Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Kết cục thai kì các trường hợp đái tháo đường thai kì điều trị Insulin chấm dứt thai kỳ tại Bệnh viện Từ Dũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.26 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Nghiên cứu Y học

KẾT CỤC THAI KÌ CÁC TRƯỜNG HỢP ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KÌ
ĐIỀU TRỊ INSULIN CHẤM DỨT THAI KỲ TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ
Võ Thị Thành*, Nguyễn Minh Tài Lộc**, Vương Thị Ngọc Lan***

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Đái tháo đường thai kì (ĐTĐTK) để lại hậu quả nghiêm trọng trên thai phụ và thai nhi nếu
đường huyết không được kiểm soát tốt. Chưa có nhiều nghiên cứu về kết cục thai kì ở thai phụ ĐTĐTK điều trị
bằng insulin.
Mục tiêu đề tài: Khảo sát kết cục thai kì các trường hợp ĐTĐTK điều trị insulin kết thúc thai kỳ (KTTK)
tại Bệnh viện Từ Dũ.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo hàng loạt ca tại bệnh viện Từ Dũ từ 15/11/201715/04/2018. Thai phụ chẩn đoán ĐTĐTK điều trị insulin nhập viện sinh được nhận vào nghiên cứu.
Kết quả: 72 thai phụ được nhận vào nghiên cứu. Tuổi thai trung bình khi sinh là 36,7±2,7 tuần với tỷ lệ
sinh non là 33,6%. Tỉ lệ con to ≥4000 g là 15,8% và con to so với tuổi thai là 18,4%. Tỉ lệ Apgar 1 phút <7 là
16,2%, 5 phút <7 là 2,7%. Tỉ lệ mổ lấy thai (MLT) là 68,9%, trong đó, chỉ định MLT do con to là phổ biến nhất,
20,0%. Không thấy ảnh hưởng của BMI, tăng cân quá mức trong thai kì, tuổi thai phát hiện ĐTĐTK, tuổi thai
bắt đầu insulin, liều insulin bắt đầu và kết thúc lên kết cục con to.
Kết luận: ĐTĐTK điều trị insulin không đưa đến kết cục thai kỳ xấu. MLT vẫn là phương pháp KTTK
nhiều nhất với chỉ định chính là con to.
Từ khóa: đái tháo đường thai kì, insulin, kết cục thai kì, mổ lấy thai, con to

ABSTRACT
MATERNAL AND NEONATAL OUTCOMES IN WOMEN WITH GESTATIONAL DIABETES
MELLITUS TREATED WITH INSULIN AT TU DU HOSPITAL
Vo Thi Thanh, Nguyen Minh Tai Loc, Vuong Thi Ngoc Lan
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 63 - 68
Introduction: The presence of uncontrolled-plasma glucose level in diabetes mellitus during pregnancy may
cause a lot of adverse consequences for both mother and infant. There is little knowledge about maternal and


neonatal outcomes in women who have gestational diabetes mellitus that require treatment with insulin.
Objectives: To investigate the maternal and neonatal outcomes in women with gestational diabetes mellitus
treated with insulin.
Methods: A case series study was conducted at Tu Du Hospital from November 15, 2017 to April 15, 2018.
Women diagnosed with GDM and treated with insulin were included in the study at the time of hospital
admission for delivery.
Results: A total of 72 patients was recruited to the study. Gestational age at delivery was 36.7±2.7 weeks
with the preterm birth rate of 33.6%. The rate of macrosomia and large for gestational age (LGA) was 15.8% and
18.4%, respectively. Apgar score <7 at 1 min was 16.2%, and at 5 min was 2.7%. The most common mode of
delivery was cesarean section (C-section) (68.9%), and the most common indication for C-section was
**Hope Research Center
*Bệnh viện Mỹ Đức
***Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Võ Thị Thành
ĐT: 0389938320
Email:

