academy of Pediatrics Committee on F.,
Newborn (2012). "Levels of neonatal care", Pediatrics, 130 (3),
pp. 587-597.
Angus D. C., Linde-Zwirble W. T., Clermont G. (2001).
"Epidemiology of neonatal respiratory failure in the United
States: projections from California and New York", Am J
Respir Crit Care Med, 164 (7), pp. 1154-1160.
Bilan N., Behbahan A. G., Khosroshahi A. J. (2008). "Validity
of venous blood gas analysis for diagnosis of acid-base
imbalance in children admitted to pediatric intensive care
unit", World J Pediatr, 4 (2), pp. 114-117.
Bland J. M., Altman D. G. (1999). "Measuring agreement in
method comparison studies", Stat Methods Med Res, 8 (2), pp.
135-160.
Chu Y. C., Chen C. Z., Lee C. H., Chen C. W., Chang H. Y.,
Hsiue T. R. (2003). "Prediction of arterial blood gas values
from venous blood gas values in patients with acute
respiratory failure receiving mechanical ventilation", J
Formos Med Assoc, 102 (8), pp. 539-543.
Crowley M.A. (2015), "Neonatal Respiratory Disorders.". In:
Martin R. J., Fanaroff A. A., Walsh M. C. (eds). Fanaroff and
Martin’s neonatal - perinatal medicine, Elsevier, pp. 1113-1133.
Dawn M. Walton (2002), "Arterial Puncture". In: Mhairi G.
MacDonald, Jayashree Ramasethu (eds). Atlas of Procedures

in Neonatology Lippincott Williams & Wilkins.
Kelly A. M., McAlpine R., Kyle E. (2001). "Venous pH can
safely replace arterial pH in the initial evaluation of patients
in the emergency department", Emerg Med J, 18 (5), pp. 340342.
Kelly A. M. (2016). "Can VBG analysis replace ABG analysis
in emergency care?", Emerg Med J, 33 (2), pp. 152-154.
Kelly A. M., Kyle E., McAlpine R. (2002). "Venous pCO(2)
and pH can be used to screen for significant hypercarbia in
emergency patients with acute respiratory disease", J Emerg
Med, 22 (1), pp. 15-19.
Kirubakaran C., Gnananayagam J. E., Sundaravalli E. K.
(2003). "Comparison of blood gas values in arterial and
venous blood", Indian J Pediatr, 70 (10), pp. 781-785.

Nghiên cứu Y học

14. Koul P. A., Khan U. H., Wani A. A., Eachkoti R., Jan R. A.,
Shah S., et al. (2011). "Comparison and agreement between
venous and arterial gas analysis in cardiopulmonary
patients in Kashmir valley of the Indian subcontinent", Ann
Thorac Med, 6 (1), pp. 33-37.
15. Ma J., Ye H. (2016). "Effects of permissive hypercapnia on
pulmonary and neurodevelopmental sequelae in extremely
low birth weight infants: a meta-analysis", Springerplus, 5
(1), pp. 764.
16. Malatesha G., Singh N. K., Bharija A., Rehani B., Goel A.
(2007). "Comparison of arterial and venous pH, bicarbonate,
PCO2 and PO2 in initial emergency department
assessment", Emerg Med J, 24 (8), pp. 569-571.
17. Michael S. Kornhauser (2005), "Blood Gas Interpretation".

In: Alan R. Spitzer (eds). Intensive Care of The Fetus &
Neonate, Elsevier Mosby, pp. 523-537.
18. Middleton P., Kelly A. M., Brown J. (2006). "Agreement
between arterial and central venous values for pH,
bicarbonate, base excess, and lactate", Emerg Med J, 23, pp.
622–624.
19. Rang L. C., Murray H. E., Wells G. A., Macgougan C. K.
(2002). "Can peripheral venous blood gases replace arterial
blood gases in emergency department patients?", CJEM, 4
(1), pp. 7-15.
20. Raoufy M. R., Eftekhari P., Gharibzadeh S., Masjedi M. R.
(2011). "Predicting Arterial Blood Gas Values from Venous
Samples in Patients with Acute Exacerbation Chronic
Obstructive Pulmonary Disease Using Artificial Neural
Network", J Med Syst. Aug; 35(4):483-8..
21. Razi E., Moosavi G. A. (2007). "Comparison of arterial and
venous blood gases analysis in patients with exacerbation of
chronic obstructive pulmonary disease", Saudi Med J, 28 (6),
pp. 862-865.
22. Rumsey D. J. (2011), "Correlation and Regression.
Interpreting the correlation". In: Rumsey D. J. (eds). Statistics
for Dummies, Wiley Publishing, Inc., pp. 298-299.
23. Victorian The (1997). "Economic outcome for intensive care
of infants of birthweight 500-999 g born in Victoria in the
post surfactant era. The Victorian Infant Collaborative Study
Group", J Paediatr Child Health, 33 (3), pp. 202-208.
24. Wambach J.A., Hamvas A. (2015), "Respiratory Distress
System in the Neonate.". In: Martin R. J., Fanaroff A. A.,
Walsh M. C. (eds). Fanaroff and Martin’s neonatal perinatal medicine, Elsevier, pp. 1074-1083.
25. Yildizdas D., Yapicioglu H., Yilmaz H. L. (2004).

"Correlation of simultaneously obtained capillary, venous,
and arterial blood gases of patients in a paediatric intensive
care unit", Arch Dis Child, 89 (2), pp. 176-180.

Ngày nhận bài báo:

07/12/2016

Ngày phản biện nhận xét bài báo:
Ngày bài báo được đăng:

15/12/2016
10/04/2017

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016

177



×