Chuyên Đề Sản Phụ Khoa

63


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

macrosomia (20.0%). There is no influence of BMI, excessive weight gain during pregnancy, gestational age at
which GDM was diagnosed, gestational age at which insulin therapy was initiated, initial dosage of insulin and
dosage of insulin at delivery to macrosomia.
Conclusion: GDM does not lead to adverse outcomes for mother and infant. However, C-section is still a

common mode of delivery with the most common indication of macrosomia.
Keywords: gestational diabetes mellitus, insulin, maternal and neonatal outcomes, C-section, macrosomia
hợp ĐTĐTK điều trị insulin sinh tại bệnh viện
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ Dũ.
Theo Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kì năm
2017, tỉ lệ đái tháo đường thai kì (ĐTĐTK) lên
đến 15 – 20% thai kì, tùy theo tiêu chuẩn chẩn
đoán, chủng tộc, vùng địa lí và hiện nay, bệnh có
xu hướng tăng nhanh ở khu vực châu Á Thái
Bình Dương(2). ĐTĐTK có thể gây ra nhiều biến
chứng nguy hiểm trên cả thai phụ và thai nhi
như tăng huyết áp, tiền sản giật, hôn mê do
nhiễm cetone acid, ĐTĐ type 2 về sau, thai nhi
sẽ gặp nhiều biến chứng nếu glucose huyết mẹ
không được kiểm soát tốt, tiêu biểu có thể nói
đến là dị tật thai, thai to, thai chết lưu không rõ
nguyên nhân, hạ đường huyết, hạ canxi huyết,…
dẫn đến một loạt các hệ quả như chấn thương
đường sinh dục khi sinh con to, gây kẹt vai, trật
khớp vai, gãy xương đòn, chấn thương đám rối
thần kinh cánh tay, tăng tỉ lệ mổ lấy thai, tăng
nhiễm trùng, tăng bệnh suất và tử suất chu sinh.
Cho đến nay, nghiên cứu tại Việt Nam về
ĐTĐTK chủ yếu là tầm soát và đánh giá các yếu
tố nguy cơ(7). Một số trường hợp, ĐTĐTK không
thể kiểm soát bằng chế độ ăn tiết chế, do đó cần
điều trị bằng insulin. Điều trị insulin cho các
trường hợp ĐTĐTK đưa đến kết cục thai kỳ xấu
hay tốt vẫn còn chưa được nghiên cứu nhiều.

Bệnh viện Từ Dũ là bệnh viện sản phụ khoa đầu
ngành, tiếp nhận các trường hợp thai kì có bệnh
lý nội ngoại khoa kết hợp, nhất là ĐTĐTK có
điều trị insulin. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu
này nhằm trả lời câu hỏi “Các thai kì có ĐTĐTK
điều trị insulin sinh tại bệnh viện Từ Dũ có kết
cục như thế nào?”
Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát kết cục thai kì ở những trường

64

ĐỐITƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU
Thiết kế nghiên cứu
Báo cáo loạt ca.
Đối tượng nghiên cứu
Các trường hợp ĐTĐTK điều trị Insulin đến
sinh tại Bệnh viện Từ Dũ.

Tiêu chuẩn chọn mẫu
Thai ≥ 22 tuần.
Có ĐTĐTK điều trị insulin.
Nhập viện sinh tại Bệnh viện Từ Dũ.
Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại
ĐTĐ có sẵn và đang điều trị.
Chấm dứt thai kì vì thai dị tật bẩm sinh
liên quan đến bất thường nhiễm sắc thể (sau
chọc ối).
Chấm dứt thai kì vì muốn bỏ thai theo

nguyện vọng.
Cách chọn mẫu
Tất cả các trường hợp thỏa tiêu chuẩn chọn
mẫu trong thời gian tiến hành nghiên cứu đều
được đưa vào nghiên cứu.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại bệnh viện Từ
Dũ từ 15/11/2017 đến 15/04/2018.
Phương pháp tiến hành
Bệnh nhân sẽ được chẩn đoán ĐTĐTK vào
tuần thai 24 – 28, tầm soát ĐTĐTK trước sinh
theo khuyến cáo của Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kì
(2016)(1). Sau đó, thai phụ sẽ được điều trị với
liều insulin khởi đầu trung bình là 0,7 đơn vị/kg,
điều chỉnh liều theo mức đường huyết và tình
trạng bệnh nhân. Khi bệnh nhân nhập viện sinh,

Chuyên Đề Sản Phụ Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
chúng tôi thu thập tất cả các thông tin từ khi
phát hiện ĐTĐTK, điều trị insulin, diễn tiến thai
kỳ, kết cục sinh của mẹ và con.
Quản lý và phân tích số liệu
Dữ liệu của bệnh nhân được quản lý
bằng Excel.
Phân tích số liệu được thực hiện bằng phần
mềm SPSS 20.0. Giá trị p <0,05 được xem là có ý
nghĩa thống kê.


cục con to, chúng tôi nhận thấy chỉ có yếu tố tiền
căn sinh con to ảnh hưởng tới kết cục con to có ý
nghĩa thống kê (OR 9,89; KTC 95% 1,64 – 91,09; p
= 0,020). Nhóm sản phụ có tiền căn sinh con to có
nguy cơ sinh con to thai kì gấp 9,89 lần nhóm
thai phụ không có tiền căn sinh con to.
Bảng 2. Kết cục thai kì của mẹ

Tuổi trung bình

Chuyên Đề Sản Phụ Khoa

22
50

30,5
69,4

25
10
02
01
01
01
02
03
01
09
07

10

34,7
13,9
2,8
1,4
1,4
1,4
2,7
4,2
1,4
12,5
9,7
13,9
a

Chỉ định mổ lấy thai
Bất xứng đầu chậu
Thai suy trong chuyển dạ
Ối vỡ non
Ối vỡ non/vết mổ cũ
Ngôi bất thường
Khởi phát chuyển dạ thất bại
Giục sinh thất bại
Vết mổ cũ 2 lần, vết mổ đau
Con so lớn tuổi
Con to
Khung chậu hẹp
Song thai
Nhau tiền đạo

Rối loạn tăng huyết áp thai kì

03
03
03
05
03
04
05
02
01
10
04
03
02
02

6,0
6,0
6,0
10,0
6,0
8,0
10,0
4,0
2,0
20,0
8,0
6,0
4,0

4,0

Biến chứng của mẹ
Băng huyết sau sinh
Nhiễm trùng hậu sản/hậu phẫu

Kết cục thai kì của mẹ và sơ sinh được trình
bày trong Bảng 2 - 3.
Tiến hành phân tích hồi quy logistic đơn và
đa biến để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng lên kết

36,7 ± 2,7

Lí do KTTK
Chuyển dạ tự nhiên
Ối vỡ
Thai lưu, dị tật bẩm sinh
Song thai
Con to
Ngôi bất thường
Nhau tiền đạo
Thai giảm trở kháng ĐM não
giữa
Khung chậu hẹp
Vết mổ cũ
ĐTĐTK
Rối loạn tăng huyết áp thai kì

Trung bình
± ĐLC

34,03±5,6

Nhóm tuổi
Dưới 35
38
52,7
Trên 35
34
47,3
Cân nặng trung bình trước
55,64±7,9
mang thai (kg)
Cân nặng trung bình lúc KTTK
67,96±1,0
(kg)
2
BMI trung bình (kg/m )
23,3±3,1
Phân nhóm BMI
Nhẹ cân
02
2,8
Trung bình
35
48,6
Dư cân
17
23,6
Béo phì
18

25,0
Mức tăng cân trung bình (kg)
12,24±6,1
Tuổi thai trung bình lúc phát
27,3±5,0
hiện ĐTĐTK (tuần)
Tuổi thai trung bình lúc bắt đầu
30,1±5,0
điều trị insulin (tuần)
Kiểm soát đường huyết tốt lúc
KTTK:
28
38,9

33
45,8
Không
11
15,3
Không làm
Liều Insulin trung bình hàng ngày (đơn vị)
Lúc bắt đầu
15,47±9,2
Lúc KTTK
17,24±11,8
Điều trị insulin sau sinh
30
41,7

Trung

bình ±
ĐLC

Phương pháp KTTK
Sinh tự nhiên
Mổ lấy thai

Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng và ĐTĐ thai kỳ
%

%

Tuổi thai trung bình kết thúc
thai kì (tuần)

Từ 15/11/2017 đến 15/04/2018, 72 bệnh nhân
(4 ca song thai) được nhận vào nghiên cứu. Đặc
điểm lâm sàng của bệnh nhân được trình bày
trong Bảng 1.
Tổng
N = 72

Tần suất
N = 72

Đặc điểm

KẾT QUẢ

Đặc điểm


Nghiên cứu Y học

0
01

1,4

10
66

13,2
86,8

Đa ối

Không
a

Có 50 trường hợp được mổ lấy thai

65


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Nghiên cứu Y học
Bảng 3. Kết cục thai kì ở con
Đặc điểm


Cực non (<28 tuần)
Rất non (28-<32 tuần)
TB (32-<34 tuần)
Muộn (34-<37 tuần)
Sinh đủ tháng
Cân nặng trung bình
của con (g)
≥ 4000g
LGA
Không
1 phút
<7
≥7
5 phút
<7
≥7

Tần suất
a
N = 76
Sinh non
01
03
08
16
48

%

Trung bình ±

ĐLC

1,3
3,9
10,5
21,1
63,2
3084 ± 898

Con to
12
14
50
b
Chỉ số apgar

15,8
18,4
65,8
7,07 ± 0,71

12
62

16,2
83,8
8,11 ± 0,67

02
2,7

72
97,3
Hạ đường huyết sơ sinh

01
1,4
Không
62
83,7
Không làm
11
14,9
Thai chết lưu trong TC

01
1,3
Không
75
98,7
Thai dị tật bẩm sinh

03
3,9
Không
73
96,1

4 trường hợp song thai; b 74 bé được phân tích do có 1 thai
lưu, 1 cực non mất sau sinh


a

BÀN LUẬN
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là
34,03 ± 5,6, đây là độ tuổi khá lớn về mặt sinh
sản và dữ liệu về tuổi có phân phối chuẩn. Năm
2005, Jacobson và cộng sự cho thấy độ tuổi trung
bình ở những trường hợp ĐTĐTK điều trị
insulin là 32,1 ± 5,2(6). Độ tuổi xuất hiện nhiều
nhất trong nghiên cứu của chúng tôi là 36, đây là
độ tuổi phù hợp với nghiên cứu của Filardi năm
2018 cho rằng độ tuổi trên 35 là yếu tố dự đoán
độc lập của ĐTĐTK điều trị insulin(5).
Tăng cân trong thai kì là 12,24 ± 6,1kg, cao
hơn mức tăng cân ở những trường hợp ĐTĐTK

66

điều trị insulin trong nghiên cứu của Ngô Thị
Kim Phụng (1999) là 8,6 ± 5,2 kg(7).
BMI trong nghiên cứu của chúng tôi là 23,3 ±
3,1, thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của
Jacobson với BMI là 31,9 ± 6,8kg/m2(6). Theo đó,
tỉ lệ thai phụ BMI ≥ 30 của Jacobson là 55,0%, còn
tỉ lệ béo phì (theo tiêu chuẩn WHO dành cho
Châu Á Thái Bình Dương)(9) trong nghiên cứu
của chúng tôi chi là 25,0%, là nhóm nhiều thứ 2
trong nghiên cứu. Nhìn chung, tỉ lệ dư cân béo
phì trong nghiên cứu gần 50,0%. Mức tăng cân

trong thai kì của nghiên cứu chúng tôi cao hơn,
có thể được lí giải vì đa số các trường hợp là có
BMI trung bình (48,6%), nên trong thai kì thường
tăng cân nhiều hơn.
Tuổi thai trung bình khi bắt đầu điều trị
insulin là 30,1 ± 5,0 tuần. Tuổi thai này phù
hợp với nghiên cứu của Jacobson rằng tuổi
thai trung bình điều trị insulin là 30,4 ± 4,8(6).
Trường hợp điều trị insulin sớm nhất là 15
tuần, cùng thời điểm chẩn đoán ĐTĐTK với
tổng liều lúc KTTK lên đến 86 đơn vị, trường
hợp này có thể trạng trung bình, có tiền căn
ĐTĐTK trước đó và hiện tại đã có rối loạn
dung nạp đường/ĐTĐ sau sinh.
Đường huyết kiểm soát tốt lúc KTTK chiếm
38,9%. Có tới 15,3% các trường hợp không được
làm đường huyết lúc vào sinh, nguyên nhân là
do chuyển dạ hoạt động, các trường hợp MLT
chủ động ngay sau lúc nhập viện.
Kết cục thai kì ở mẹ và con
Tuổi thai trung bình khi kết thúc thai kì
trong nghiên cứu là là 36,7 ± 2,7 tuần. Kết quả
cao hơn được ghi nhận trong nghiên cứu của
Jacobson và cộng sự năm 2005 là 38,8 ± 1,7(6),
trong nghiên cứu của Rowan và cộng sự năm
2008 là 38,5 ± 1,3(8). Sinh non (tuần thai sinh <37
tuần) chiếm tỉ lệ 36,8%; trong đó, sinh cực non là
1 trường hợp, chiếm 1,3%, đây là trường hợp
thai dị tật bẩm sinh có chỉ định chấm dứt thai kì
bằng foley 2 lần thất bại, phải mổ lấy thai. Sinh

rất non (28-32 tuần) chiếm tỉ lệ 3,9%, 3 trường
hợp sinh rất non này đều ở tuổi thai 31,0 tuần,
trong đó có 2 trường là có rối loạn tăng huyết áp

Chuyên Đề Sản Phụ Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
thai kì kèm theo; 1 trường hợp được foley khởi
phát chuyển dạ thành công, 2 trường hợp
chuyển dạ tự nhiên. Sinh non trung bình và
muộn chiếm tỉ lệ 31,6%. Sinh non trong các
nghiên cứu khác đều ghi nhận tỉ lệ thấp hơn
nhiều, 7,6% trong nghiên cứu của Rowan năm
2008(8), 8,9% trong nghiên cứu của Castilo và
cộng sự năm 2015(4) và 13,0% trong nghiên cứu
của Jacobson năm 2005(6).
Mổ lấy thai là phương pháp KTTK chiếm tỉ
lệ cao nhất, lên tới 69,4% (50 trong 72 trường
hợp); trong đó, có 24 trường hợp có vết mổ cũ,
chiếm tỉ lệ 48,0% (24 trong 50 trường hợp mổ lấy
thai). Tổng số trường hợp có vết mổ cũ là 28, tức
85,0% các trường hợp có vết mổ cũ được mổ lấy
thai trong thai kì này. Điều này có thể được chấp
nhận, vì trong bệnh cảnh ĐTĐTK điều trị
insulin, con ≥ 4000g là kết cục thường gặp (chiếm
tỉ lệ 15,8% trong nghiên cứu), dẫn đến tỉ lệ mổ
lấy thai trên vết mổ cũ tăng lên. Tỉ lệ MLT cũng
khá cao (52,5%) được ghi nhận trong nghiên cứu
của Castilo và cộng sự năm 2015(4). Tuy nhiên,

trong nghiên cứu của Jacobson và cộng sự, tỉ lệ
mổ lấy thai là 36,0%; trong đó, mổ lấy thai có
VMC chiếm 18,0%(6), điều này có thể được lí giải
vì nghiên cứu của Jacobson đã được tiến hành
gần 2 thập kỷ, vào khoảng thời gian năm 19992000, khi đó, mổ lấy thai không được áp dụng
nhiều như hiện nay.
Cân nặng trung bình của con là 3084 ± 898g,
thấp hơn cân nặng trung bình của con trong
nghiên cứu của Jacobson năm 2005 là 3599 ±
650g(6). Điều này có thể lí giải là tỉ lệ sinh non
trong nghiên cứu cao hơn rất nhiều so với
nghiên cứu của Jacobson, dẫn đến việc cân nặng
trung bình của con cũng thấp hơn. Nghiên cứu
của Rowan cũng ghi nhận cân nặng trung bình
của con cao hơn, 3413 ± 569g(8). Con to so với
tuổi thai chiếm tỉ lệ 18,4%. Các nghiên cứu khác
ghi nhận với tỉ lệ cao hơn, như tỉ lệ con to so với
tuổi thai là 24,0% trong nghiên cứu của Jacobson
năm 2005(6), 18,6% trong nghiên cứu của Rowan
năm 2008(8). Nghiên cứu có tỉ lệ con to thấp hơn
nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu của

Chuyên Đề Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

Castilo và cộng sự năm 2015 với tỉ lệ con to so
với tuổi thai chỉ là 3,2%(4), nghiên cứu của Bertini
và cộng sự năm 2005 là 3,7%(3). Con to ≥ 4000g
chiếm tỉ lệ 15,8%. Tỉ lệ con ≥ 4000g cao nhất được

ghi nhận trong trong nghiên cứu của Jacobson là
24,0%(6).
Phân tích hồi quy logistic đơn biến, cho thấy
mỗi tuần thai phát hiện ĐTĐTK tăng lên làm cho
kết cục con to tăng 1,09 lần, mỗi tuần thai bắt
đầu điều trị ĐTĐTK bằng insulin tăng lên làm
cho kết cục con to tăng 1,04 lần. Tuy nhiên, sự
ảnh hưởng của 2 yếu tố này với kết cục con to
không có ý nghĩa thống kê với giá trị p lần lượt
là 0,125 và 0,432. Mỗi đơn vị insulin khi bắt đầu
điều trị tăng lên làm tăng nguy cơ con to lên 1,04
lần, nhưng không có ý nghĩa thống kê với p =
0,186. Sau đó, chúng tôi tiến hành bước tiếp theo
là phân tích hồi quy đa biến với kết quả cho thấy
tuổi thai phát hiện ĐTĐTK, liều insulin lúc bắt
đầu điều trị không có ảnh hưởng tới kết cục con
to. Chỉ có một yếu tố có ảnh hưởng tới kết cục
con to là tiền căn con to thai kì trước với OR =
9,89 (OR 9,89; KTC 95% 1,61 – 91,09; P = 0,020).

HẠNCHẾ CỦA ĐỀ TÀI
Đây là nghiên cứu báo cáo loạt ca, không có
nhóm so sánh. Nghiên cứu có cỡ mẫu nhỏ nên
khó thực hiện phân tích yếu tố liên quan đến các
kết cục thai kì – con to.

KẾT LUẬN
Đái tháo đường thai kỳ điều trị bằng insulin
không đưa đến kết cục xấu cho mẹ và con. MLT
là phương pháp KTTK phổ biến nhất và chỉ định

chính là do con to. Cần thực hiện thêm các
nghiên cứu dọc với cỡ mẫu lớn hơn nhằm đánh
giá phác đồ điều trị insulin cũng như các yếu tố
liên quan đến kết cục thai kì.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

American Diabetes Association (2016). “Standards of Medical
Care in Diabetes -2016”. Diabetes Care, 39 (Suppl.1):S1-S106.
American Diabetes Association (2017). “Standards of Medical
Care in Diabetes -2017”. Diabetes Care, 40 (Suppl.1):S1-S134.
Bertini AM, Silva JC, Taborda W (2005). “Perinatal outcomes
and the use of oral hypoglycemic agents”. Journal of perinatal
medicine, 33(6):519-523.

67


Nghiên cứu Y học
4.

5.

6.

7.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Camelo CW, Boggess K, Stürmer T 2015). “Association of
adverse pregnancy outcomes with glyburide vs insulin in
women with gestational diabetes”. JAMA pediatrics, 169(5):452-458.
Filardi T, Tavaglione F, Di Stasio M (2018). “Impact of risk
factors for gestational diabetes (GDM) on pregnancy outcomes
in women with GDM”. Journal of endocrinological investigation,
41(6):671-676.
Jacobson GF, Ramos GA, Ching JY et al (2005). “Comparison of
glyburide and insulin for the management of gestational
diabetes in a large managed care organization”. American journal
of obstetrics and gynecology, 193(1):118-124.
Ngô Thị Kim Phụng (1999). “Tỷ lệ đái tháo đường thai kì và
những yếu tố liên quan”. Luận án Tiến sĩ ĐH Y Dược TP. Hồ Chí
Minh, pp.4-6.

68

8.

9.

Rowan JA, Hague WM, Gao W et al (2008). Metformin versus
insulin for the treatment of gestational diabetes. New England
Journal of Medicine, 358(19):2003-2015.
World Health Organization. Regional Office for the Western
Pacific (2000). “The Asia-Pacific perspective: redefining obesity
and its treatment”. Health Communications Australia, Sydney
/>

Ngày nhận bài báo:

30/11/2018

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

08/12/2018

Ngày bài báo được đăng:

10/03/2019

Chuyên Đề Sản Phụ Khoa



×